VIỆT SỬ TÂN KHẢO CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN Quyển I

Page 1

QUYỂN 1

THỜI CỔ SỬ CHƯƠNG I

NƯỚC VĂN LANG VÀ CÁC VUA HÙNG

1

2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15

16

17 18 19 20 21 22 23 24

K

hởi đầu thời đại đồng thau cách ngày nay vào khoảng năm nghìn năm, nhiều bộ tộc Việt đã tới sinh sống ở miền trung du và, miền đồng bằng châu thổ của vùng Bắc Việt Nam ngày nay. Sử cũ gọi nhóm bộ tộc Việt hỗn tạp nầy là Lạc Việt(1). Một nhóm tộc Việt khác cũng đến sinh sống ở vùng Việt Bắc gọi là Tây Âu hay Âu Việt(2). Sử cũ Việt Nam cũng chép rằng, trước đó, từ thời Huỳnh Đế(3), khi bộ tộc người Hoa xâm chiếm nhiều bộ tộc khác để lập thành đế quốc Trung Hoa (2697-2597 TCN) thì ở biên giới phía Tây Nam có 15 bộ lạc mà Huỳnh Đế không thể thống thuộc được. Trong số 15 bộ lạc nầy, những bộ lạc Giao Chỉ, Gia Ninh và Văn Lang là những bộ lạc có nhóm Lạc Việt tập trung nhiều nhất.

V

ào thời Trang vương(4) nhà Chu ở Trung Hoa (696-682 TCN), một tộc trưởng Lạc Việt ở bộ lạc Văn Lang gồm thâu và thống nhất các bộ lạc khác, dựng ra nước Văn Lang, xưng là Hùng vương; thủ đô đóng ở Văn Lang, đặt tên quan chức: tướng văn gọi là Lạc hầu(5), tướng võ gọi là Lạc tướng(6); phong tục sống đơn giản, thuần hậu, chất phát(7). Những triều đại vua kế tiếp của nước Văn Lang đều gọi là Hùng vương. Con trai vua gọi là quan lang(8), con gái vua gọi là mị


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

nương(9), các quan gọi là bồ chính(10). Đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo(11). Nước Văn Lang gồm có 15 bộ(12): Giao Chỉ, Việt Thường, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thang Tuyền, Tân Xương, Bình Văn, Cửu Chân, Nhật Nam, Hoài Nam, Cửu Đức. Bộ Văn Lang là thủ đô và là lãnh thổ hành chánh của triều đại nhà Hùng. Thời đại Văn Lang và các vua Hùng là giai đoạn khởi đầu xây dựng nền tảng dân tộc, nền tảng văn hóa và truyền thống tinh thần Việt Nam. Kể từ năm Quý Mão (256 TCN), triều đại Hùng vương cuối cùng suy tàn. Thục Phán(13), một tộc trưởng của nhóm Âu Việt, tiến quân đánh đổ triều đại của nhà Hùng, thành lập nước Âu Lạc(14), tự xưng là An Dương vương, dời thủ đô về vùng Cổ Loa(15).

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

Lạc Việt: nguồn gốc bộ tộc Lạc Việt không rõ từ đâu. Đại Việt Sử Lược viết: "Ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ma thuật chinh phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang"(ĐVSL/Q.I) và sách An Nam Chí Nguyên của Cao Hùng Trưng viết: "Giao Chỉ khi chưa đặt làm quận huyện, bấy giờ có ruộng Lạc, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, làm chủ các ruộng ấy gọi là Lạc vương, người phụ tá gọi là Lạc tướng, Lạc hầu". Có thể suy diễn như sau: một nhóm tộc Việt đến định cư và sinh sống ở bộ lạc Gia Ninh; nhóm Việt tộc lần lần trở nên hùng mạnh và lấn quyền cai trị tất cả người dân trong bộ lạc Gia Ninh do một người đứng đầu của nhóm Việt tộc nắm giữ (ĐVSL gọi là "người lạ") rồi từ Gia Ninh dùng mưu chiếm cứ bộ lạc Giao Chỉ, bộ lạc Văn Lang và các bộ lạc khác. Sau khi gồm thâu tất cả các bộ lạc, người lạ tự xưng là Hùng vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Văn Lang (Vùng Lâm Thao, Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay). Lặp lại những truyện tích thần thoại hoang đường trong dân giang, sử cũ viết rằng: "vua Rồng của người Lạc tức Lạc Long Quân (1)

VSTK - 3


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

lấy nàng Âu" (Âu cơ ; cơ: cô nàng) có lẽ là vì sử cũ muốn phản ảnh sự tiếp xúc và mối liên hệ gắn bó từ lâu đời giữa bộ tộc Lạc Việt và bộ tộc Âu Việt và cho thấy sự có mặt của tộc giống Lạc Việt xuất hiện cùng một thời đại hoặc lâu hơn với tộc giống Âu Việt. Câu hỏi đặt ra là: tại sao có giống tộc Lạc Việt và tại sao giống tộc nầy lại tập trung nhiều ở vùng Giao Chỉ ? Lãnh thổ Giao Chỉ ở đâu ? Câu hỏi trên được đặt ra ngầm ý rằng lãnh thổ Giao Chỉ đã có từ lâu, trước khi có sự hiện diện của tộc giống Lạc Việt trên phần đất nầy, hay nói một cách khác, người Giao Chỉ nguyên thủy không phải là người Lạc Việt. Đại Việt Sử Lược (ĐVSL) viết: "Xưa, vào lúc vua Huỳnh Đế tạo dựng đế quốc Trung Hoa, thấy rằng Giao Chỉ xa xôi, ở ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được cho nên mới coi ranh giới tiếp giáp với 15 bộ lạc ở phía Tây Nam , (trong đó có bộ lạc Giao Chỉ) như là giới hạn của đế quốc Trung Hoa.". Như vậy, vào thời đại của Huỳnh Đế (vào khoảng 2697-2597 TCN), Giao Chỉ không bị rơi vào vòng kiềm toả của tổ tiên nước Trung Hoa. Sách Kinh thư của Trung Hoa, thiên "Nghêu điển" chép: vua Nghêu (2357-2258 TCN) sai Hi Thúc giữ việc suy trắc khí hậu ở Nam Giao (Nam Giao: đất Giao ở phương Nam) . Sách Sử Ký của Trung Hoa chép: Năm Tân Mão thứ 6 (1110 TCN) đời Thành vương nhà Chu, phía nam bộ lạc Giao Chỉ có Việt thường thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim trĩ trắng. Theo những sự ghi chép đó thì lãnh thổ Giao Chỉ đã có trước đời nhà Đường, tồn tại mãi tới đời nhà Chu (1122-256 TCN) và nằm kề cận với lãnh thổ của bộ lạc Việt Thường. Vậy, giống tộc nguyên thủy ở Giao Chỉ là giống tộc nào ? Phải chăng giống tộc nầy là giống tộc chính gốc của người Việt Nam hiện nay ? Các công trình khai quật và nghiên cứu các di chỉ khảo cổ gần đây đã tìm thấy những dấu vết về giai đoạn của nhóm người nguyên thủy trên đất nước Việt Nam cách ngày nay hàng mấy chục vạn năm. Ở núi Đọ (Thanh Hóa) có rất nhiều công cụ đồ đá cũ, răng người vượn ở Bình Gia (Lạng Sơn): người vượn khai thác đá ở sườn núi, mài đẽo đơn sơ để tạo thành những công cụ chặt đẽo, rìu tay, bàn nạo. . để chặt cây, vót nhọn tre, lao, gỗ . . .; hình dạng các công cụ rất thô sơ phản ảnh thời đại non trẻ của lịch sử đang hình thành. Dấu vết con người cùng với những động vật cổ đã hóa thạch phát hiện được trong các hang Hùm (Yên Bái), hang Thung Lang (Ninh Bình) cho thấy con người đã đi vào chế độ bộ tộc sơ khai cách nay vào khoảng ba bốn vạn năm: như vậy tức là đã có những thị tộc, bộ lạc sống trong hang động ở các miền rừng núi đá vôi. Khoảng 30 năm gần đây, người ta đã khai quật được rất nhiều công cụ đồ đá ghè đẽo VSTK - 4


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

thô sơ ở vùng đồi Vĩnh Phú, huyện Lâm Thao, xã Sơn Vi; đó là di tích của nền văn hóa Sơn Vi: con người hang động từ các vùng Yên Bái, Ninh Bình đã tiến ra sinh sống ở miền đồi núi trung du vốn trước đây là vùng rừng rậm trên thềm đất phù sa rất cổ của sông Hồng. Những di chỉ về nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn cách nay khoảng 10,000 năm cho thấy sự tiến triển kỹ thuật công cụ đồ đá đã đạt đến mức tinh xảo (lưỡi rìu mài tứ giác Bắc Sơn); những đồ gốm đầu tiên nhồi nặn bằng tay và những vật dụng bằng tre, nứa (lao, cung tên, thừng bện, gậy, cán) cũng được tìm thấy: như vậy, tre, nứa là một trong những tài nguyên thiên nhiên trọng yếu rất cần cho việc sinh tồn của nhóm người nguyên thủy cũng như những thời đại tiếp nối về sau . Di chỉ khai quật ở xã Quỳnh Văn thuộc huyện Huỳnh Lưu (Nghệ An), là nơi đầu tiên tìm thấy những cồn vỏ sò điệp do con người vứt bỏ sau khi ăn; những mộ huyệt tròn khai quật từ giữa những cồn vỏ sò, điệp đã tìm thấy một vài loại công cụ bằng đá và đồ trang sức bằng vỏ ốc xuyên lỗ chôn theo người chết; di chỉ Quỳnh Văn cho thấy rằng: cùng thời với những giống tộc và bộ lạc ở miền núi, còn có những nhóm người nguyên thủy khác sống ở miền ven biển Đông. Ở miền Bắc Việt Nam đã liên tiếp phát hiện được những di chỉ của thời đại đồ đồng thau, ở miền trung du, ở đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ qua các giai đoạn Phùng Nguyên/ tỉnh Vĩnh Phú (khởi đầu thời đại đồng thau), Đồng Đậu/ tỉnh Vĩnh Phú (khoảng giữa thời đại đồng thau), Gò Mun/ tỉnh Vĩnh Phú (thời kỳ phát triển), Đông Sơn/ tỉnh Thanh Hóa (cuối thời đại đồng thau, đầu thời đại đồ sắt). Các di chỉ đó có có số tuổi cách ngày nay từ khoảng 2,400 đến 3,400 năm tức là trước thời đại của Huỳnh Đế dựng nước Trung Hoa. Trong giai đoạn Phùng Nguyên, các đồ đá tìm thấy đã đạt tới tới mức hoàn hảo: những lưỡi rìu, đục được mài, giũa, khoan, cắt khá tinh vi và có phẩm chất cao; các đồ trang sức như vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi bằng đá được trau chuốt, tiện mài rất đẹp; các loại đồ gốm có những hình dạng độc đáo, trang trí với những nét hoa văn sắc xảo và bền chắc: chén, nồi, hủ, ly tách. . . có thể đã được nhào nặn bằng kỹ thuật bàn xoay tròn mà hiện nay nhiều nơi trên thế giới vẫn còn dùng trong lãnh vực chế tạo đồ gốm. Trong những giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, bên cạnh đồ đá hoàn thiện cũng đồng thời tìm thấy công cụ, vũ khí bằng đồng thau như: lưỡi câu, liềm, rìu, đục, mũi giáo, tên và trong những di chỉ khảo cổ thời đại đồng thau cũng đã tìm thấy nhiều xương động vật như xương heo, chó, trâu, bò, vỏ trấu, hạt gạo, hạt đậu, hạt trám. . vân. vân . . . Như vậy, rõ ràng là có dấu tích của con người nguyên thủy trên đất nước Việt Nam thời cổ. Nước Việt Nam thời cổ có phải là lãnh thổ Giao Chỉ hay không? Và nhóm người nguyên thủy trên lãnh thổ Việt Nam nầy có phải là người Lạc Việt ngày xưa hay không? VSTK - 5


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Từ thời Huỳnh Đế, qua thời nhà Đường thì Nam Giao hay Giao Chỉ đã hiện hữu và sau đó trở thành một bộ trong 15 bộ tộc của triều đại Hùng Vương. Theo Nguyễn Thiên Túng chú thích Dư Địa Chí của Nguyễn Trải thì Giao Chỉ thời Hùng vương là vùng Sơn Nam (Sơn Nam gồm vùng đất các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Thái Bình và tỉnh Hà Đông/nay thuộc tỉnh Hà Tây). Theo A.Schreiner trong Abrégé de l' Histoire d' Annam thì Giao Chỉ nay là Hà Nội, Nam Định và Hưng An hay Hưng Yên. Đa số thuyết cũ đều cho rằng người Lạc Việt từ ở nơi khác đến lập nghiệp ở vùng Bắc Việt Nam (tức Giao Chỉ) chưa lâu lắm nhưng không xác định rõ hay khẳng định dứt khoát họ cũng là một trong nhóm tộc Việt giống như Đông Việt, Mân Việt, Âu Việt, U Việt, Vu Việt, Nam Việt . . .Sách sử cũ của Trung Hoa không thấy nói tới Lạc Việt và Âu Lạc mà chỉ thấy nói tới đất Nam Giao, Giao Chỉ hoặc đất An Nam. Sách Đại Việt Sử Lược của ta cũng viết rằng: " Xưa, Huỳnh Đế lập quốc...thấy Giao Chỉ xa xôi, ở ngoài cõi Bách Việt không thể thống thuộc được, bèn phân giới hạn ở góc tây nam gồm có 15 bộ lạc là: 1/ Giao Chỉ, 2/ Việt Thường, 3/ Vũ Ninh, 4/ Quân Ninh, 5/ Gia Ninh, 6/ Ninh Hải, 7/ Lục Hải, 8/ Thang Tuyền, 9/ Tân Xương, 10/ Bình Văn, 11/ Văn Lang, 12/ Cửu Chân, 13/ Nhật Nam, 14/ Hoài Nam, 15/ Cửu Đức ". Như vậy, người Giao Chỉ không phải là một trong những tộc giống Bách Việt giống như người của Văn Lang, và những bộ tộc khác cùng thời với bộ tộc Giao Chỉ cũng không thuộc nhóm Bách Việt. Khởi đầu thời đại Tây Lịch, người ta vẫn còn thấy chế độ Lạc tướng tồn tại. Vào thời đại nầy các "bộ lạc" chuyển thành huyện và lôi kéo theo sự thay đổi danh hiệu Lạc tướng thành huyện lệnh hay huyện trưởng. Sử sách cũ ghi người phụ tá vua Hùng là "bộ chúa" hay "phụ đạo" tương tự như các chức pơ tao, mơ tao, bơ tao, tạo, đạo . . . của các thủ lĩnh dân tộc miền núi trong nước Việt Nam trước đây không lâu lắm và đó là các chức vụ kế truyền theo huyết tộc. Sử cũ cũng chép rằng, dưới thời Hùng Vương, những người giúp việc gọi là "bồ chính". Trước năm 1945, nhiều vùng ở Bắc bộ còn gọi chánh tổng là bồ đình. Bộ tộc Gia-rai ở Tây nguyên, người có trách nhiệm cai quản một số buôn, plây gọi là pô-ta-rinh. Cũng theo sử cũ thì con trai của Hùng vương gọi là "quan lang", con gái vua gọi là "mỵ nương". Trước năm 1945 ở vùng đồng bào Mường vẫn còn tồn tại chế độ lang đạo: con cả của chi ngành trưởng cai trị một mường và gọi là lang cun, và con cả của ngành thứ cai quản những xóm nhỏ gọi là lang đạo. Con trai của lang cun hay lang đạo cũng gọi là lang; con gái của các lang gọi là nàng (cô nàng, mệ nàng). Như thế, xã hội Lạc Việt đời Hùng vương có thể có những nét tương đồng với chế độ lang đạo của người Mường trước năm 1945.

VSTK - 6


38

Cho đến thế kỷ thứ 8, ờ miền Ba Vì tỉnh Hà Tây vẫn còn chế độ quan lang. Cũng theo sách cũ, tổ tiên của Phùng Hưng "Bố Cái đại vương" đời đời làm tù trưởng châu Đường Lâm (nay là Cam Lâm, Ba Vì) gọi là quan lang. (theo Giao Châu ký của Triệu Công/ dẫn trong Việt điện u linh/ Lý Tế Xuyên). Sách Abrégé de L'histoire d'Annam (Tiết yếu lịch sử của người An nam), Alfred Schreiner viết: "Les fils des rois de la dynastie des Hồng Bàng prenaient le titre de quang lang et les filles celui de mĩ nàng; c'est le titre que portent encore actuellement les chefs et leurs femmes chez les tribus Mường du Tonkin (dịch: những người con trai của các vua triều đại Hồng Bàng [tức là các vua Hùng] mang danh hiệu là quang lang và những người con gái là mĩ nương; đó là danh hiệu mà hiện nay vẫn được dùng để gọi các tù trưởng bộ tộc người Mường và những người vợ của họ ở Bắc kỳ).(Alfred Schreiner/Abrégé de l'Histoire d'Annam/ 2è.Édit./ 1906/ trang 11). Có 2 điểm chú ý ở đây: 1/ Tác giả dùng chữ quang không phải là quan và ghi chú quang: briller, nghĩa là chiếu sáng, sáng lạng. 2/ Dùng chữ Mĩ không phải là Mị và ghi chú Mĩ: grâce, nghĩa là dịu dàng, dễ thương. Tư liệu được tái bản vào năm 1906, như vậy cũng có thể rút ra được một thực tế: trước năm 1906, dân tộc Mường ở Bắc phần vẫn còn tồn tại những danh hiệu quan lang và mị nương. Tóm lại, có thể nói rằng người Lạc Việt không phải là người Việt Nam nguyên thủy thuần giống. Người Việt Nam nguyên thủy thuần giống đã pha trộn, phối chủng với nhiều giống tộc Việt khác nhau từ nhóm Bách Việt tách ra, phiêu lưu, luân lạc rồi đến định cư và sinh sống ở Giao Chỉ, ở Văn Lang từ thời Huỳnh Đế lập quốc ở Trung Hoa và đã tạo sinh ra một giống tộc mới. Lãnh thổ Giao Chỉ, cũng như lãnh thổ Văn Lang trở thành các bộ lạc hợp chủng riêng rẽ với một giống tộc mới mà sử sách cũ của Trung Hoa gọi là dân Lạc ở Giao Chỉ. Dân Lạc ở đây rất có thể người Trung Hoa muốn ám chỉ nhóm người Việt bị ruồng bỏ, nhóm người Việt chạy loạn, lưu lạc xuống phía Tây Nam sinh sống chung đụng một cách an bình với người Việt Nam nguyên thủy, tập trung đông đảo nhất ở bộ lạc Giao Chỉ. Giống tộc người Lạc đối với người Hoa là người tạp chủng ở Giao Chỉ cho nên trong sách sử cũ của họ vẫn tiếp tục gọi chung là dân Giao Chỉ và về sau thì gọi là An Nam quốc. Khi người Việt Nam bắt đầu chép sử, thì chữ Lạc được ghép thêm chữ Việt dùng để chỉ hợp chủng người Việt Nam kể từ thời các vua Hùng, tức là dân Lạc Việt.

39

(2)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

40 41

Âu Việt: theo Sử Ký của Tư Mã Thiên thì vào thời Hiền vương nhà Chu ở Trung Hoa, nước Sở diệt nước Việt. Con cháu nước Việt chạy đi, phân tán làm tộc trưởng ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau và

VSTK - 7


6

thường có hiệu là Âu Việt, hoặc Mân Việt, đó là dòng dõi của Câu Tiễn nước Việt xưa. Câu Tiễn là vua nước Việt thời Xuân Thu bên Trung Hoa, là người có chí, quyết ý diệt kẻ thủ là nước Ngô, chịu ngậm đắng nuốt cay trăm bề tủi nhục, dâng nạp người đẹp Tây Thi cho vua Ngô để áp dụng kế mỹ nhân, khiến vua Ngô mê mẩn nhan sắc bỏ phế quốc chính. Kết cục Câu Tiễn diệt được Ngô.

7

(3)

1 2 3 4 5

11

Huỳnh Đế: sử sách cũ gọi là Hoàng Đế. Chữ hoàng có 2 nghĩa: 1/là màu vàng. 2/- là nhà vua. Chữ đế cũng có nghĩa là vua. Ở đây VSTK dùng chữ Huỳnh cũng có nghĩa là màu vàng thì có thể đúng hơn vì trong sách vở thường thấy có những vua gọi là Hắc (đen) đế, Xích (đỏ) đế. . .v.v . . .

12

(4)

13

(5)

8 9 10

Trang vương nhà Chu: tên Đà, con của Hoàng vương.

19

Lạc hầu: sách Việt Sử Cương Mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng trích dẫn rằng: "Giao Quảng Ký chép: Giao chỉ có Lạc điền (ruộng Lạc), theo nước triều lên xuống mà trồng cấy. Người cày cấy ruộng Lạc gọi là Lạc dân. Người cai trị chung gọi là Lạc vương, phó vương là Lạc hầu và Lạc tướng để thống trị theo phép. Thái bình hoàn vũ ký chép: người Văn Lang thường ở, ngủ dưới cây, trao đổi mua bán không hai giá. Theo đó thì thời Hùng vương chỗ ở chưa có nhà cửa".

20

(6)

Lạc tướng: xem chú thích (3) ở trên.

21

(7)

Phong tục đơn giản, thuần hậu, chất phát: xem chú thích trên.

22

(8)

Quan lang: xem chú thích (1)/ trang 4/ từ câu 24.

23

(9)

Mị nương: xem chú thích (1).

24

(10)

Bố chính: xem chú thích (1).

25

(11)

Phụ đạo: xem chú thích (1)

26

(12)

14 15 16 17 18

27 28 29 30 31 32 33

Mười lăm bộ: chép theo ĐVSL. Đại Việt Sử Ký Toàn thư (ĐVSKTT) cũng chép là 15 bộ nhưng có 5 bộ khác với ĐVSL là: Chu Diên, Phúc Lộc, Dương Tuyền, Vũ Định và Tân Hưng. Đại Việt Sử Ký Tiền Biên thời Nguyễn Tây Sơn (ĐVSKTB), Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thời Nguyễn Gia Long (KĐVSTGCM), Việt Sử Cương Mục Toát yếu của Đặng Xuân Bảng (VSCMTY) tất cả đều ghi 15 bộ theo ĐVSKTT. Theo Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi thì 15 bộ nầy là:

VSTK - 8


29

1. Giao Chỉ: là vùng Sơn Nam, nay là Hà Nội, Nam Định và Hưng Yên. 2. Chu Diên: gồm phần đất tỉnh Sơn Tây cũ (nay thuộc Hà Tây), phần lớn đất Vĩnh Yên và Phúc Yên cũ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) và một phần đất tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc tỉnh Hà Tây). 3. Phúc Lộc: Sơn Tây. 4. Vũ Ninh: Kinh Bắc, nay là Bắc Ninh.. Có thời huyện Gia Lâm của Hà Nội cũng thuộc xứ Kinh Bắc. 5. Việt Thường: Thuận Hóa tức là Quảng Trị, Thừa Thiên. 6. Ninh Hải: An Bang hay Yên Bang, nay là Quảng Yên. Tỉnh Quảng Yên cũ bao gồm cả đất huyện Thủy Nguyên của Hải Phòng ngày nay. Yên Bang bao gồm phần lớn đất của tỉnh Quảng Ninh và một phần đất Hải Phòng ngày nay. 7. Dương Tuyền: Hải Dương. 8. Lục Hải: Lạng Sơn. 9. Vũ Định: Thái Nguyên, Cao Bằng. 10. Hoài Hoan: nay là Hà Tĩnh. 11. Cửu Chân: Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình. 12. Tân Hưng: Hưng Hoá, Tuyên Quang 13. Cửu Đức: Hà Tỉnh, Quảng Bình. 14. Bình Văn: chưa rõ là ở đâu. 15. Văn Lang: vùng Lâm Thao, Bạch Hạc của tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Vùng nầy sử sách cũ còn gọi là Phong Châu. Lời cẩn án trong KĐVSTGCM viết: "Phong Châu sử cũ chua là Bạch Hạc. Đường thư /Địa ly chí chép: Phong Châu thống lĩnh năm huyện. Sách Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử triều nhà Tống (bên Tàu) chép: Quận Thừa Hóa Phong Châu xưa là nước Văn Lang. Như thế thì Phong Châu tức là địa hạt phủ Vĩnh Tường (nay thuộc Vĩnh Phúc) và phủ Lâm Thao thuộc tỉnh Sơn Tây bây giờ ".

30

(13)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28

31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

Thục Phán: lai lịch cho đến nay vẫn còn mờ ám, sử sách cũ chưa giải quyết một cách rõ ràng. VSL viết: " Cuối đời nhà Chu, Hùng vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi rồi lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, lấy hiệu là An Dương vương và không còn chịu thần phục nhà Chu nữa ". ĐVSKTT chép: "Họ Thục, tên Phán, người Ba Thục". ĐVSKTB viết: "An Dương Vương, húy Phán, người Ba Thục, ở ngôi 50 năm. Sử cũ (tức ĐVSKTT) chép là họ Thục. Không đúng". Việt Sử Tiêu Án (VSTA) của Ngô Thời Sĩ viết: "An Dương Vương tên là Phán, người Ba Thục, ở ngôi vua 50 năm, lúc trước vua Thục cầu kết hôn với con gái Hùng vương mà không được, lấy làm giận lắm cho nên thường đánh nhau với Hùng vương đều bị thua trận, dặn lại con cháu phải diệt cho được nước Văn Lang".

VSTK - 9


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14

15 16 17 18 19 20 21 22

Lời cẩn án trong KĐVSTGCM viết: ". . .còn bảo rằng Thục vương đây là người ở Ba Thục thì không phải". Trong VSCMTY, Đặng Xuân Bảng có lời xét như sau: "Ba Thục nay là tỉnh Tứ Xuyên (Trung Hoa), cách nước Văn Lang gần hai nghìn dặm, ngăn cách bởi các nước Dạ Lang, Đan Vu, Cùng, Tạc, nếu Phán quả là người Ba Thục thì làm thế nào có thể mang quân từ xa, vượt qua các nước ấy mà thôn tính Văn Lang? Phán có thể thôn tính Văn Lang thì Văn Lang với nước của Phán hẳn là không xa nhau. Hơn nữa, sau khi Phán diệt nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Lạc tức là Văn Lang, Âu tức là Tây Âu mà Tây Âu là châu Uất Lâm của Quảng Tây. Uất Lâm giáp giới với Văn Lang cho nên mới đem quân diệt được Văn Lang và lấy quốc hiệu là chữ Âu đặt trước chữ Lạc. Có lẽ là người Tây Âu, họ Thục, tên Phán, còn gọi là Thục vương thì không đúng". A.Schreiner trong Abrégé de l'Histoire d'Annam viết: "Un point, toutefois, sur lequel tout le monde semble d'accord, c'est que le royaume de Văn Lang n' occupait pas tout le pays de Giao Chỉ, était aussi habité par d'autres tribus ne formant pas avec ce royaume et entre elles un compact corps de nation. Quoique les gens de Văn Lang et toutes ces tribus fussent de même race, celles-ci étaient, les unes indépendantes, les autres soumises à des voisins"(sách đã dẫn/ trang 13)

39

(dịch: Người ta đã đồng ý ở một điểm là thời trước vương quốc Văn Lang không làm chủ hoàn toàn lãnh thổ Giao Chỉ vì ở Giao Chỉ cũng còn có sự hiện hữu của nhiều bộ lạc khác nữa; những bộ lạc nầy không những độc lập với nhau, mà cũng không cùng với vương quốc Văn Lang kết hợp thành một quốc gia vững chắc. Cho dù người dân của Văn Lang và người dân của các bộ lạc đó có cùng một giống tộc thì vẫn có những nhóm bộ lạc độc lập và những nhóm phụ dung vào những bộ lạc kế cận). Cũng theo A.Schreiner thì vào thời đại Hồng Bàng và có thể trước đó nữa, trong bộ lạc Giao Chỉ, ở về phía Tây Bắc có một vùng gọi là Thục hay Ba Thục. Đời Hùng vương, vương quốc Ba Thục là chư hầu của nước Văn Lang. (Principauté vassale de Văn Lang). Theo sự ghi chú trong dấu ngoặc của tác giả thì Ba Thục là vùng Cao Bằng. Rồi Ba Thục và Văn Lang có mối hiềm khích vì chuyện hôn nhân giữa hai nước, Ba Thục lần lần tách xa khỏi vòng kiềm chế của Văn Lang và sau đó tuyên chiến nhưng mãi cho tới đời Thục Phán, Ba Thục mới diệt được Văn Lang để lập ra nước Âu Lạc.

40

(14)

23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

Âu Lạc: là sự hợp nhất hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt.

VSTK - 10


20

Hai tộc Lạc Việt và Âu Việt rất gần gũi với nhau. Lãnh thổ của hai bộ tộc nằm cạnh nhau. Sử sách cũ Việt Nam ghi chép chuyện dân gian về vua Rồng của bộ tộc Lạc (Lạc Long quân) lấy một Cô nàng của bộ tộc Âu (Âu Cơ, Âu: là Âu Việt; Cơ: là Cô, hay Nàng) cho thấy sự tiếp xúc và mối liên hệ gắn bó từ lâu đời giữa người Lạc Việt và người Âu Việt và theo đó thì cả hai bộ tộc đều ở trong nhóm Bách Việt. Quách Phác đời nhà Tấn ở Trung Hoa (thế kỷ III) chú giải sách Phương Ngôn của Dương Hùng (thế kỷ I) viết: "Tây Âu chỉ là một nhánh khác của Lạc Việt. Mặc dù có một nhóm dân Âu Lạc sinh sống ở Quảng Đông và Quảng Tây nhưng đa số đến định cư và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Họ sống chung đụng với nhau. Người Âu Việt cũng chế tạo đồ đồng thau, canh tác nghề nông, chăn nuôi gia súc, đánh bắt cá như người Lạc Việt. Người Âu Việt cũng có tục cắt tóc, xăm mình, mặc áo khoét cổ chui đầu, khuy nút áo đính bên trái giống như người Lạc Việt. Giữa người Âu Việt và Lạc Việt có sự giao dịch kinh tế, văn hóa, hôn nhân nhưng cũng không tránh khỏi những bất đồng, xung đột đi đến chỗ dùng vũ lực, lấn áp xâm phạm giữa hai bộ tộc. Lạc Việt có trình độ phát triển văn hóa, xã hội nhanh và tiến bộ hơn Âu Việt."

21

(14)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19

22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Cổ Loa: tại Phong Khê, phủ Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh, nay còn di tích ở huyện Đông Anh, ở ngoại thành Hà Nội khoảng 15-20 cây số, nằm ở bờ phía trái của sông Hoàng (Hoàng giang, còn gọi là sông Thiếp hay Ngũ huyện khê, trước kia là một nhánh quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu và chảy vào sông Lục đầu ở phía Đông) tức là nằm vào giữa quốc l số 2 và đường xe lửa Hà Nội-Lào Cai hiện nay. Sử sách cũ viết rằng thành có 9 lớp. Tuy nhiên di tích còn lại đến nay, không kể những ụ công sự và những đoạn thành lũy tản mát riêng rẽ, chỉ có 3 vòng tường thành đắp bằng đất với một chu vi tổng cộng vào khoảng 15,000-16,000 thước (vòng thành ngoài: khoảng 7,500 thước; vòng thành thứ nhì: khoảng 6,200 thước; vòng thành thứ ba: khoảng 1,500 thước). Ở nhiều chỗ, chân vòng thành rất dầy và được kè chận bằng đá, phía trên đầu bờ thành rộng và khá cao với nhiều ụ đất nhô ra phía ngoài để làm điếm canh hay công sự phòng thủ. Phía ngoài mỗi lũy thành có hào sâu, rộng, ghép nối vào với sông Hoàng thành một mạng lưới đường thủy thuyền bè có thể lưu thông được; trong hệ thống hào sông nầy có vùng Đầm Cả rộng mênh mông có thể dùng làm bến đậu cho hàng trăm thuyền bè. Ngoài công trình xây dựng thành Cổ Loa độc đáo, năm 1959, ở cách chân bờ tường thành Cổ Loa vài trăm mét về phía Nam, người ta đã khai quật được một kho hầm đầu mũi tên đồng gồm đến hàng chục ngàn chiếc với nhiều hình dạng khác nhau, đầu mũi tên có chuôi rộng VSTK - 11


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

để cắm vào cán. Mũi tên đồng được chế tạo hàng loạt như vậy có nghĩa là kỹ thuật luyện đồng vào thời đó đã phát triển cao, nguyên liệu đồng dồi dào và thừa thãi. Thành Cổ loa là một công trình kiến trúc quy mô, rộng lớn và sáng tạo của người dân Âu Lạc. Số lượng đất đá đào đắp, chuyên chở đòi hỏi một số lượng nhân công hằng trăm ngàn người để lao dịch. Khi xây cất thành , những điều kiện khắc nghiệt về địa hình của vùng Cổ Loa như sông rạch, gò cồn, đầm lầy, vực sâu đã được nghiên cứu để vận dụng phù hợp: dùng sông và vực sâu làm hào, dùng gò cồn làm lũy chắn, dùng kỹ thuật nền đá tảng để kê chân thành ở những nơi đầm lầy để tưởng thành được vững chắc. Thành Cổ Loa cũng là một chiến lũy quân sự độc đáo, một công trình phòng ngự kiên cố và lợi hại: là một căn cứ bộ binh gồm có nhiều công trình phòng vệ như lũy, hào, ụ công sự, tuyến bảo vệ hàng đầu bên ngoài vòng thành. Cổ Loa đồng thời cũng là một căn cứ thủy quân quan trọng với một hệ thống kinh hào bao bọc toả ra và liên kết với sông Hoàng, ngược sông Hồng, xuôi dòng sông Cầu để ra biển: thuyền chiến có thể di động khắp ba vòng hào sâu để điều hợp công tác chiến đấu với bộ binh. Song song với kỹ thuật xây thành đắp lũy, người Âu Lạc cũng đã có một sự tiến bộ rất nhanh trên lãnh vực chế tạo vũ khí và kỹ thuật quốc phòng: ngoài việc dùng cung tên theo lối cũ, người Âu Lạc đã chế tạo được một loại nỏ, một lần bắn được nhiều phát đồng loạt rất lợi hại và vì thế loại nỏ đã được dân gian thần thánh hóa truyền tụng với truyện rùa vàng cho móng để Thục Phán dùng làm nỏ thần bắn ra một phát giết chết hàng ngàn quân địch. Những sử gia của ta ngày xưa nếu đã phát hiện thấy những khối lượng mũi tên đồng nầy thì có lẽ đã không đưa câu chuyện thần thoại "nỏ thần móng rùa" vào quốc sử. Thời phong kiến ở bên Âu Châu cũng đã có những loại lẫy nỏ bắn ra một phát nhiều mũi tên cùng một lúc và mũi tên cũng được chế tạo bằng sắt hay đồng để có thể xuyên thủng áo giáp của quân địch. Cổ Loa được xây dựng thành nhiều tầng, nhiều lớp: vua và hoàng cung của vua ở khu trung tâm có nhiều vòng thành bên ngoài bảo vệ. Quan lại ở giữa khu thành trong và tháng giữa còn quân đi thì canh giữ ngày đêm trên 3 vòng thành ngoài và đóng doanh trại bên ngoài vòng thành giữa. Dưới chân thành, ở nhiều đoạn, các nhà khảo cổ khai quật được nhiều di tích cho thấy đây cũng là một địa điểm cư trú đã có trước khi thành Cổ Loa được xây, thuộc về buổi đầu thời đại đồ sắt. Điều đó cũng có thể suy diễn được rằng người dân đen trong nước Âu Lạc bị dời đi ra ngoài bờ thành để vua chiếm đất xây thành: theo chuyện xưa tích cũ trong dân gian ở Liên Hà (nay thuộc làng Quậy, huyện Đông Anh, Hà Nội) thì ngày xưa dân làng Quậy ở phía bên trong thành Cổ Loa phải dời đi xuống Liên Hà để vua lấy đất xây thành. Từ những VSTK - 12


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

23 24 25 26 27

điểm trên người ta có thể suy đoán rằng xã hội Lạc Việt là một xã hội có phân chia giai cấp: vua, quan, quân, dân. Chế độ chính trị xã hội của nước Âu Lạc căn bản vẫn giống như chế độ chính trị xã hội của nước Văn Lang nhưng kinh đô nhà vua được dời xuống miền đồng bằng và được xây dựng có kỹ thuật và quy mô hơn. Bộ máy chính quyền trung ương tức triều đình của nhà vua nước Âu Lạc được tổ chức tốt hơn: về việc nầy, sử cũ chỉ ghi lại một người tướng phụ tá cho vua An Dương Vương như tướng Cao Lỗ (có sách gọi là Cao Thông) cố vấn trong việc quốc phòng (chế ra lẫy nỏ). Lãnh thổ Âu Lạc cũng vẫn chia thành từng khu vực gọi là bộ và vẫn giao cho các Lạc hầu, Lạc tướng cai trị như cũ. Lạc hầu, Lạc tướng được kế truyền theo huyết tộc. Hạ tầng căn bản của nước Âu Lạc giống như nước Văn Lang cũ là các làng, xã hay làng, chạ. Cổ Loa ngày xưa là một xã và có tên là chạ chủ hay khạ klủ tức là xã của chủ. Cổ âm học cho biết chữ chủ còn được đọc là klủ, rồi từ đó biến âm và rồi được phiên âm là khả klủ, kim lủ, cổ loa. Các chuyện đời xưa trong dân gian gọi An dương vương là vua chủ, thành Cổ loa là thành chủ. Làng của Chủ thì đất cao, làng Quậy đất trũng và tục ngữ cũng có câu "Quậy ủ chủ tươi, Quậy cười chủ khóc" có nghĩa là nếu mưa nhiều thì cây cối của chủ làng được tốt tươi vì nằm trên thế đất cao còn ruộng đồng, vườn cây của người dân ở Quậy thì bị ngập nước úng thối vì ở dưới thế đất trũng và ngược lại khi nắng nhiều thì đồng Chủ sẽ bị hạn. Tóm lại, xã hội nước Âu Lạc cũng như xã hội nước Văn Lang là những xã hội trong đó đã có sự hiện diện và tham dự của dân tộc Việt Nam thời nguyên thủy với một thể chế chính trị chuyên chế; trong xã hội đó, hạ tầng cơ sở nồng cốt là làng xã, bao gồm phần lớn là miền Bắc bộ và Bắc Trung bộ ngày nay. * KHẢO LUẬN : LÃNH THỔ VĂN LANG TRONG SỬ CŨ

28 29 30 31 32 33 34 35 36

Sử cũ ĐVSKTT viết: "Hùng Vương lên ngôi đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Tân Hưng, Vũ Ninh, Cửu Chân, Hoài Nam, Việt Thường, Bình Văn, Cửu Đức, Văn Lang...còn bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng đô. Nước Văn Lang lúc bấy giờ Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam tiếp nước Hồ Tôn" (NK1,3a). ĐVSL được xem như là có trước ĐVSKTT cũng có chép 15 bộ nhưng gọi là 15 bô lạc và có 5 bộ khác với ĐVSKTT là: Chu Diên, VSTK - 13


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

11 12 13 14

15 16

17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

Phúc Lộc, Dương Tuyền, Vũ Định và Tân Hưng. Điểm khác biệt quan trọng là ĐVSL không đề cập gì đến nước Văn Lang cũng như cương giới của nước nầy, tức là trong ĐVSL chỉ có bộ lạc Văn Lang nằm phía ngoài cõi ranh giới các lãnh thổ của những giống tộc Việt còn được gọi là Bách Việt. Trong ĐVSL có một đoạn rất đáng chú ý: "Đến đời Thành Vương nhà Chu, Việt Thường thị mới đem dâng chim trĩ trắng,. . . sách Xuân Thu gọi thị tộc nầy là Khuyết địa(1) và sách Đái Ký(2) gọi là Điêu đề(3)" (ĐVSL/QI/ Những sự thay đổi đầu tiên của đất nước/ bản dịch Việt ngữ năm 1972 của Nguyễn Gia Tường đã được hiệu đính). (1) Khuyết địa: đất trống, có ý nói rằng bộ tộc (hay thị tộc) Việt Thường vào thời đó dân cư còn thưa thớt, hoang sơ; và như thế cũng có thể suy diễn được rằng bộ lạc Giao Chỉ và bộ lạc Văn Lang cũng ở vào một tình trạng hoang sơ như bộ tộc Việt Thường. (2) Đái Ký: nguyên là sách Lễ ký của Khổng Tử ghi chép về đời Xuân Thu và sau nầy được hai chú cháu họ Đái đời nhà Hán sắp xếp viết lại thành sách Đái Ký. (3) Điêu đề: Điêu là xăm, khắc, chạm, trổ. Đề là cái trán. Điêu đề tức là chạm khắc lên trán, ý muốn nói dân Việt Thường có tục xăm, chạm lên trán và do đó người ta có thể suy diễn rằng dân của 14 bộ lạc khác kề cận với bộ lạc Việt Thường trong đó có bộ lạc Giao Chỉ và bộ lạc Văn Lang cũng có tục xăm mình giống như dân Việt Thường. ĐVSKTT chép rằng: Bấy giờ dân ở rừng núi thấy ở sông ngòi, khe suối đều có tôm cá nên đua nhau đi bắt lấy để ăn, thường bị giống thuồng luồng làm hại. Dân chúng báo bẩm lên vua. Vua bèn phán: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; thủy tộc ưa loài giống với chúng và ghét loài khác với chúng cho nên mới có thói ấy". Vua bèn dạy lấy mực vẽ những hình thủy quái vào thân thể. Từ đấy giống thuồng luồng không còn hại dân nữa. Tục vẽ xăm mình của người Bách Việt có lẽ bắt đầu từ đấy (NK/ QI/ 3a, 3b).

* Lối viết của ĐVSKTT có ý như bắt buộc người ta phải hiểu rằng Hùng vương là người cai trị tất cả các bộ tộc Việt còn được gọi là Bách Việt và luôn cả 15 bộ tộc ở phía Tây Nam ngoài bờ cõi của những vùng lãnh thổ của nhóm Bách Việt. Từ xưa mãi cho tới đời Thành vương của nhà Chu bên Tàu, không thấy sử sách nào của họ nói tới một nước Văn Lang riêng rẽ mà chỉ đề cập đến những lãnh thổ khuyết địa như đất Nam Giao và Việt Thường thị mà thôi. Giao Chỉ hay Nam Giao, Việt Thường thị, Văn Lang và 13 bộ lạc khác nữa, tất cả là 15 bộ tộc riêng rẽ chưa bị sáp nhập vào nước Trung Hoa vào thời đại Huỳnh Đế lập quốc trong khi toàn thể lãnh thổ của tất cả các bộ tộc trong nhóm Bách Việt bị người Hoa xâm chiếm và đồng hóa. Nước Văn Lang chỉ xuất hiện từ thời Trang vương nhà Chu (696682 TCN) cai trị nước Trung Hoa nhưng ranh giới của nước Văn Lang thì không thể trải dài rộng lớn như ĐVSKTT đã viết . VSTK - 14


24

Các sử gia trong Quốc sử quán triều Nguyễn nhận định rằng sử cũ(4) đã phô trương phóng đại địa giới của lãnh thổ Văn Lang. Cẩn án(5) trong KĐVSTGCM viết: "Từ đời nhà Trần (1225-1399) và nhà Lê (1428-1527) về trước, cương vực(6) của nước ta phía Đông giáp biển, phía Tây giáp Vân Nam, phía Tây Nam giáp Lão Qua, phía Bắc giáp Quảng Tây, phía Tây Bắc giáp Quảng Đông. Sách Thiên hạ quận quốc(7) và những sách địa dư chép: An Nam phía Đông giáp biển, phía Tây giáp tỉnh Vân Nam và nước Lão Qua, phía Nam giáp nước Chiêm Thành, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Tây thì đại lược cũng giống nhau. Đến Quốc triều ta(8) liệt thánh(9) gây dựng cơ đồ ở miền Nam, rồi Thế tổ Cao hoàng đế(10) ta đại định đất nước, gồm thâu toàn cả nước Việt(11) : Đông giáp biển cả, Tây giáp Vân Nam, Nam giáp Cao Miên, Bắc giáp Lưỡng Quảng(12) , bờ cõi rộng lớn chưa có đời nào trước đó được như vậy, nhưng vẫn còn cách Động Đình và Ba Thục xa lắm, thế mà sử cũ chép nước Văn Lang phía Tây giáp Ba Thục, phía Bắc giáp Động Đình thì như vậy chẳng phải lá trái ngược quá nhiều với sự thật sao? Ở đây, Động Đình giáp Lưỡng Hồ(13), đúng ra là ở phía Bắc Bách Việt(14) còn Ba Thục vì bị đất Tuấn Điền ngăn cách cho nên không thể nào liền đất nhau. Sử cũ phóng đại khoa trương cũng giống như việc Thục Vương sau đây đều là những sự loan truyền không đúng, chưa truy cứu được. Huống hồ mười lăm bộ đã phân chia đều nằm trong địa hạt Giao Chỉ và Chu Diên, không có bộ nào nằm ở phương Bắc, như thế cũng đủ chứng tỏ là không đúng sự thật."

25

(CM/TB.I/4b)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

Mở đầu phần Dư Địa chí trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Phan Huy Chú viết : "(Tôi)Thường khảo: từ đời Triệu Vũ (Triệu Đà) trở về trước, đất Ngũ Lĩnh đều là cõi đất của Việt. Đến khi Triệu đã mất nước thì các đời về sau chỉ có vùng Giao Nam". ĐVSKTB viết: "Nhà Tần (246-207 TCN) lúc đó thấy mối lợi ở đất Việt nhiều châu báu, (ở đây có ý nói là vùng đất của các bộ tộc thuộc nhóm Bách Việt) muốn lấy đất ấy đặt thành quận huyện của mình. . .sai hiệu úy Đồ Thư và giám quân ngự sử Lục Dận tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, giết vua nước Tây Âu là Dịch Hu Tống, đánh chiếm vùng đất của đám dân lục lương (dân lục lương có nghĩa là dân hung bạo. Ở đây ám chỉ người (đọc tiếp trang 35). . . . .....

(4) Sử cũ: chỉ chung những bộ sử làm trước KĐVSTGCM mà ĐVSKTT là chính yếu. 37 38 39 40 41 42

Cẩn Án: những lời bàn luận của những sử gia trong Quốc sử quán triều Nguyễn. (6) Cương Vực: địa giới, ranh giới. (7) Sách Thiên hạ quận quốc: của tác giả người Hoa là Cố Viêm Vũ (16131682). (8) Quốc triều ta: triều Nguyễn Gia Long. (5)

VSTK - 15


1 2 3 4 5 6 7 8 9

(9) Liệt thánh: các chúa Nguyễn trước Gia Long. (10) Thế tổ Cao hoàng đê: tức là Gia Long. (11) Nước Việt: Việt Nam. (12) Lưỡng Quảng: hai tỉnh Quảng Đông và Quảng (13) Lưỡng Hồ: hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc.

Tây.

(14) Bách Việt: thời cổ xưa giống tộc Việt gồm có nhiều nhóm sống trong các vùng đất Hồ Nam, Chiết Giang, Phúc Kiến, và Lưỡng Quảng như Đông Việt, Mân Việt, Âu Việt, Tây Việt . . . .v.v. . . . . . . .gọi chung là Bách Việt (Bách là 100, là nhiều).

Bản đồ Giao Châu, Champa và Phù Nam vào thế kỷ thứ IV

VSTK - 16


GIAO CHÂU-TRƯỜNG CHÂU-ÁI CHÂU THỜI VIỆT NAM BỊ NHÀ ĐƯỜNG TRUNG HOA ĐÔ HỘ (618-907)

VSTK - 17


Nước Việt Nam ở thế Kỷ I - II

GHI CHÚ Tên quận . . . .GIAO CHỈ Tên huyện . . . MÊ LINH

VSTK - 18


Di tích người tiền sử ở các nước Đông Dương

(2) (1) (4) (3)

(1) Xương sọ (có thể thuộc giống tộc Mélanésien). (2) Dụng cụ bằng xương. (3 & 4) xương và võ sò khai quật được ở Cầu Giác-Thanh Hóa. (Hình trích đăng từ tập chí Đô Thành Hiếu Cổ Tập San-BAVH/ 1934)

VSTK - 19


BẢN ĐỒ KHU DI TÍCH THÀNH CỔ LOA

VSTK - 20


ĐỒ ĐÁ CŨ NÚI ĐỌ

Công cụ chặt thô sơ

Rìu tay

Bàn nạo

VSTK - 21


VĂN HÓA HÒA BÌNH

Công cụ bằng xương

Công cụ đá cuội ghè đẽo

VĂN HÓA HẠ LONG VĂN HÓA BẮC SƠN

Rìu có vai & rìu có nấc (Hạ Long-Quảng Ninh)

Rìu mà lưỡi

Mũi khoan bằng đá

(Tràng Kinh-Hải Phòng)

VSTK - 22


GIAI ĐOẠN ĐỒNG ĐẬU

Khuôn dúc lÜ«i rìu Mũi lao bằng xÜÖng có ngạnh

MÛi nh†n và lÜ«i rìu b¢ng ÇÒng

khuôn đúc mũi tên

Hoa væn trang trí trên Çồ gốm Mũi tên đồng

VSTK - 23

Hoa tai bằng đá


GIAI ĐOẠN GÒ MUN Mũi tên bằng đồng

LÜ«i qua b¢ng ÇÒng

Hoa væn trang trí trên ÇÒ gÓm

TÜ®ng con gà b¢ng ÇÒng

Hoa væ trang trí trên ÇÒ gôm

(tìm thấy ở Vình Quang-Hà Tây)

VSTK - 24


TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ

VSTK - 25


VæN

HóA ñÔNG

S÷N

Đồ gốm

Mũi giáo đồng

Vòng đeo tai bằng đá

Vòng tay bằng đồng

Dao bằng đồng

VSTK - 26


GIAI ĐOẠN PHÙNG NGUYÊN

Dụng cụ xe chỉ và hòn bi gốm

Mũi nhọn và lÜ«i rìu

Bàn mài

TÜ®ng đá (Văn Điển)

Vòng đeo tai

Đồ đựng bằng đất nung Hạt chuỗi

VSTK - 27


VæN

HóA

ÇÔNG

SÖN

TrÓng ÇÒng Ng†c LÛ

VSTK - 28


VĂN HÓA ĐÔNG SƠN

Mặt Trống đồng Hoàng Hạ

Chi tiết trên mặt trống Ngọc Lũ

VSTK - 29


TrÓng ÇÒng ª

bäo tàng viŒn Sài Gòn

TÜ®ng ngÜ©i cõng nhau

Chi ti‰t hình chåm trên trÓng ÇÒng Ng†c LÛ

MÛi tên ÇÒng tìm thÃy dܧi chân thành C° Loa

VSTK - 30


MẶT TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ

Chi tiết trên trống đồng Ngọc Lũ

VSTK - 31


Thåp ÇÒng tìm thÃy ª ñào ThÎnh-Yên Bái

VSTK - 32


VæN

H¹A

ñøc vÛm b¢ng ÇÒng

Rìu

B¡C

SÖN

LÜ«i rìu b¢ng ÇÒng

b¢ng ÇÒng

Rìu lÜ«i

LÜ«i cuÓc b¢ng s¡t

xéo

LÜ«i rìu b¢ng

Có th‹ Çây là dång m¶t lÜ«i cày b¢ng

VSTK - 33


Bên trong một hầm mộ cổ thời nhà Hán khai quật năm 1933 ở Lạc Ý (Vĩnh Yên). Những chum hủ đựng các loại hạt ngũ cốc. Hai lỗ trống là cửa sổ để cho hồn người quá cố đi, đến. (Ảnh trích từ tập chí Đô Thành Hiếu Cổ Tập San-BAVH; 1934)

VSTK - 34


Những đầu hình tượng và mãnh trang trí bằng đất nung tráng men khai quật được ở vùng thành Cổ Loa. (Ảnh trích từ tập Đô Thành Hiếu Cổ Tập San-BAVH; 1934)

KHẢO LUẬN : (tiếp theo từ trang 15) VSTK - 35


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

.. . . .dân ở vùng Ngũ Lĩnh), đặt ra thành Quế Lâm (nay là tỉnh Quảng Tây), Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là một phần đất của Quảng Tây và Nam Quế Châu hiện nay). Người của các bộ tộc thuộc nhóm Bách Việt đều chạy trốn hết vào rừng núi, không ai chịu theo nhà Tần, bí mật cử người tuấn kiệt đánh trả quân Tần, giết được Đồ Thư. . . Nhà Tần phải cử Nhâm Ngao và Triệu Đà sang đóng giữ vùng Ngũ Lĩnh (ĐVSKTB/ NK/ q.I/ 14a,b). Theo Tiền Hán Thư thì vùng đất Ngũ Lĩnh là vùng đất nằm giữa 2 quận Giao Chỉ và Hợp Phố, là địa bàn sinh tụ của nhóm bộ tộc Việt mà sử cũ gọi là Bách Việt. Theo sách Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi (nhà Tống) thì đời Hán Vũ đế đã xắn bớt đất Nam Hải (tức Quảng Đông) và cắt một phần đất của Tượng Quận (tức là Giao Chỉ vào đời Tần) để lập thành quận Hợp Phố. Như vậy có nghĩa là trước khi bị Triệu Đà xăm chiếm, thì đã có nhóm tộc Bách Việt đến sinh sống ở Giao Chỉ trên phần đất bị nhà Hán cắt xén để tạo ra quận Hợp Phố. Như thế, có thể nói rằng nhóm tộc Bách Việt không phải là người Giao Chỉ nguyên thủy mặc dù đã có sự hiện diện của người Bách Việt trên phần đất Giao Chỉ rất lâu, đa số là giống tộc Âu Việt, ngay từ trước khi Giao Chỉ bị Triệu Đà xâm chiếm. Một suy diễn khác: phần đất Giao Chỉ bị sáp nhập vào quận Hợp Phố của Trung Hoa là vùng đất mà trước đó Hùng vương đã phong cấp cho một tộc trưởng của nhóm đa số Âu Việt là Thục Phán cai quản, như là một vùng lãnh thổ chư hầu của nước Văn Lang và từ vùng đất nầy, có thể là vùng Cao Bằng ngày nay, Thục Phán đã tiến quân xâm lăng nước Văn Lang để lập ra nước Âu Lạc. Trong ĐVSKTB, Ngô Thời Sĩ có lời bàn như sau :"Đất Giao Nam từ đời Huỳnh Đế Chuyên Húc cho đến nhà Chu chỉ sai sứ tiến cống, tự thành một nước riêng. Ngay như hùng mạnh như nhà Tần, uy lực của Tần Thủy Hoàng trong ngoài 9 châu, đánh đâu thắng đó, ra hiệu lệnh gọi thì có ai mà dám kháng cự không đến thần phục, nhưng ngay cả đem hết binh lực của tướng Tần Vương Tiễn để bình thiên hạ thì cũng chỉ mở mang được đến vùng Bách Việt mà thôi chứ không đến được Giao Chỉ" (ĐVSKTB/TB/MK/Q.II/ 10b). Như vậy, theo Ngô Thời Sĩ thì người Giao Chỉ không thuộc giống tộc của nhóm Bách Việt. Cũng theo Ngô Thời Sĩ thì " Giao Nam ta ở ngoài Ngũ Lĩnh ". Tóm lại, ngoại trừ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đa số sử sách cũ trước và sau ĐVSKTT đều cho rằng nước Văn Lang của triều đại Hùng Vương chỉ có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, tức là vùng Bắc Việt Nam hiện nay và người Văn Lang không phải là người thuộc nhóm Bách Việt mặc dù ở vào thời đại nầy đã có nhiều giống tộc của nhóm Bách Việt lưu lạc đến kiếm sống trên lãnh thổ Văn Lang và đồng hóa với người Văn Lang.

VSTK - 36


KỶ HỒNG BÀNG TRONG SỬ CŨ 1 2

Kỷ Hồng Bàng trong phần Ngoại Kỷ do Ngô Sĩ Liên đầu tiên đưa vào ĐVSKTT được viết như sau :

KINH DƯƠNG VƯƠNG 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17

Tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông(a). Nhâm Tuất(b), năm thứ 1. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh (c) lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình quân tên là Thần Long(d) sinh ra Lạc Long Quân. (Xét : Đường Kỷ chép : Thời Kinh Dương Vương có người Đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi). *

LẠC LONG QUÂN

VSTK - 37


1 2 3 4 5 6 7 8

Tên húy là Sùng Lảm, con của Kinh Dương Vương.Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng)(e), là tổ của Bách Việt(f). Một hôm vua bảo Âu Cơ rằng ."Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam (có bản chép là về Nam Hải), phong con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.{ĐVSKTT/ NK 1/ 1b , 2a} Thần Nông: Theo truyện thần thoại Trung Hoa thì Thần Nông là một trong 5 ông Đế (ngũ Đế) ở thời thượng cổ và là người đầu tiên đã dạy người Hoa cày bừa làm nghề nông, được họ tôn sùng như thần linh và gọi là Thần Nông, cũng được gọi là Viêm Đế.

(a)

18

Nhâm Tuất: Xét câu kết về kỷ Hồng Bàng (NK1, 5b) thì từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão (258 TCN ) cộng 2622 năm. Vậy năm Nhâm Tuất nầy ngang với năm 2879-TCN. Đây là một niên đại phỏng chừng không có nền tảng. Trong phần Phàm Lệ của Ngô Sĩ Liên có đoạn viết: "Kinh Dương Vương là vua bắt đầu được phong của nước Đại Việt, cùng với Đế Nghi đồng thời, cho nên chép năm đầu ngang với năm đầu của Đế Nghi." Cùng thời với Đế Nghi là thời nào? Căn cứ vào đâu để cho rằng thời của Đế Nghi khởi đầu vào năm Nhâm Tuất (2879- TCN )? (Vấn đề nầy sẽ được phân tích chi tiết trong phần khảo luận về Lạc Long Quân và Âu Cơ)

19

(c)

9 10 11 12 13 14 15 16 17

20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

(b)

Ngũ Lĩnh: Theo tự điển Hán-Việt thì Ngũ Lĩnh là 5 đỉnh núi có thể thông ra đường cái. Sách viết về địa lý Nam Khang Ký của Đặng Đức Minh đời nhà Tấn ở Trung Hoa viết : "Ngũ Lĩnh là 5 ngọn núi: Đài Lĩnh ở Đại Dũ, Kỵ Điền ở Quế Dương, Đô Bàng ở Cửu Chân (nay là tỉnh Thanh Hóa), Mạnh Chữ ở Lâm Hạ, Việt Thành ở Thủy An. Trong 5 ngọn núi, ngọn núi có tên Đô Bàng nằm ở vùng Cửu Chân. Xem bản đồ thì biên giới lãnh thổ của nước Trung Hoa về đời nhà Tần chạy dài xuống tận phía Đông Nam giáp giới với lãnh thổ Việt Thường và vị trí Cửu Chân khi bị sáp nhập vào nước Trung Hoa về đời Tam Quốc thì nằm vào khoảng giữa hai tỉnh Thanh Hóa-Nghệ An của nước Việt Nam hiện nay. Cho đến hiện giờ không thấy có ngọn núi nào tên là Đô Bàng nằm trong địa phận của hai tỉnh Thanh Hóa-Nghệ An được chép trên những sách Địa dư của Việt Nam. LTHCLC/ Địa Dư Chí/Phan Huy Chú viết về một vùng có tên là trấn Thanh Hoa (không phải là Thanh Hóa) như sau: "Nguyên trước là đất Tượng Quận. Tần, Hán gọi là quận Cửu Chân, Lương đặt là Châu Ái, Tùy gọi là Cửu Chân, Đường lại đổi là châu Ái. . . . . .Thanh Hoa mạch núi cao vót, sông lớn lượn quanh, biển ở phía Đông, Ai Lao sát phía Tây, Bắc giáp trấn Sơn Nam (Sơn Nam:đời cổ là nước Lạc VSTK - 38


1 2 3 4 5 6

Long, Hán đặt là quận Giao Chỉ, Tùy cũng là Giao Chỉ, Đường đổi là Giao Châu), Nam giáp đạo Nghệ An (Sơn Nam đời cổ là nước Việt Thường) Tần thuộc về

Tượng Quận, Hán là Quận Cửu Đức, Lương đổi là Đức Châu, Tùy gọi là Nhật Nam, Đường lần lượt gọi là Hoan Châu rồi Diễn Châu, triều nhà Đinh của Việt Nam cũng theo như thế, cho đến đời Lê Thái Tôn/ năm 1030 đổi là Nghệ An . . ."

40

Như vậy ngọn núi Đô Bàng có thể nằm ở một nơi nào đó bên kia biên giới phía Bắc trên phần đất của Trung Quốc và từ ngọn núi đó có đường đi thông xuống tới một vùng ở Cửu Chân có tên là Đô Bàng. Một điểm cần lưu ý là vùng Nhật Nam (Nghệ An) nằm sát ranh giới với nước Chiêm Thành (mà nước Trung Hoa đời Tần gọi là nước Việt Thường và đời Ngủ Quý gọi là nước Hoài Vương). Nước nầy có một thành đô tên là Đồ Bàn. Vậy vùng Đô Bàng phải chăng là vùng Đồ Bàn của nước Chiêm Thành thời cổ. Hiện nay ở huyện Lam Sơn tỉnh Hồ Nam ở Trung Hoa cũng có một ngọn núi gọi là Đô Bàng. (d) Thần Long: Bản gốc ĐVSKTT bằng chữ nho (chữ Hán) viết: "Thú Động Đình Quân nữ viết Thần Long" có nghĩa: Thần Long là con gái của Động Đình Quân. Nhưng ở đoạn Sử thần Ngô Sĩ Liên nói thì lại viết: "Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà sinh ra Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt... "Vương (Kinh Dương Vương) lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân " nghĩa là Động Đình Quân có tên là Thần Long. LTHCLC/Nhân Vật Chí viết: "Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân đẻ ra Lạc Long Quân" không đề cập đến tên của người con gái. Việt Sử Tiêu Án (VSTA), Ngô Thì Sĩ viết: "Đến như việc Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình. . ." : không đề cập gì đến tên của người con gái. KĐVSTGCM (1884) cũng không có tên của người đàn bà nầy: "Kinh Dương Vương sinh ra Sùng Lảm lên nối ngôi xưng là Lạc Long Quân." Với Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca (ĐNQSDC) thì Thần Long là một phụ nữ: "Động Đình sớm kết với nàng Thần Long." Với Việt Nam Sử Lược (VNSL), Trần Trọng Kim (1882-1953) thì: "Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ ." Việt Nam Văn Hoá Sử Cương (VNVHSC)của Đào Duy Anh (1938) rồi Việt Sử Tân Biên (VSTB) của Phạm Văn Sơn (1956) cũng là Long Nữ .

41

(e)

7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

42 43 44

Trăm trứng: ĐVSKTT viết " sinh ra trăm con trai ". Đây là chú thích từ bản gốc chữ Nho. LTHCLC/ Nhân Vật Chí viết: "sinh được một trăm trai " và chú thích ở dưới là "một bọc trăm trứng". VSTK - 39


KĐVSTGCM bỏ không chép hiện tượng sinh đẻ quái đản nầy. ĐNQSDC viết : "Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường. Noản bào dù chuyện hoang đường, Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì?"

1 2 3 4 5

6 7 8 9 10

11

12 13 14

15

16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

Bách Việt: Thay vì giải thích chữ Bách Việt, ĐVSKTT từ thời Ngô Sĩ Liên cho đến về sau, những nhà viết sử cũng như những người sao chép lại sử cũ, đã không ngần ngại liên kết vào hiện tượng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở thành trăm con trai để đi tới một kết luận: trăm đứa con trai đó là tổ của Bách Việt. (f)

Hãy xét về sự kết hợp Lạc Long Quân-Âu Cơ . ĐVSKTT viết: " Vua (Lạc Long Quân) lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt " (ĐVSKTT/NK.I/2a). Sử cố nầy Ngô Sỉ Liên đã căn cứ vào đâu để chép ra? Đời nhà Đường (618-906) bên Trung Hoa có một cốt truyện tựa là Liễu Nghị do Lý Triều Nghi viết như sau: "Khoảng năm 676-678 (đời Đường Cao Tông), có một nho sinh thi rớt tên là Liễu Nghị. Trên đường trở về quê hương, Liễu Nghị tìm đến thăm một người quen ở Kinh Dương (Tên một huyện thuộc tỉnh Thiểm Tây bên Trung Hoa ngày nay). Đang đi thì gặp một người đàn bà chăn dê bên đường. Người đàn bà đó kể cho Liễu Nghị biết mình là con gái của vua Động Đình, lấy chồng là con của vua Kinh Xuyên, bị nhà chồng ức hiếp đối xử tệ bạc cho nên bây giờ nhờ Liễu Nghị mang thơ về cho cha để kể rõ sự tình đau khổ của mình. Liễu Nghị nhận lời đưa thơ. Sau đó em của vua Động Đình là vua ở vùng sông Tiền Đường biết được chuyện tệ bạc đó liền đem quân đến đánh vua Kinh Xuyên để trừng phạt và nuốt chết người chồng của cháu gái xong rồi trở về có ý muốn gả Long Nữ cho Liễu Nghị để trả ơn về việc đưa thơ nhưng Liễu Nghị từ chối. Liễu Nghị lần lượt cưới Trương Thị rồi Hàn Thị nhưng cả hai người đều bị chết non. Liễu Nghị dời chỗ ở đến Kim Lăng rồi cưới Lư Thị. Liễu Nghị nhận thấy Lư Thị rất giống Long Nữ nhưng không tìm hỏi để biết đúng sai. Hơn một năm sau, Lư Thị sinh được một con. Cho tới lúc đó Lư Thị mới chịu nhận là Long Nữ. Sau đó vợ chồng cùng nhau về chầu vua Động Đình rồi đưa nhau đến ở Nam Hải . Vào khoảng năm 713-714 (đời Đường Huyền Tông) vợ chồng lại trở về chầu vua Động Đình và từ đó không ai biết tung tích của họ nữa". VSTK - 40


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Trong truyện Liễu Nghị có một chi tiết không rõ ràng: Long Nữ có phải là người đàn bà chăn dê, tức là con gái của vua Động Đình hay là con gái của em trai vua Động Đình tức là vua sông Tiền Đường? Sử sách cũ đều cho Long Nữ được làm con gái của vua Động Đình có lẽ vì giống rồng không thể ở trong sông nông cạn như sông Tiền Đường trong truyện Liễu Nghị nhưng giống rồng chỉ ở nơi hồ sâu hoặc biển lớn. Những nhân vật trong truyện Liễu Nghị lại thấy xuất hiện trong truyện Hồng Bàng Thị của tập sách truyện cổ tích dân gian Lĩnh Nam Chích Quái do một tác giả Việt Nam vào thời Lý-Trần soạn. Hồng Bàng Thị Truyện trong LNCQ được viết như sau: "Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, bẩm tính thông minh, Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh. Đế Minh liền lập Nghi làm kẻ nối ngôi để trị đất Bắc. Lại phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương để cai trị đất Nam, lấy hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy phủ, lấy con gái vua Hồ Động Đình Long Vương sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất. Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy làm ruộng trồng dâu, đặt ra thứ bậc vua tôi, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng. Có khi trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ở đâu mà không lại cứu chúng tôi ". Long Quân tới ngay, sự linh hiển cảm ứng của Long Quân, người đời không ai lường nổi . Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị Bắc phương. Nhân khi thiên hạ vô sự Đế Lai bèn sai bề tôi là Xuy Vưu thay mình trông coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam . Khi đó, Long Quân đã về thủy phủ, trong nước không có chúa. Đế Lai bèn để ái nữ là Âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại rồi đi chu du thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, tê giác, voi, đồi mồi, vàng, bạc, hồ tiêu, quê, thạch nhũ, các loại cây trầm, đàn, các loại sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng. Đế Lai rất thích, vui quên trở về. Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng nhau gọi Long Quân rằng: ”Bố ơi ở đâu mà để cho người phương Bắc xâm nhiễu dân! ”. Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ có dung mạo đẹp đẽ kỳ lạ, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống thổi sáo , cung điện dựng lên . VSTK - 41


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Âu Cơ vui lòng theo Long Quân. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long Đài Nha. Đế Lai trở về nơi hành tại không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tim khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm hình vạn trạng, yêu tinh, quỷ quái, rồng rắn, hổ voi làm cho bọn đi tìm đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về. Đến đời Du Võng, thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình thú mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên Viên dùng da thú làm trống trận, Xuy Vưu bèn sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Vu Dõng xăm lăng chư hầu, cùng Hiên Viên giao binh ở Phan Tuyền đánh ba trận thì bị thua, bị giáng phong ở đất Lạc Ấp rồi chết ở đó. Dòng họ Thần Nông tới đây thì hết . Long Quân lấy Âu Cơ một năm thì đẻ ra một cái bọc, cho là điềm chẳng lành, vứt ra cánh đồng, qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẻ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, ai nấy đều kính trọng cho là điềm phi thường . Long Quân ở lâu dưới Thủy quốc; vợ con ở lại trên mặt đất muốn về đất Bắc. Về tới biên giới, Hoàng Đế nghe nói, rất sợ hãi, cho binh ra chặn cửa ải . Mẹ con Âu Cơ không thể về được bèn quay lại nước Nam mà gọi Long Quân rằng: "Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này". Long Quân bổng trở về, gặp nhau ở đất Tương. Âu Cơ nói: "Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, khiến cho kẻ vô phu vô phụ nầy chỉ biết thương cho phận mình". Long Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống Tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ly. Ta đem năm mươi con về Thủy phủ, năm mươi con theo nàng về trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống biển, hữu sự báo cho nhau biết đừng quên nhau". Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt nhau mà đi . Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc tới Động Đình hồ, Nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là Quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên,Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, đặt các em còn lại làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, VSTK - 42


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

14 15 16 17 18

19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân sống ở rừng và chân núi, xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Đáp: " Giống sơn man và giống thủy tộc khác hẳn nhau, giống thủy tộc yêu kẻ giống mình ghét kẻ khác mình cho nên hại nhau đó ". Bèn bảo người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quốc. Từ đó, dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .............................. . . . . . . .Trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy." Trên đây là hai loại thể truyện tiểu thuyết văn chương cho nên người viết đã dùng óc tưởng tượng của mình để đi từ chỗ không có mà tạo ra các nhân vật cho cốt truyện. Tác giả LNCQ nhất định đã có dựa vào truyện Liễu Nghị rồi cắt xén, thêm bớt để viết thành Hồng Bàng Thị Truyện. Trong truyện Liễu Nghị có những tên nhân vật như con vua Động Đình, Long Nữ, các địa danh như Kinh Dương, Nam Hải và đặc biệt hai nhân vật chính trong truyện là Liễu Nghị và Long Nữ rốt cuộc trở thành vợ chồng và sinh được một đứa con nhưng không thấy nói là con trai hay con gái. Truyện chấm dứt sau khi vợ chồng Liễu Nghị trở về để chầu bái vua Động Đình một lần chót rồi biệt tâm biệt tích luôn từ đó. Ở Hồng Bàng Thị Truyện địa danh Kinh Dương trong truyện Liễu Nghị được nhào nặn thành danh tước Kinh Dương Vương để ban cấp cho đứa con rơi của Đế Minh(a). Người nho sinh Liễu Nghị thì biến thành đứa con rơi của Đế Minh và đổi tên thành Lộc Tục và được cấp phong vương tước Kinh Dương Vương như vừa kể Trong truyện Liễu Nghị; Long Nữ là dâu của vua Kinh Xuyên tức là gái đã có chồng nhưng lại nhờ gia đình mình giết chồng đi và sau đó giấu tung tích thật của mình để tái giá với Liễu Nghị cho đến lúc hai người có con với nhau mới thú thật mình là Long Nữ. Vua Động Đình của truyện Liễu Nghị thì trở thành vua rồng Long Vương trong LNCQ. Hai vợ chồng Liễu Nghị - Long Nữ có một đứa con và LNCQ đặt tên cho đứa con nầy là Sùng Lảm hiệu là Lạc Long Quân. Truyện của hai vợ chồng Liễu Nghị chấm dứt sau khi họ về thăm vua Động Đình lần cuối cùng rồi từ đó biệt tâm mất tích luôn. LNCQ lại không chấm dứt như thế nhưng lại kéo dài chằng chịt dây dưa với những trò phù phép thần thông biến hóa và đầy dẫy ma VSTK - 43


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

tinh quỷ quái, rồng rắn hùm beo. Quái đản và phản khoa học nhất là sự kết hợp giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ để sinh ra một cái bọc, cho là điềm xấu nên đem vứt ra cánh đồng, sáu bảy ngày sau bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai mới đem về nhà nuôi, không cần cho bú mớm nhưng những đứa con vẫn lớn đẹp. Vì mẹ của Lạc Long Quân là con gái của Long Vương hay vua rồng, một loại thú bò sát, cho nên Lạc Long Quân là kết tinh máu mủ của loài bò sát, do đó những đứa con của Lạc Long Quân nếu có thật sự thì nhất định phải là những con quái vật người không ra người, thú không ra thú, trông đẹp đẽ kỳ dị (nguyên văn). Chỉ có loài bò sát như thuồng luồng, rắn rết, rùa, ba ba, đồi mồi mới đẻ được hằng trăm trứng rồi vùi chôn xuống đất cát để cho trứng tự động nở ra con. Đây là một sự phối hợp bệnh hoạn phản khoa học, một sự phối hợp chỉ có thể có trong các loại truyện ký hay tiểu thuyết văn chương giả tưởng để giải trí mua vui như truyện Liễu Nghị hoặc Hồng Bàng Thị Truyện trong LNCQ mà thôi. Chỉ có những người chất phát, mê tín dị đoan hay những kẻ chậm tiến ngây ngô và cố chấp mới cho rằng những chuyện như thế là có thật. Hồng Bàng Thị Truyện trong LNCQ là một loại phóng tác vá víu, đầu voi đuôi chuột, chỉ đáng được xếp vào hàng những truyện cổ tích mà ông bà dùng để kể chuyện để ru ngủ cho cháu chắt của mình. Trước Ngô Sĩ Liên, Hồ Tông Thốc(b) đã chép lại thế phá của Hồng Bàng Thị nhưng viết riêng vào một tập chí có tên là Việt Nam Thế Chí (VNTC) song song với bộ Việt Sử Cương Mục. (VSCM) Ngô Sĩ Liên có đề cập đến tên của Hồ Tông Thốc trong bài tựa như sau: "Văn Hưu là tay đại bút ở thời Trần, Phu Tiên là bậc lão thần của thánh triều (Lê triều), đều vâng chiếu chỉ mà biên chép lịch sử nước nhà, tất là tìm tòi các sử còn lại, tóm gộp mọi sách để cho người xem đời sau không còn thắc mắc gì mới phải thế mà ghi chép còn có chỗ chưa đủ, ý nghĩa còn có chỗ chưa đúng, lời văn còn có chỗ chưa ổn nên kẻ thức giả không thể không còn ân hận. Riêng có Hồ Tông Thốc làm sách Việt Sử Cương Mục, chép việc cẩn thận, mà có phương pháp, bàn việc xác đáng mà không rườm rà, kể cũng đã khá, nhưng sau cuộc binh hỏa, sách ấy không còn. . . . ."(LTHCLC/ Văn Tịch Chí/Trích dẫn bài Tựa của Ngô Sĩ Liên). Như vậy, ngoài hai bộ sử do Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên biên soạn, Ngô Sĩ Liên cũng đã có dịp đọc VSCM của Hồ Tông Thốc nhưng vào lúc Ngô Sĩ Liên theo lệnh Lê Thánh Tông để biên soạn ĐVSKTT thì VSCM không còn nữa. VSCM có viết gì về họ Hồng Bàng hay không? Nhất định là không vì Hồ Tông Thốc đã viết riêng thế phá Hồng Bàng Thị vào VNTC; hơn nữa, nếu đã có phần đó trong VSCM thì Ngô Sĩ Liên khó có thể tự nhận là mình viết thêm phần Ngoại Kỷ nầy vào quốc sử. Như vậy có thể suy định rằng Hồ VSTK - 44


1 2 3

4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Tông Thốc đã không viết Kỷ Hồng Bàng Thị vào VSCM nhưng vào cuối đời Trần thì thế phả của họ Hồng Bàng được Hồ Tông Thốc chép lại trong một tập chí riêng có tên là VNTC. * Vậy Ngô Sĩ Liên đã dựa vào đâu, LNCQ, VSCM, hay VNTC để viết Kỷ Hồng Bàng thị ? Trả lời câu hỏi nầy có nghĩa là đi tìm thời gian xuất hiện trước sau của những tác phẩm đó. VSCM và VNTC xuất hiện vào cuối đời nhà Trần còn LNCQ là do ai viết và xuất hiện từ bao giờ ? Nếu cuối đời Trần chưa có LNCQ thì Hồ Tông Thốc đã dựa vào đâu để viết VNTC ? Bài tựa / VNTC của Hồ Tông Thốc viết: "Sách chép về thế phả vốn có từ lâu, cốt xét các đời đã qua, để rõ nguồn gốc lưu truyền, kê cứu những điều truyền văn, để rõ những tiêu chuẩn xưa nay. Hiềm vì chuyện tin chuyện nghi lẫn nhau, có điều chưa hợp hẳn với lòng người. Nhưng việc đời biến đổi khác nhau thì làm sao lại khỏi có những điều quái gở. Nghìn năm về sau, khó lòng biết được đầy đủ, mà tìm trong sách vở cũng không thể tra cứu vào đâu. Bởi vậy ghi chép về nguồn gốc thực là nhọc lòng lắm. Có người hỏi tôi rằng: Bỏ cái lạ giữ cái thường là đạo của thánh hiền, tại sao ông lại câu nệ theo cũ, không nêu rõ lời mới để đổi hẳn thói mê hoặc của đời? Tôi đáp rằng: Thời thái cổ còn hổn mang, chưa phân biệt trời đất, ngay Trung Quốc cũng còn có nhiều thuyết hoang đường, như những chuyện vá trời.(a), húc núi(b), lấy chân ngao làm cột trời(c) và mười mặt trời cùng mọc.(d) v .v. ., đời sau cứ theo sách mà bàn luận, không kê cứu vào đâu được, đúng hay không đúng, vẫn còn ghi chép trong sử sách. Huống chi đất Việt ta ở vào cõi xa, sự hiểu biết cũng khác, từ đời Hồng Bàng thời gian xa cách, trong lúc mới mở mang, sách vở chưa đủ, lễ nhạc chưa làm, nếu cho là có thực thì bởi đâu mà biết? Nếu cho là không có, thì do đâu mà xét ra? Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều là lượm lặt ở tiếng vang chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả ký từng đời mà thôi, còn những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó xét, tạm giữ đó để chờ các bực quân tử sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị để mê hoặc người đời. Đọc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy nghiệm thì ngọc và đá đều sẽ rõ ràng, những hình tiếng bóng vang của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ. Vả lại, nước Nam ta ở vào dải đất nóng nực, trong cõi mênh mông, vua sáng suốt đời nào cũng có. Dẫu rằng núi sông rộng lớn, chia biệt mỗi lúc một khác, nhưng từ xưa đến nay, chỉ căn cứ vào tục truyền, và dấu vết hỏi việc về dĩ vãng thì nhờ các cụ già kể truyện, xét nghiệm ở tương lai thì có những đền miếu cúng thờ. Tôi quên mình hẹp hòi quê hủ, chép sơ lược những chuyện ngụ ngôn, những điều truyền thuyết, VSTK - 45


1 2 3 4 5

6 7 8 9 10 11 12

muốn đợi các bậc cao minh học rộng tiến bộ sau nầy, nhận rõ xét kỹ, mới có thể biết được trước sau mà không tự lầm lẫn. Nếu có ai sửa lại cho tập nầy được đúng, cho lời chép được hay, đẽo gọt kỹ càng, rồi đem in ra, để mọi người thấy rõ việc xưa nay và hiểu thấu lẽ huyền vi, thì đó cũng là một bộ sử ký trong chuyện ký chăng ! Vậy làm tựa ". (a) Vá trời: bà Nữ Oa (trong truyện thần thoại của Tàu) luyện đá 5 màu để vá trời. (b) Húc núi: Cung Công cùng Chuyên Húc tranh nhau làm đế, Cung Công tức mình lấy đầu húc vào núi Bất Chu, núi ấy bị lở. (c) Lấy chân ngao làm cột trời: bà Nữ Oa chặt chân con ngao (loài rùa biển) để làm bốn cái cột ở bốn phương trời. (d) Mười mặt trời: thời đế Nghiêu 10 mặt trời đều mọc, Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn rơi được 9, chỉ còn 1 cái như ngày nay.

KHẢO LUẬN: (tiếp theo) 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

Hồ Tông Thốc tuổi trẻ, đỗ đạt cao, rất có tài danh, giữ chức An Phủ Sứ dưới thời Trần Nghệ Tông (1370-1372), được thăng chức nhiều lần đến chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ (1386/ đời Trần Phế Đế) (ĐVSKTT/BK/Q.3/9b). Hồ Quý Ly tiếm ngôi năm 1400 thì Hồ Tông Thốc thôi làm quan, thọ 80 tuổi, mất tại nhà. Giả định rằng ông đậu Thái học sinh vào năm 1370 lúc 23 tuổi, tức là sinh năm 1370 - 23 = 1347 và chết vào năm 1347 + 80 = 1427; từ đó suy ra rằng VSCM được viết trong khoảng 1370-1400 (tức là trong khi giữ chức vụ Hàn lâm học sĩ phụng chỉ) và VNTC được viết trong khoảng 1400-1413. Năm 1413 là năm cuối cùng của nhà hậu Trần (Trần Quí Khoách/Khoác) mà cũng là lúc giặc nhà Minh vừa thôn tính xong nước Đại Việt Cùng chung một tình trạng với nhiều sách cổ, nguồn gốc lai lịch của LNCQ cũng mơ hồ rất khó truy cứu. Đây là một tập truyện chép lại những truyền thuyết và truyện cổ tích từ ngàn năm về trước. Theo tên gọi, LNCQ có nghĩa là lượm lặt những điều kỳ lạ ở đất Lĩnh Nam. Theo nghĩa hẹp, người Tàu gọi vùng đất phía Nam núi Ngũ Lĩnh của Trung quốc là Lĩnh Nam. Thời cổ, vùng phía Nam Ngũ Lĩnh bao gồm cả những thuộc địa của Bắc phương trong đó có cả lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, có thể nói rằng giới hạn không gian của những chuyện trong LNCQ là từ vùng Hoa Nam trở xuống tới biên giới phía Bắc của nước Chiêm Thành ngày xưa (mà vào đời Tấn, người Tàu gọi là nước Việt Thường). Đây là một tác phẩm cổ xưa viết bằng chữ Hoa còn gọi là chữ Hán hay chữ Nho). Vấn đề ở đây là khởi điểm của thời gian ghi chép trên giấy mực những điều kỳ lạ đó ở Việt Nam. Bài tựa của Vũ Quỳnh trong Lĩnh Nam Chích Quái Liệt truyện viết : ". ..Những truyện chép ở đây là sử trong truyện chăng? Bắt đầu có từ thời nào? Tên họ người hoàn thành là gì đều không thấy ghi rõ ? Viết ra đầu tiên là những bậc tài cao học rộng ở đời Lý, Trần (thế kỷ VSTK - 46


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

XI đến XIV). Còn những nhà nhuận sắc là các bậc quân tử bác nhã hiếu cổ ngày nay ". Những bậc tài cao học rộng ở đời Lý, Trần là ai? Các bậc quân tử bác nhã hiếu cổ ngày nay là ai? Đó là những nhà Nho có tiếng tâm cùng thời với Vũ Quỳnh vào lúc Vũ Quỳnh viết bài tựa trên LNCQ/ trong khoảng 1452 là năm sinh của Vũ Quỳnh tới năm Hồng Đức thứ 23/ 1492). Những người Nho học đỗ đạt cao làm quan lớn được sử cũ đời nhà Lý xướng danh rất là hiếm hoi: Bùi Hựu/ Văn Minh Đại Học sĩ / 1054; Lê Văn Thịnh trúng tuyển Tam trường / Minh Kinh bác học / 1075, Mạc Hiển Tích/ Hàn lâm học sĩ/ 1086 (Tống Nguyên Hựu/ năm thứ 1). Trong thời nhà Lý, sử cũ chép ghi rất nhiều về việc xây cất chùa, và vào lúc nầy Phật giáo được ưu thế hơn Nho giáo; những hiện tượng thiên nhiên được ghi vào sử thường nhuốm đầy tính cách dị đoan huyền hoặc. Chỉ lấy riêng một trường hợp của Lê Văn Thịnh bị ghép tội phản nghịch cũng thấy được ảnh hưởng mãnh liệt của sự mê tín dị đoan vào thời đó kéo dài cho đến đời Lý Nhân Tông: Bính Tý / Hội Phong năm thứ 5 / 1096. Mùa Xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao Giang. Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mây mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: "Việc nguy rồi! "Người đánh cá là Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang, thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại cho đất ở Tây hồ làm thực ấp. Trước đây Văn Thịnh có gia nô nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch".(ĐVSKTT/ BK.3/ 13 a). Ở một đoạn khác, một chuyện phù phép quỉ quái được ghi như sau: Quý Mùi/ Long Phù năm thứ 3/ 1103. Mùa Đông, tháng 10, người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản. Giác trước học được thuật lạ, có thể biến cây cỏ làm người, bèn chiêu tập những kẻ vô lại chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Việc tâu lên, vua sai bèn Lý Thường Kiệt đi đánh. Giác thua, trốn sang Chiêm Thành, dư đảng đều bị dẹp yên." (n.t/13 b). Những chuyện quái đản được chép vào sử từ đầu đời nhà Lý như chuyện Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) có bà mẹ là họ Phạm đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có thai sinh ra vua, lúc mới 3 tuổi mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Vân và được người nầy nhận làm con nuôi nên mới mang họ Lý. (ĐVSKTT/ BK2/ 1a), rồi đến chuyện con chó sắc trắng có đốm đen kết thành hình hai chữ "Thiên tử" mà kẻ thức giả (người học cao hiểu rộng) nói đó là điềm năm Tuất sinh người làm thiên tử: Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất lên làm vua vì VSTK - 47


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

thế cho rằng điềm báo trên lưng con chó đó ứng nghiệm vào trường hợp của Công Uẩn. (nt/2a). Phải chăng những nhà Nho có trọng trách viết lịch sử (tức là chép sử theo từng ngày lịch) lúc đó không có thực tài, chỉ biết a dua nịnh hót, vẽ rồng vẽ phượng cho đẹp lòng các vua? Lê Văn Hưu đã gay gắt phê phán thái độ nịnh hót ngu dốt đó: Lê Văn Hưu nói: "Thời cổ, khi thiên tử đã băng, xây lăng an táng linh cửu, hoặc gọi là Mậu Lăng hoặc gọi là Xương Lăng; để văn chương ở các, hoặc gọi Hiển Mô, hoặc gọi là Bảo Văn. Nay nhà Lý, lăng các đời chỉ gọi chung là Thọ Lăng, các gọi là Long Đồ, có lẽ bấy giờ vua không có học mà các Nho thần cũng không biết sửa chữa hoặc là không có sức kê cứu việc cổ vậy". (ĐVSKTT/ BK.2/ 17b). Ở một đoạn khác Lê Văn Hưu nói: "Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Văn Vương, Vũ Vương đều lấy một chữ làm hiệu, chưa từng thấy có tăng thêm tôn hiệu bao giờ. Đế Vương thời sau thích khoe khoang mới có tôn hiệu đến hơn vài chục chữ. Nhưng chỉ lấy công đức mà xưng tụng, chưa bao giờ lấy đồ vật và tên man di xen chấp vào. Thái Tông (Lý Thái Tông) chịu nhận cho bầy tôi dâng tám chữ Kim Dũng Ngân Sinh, Nùng Bình Phiên Phục làm hiệu thì trong việc khoe khoang lại thô bỉ nữa. Thái Tông không có học nên không biết, nhưng bọn Nho thần dâng lên những chữ ấy để nịnh hót vua thì không thể bảo là không có tội." (ĐVSKTT/ BK2/ 28a và 28b). Ngay cả Ngô Sĩ Liên cũng cũng không chịu nổi những trò mê tín quái đản dị kỳ được ghi vào sử sách: năm 1035, Lý Thái Tông xuống chiếu phát 6 nghìn cân đồng để đúc chuông đặt ở chùa Trùng Quang. Sử lúc đó viết: "Chuông đúc xong, sai người kéo đi đến chùa. Chuông ấy không đợi sức người, tự di chuyển được, chỉ khoảnh khắc đã đến chùa". Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Phàm vật hình vuông thì đứng, hình tròn thì đi, chuông có thể đi được là vì hình tròn. Có lẽ là kéo nó đi, không nhọc đến sức người, như có thần giúp vậy. Nay ta hãy xem như cây gỗ lớn mười mấy người khiêng không nổi, một người đẩy ngang thì nó lăn mà đi. Chuông cũng thê, sư chùa muốn làm cho đạo mình có vẻ thần diệu, mới nói phao lên như thế để đánh lừa mà thôi. Những chuyện như dấu vết người thần, ánh sáng xá ly (xem BK.2/ 22b) cây ưu đàm nở hoa, tượng Phật cổ nổi lên v.v. . .đều do các nhà sư ra cả. Người cầm bút chép sử đương thời không xét lý lẽ, cứ theo thế mà chép vào sử sách." (ĐVSKTT/BK2/ 24a). Trước Lê Văn Hưu, những người cầm bút chép sử khởi sự từ những thời đại cổ xưa qua đến các thời đại Đinh, Lê, Lý là ai ? Trong khoảng 1127-1233, Phật giáo rất thịnh hành và những chuyện dị đoan, ma quỷ, thần linh, thường được dùng để giải thích những hiện tượng thiên nhiên ngoài dân gian cũng như những biến cố lịch sử trong cung đình. Khởi đầu từ đời nhà Lý, việc biên chép lịch VSTK - 48


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

sử nhất định là phải có. Trong quan chức triều Lý không có chức sử quan để ghi chép những việc xảy ra trong triều theo thứ tự thời gian. Năm 1088, Lý Nhân Tông đặt ra chức Thư gia thập hỏa, mười hỏa thư gia. Theo Lê Quý Đôn giải thích thì giữ chức vụ nầy là người giúp việc văn thư giấy tờ. Theo Phan Huy Chú thì thư gia các hỏa như nội hỏa thư gia, ngự khố thư gia, chỉ hầu thư gia, nội thư gia, lệnh thư gia là những chức quan tín cẩn làm việc ở trong (nội quan, làm việc riêng cho vua và bên trong triều đình. Theo tự điển, hai chữ thư gia còn có nghĩa là người trong nhà chuyên lo việc ghi chép văn bản giấy tờ. Chữ Hoả còn có nghĩa là khẩn cấp quan trọng. Như vậy ghi chép những việc khẩn trong trong triều có thể là nhiệm vụ của người thư gia mà các đời sau gọi là sử quan chăng? Ở thời đại đó, những người giữ chức vụ thư gia ít khi được kê tên vào sử lịch. Trong thời đại nhà Lý, nhất là dưới thời Lý Nhân Tông, xảy ra rất nhiều chuyện quái đản dị đoan chẳng hạn như chuyện chuông Quy Điền, chuyện rồng vàng bay từ điện Tử Thần đến điện Hi Long, chuyện con rùa mắt có 6 con ngươi trên ức có 2 chữ Thiện Đế, hổ biến thành người trong chuyện Lê Văn Thịnh làm chuyện phản nghịch, quá nhiều hiện tượng phản khoa học được viết vào sử đến độ Ngô Sĩ Liên phải bực bội lên tiếng:"Về thời đại thuận ngày xưa, người làm vua biết giữ tín đạt thuận, tới được mức trung hòa, cho nên bấy giờ trời không tiếc đạo, đất không tiếc của báu, móc ngọt tuôn sa, rượu thơm suối chảy mà các vật điềm lành như rồng, phượng, rùa, lân, không giống gì không đến. Thời Nhân Tông sao các vật điềm lành nhiều đến thế?Là vì nhà vua thích, cho nên bầy tôi dâng xằng mà thôi".(ĐVSKTT/ BK3/ 26b) Xét những chuyện huyền hoặc rồng rắn, rùa cọp, kỳ lân, thần núi, long vương trong Việt Điện U Linh, trong Lĩnh Nam Chích Quái thì tính chất và cung cách cách kể chuyện cũng không khác gì những chuyện "xằng" được viết vào sử dưới thời nhà Lý. VĐUL đã dẫn chiếu rất nhiều tới sách Sử Ký của Đỗ Thiện. Đổ Thiện nầy là ai? ĐVSKTT có chép tên Đỗ Thiện vào cuối đời Lý Nhân Tông (ĐVSKTT/BK3/27a). Đỗ Thiện là Nội nhân được sai đi báo cho Sùng Hiền hầu về việc Lý Thần Tông kế vị ngôi vua của Lý Nhân Tông. Tên gọi Nội nhân có thể là Nội Thư Gia, một chức vị tương tựa như chức vị sử quan sau nầy. Và như thế, có thể những biến cố xảy ra trong cung đình qua những triều đại vua chúa từ trước cho tới lúc đó được nội nhân Đỗ Thiện biên chép lại và soạn thêm vào tập ký sự của nhà vua mà về sau người ta gọi là Sử Ký của Đỗ Thiện. Những chuyện quái đản trong Kỷ Hồng Bàng thị cũng rất có thể do Đỗ Thiện dựa vào chuyện Liễu Nghị, sửa đổi, thêm thắc rồi đưa vào tập ký sự để làm đẹp lòng vua chúa triều đại nhà Lý lúc đó.

VSTK - 49


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Từ hướng suy luận nầy sẽ đi tới một hệ luận khác là hai tập truyện ký VĐUL và LNCQ có dựa vào tập ký sự (Sử Ký) của Đỗ Thiện để viết về những chuyện thần kỳ cổ tích xảy ra trong kỷ Hồng Bàng - An Dương Vương - Triệu Đà cho đến hết đời Lý Nhân Tông (1127). Sau thời Đỗ Thiện, những biến cố lịch sử từ năm 1128 cho đến hết triều Lý (Lý Chiêu Hoàng/ 1225) do ai viết? Nhất định là phải có người tiếp nối việc biên chép. Tuy nhiên vấn đề chủ yếu ở đây là phần chép về Hồng Bàng - Thục An Dương Vương trong tập ký sự cuả Đỗ Thiện có còn được giữ lại hay không? Bởi vì trong giai đoạn tiếp theo, Lê Văn Hưu sau khi đã trùng tu (sửa chữa và soạn lại), thì kỷ viết về Hồng Bàng-Thục An Dương Vương biến mất trong Đại Việt Sử Ký. Có điều gì sai mà phải sửa chữa? Lê Văn Hưu đã cắt bỏ bớt đi hay bổ túc nhiều thêm? Đương nhiên là Lê Văn Hưu phải dùng nhũng sử liệu sẵn có từ các thời trước mà cũng là điều hợp lý khi cho rằng Lê văn Hưu đã dựa vào Sử Ký của Đỗ Thiện hoặc là đã lấy những sự ghi chép tiếp nối của một sử quan nào đó trong triều đại nhà Trần làm căn bản cho việc tu soạn của mình. Trong niên hiệu Kiến Trung thứ 6 thời Trần Thái Tông/ 1230 (ĐVSKTT viết Kiến Trung năm thứ 5 là sai), ĐVSKTT viết: "Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc Triều Thông Chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển". Và tiếp theo: Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển.(BK.5/6a). Không thấy nói ai là người phụ trách khảo soạn, ghi chép; những công tác vừa kể cũng đã làm xong trước khi Trần Chu Phổ và Lê Văn Hưu xuất thân làm quan với triều đình nhà Trần bởi vì Năm 1231 ĐVSKTT ghi: "Tháng 2 (âm lịch) thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lư Diễm; đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp là Trần Chu Phổ. (BK.5/7b). Đến năm 1247, Lê Văn Hưu mới đỗ bảng nhãn. (BK5/ 15b). Vào năm 1251 thì Trần Chu Phổ đang giữ chức ngự sử. Trong một dịp vua mở tiệc yến ở nội điện có sự tham dự đầy đủ bá quan, đến khi say rượu mọi người đều đứng dậy dang tay hát múa. Ngự sử Trần Chu Phổ cũng dang tay theo mọi người, không hát câu gì khác, chỉ nói:"Sử quan ca rằng, sử quan ca rằng" (ĐVSKTT/BK.5/18a). Sử quan ở đây nhất định là quan ngự sử mà khi hát ca Trần Chu Phổ tự gọi mình một cách ngắn gọn là sử quan. Không nên hiểu lời ca Sử quan của Trần Chu Phổ như là ám chỉ một người quan lại chuyên lo về việc ghi chép lịch sử để rồi đi đến kết luận rằng Trần Chu Phổ cũng là một Sử quan ghi chép lịch sử. Ngô sĩ Liên đã phê phán tư cách của Trần Chu Phổ như sau: "Ngự sử là bề tôi giữ việc can ngăn, chức phận là phải uốn nắn, đã không nói thì thôi, lại còn vào hùa với họ thì kỷ cương của triều đình để đâu?" (BK5/18b). Ngoài ra nếu cho rằng Trần Chu Phổ cũng là Trần Tấn

VSTK - 50


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

24

25 26

27 28 29 30

31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

(Trần Tấn tác giả của một tập chí có tên là Việt Chí) thì đó là một sự gán ghép gượng gạo không có chứng cớ vững chắc. Rất nhiều người kể cả người ngoại quốc khi khảo cứu về sử cũ của Việt Nam đã dây dưa ghép nối lẫn lộn hai cái tên Trần Tấn và Trần Chu Phổ là tác giả của Việt Chí nhằm mục đích giải thích cơ sở mà Lê Văn Hưu đã dùng làm nền tảng cho công tác trùng tu quốc sử. Tên người Trần Tấn, tên sách Việt Chí xuất hiện trong tập chí An Nam Chí Lược của Lê Trắc viết sau khi chạy trốn sang Trung Hoa. Trong An Nam Chí lược có đoạn viết: "Trần Tấn được Thái Vương (Trần Thái Tông) dùng làm tả tàng, thăng đến hàn trưởng, từng làm (tác) sách Việt Chí. Và : Lê Hưu là người có tài đức, làm phó quan của Chiêu Minh Vương (Trần Quang Khải), thăng làm kiểm pháp quan, sửa (tu) sách Việt Chí". Có thể đời nhà Trần có những sách và tập chí theo thứ tự thời gian như sau : • Ký sự hay Sử ký: của Đỗ Thiện (đến cuối đời Lý Nhân Tông/ 1127) trong đó có kỷ Hồng Bàng-Thục An Dương Vương-Triệu Đà ; • Quốc triều thông chế, 20 quyển: không có tên người biên soạn (Trần Thái Tông /1230) ; • Việt chí: có hay không có phần viết về kỷ Hồng Bàng-Thục An Dương Vương-Triệu Đà. Điều đó cũng không quan trọng bởi vì phần nầy đã bị biến mất hẳn trong ĐVSK do Lê Văn Hưu biên soạn và như thế tưởng cũng không còn nên bận tâm gì về tên người viết ra quyển Việt Chí .

Vấn đề còn lại ở đây là: Tại sao kỷ HỒNG BÀNG - THỤC PHÁN bị xóa bỏ dưới đời nhà Trần rồi lại tái xuất hiện trong ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên ? Đây là một vấn đề nghiêm trọng cần phải giải quyết dứt khoát một lần cho xong để đánh tan những điều trá mị trong sử cũ của Việt Nam kéo dài hơn mấy trăm năm qua, kể từ đời Lê Thánh Tông (1460-1497) đến nay. Từ phần lược khảo đã viết ở trên đưa đến một suy luận: Kỷ Hồng Bàng-Thục Phán khởi mầm xuất hiện trong chính sử từ đời nhà Lý. Câu hỏi đặt ra: Tại sao lại lấy đời nhà Lý làm điểm móc khởi đầu? Bởi vì những điêu dối trá mị dân đã thấy xuất hiện rất sớm, có thể là trước đời nhà Lý nữa, để chuẩn bị cho việc ra đời của triều đại Lý Công Uẩn . ĐVSKTT viết: "Tháng ấy (tháng 10 năm Kỷ Dậu/Cảnh Thụy năm thứ 2 /1009-TL), ngày Quý Sửu, Ly Công Uẩn tự lập làm vua. Trước đây ở hương Diên Uẩn, Châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: Thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh thanh. . . .". VSTK - 51


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Theo Sư Vạn Hạnh giải thích thì: mấy câu nầy ý nói là vua (Lê Ngọa Triều) thì non yếu, bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình (ĐVSKTT/BK.1/31b). Đoạn kế tiếp viết: Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn rằng: "Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải thân vệ thì còn ai đương nỗi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may mắn nghìn năm có một". Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh đem Vạn Hạnh dấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng lấy thế tự phụ mới nẩy ra lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ.(ĐVSKTT/BK.1/ 32a). Câu cuối cùng của đoạn trên "Song từ đấy. . . " nhất định phải là bút tích của người chép sử đời sau viết ra để phê phán thái độ ám muội của Lý Công Uẩn. Rồi chuyện bà mẹ đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp mang thai sinh ra Công Uẩn và vì sợ tiếng đời thị phi con mình là con hoang không có họ, không có cha cho nên mới bồng đến cho Lý Khánh Vân nhận làm con để được mang họ Lý. Vậy người cha thật, người cha xác thịt phàm tục của Công Uẩn là ai? Nhất định người nầy phải có nhưng vì một tình lý trắc trở nào đó mà phải lánh mặt dấu tên và trút hết tội lỗi cho một ông thần bá vơ không có tiếng tăm nơi chùa Tiêu Sơn. (ĐVSKTT/BK.2/1a). Rồi đến chuyện con chó sắc trắng có đốm lông đen kết thành hai chữ Thiên tử để ứng điềm Công Uẩn sẽ làm vua (sđd/1b,2a). Có hai cách suy đoán về nguồn gốc của tất cả những chuyện quái dị kể trên : 1.- Những chuyện dị đoan đó được tung ra từ lúc Công Uẩn còn nằm trong bụng mẹ hoặc vào lúc mới sinh ra. Như vậy tức là phải có người sắp xếp, đạo diễn tung tin đồn nhảm nhí về việc người giao hợp với thần linh, lại cho ngươi dùng sắt nung đỏ vạch vỏ cây ghi khắc lời sấm rồi phao truyền giải thích lương lẹo nhằm tác động lên tinh thần mê tín mù quáng của người dân chất phác kém chữ ít học; nhuộm lông chó để loan truyền rằng người làm vua của triều đại mới sắp tới không phải là người xuất phát từ đám dân cùng đinh hạ giới; người đó là thiên tử, là con trời bởi vì chỉ có con cháu của ông trời mới được làm vua và cũng chỉ có con cháu của ông trời làm vua thì mới được dư luận thế gian công nhận là chính thống. Người chủ động làm công tác tuyên truyền đó phải là người mưu lược, có học, nhất là phải có liên hệ mật thiết với Công Uẩn. Ngoại trừ người mẹ thì chỉ có 2 người có liên hệ nhiêu với Công Uẩn: sư VSTK - 52


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Vạn Hạnh và Lý Khánh Vân (theo KĐVSTGCM thì Lý Khánh Vân cũng là một ông sư). Trong hai người, thì sư Vạn Hạnh nổi bật, là quân sư cố vấn của Công Uẩn; chẳng những thế, mối liên hệ giữa nhà sư với Công Uẩn chẳng khác nào như ruột thịt thân thiết, như cha ruột lo cho tương lai của đứa con trai với một hoài bảo là được nhìn thấy đứa con được công thành danh toại trước khi mình nhắm mắt lìa đời. Nhưng làm sao để những chuyện quái dị đó được truyền đi trong dân gian? Chùa miếu lúc đó là nơi dân chúng tụ tập đi lễ và nghe rao giảng kinh kệ, thuyết pháp đồng thời cũng là trung tâm truyền tin và xuất phát những chuyện linh thiên quái dị. Người dân chất phác sùng đạo, kiêng thần, sợ thánh cho nên rất tin tưởng những chuyện do những nhà tu hành đức cao trọng vọng kể lại hoặc chép lên giấy mực rồi đọc cho nghe. 2.- Những chuyện quái đản đó có thể xuất hiện sau khi Lý Công Uẩn đã lên ngôi vua. Như vậy một trong hai trường hợp sau đây có thể xảy ra : Trường hợp thứ nhất: Người viết và loan truyền là một người thân thuộc tín cẩn của Công Uẩn chuyên giữ vai trò tuyên truyền đánh bóng cho chế độ mới, tạo một ánh hào quang lừa đảo bao phủ để che dấu tông tích thật của một bề tôi tiếm nghịch phản chủ đồng thời khoác cho người mới một hình tượng uy linh thần thánh kèm theo một uy lực cai trị trấn áp tối thượng chỉ thua kém ông trời một bậc mà thôi. Công tác tuyên truyền nầy phải được thực hiện và phổ biến ngay trong lúc đó để dập tắt dư luận đàm tiếu trong dân gian và củng cố nền đế chính vừa mới tiếm đoạt được. Trời Phật, tiên thánh, thần ma, quỷ sứ, rùa phượng, hổ rồng, cùng với cả một thế giới huyền hoặc đã được tận dụng để tạo ra những truyện tích dị thường quái đản. Những truyện quái đản đó một mặt được loan truyền ra ngoài dân chúng qua trung gian các chùa miếu, đền miếu và một mặt khác thì được ghi chép vào điển lịch(a) của triều cung để lưu truyền hậu thế. Trong giai đoạn nầy nhất định là những nhà sư và những kẻ quyến thuộc hay nội nhân giữ nhiệm vụ then chốt mà nổi bật hơn cả là sư Vạn Hạnh và người anh của Công Uẩn. Những chữ như Sử Quan, Quốc Sử hay Sử Ký chưa xuất hiện trong giai đoạn nầy. Một điều cần chú ý ở đây là cách viết vả kể lại những câu chuyện: không dùng thể giả định gián tiếp tục truyền(b) nhưng lại dùng thể khẳng định trực tiếp trước đó có nghĩa là người viết hoặc kể chuyện phải sống trong cùng một không gian và thời gian với những nhân vật trong truyện. Ngoài ra, trình độ dân trí lúc đó còn thấp, rất ít người biết đọc chữ Hán (chữ Nho) cho nên những chuyện mê tín, dị đoan, quái đản chỉ có thể miệng truyền miệng trong dân gian chứ không thể phổ biến bằng các hình thức sách vở hay tập truyện để cho dân chúng VSTK - 53


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

12 13 14 15

16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

đọc. Sách truyện loại nầy nếu có thì cũng chỉ nhắm vào một thiểu số tầng lớp có học biết đọc, biết viết chữ Hán mà thôi tức là những thành phần quan lại trong triều đình và những nhà sư ở các chùa chiền đã và đang được xây cất rầm rộ khắp nơi lúc đó. Trong trường hợp nầy thì những âm mưu bàn định, những mẫu đối thoại có tính cách xúi giục, những ý đồ thầm kín, những cung cách bợ đỡ của đám phản thần dứt khoát là không được đồn đãi ra ngoài mà cũng không được phép kê khai ghi chép vào điển sách. (a) Điển lịch: sách ghi chép những công việc cũ theo thời gian của tờ lịch. (b) Tục truyền: Tục có nghĩa là làm theo, bắt chước, nối tiếp, nối đời. . Tục truyền có nghĩa là nối tiếp được kể lại bằng miệng trong dân gian.

Trường hợp thứ hai: người chép lại những truyện tích thần ma từ đời Lý Công Uẩn thuộc về một triều đại sau nầy bởi vì nội dung đoạn viết về Lý Công Uẩn ngày nay đọc được gồm có hai lối văn tương nghịch được ghép chung vào: 1/- Vào lúc Lê Ngọa Triều vừa mới chết (1009), ĐVSKTT chép về Lý Công Uẩn như sau: Mùa Đông tháng 10, ngày Tân Hợi, vua băng ở tẩm điện gọi là Ngọa Triều, vì vua mắc bệnh trĩ phải nằm mà coi chầu (Dã sử chép: vua say đắm tửu sắc phát ra bệnh trĩ).Tháng ấy, ngày Quý Sửu, Lý Công Uẩn tự lập làm vua. Trước đây ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: "Thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh thanh, hoa đào mộc lạc, thập bát tử thành, Đông a nhập địa, mộc dị tái sinh, Chấn cung kiến nhật, Đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên hạ thái bình." (Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây hoa đào rụng, mười tám hạt thành, cành Đông xuống đất, cây khác lại sinh, Đông mặt trời mọc, Tây sao che hình, khoảng sáu bảy năm, thiên hạ thái bình). Sư Vạn Hạnh đoán riêng rằng: Hoa, đào, mộc ghép với nhau là chữ Lê, Thập, bát, tử là chữ Lý, Đông A là họ Trần, nhập địa là giặc phương Bắc vào cướp (nghi vấn: lấy chữ nào để dịch ra là giặc phương Bắc? Nhập địa tại sao lại là vào cướp ? tại sao tách rời 2 chữ nhập địa nầy để đoán là giặc phương Bắc vào cướp? Hay là ý muốn nói họ Trần đến từ đất Trung Quốc không phải người của nước ta?), mộc dị tái sinh là họ Lê (mộc dị?) khác lại nổi lên. . . . . . Mấy câu nầy ý nói là vua thì non yếu, bề tôi thì cường thịnh (Lê Ngọa Triều và Lý Công Uẩn) họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình (ĐVSKTT/NK.1/ 30b, 31b). ĐVSKTT ghi sư Vạn Hạnh tự đoán riêng, rồi KĐVSTGCM cũng ghi sư Vạn Hạnh tán riêng. Có nghĩa là Sư Vạn Hạnh tự viết ra ý kiến của mình rồi lưu giữ ở chùa mà về sau người khác mới chép lại những lời đoán đó đem vào sử. Những lời xúi bẩy và tâm sự của sư Vạn Hạnh với Công Uẩn, những cuộc đối thoại và âm mưu đoạt triều giữa VSTK - 54


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Công Uẩn và bọn Đào Cam Mộc không thể nào do sư Vạn Hạnh hay do thân thích của Công Uẩn viết ra một cách tách bạch trên sử sách. Lại nữa, chính ngay cả Lê Ngọa Triều khi ăn quả khế lại thấy hột mận (chữ Lý có nghĩa là cây mận ) cũng có ngẫm nghĩ tới lời sấm do sư Vạn Hạnh diễn giảng cho nên mới ngầm tìm dòng dõi họ Lý mà giết đi nhưng Công Uẩn ở ngay bên mình, thế mà không biết. (ĐVSKTT/NK.1/32a,32b và CM/CB.2/5): âm mưu soán nghịch đã nẩy mầm từ lúc nhà tiền Lê còn nắm giữ quyền cai trị; Lê Ngọa Triều biết được âm mưu đó do sư Vạn Hạnh chủ xướng cho nên sư Vạn Hạnh mới phải chạy trốn (ĐVSKTT/BK.1/32a); người mà Lê Ngọa Triều ngầm tìm để giết là sư Vạn Hạnh chứ không phải là dòng dõi họ Lý. Sau khi việc đoạt ngôi thành công, đoạn viết về Lê Ngọa Triều ăn quả khế mới được sư Vạn Hạnh sáng tác thêm để che lắp đi hành vi phản nghịch của mình; không lẽ nào Lê Ngọa Triều u mê đến độ không biết Công Uẩn mang họ Lý đang ở ngay bên cạnh mình ? 2/- Sau khi chép lại việc Công Uẩn đưa giấu Vạn Hạnh, ĐVSKTT có mộ đoạn văn phê phán như sau: Song từ đây cũng lấy thế tự phụ mới nẩy ra lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ (BK1/32 a). KĐVSTGCM cũng viết tương tựa: Sợ lời đó lộ liễu, Công Uẩn sai người giấu sư Vạn Hạnh đi; nhưng cũng lấy thế làm tự phụ (CBII/5). Lời phê phán không thể nào do sư Vạn Hạnh hay một kẻ nào khác viết ra dưới triều Lý Công Uẩn. Tất cả những luận cứ nêu lên ở phần trên chú trọng vào những điểm chính sau đây : 1. - Những truyện quái đản phản khoa học đã có từ cuối đời tiền Lê rồi đầu đời nhà Lý được tận dụng làm phương tiện tuyên truyền tung ra nhân gian qua môi giới các nhà sư trong những dịp tiếp xúc với dân chúng những khi giảng đạo, niệm kinh đồng thời những truyện đó cũng được ghi chép để phổ biến và lưu giữ ở các chùa chiền khắp nơi.; 2.- Tất cả những những truyện ký đó chỉ nhằm một mục đích tuyên truyền thổi phồng cho một chế độ tùy theo mỗi triều đại vì thế cho nên phải vận dụng tất cả mọi mánh khóe lừa đảo kỳ dị, lấy râu ông cắm sừng bà để tạo ra những sự thật giả dối. 3.- Về sau, khi việc ghi chép lịch sử được giao cho người có học đang làm quan tại triều thì những người nầy lại phải viết theo lệnh ý của vua chúa: những gì đã ghi chép từ trước dù quái đản nhưng xét ra có lợi cho tâm tiếng của ông vua thì phải sao chép giữ lại chứ không được tự quyền cắt xén hay xóa bỏ . 4.- Trong bối cảnh đó, những truyện ký thần kỳ quái đản khác như những truyện trong Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái cũng khởi đầu được truyền tụng trong dân gian từ thời đại nhà Lý nhất là từ đời Lý Thái Tông cho đến cuối đời Lý Nhân Tông. (1028-1127).

VSTK - 55


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

37 38 39 40

41 42

VĐUL đã viện dẫn rất nhiều tới sách Ký sự (mà sử cũ gọi là Sử Ký) của Đỗ Thiện và như đã viết ở phần trên LNCQ nhất định cũng có tham khảo vào tập Ký sự của Đỗ Thiện để viết về những sự tích từ Hồng Bàng thị, An Dương Vương, Triệu Đà và những truyện khác cho đến cuối đời Lý Nhân Tông hay nói khác đi trong tập Ký sự của Đỗ Thiện (1127-?) có viết về Kỷ Hồng Bàng và Thục An Dương Vương. Sự suy đoán như thế là hợp lý bởi vì với một Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) sùng kính Phật pháp, mê tín dị đoan, khoe khoang (lấy tôn hiệu đến 50 chữ), một Lý Thái Tông hợm mình thái quá, một Lý Nhân Tông mê thích mộng mị điềm lành thì những chuyện viết ra trong kỷ Hồng Bàng nhằm mục đích tâng bốc nâng cao cung cách thiên tử cho nhà họ Lý là một việc ghi chép phải có trong tập Ký sự của Đỗ Thiện hoặc trong đống tập sách của các nhà sư biên soạn cất giữ nơi các đình miếu chùa chiền. Trong bài Tựa viết trên LNCQ, Vũ Quỳnh đã ước đoán một cách hữu lý như sau : "Viết ra (những chuyện tích trong LNCQ) đầu tiên là những bậc tài cao học rộng ở đời Lý Trần. Còn những nhà nhuận sắc là các bậc quân tử hiếu cổ ngày nay." Các bậc tài cao học rộng ở đời Lý thì những nhà sư chiếm đa số. Còn những nhà nho học nổi tiếng được làm quan tại triều thì rất hiếm chỉ có một Đỗ Thiện mà nhiều người, kể cả người ngoại quốc, cho là tác giả của tập Sử Ký. Trong triều đại nhà Trần, đời Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế có một danh nho nổi bật là Hồ Tông Thốc làm sách Việt Sử Cương Mục và Việt Nam Thế Chí. Việt Nam Thế Chí, quyển thứ nhất chép gia phả 18 đời họ Hồng Bàng và quyển thứ hai chép gia phả của họ Triệu. Các bậc quân tử (quân tử có nghĩa là nhà nho) hiếu cổ ngày nay tức là những nhà nho già lão thuộc về các triều đại trước còn sống sót và những nhà nho cùng thời với Vũ Quỳnh có để tâm khảo cứu, trùng tu, các loại văn tịch cổ xưa. Những nhà nho cũ có tâm tiếng còn sống sót cho đến thời của Vũ Quỳnh là những ai? Theo thứ tự thời gian trước sau, tên tuổi của những nhà nho có dính líu vào việc ghi chép quốc sử từ đời Lý cho đến thời của Vũ Quỳnh có thể truy cứu được trên sử sách gồm có: 1. Đỗ Thiện: (1127/ Lý nhân Tông): có thể là tác giả của 1 tập ký sự thường được gọi là Sử Ký; cũng cần phải kể đến những nhà sư tăm tiếng thời đó như Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân và những tác giả (chưa được sử sách xác định rõ ràng dứt khoát) của VĐUL, LNCQ. 2. Trần Chu Phổ: giữ chức ngự sử (1251) dưới thời Trần Thái Tông (1225-1258) thường được gán ghép cùng với Trần Tấn để trở VSTK - 56


1 2

3 4 5 6

thành tác giả một tập chí có tên là Việt Chí; cách gán ghép nầy không có nền tảng, không đáng tin 3. Lê Văn Hưu (1230 - 1322): chính thức được giao nhiệm vụ soạn bộ Đại Việt Sử Ký gồm 30 (?) quyển, chép từ đời Triệu Đà (207-136 TCN) đến đời Lý Chiêu Hoàng (1224-1225), hoàn thành và trình lên Trần Thánh Tông năm 1272.

7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

21 22 23 24 25 26

27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

37 38 39 40

4. Lê Trắc: tự Cảnh Cao, người Ái Châu, Thanh hóa, dòng họ Nguyễn Phu nguyên là quan lại của người Hoa, được ban cấp chức thứ sử Giao Châu dưới thời Đông Tấn, được người cậu tên là Lê Phụng nuôi dưỡng mới đổi lấy họ Lê. Làm tham mưu cho Trần Kiện (cháu nội Trần Thái Tông) trấn giữ Nghệ An. Năm 1285 (đời Trần Nhân Tông) khi tướng nhà Nguyên là Toa Đô từ đất Chiêm Thành kéo quân sang đánh Nghệ An, Trần Kiện cùng Lê Tắc đem gia quyến đón đường đầu hàng. Sau Lê Trắc chạy theo quân Nguyên về Trung Hoa, được vua nhà Nguyên phong cho quan hàm rồi đến sống luôn ở Hàm Dương (thuộc tỉnh Hồ Bắc); soạn quyển An Nam Chí Lược trong đó có chép từ họ Hồng Bàng nhưng vì viết theo kiểu viết người Trung Quốc nên chỉ viết rằng 15 bộ là những bộ lạc rải rác sống tập hợp trên vùng lãnh thổ Phong Châu. 5. Hồ Tông Thốc: đỗ Thái học sinh đời Trần Nghệ Tông (13701372), được bổ nhiệm giữ chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ năm 1386 đời Trần Phế Đế, là tác giả của Việt Sử Cương Mục (VSCM) và Việt Nam Thế Chí (VNTC). VNTC được Hồ Tông Thốc soạn vào cuối đời Trần (1413/ đời Trần Quý Khoách) gồm 2 quyển, quyển nhất chép thế phá 18 đời họ Hồng Bàng, quyển nhì chép thế phá của họ Triệu. 6. Phan Phu Tiên: đỗ Thái học sinh khoa thi cuối cùng của triều nhà Trần. Theo LTHCLC/ Khoa Mục Chí đời Trần / Phan Huy Chú thì khóa thi Thái học sinh cuối cùng của triều Trần là vào năm Quang Thái thứ 6 tháng 2 (Trần Thuận Tông) tức là năm 1393. Rồi lại đậu khoa Minh kinh năm 1429 (Lê Thái Tổ). Năm 1448 đời Lê Nhân Tông (1443-1459) về kinh giữ chức Trí quốc sử viện. Năm 1455 Lê Nhân Tông sai Phan Phu Tiên soạn và chép nối tiếp từ đời Trần Thái Tông (1225-1257) trở xuống cho đến lúc giặc Minh bị đánh bật rút chạy về nước, gồm có 10 quyển gọi là Sử Ký Tục Biên (tên gọi bộ sử theo LTHCLC của Phan Huy Chú). 7. Ngô Sĩ Liên: Theo sách Đại Việt lịch triều đăng khoa lục thì Ngô Sĩ Liên thọ 98 tuổi, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi (1418 - 1427), đỗ đồng tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3 (1442) đời Lê Thái Tông (1434 - 1442). Giữ chức Đô Ngự Sử (chánh VSTK - 57


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14

15 16 17 18

19 20

21 22

23 24 25 26 27

28 29 30 31 32

33 34

35 36 37

nhất phẩm) từ đời Lê Nhân Tông (1443 -1459) tiếp tục chức đó trong giai đoạn Lê Nghi Dân tiếm quyền (từ cuối năm 1459 đến giữa năm 1460) qua đến đầu đời Lê Thánh Tông (1461). Từ năm 1461 đến năm 1479 Ngô Sĩ Liên vẫn còn được làm quan nhưng lần lượt với những chức vụ khác thấp hơn chức vụ Đô Ngự Sử như Lễ bộ hữu thị Lang (tòng tam phẩm/ tòng có nghĩa là theo, phụ tá), Triều liệt đại phu, một chức vụ không có thứ bậc được ban kèm thêm vào một chức vụ chính thức khác (Theo LTHCLC thì năm Hồng Đức thứ 2 tức là năm 1471, Lê Thánh Tông ấn định chế độ các chức quan và tước vị thì chức Triều liệt đại phu được ban cấp kèm thêm cho những quan tước từ hàng tòng tứ phẩm), Quốc tử giám tư nghiệp (tòng ngũ phẩm) kiêm Sử quan tu soạn (chánh bát phẩm). Theo lệnh của Lê Thánh Tông, Ngô Sĩ Liên soạn và hoàn thành Đại Việt Sử Ký Toàn Thư vào năm 1479, gồm có 15 quyển, chia thành 2 phần : Phần I: Ngoại Kỷ (phần ngoài): 5 quyển từ họ Hồng Bàng cho đến khi giặc Minh bị đánh đuổi chạy về Tàu (năm 938). Quyển I Ngoại Kỷ gồm có Kỷ Hồng Bàng và Kỷ Thục Phán là phần viết thêm của Ngô Sĩ Liên. Phần II: Bản Kỷ (phần chính): 10 quyển, chép từ đời Ngô Quyền đến Lê Thái Tổ lên ngôi (939-1428). 8. Kiều Phú: sinh năm 1450, đỗ Tiến sĩ lúc 25 tuổi. Năm 1492 viết Tựa cho tập truyện Lĩnh Nam Chích Quái. 9. Vũ Quỳnh: sinh năm 1453, đỗ tiến sĩ năm 1478 (đời Hồng Đức thứ 9, làm quan đến thượng thư kiêm Quốc tử giám tư nghiệp và Sử quan đô Tổng tài. Năm 1510 theo lệnh Lê Tương Dực bắt đầu soạn bộ Đại Việt Thông Giám Thông Khảo (ĐVTGTK) và hoàn thành 1511, gồm 26 quyển. Như vậy, các bậc quân tử hiếu cổ ngày nay mà Vũ Quỳnh đề cập trong bài tựa viết trên LNCQ có thể là Hồ Tông Thốc, Phan Phú Tiên, Ngô Sĩ Liên, Kiều Phú trong đó người đáng được chú ý nhất là Hồ Tông Thốc, tác giả bộ Việt Sử Cương Mục và 2 tập Việt Nam Thế Chí. Tại sao Lê Văn Hưu không đưa kỷ Hồng Bàng-Thục Phán vào Đại Việt Sử Ký của ông ? Bài Tựa Đại Việt Sử Ký Toàn Thư/ Ngoại Kỷ của Ngô Sĩ Liên năm Hồng Đức thứ 10 /Kỷ Hợi (1479) chép :". . . . . .Đến triều Trần Thái Tông mới sai học sĩ Lê Văn Hưu soạn lại (trùng tu) từ Triệu Vũ VSTK - 58


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29

30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

đế trở xuống đến năm đầu Lý Chiêu Hoàng." (ĐVSKTT/Quyển Thủ/Tựa của Ngô Sĩ Liên/1a ,1b)(LLTHCLC /QXLIII/ Văn Tịch Chí/ Loại Kinh Sử/ Phan Huy Chú). Trùng tu theo tự điển Hán Việt có nghĩa là dọn sửa lại cái cũ, sắp xếp lại việc cũ. Theo nghĩa nầy thì Lê Văn Hưu đã tham khảo các sử liệu cũ cùng với những truyện ký được ghi chép hiện còn cất giữ trong các chùa chiền mà các sử gia thời đó gọi là những điều tục truyền được ghi chép, cất giữ trong dân gian để sửa lại rồi soạn thành một bộ sử gọi là Đại Việt Sử Ký. Không cần phải thắc mắc dài dòng về mối quan hệ giữa ĐVSK với những thư tịch đương thời. Công tác khoa học nào cũng đòi hỏi một sự khảo cứu tìm tòi sâu rộng trong thực tế, tham khảo những việc cũ trong sách vở vân . . .vân . . . Đó là phong thái thiết yếu có tính cách kỹ luật và kỹ thuật mà bất cứ nhà khoa học nào cũng phải trải qua. Viết sử cũng là mộ công tác khoa học cho nên dựa vào những tài liệu thư tịch đã có từ trước còn giữ lại được cho đến đương thời khi viết bộ sử ĐVSK chỉ là những hoạt động cần thiết mà Lê Văn Hưu phải làm. Lấy điểm móc 1230 là năm sinh của Lê Văn Hưu thì những tài liệu đương thời mà Lê Văn Hưu đã tham khảo rất có thể gồm có các thư tịch sau đây : 1. Tập Ký sự của Đổ Thiện (từ trước thường gọi là Sử Ký của Đỗ Thiện) từ đời Lý nhân Tông (1027 - 1127); 2. Những tập truyện ký từ cuối đời Lý qua đầu đời Trần dựa vào tập Ký sự của Đổ Thiện như những truyện viết bởi các nhà tu hành trong các chùa tự, đình miếu (thường được gọi là chuyện cổ dân gian hay tục truyền) kể cả các tập truyện VĐUL và LNCQ 3. Quốc Triều Thông Chế, 20 quyển và Quốc Triều Thường Lễ, 10 quyển. Tất cả được soạn xong vào năm 1230 đời Trần Thái Tông. 4. Việt Chí hay Việt Sử Lược (1225-1558). Nhiều người khảo cứu về thư tịch cổ Việt Nam đã bàn luận rất nhiều về mối liên hệ giữa Đại Việt Sử Ký do Lê Văn Hưu biên soạn với những loại văn tịch ở thời đó. Việc làm nầy không có ích lợi thực tiễn bởi vì tất cả những thư tịch mà họ đưa ra nhất định là phải xuất hiện thứ tự trước sau theo thời gian dù có hay không có Lê Văn Hưu. Vấn đề ở đây là mức xác tín có thể chấp nhận được về những gì được viết ra trong các loại thư tịch đó. Có một điều không thể phủ nhận được là ngay cả những việc xảy ra trong các triều đại phong kiến Việt Nam do những người Việt Nam dù có học, có liêm sĩ nhưng vì bị một áp lực nào đó phải ghi lại hằng hà sa số điều che lắp sai sự thật huống hồ lại là những chuyện cổ tích xa xưa đầy dẫy tính cách quái đản dị đoan phản khoa học mà phần lớn do ngoại bang từ Bắc phương phổ cập trong dân gian bằng giấy bút hoặc bằng lời phao đồn truyền

VSTK - 59


1 2

3 4 5 6 7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

miệng qua trung gian của những người tu hành kém đức hạnh và đầy tham vọng. * Khi được lệnh soạn ĐVSK, Lê Văn Hưu chịu hai áp lực: 1/- Áp lực ngoại hướng tức là áp lực của nhà vua, người ra lệnh cho Lê Văn Hưu soạn sử. 2/- Áp lực nội tại do hệ tư tưởng Nho giáo bắt đầu phát triển mạnh, đối chọi với Phật giáo và Đạo giáo. A) Lê Văn Hưu soạn sử dưới áp lực của nhà vua: Nếu Trần Cảnh cũng là một người do thần linh tạo ra thì Lê Văn Hưu sẽ viết theo đường lối nào? Thân thế của Trần Cảnh (vua đầu tiên của nhà Trần tức Trần Thái Tông) được viết trong ĐVSKTT như sau : Họ Trần, tên húy là Cảnh, trước tên húy là Bồ, làm Chi hậu chính triều Lý (hầu cận) , được Chiêu Hoàng nhường ngôi . . . . Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kính đến ở hương Tức Mặc (sau nầy là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý (tức là năm 1218, năm sinh của Trần Cảnh). Vì có chú họ là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ, nên vua được vào hầu trong cung. Chiêu Hoàng thấy vua thì ưa (ĐVSKTT/BK5/ 1a). KĐVSTGCM cũng chép tương tự như thế . So sánh giữa Lý Công Uẩn và Trần Cảnh thì thấy rõ rệt nét khác biệt về thân cách: Một người xuất thân từ dòng giống con thần cháu thánh, là con trời, số phải làm vua, còn một người từ hạng thứ dân lao động lam lũ từ dưới thấp nhoi lên quyền cao tột đỉnh. Cả hai giống nhau ở một điểm: tiếm ngôi của người khác mà không phải mất một giọt máu; cả hai, kẻ dùng chước quỷ, người dùng mưu gian để đạt mục tiêu và thành công. Cả hai đều có một người già giặn đầy kinh nghiệm đứng sau lưng để bày mưu thâm hiểm, dâng kế xảo quyệt, xúi giục giựt dây: Công Uẩn có Vạn Hạnh, Trần Cảnh có Thủ Độ; Vạn Hạnh và Thủ Độ là những nhà đạo diễn đại tài ma mảnh trong tấn tuồng phản loạn cướp ngôi. Một bên thì đoạt quyền ra mặt rồi vì e sợ dư luận cho nên phải bày ra chuyện mua thần bán thánh phản tự nhiên; còn một bên thì ngầm chiếm đoạt bằng cách che đậy dưới hình thức vợ không có khả năng cai trị nên nhường ngôi cho chồng, trên thực tế có vẻ hợp lý hơn và danh chánh ngôn thuận hơn. Một bên xưng mình là con thần cháu thánh đương nhiên phải làm vua; còn một bên là dân đen phàm tục

VSTK - 60


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

21

22 23 24 25

26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

quá hiển nhiên khó có thể che đậy nên cần phải có chính danh để làm tấm bình phong thay thế. Tuy nhiên sự thay thế không quá dễ dàng bởi vì quần chúng thời đó đã bị nhồi sọ quá lâu, kể từ lúc dưới ách cai trị của đám Bắc phương, quan niệm vua là con trời hầu như đã được đa số dư luận chấp nhận. Muốn xoay trở tình thế thì phải chứng tỏ được rằng quan niệm thiên tử là một quan niệm ngụy tạo mơ hồ không có giá trị. Chứng tỏ bằng cách nào? Chỉ cần không đá động gì tới hoặc nghiêm khắc phê phán hay bỏ đi những dấu vết gợi lại những ý niệm phản khoa học đó. Và đây chính là điều mà Lê Văn Hưu phải làm khi chép sử theo quan điểm và đường hướng của triều đại nhà Trần . Như vậy, những truyện huyền hoặc quái đản trong các thư tịch đương thời để thỏa mãn bản chất kiêu căng tự tôn tự đại cá nhân muốn sánh ngang vai vế với đám vua chúa Bắc phương hoặc là để lấp liếm che dấu thân thế của một cá nhân hay gia phả của một triều đại, tất cả sẽ bị loại bỏ; nếu cần sao chép lại thì nhất định phải có những lời phê phán gắt gao nhằm mục đích vạch trần những điểm u dốt trá ngụy. Đưa đến một hệ quả đương nhiên là Kỷ Hồng Bàng Thục Phán không có trong ĐVSK do Lê Văn Hưu tu soạn dưới triều đại nhà Trần . B) Lê Văn Hưu chép sử với vị thế của một nhà Nho : Qua những đoạn viết phê luận của Lê Văn Hưu người ta có thể thấy được ông là một người thẳng thắn không nịnh hót bợ đỡ, khách quan không thiên vị, có tinh thần khoa học không tin những điều xằng bậy, chống đối dị đoan mê tín. Về việc Triệu Đà chiếm giữ đất Lĩnh Nam, xưng đế một phương, muốn ngang hàng với nhà Hán, Lê Văn Hưu phê luận như sau : Lê Văn Hưu nói: Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đi mũ, đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau nầy nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được. (ĐVSKTT/NK.2/ 8 a ,b)

VSTK - 61


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14

15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Những lời nói trên đây của Lê Văn Hưu cần phải được hiểu là một sự nhận định và đánh giá một sử kiện thuộc về quá khứ dưới nhản quan của một nhà Nho trung thực có sĩ khí, không dua nịnh bợ đỡ, không lơ lửng lừng chừng. Không ca tụng mù quáng nhân vật Triệu Đà nhưng Lê Văn Hưu gợi lên một điểm: Triệu Đà là mầm móng đầu tiên có tác dụng khơi dậy ý thức độc lập tự chủ đang nằm ngủ yên trong tiềm thức của người dân Âu Lạc ở về phía Nam nước Trung Hoa. Đối với lịch sử của Trung Hoa, Triệu Đà là một tên phản tặc, đối với lịch sử của Âu Lạc thì Triệu Đà trước sau vẫn là một kẻ đại diện của thế lực thực dân phương Bắc. Dù chỉ là một tên huyện lệnh tầm thường hay là một vương bá hùng cứ một phương thì chân tướng thực dân của Triệu Đà vẫn không thể nào che dấu nỗi dưới con mắt của người dân Âu Lạc đang bị ách thực dân Trung Hoa thống trị ở thời đó. Những chuyện giành giựt cát cứ, chia đất cắt vùng, tranh bá đồ vương, qua phân thiên hạ là những chuyện nội bộ của đám thực dân Trung Hoa và Triệu Đà nhờ mưu mô khôn khéo cho nên đã thành công trong việc thành lập một kiểu triều đình thực dân "con" riêng cho mình tách rời khỏi triều đình thực dân "mẹ" ở bên Trung Hoa. Như vậy, nếu Triệu Đà có thể làm loạn để ra riêng một mình được thì người dân Âu Lạc bị trị cũng có thể bắt chước theo gương Triệu Đà để vùng lên đánh đuổi bọn đế quốc thực dân dành lại tự do, độc lập, tự chủ và nếu thành công thì công của Triệu Đà quả thật là to lắm! Đây mới đúng là ngụ ý mà Lê Văn Hưu thực sự muốn nói; Lê Văn Hưu không ngộ nhận coi họ Triệu như một triều đại của người Âu Lạc, Lê Văn Hưu tán tụng công lao của Triệu Đà không phải vì Triệu Đà là ân nhân của dân tộc Việt Nam. Công lao to tác của Triệu Đà chỉ là một lối trích dẫn của Lê Văn Hưu có ngụ ý mỉa mai hơn là một nghĩa cử tuyên xưng biết ơn. Người ta đã hấp tấp phê phán gay gắt Lê Văn Hưu và những người nối tiếp Lê Văn Hưu là sai lầm khi dành riêng một Kỷ để chép về họ Triệu. Kỷ chỉ là một móc thời gian giống như thời kỳ, giai đoạn, ở vào một thời điểm nào đó. Thử không dùng kiểu viết "kỷ Nhà Triệu Đà " nhưng lại viết theo kiểu " Thời kỳ từ năm Giáp Ngọ đến năm Bính Thìn" thì sao? Có lẽ phải giỏi độn giáp bói số lắm thì mới suy ra được năm Giáp Ngọ là một trong những năm 387 TCN, 327 TCN, 267 TCN, 207 TCN, 147 TCN, 87 TCN, vân . . .vân . . .và năm Bính Thìn cũng thế. Thời đó chưa biết dùng dương lịch, vậy nếu xác định được năm Nhâm Ngọ và năm Bính Thìn rồi thì phải viết thế nào để người đọc biết được móc thời gian những sự việc xảy ra trong giai đoạn đó? Còn nữa, đem Triệu Đà và con cháu của nhân vật nầy vào quốc sử không đồng nghĩa với một sự phê chuẩn công nhận họ là một triều đại VSTK - 62


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

của dân tộc Lạc Việt. Kỷ nhà Triệu cần được chép lại trước hết là vì lãnh thổ riêng của Lạc Việt đang nằm trong vùng đất chiếm cứ của Triệu Đà và hơn hết ảnh hưởng của sự làm loạn nổi dậy của Triệu Đà đối với Lê Văn Hưu có thể là một mẫu gương hay ít nữa cũng là một mầm móng khởi đầu đánh thức tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc Âu Lạc đang bị chìm đắm ru ngủ triền miên từ hằng ngàn năm về trước. Về Sĩ Nhiếp cũng thế. Không có sự ngộ nhận nhưng là một thực tế mà bất cứ một nho sĩ nghiêm minh nào cũng có bổn phận phải ghi lại dù người Thầy đó là Tây, Trung Hoa hay Ấn độ: dạy cho một chữ cũng đã là thầy rồi ! Có lẽ ít có ai phủ nhận điều nầy. Trong Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thời Sĩ đã kịch liệt phê phán như sau: "Đến như việc tán tụng công lao của Triệu Đà đã xướng ra cơ nghiệp đế vương trước tiên, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên tiếp tục theo kiểu đó không sửa đổi, rồi Lê Tung trong bài Tổng Luận, Đặng Minh Khiêm làm thơ vịnh sử cứ thay nhau mà đê` cao Triệu Đà là vua chúa của nước ta. Trải qua hằng ngàn năm không ai cải chính, vì thế tôi phải biện bạch kỹ càng". (VSTA/Ngô Thời Sĩ). Những người chép sử thời Tây Sơn đã đồng ý chấp nhận quan điểm nầy của Ngô Thời Sĩ. Một số người khảo sử gần đây cũng có những nhận xét tương tựa như Ngô Thời Sĩ. Tuy nhiên chính những người đi sau Lê Văn Hưu mới đáng gọi là mờ mịt hấp tấp hiểu lầm tư tưởng của Lê Văn Hưu. Ngoài ra, khi dùng Triệu Đà là một mẫu gương, Lê Văn Hưu đã cho thấy hoài bảo và sự băn khoăn bứt rứt của một nhà nho cho nền độc lập tự chủ của đất nước. Sự băn khoăn bứt rứt nầy rõ rệt hơn khi Lê Văn Hưu nói về hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị: Lê Văn Hưu nói: "Trưng Trắc và Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, vào khoảng trên một nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu, bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi ! Có thể xem như tự mình tiêu diệt lấy mình vậy". Trong tin thần đó, sự khởi đầu nền quốc thống cho một triều đại vương quyền được Lê Văn Hưu nhắc tới một cách tự hào trân trọng không thuộc về những triều đại hoang đường của họ Hồng Bàng, của Thục Phán, của Triệu Đà, của Sĩ Nhiếp nhưng chính là triều đại Đinh Tiên Hoàng, một nền quốc thống thực sự, chính thức, tiên khởi của đất nước Việt Nam thời đó. Lê Văn Hưu nói: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân VSTK - 63


1 2 3 4

5 6

7 8 9 10 11

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, đặt sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh ra bật thánh triết để tiếp nối (theo sau) quốc thống của Triệu Vương chăng?" Tóm lại, khi soạn bọ Đại Việt Sử Ký Lê Văn Hưu chịu ảnh hưởng của hai nguồn áp lực : Áp lực ngoại hướng, tức là áp lực từ nhà vua, người ra lệnh cho Lê Văn Hưu soạn sử; vì thế những dấu vết nào trong các thư tịch hay sử sách cũ được viết nhằm trau chuốt, tâng bốc thế phá của những triều đại đi trước nhưng xét thấy có hại cho thể thống của triều đại mới thì Lê Văn Hưu không được chép lại; Áp lực từ hệ tư tưởng Nho giáo vào lúc nầy bắt đầu phát triển mạnh, đối chọi với Phật giáo và Đạo giáo đang thịnh hành: những trò dối trá, những chuyện mê tín dị đoan, những chuyện thần ma rồng rắn quái dị phản khoa học dưới nhãn hiệu Truyện dân gian hoặc Dã Sử, tất cả những thứ nhảm nhí đó không thể nào dung hợp với một nhà nho có sĩ khí như Lê Văn Hưu. Vì thế, kỷ Hồng Bàng, kỷ Thục Phán dù trước đó đã được chép lại trên giấy mực hay đã được kể lại theo tục truyền thì Lê Văn Hưu cũng không thể hùa theo để lặp lại trong tiến trình biên soạn quốc sử của mình. Thời phong kiến, áp lực của nhà vua thường là một thứ áp lực tuyệt đối một chiều, ít khi dung hợp được với sĩ khí của các nho quan. Tuy nhiên ở đây, do một hoàn cảnh đặc biệt, áp lực đó lại biến thành một trợ lực hổ tương, thích hợp cho một nho sĩ viết sử như Lê Văn Hưu. Vì thế, Đại Việt Sử Ký do Lê Văn Hưu biên soạn mới được vua xuống chiếu khen ngợi (BK5/33a,33b). Lê Văn Hưu mất vào năm Nhâm Tuất (1322). *

28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

Năm 1455, Lê Nhân Tông sai Phan Phu Tiên soạn tiếp từ Trần Thái Tông cho đến khi giặc Tàu nhà Minh bị đánh đuổi chạy về xứ tức là trong giai đoạn từ năm 1226 đến năm 1427 (ĐVSKTT/BK11/ 90a). Theo Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú thì bộ sử do Phan Phu Tiên biên soạn gồm 10 quyển. Như thế, quốc sử vào thờì của Lê Nhân Tông gồm có bộ sử nguyên vẹn Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu và bộ sử viết nối tiếp theo là Sử Ký Tục Biên (tên gọi theo Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú) 10 quyển của Phan Phú Tiên cũng có nghĩa là trong bộ quốc sử cho tới lúc nầy vẫn không có kỷ Hồng Bàng và kỷ Thục Phán.

VSTK - 64


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

34 35 36 37

38 39 40

Ở đây vẫn còn một nghi vấn mà đến nay vẫn chưa thể giải đáp: nếu thật sự Phan Phu Tiên chỉ viết nối thêm thì bộ quốc sử vào đời Lê Nhân Tông gồm cả thảy là 40 quyển. Con số 30 quyển của bộ Đại Việt Sử Ký do Lê Văn Hưu biên soạn đã khiến cho nhiều người khi nghiên cứu về thư tịch cũ của Việt Nam phải thắc mắc và đặt nghi vấn. Trong khi đa số những người nầy đã mò mẫm quanh co tốn công vô ích để tìm xem Lê Văn Hưu có hay không có dựa vào tài liệu sử sách đương thời để viết ĐVSK thì một người Nhật cho rằng bộ sử đó của Lê Văn Hưu không có quá 9 quyển mà cũng rất có thể chỉ có 3 quyển mà thôi (Yamamoto Tatsuru, Việt Sử Lược và Đại Việt Sử Ký, Đông Dương học báo số tháng 4/ 1932, trang 62-63, do một người Hoa là Trần Kim Hoà trích dẫn trong bài viết có tên là Đại Việt sử ký toàn thư chi soạn tu dữ truyền bản). Gần đây có người lại viết rằng: "Vì các thư tịch cũ Việt Nam đều chép ĐVSK của Lê Văn Hưu gồm có 30 quyển cho nên không thể phủ nhận được những ghi chép thống nhất trong thư tịch Việt Nam". Các loại thư tịch cũ nếu kê khai đầy đủ ở đây thì nhất định phải là tất cả những loại thư tịch ra đời sau ĐVSK của Lê Văn Hưu như: VSCM của Hồ Tông Thốc, ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên, ĐVTG của Vũ Quỳnh, VIỆT SỬ KHẢO GIÁM của Nguyễn Địch Tâm, ĐVTGTL của Lê Tung, Việt Sử Toàn Thư Bản Kỷ Tục Biên của Phạm Công Trứ, Sử Ký Tục Biên của Lê Hy, KĐVSTGCM của Quốc sử Quán triều Nguyễn. Trong số đó chỉ có ĐVSKTT và KĐVSTGCM được in thành sách và có viết rõ ràng con số 30 quyển. Nghệ Văn Chí của Lê Quý Đôn và LTHCLC của Phan Huy Chú đều ghi là 30 quyển. Viết kiểu như thế là viết buông xuôi, viết cho xong chuyện không giúp ích được gì thêm để giải quyết vấn đề. Hơn nữa, chắc gì những thư tịch cổ Việt Nam mà người viết đưa ra như ĐVSKTT, VSTGCM, Nghệ Văn Chí của Lê Quý Đôn, Văn Tịch Chí của Phan Huy Chú có một mức độ khả tín có thể chấp nhận được? Cũng người nầy lại đưa ra một bản tóm lược quá trình tu soạn của bộ ĐVSKTT từ Lê Văn Hưu (1272) cho đến lúc được in ra (1697) trong đó phần đóng góp của Lê Văn Hưu được ghi như sau: Phần Ngoại Kỷ toàn thư: Quyển 1: do Ngô Sĩ Liên biên soạn (1479) [ĐVSKTT ] Quyển 2, quyển 3, quyển 4, quyển 5: do Lê Văn Hưu biên soạn (1272) [ĐVSK ] Phần Bản kỷ toàn thư: Quyển 1, 2, 3, 4: do Lê Văn Hưu biên soạn Quyển 5 đến quyển 9: do Phan Phu Tiên biên soạn (1455) [SKTB ]

VSTK - 65


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

35 36 37 38 39 40 41

Bản tóm lược nầy cho thấy là trong bản ĐVSKTT được in vào năm 1679, rõ ràng là ĐVSK của Lê Văn Hưu chỉ có 8 quyển mà thôi, không phải 30 quyển. Vậy, con số 30 nầy từ đâu ra? Người nào đã viết con số đó vào ĐVSKTT và viết vào lúc nào ? Ngô Sĩ Liên người đầu tiên sửa đổi bộ ĐVSK của Lê Văn Hưu và bộ SKTB của Phan Phu Tiên nhưng lại không thấy Ngô Sĩ Liên nói gì về cấu trúc và số lượng của 2 bộ sử nầy. Có một khác biệt là con số 10 quyển của Phan Phu Tiên không thấy được kê khai trong ĐVSKTT như con số 30 quyển của Lê Văn Hưu mà chỉ viết: "Ất Hợi, [Diên Ninh] năm thứ 2, (1455), (Minh Cảnh Thái năm thứ 6). Sai Phan Phu Tiên soạn bộ Đại Việt Sử Ký, từ thời Trần Thái Tông đến khi người Minh về nước (ĐVSKTT/BK /Q.11/90a). Không hiểu năm 1455 là năm khởi sự viết hay là năm đã hoàn tất việc biên soạn? LTHCLC cũng chép b sử SKTB của Phan Phu Tiên gồm có 10 quyển. KĐVSTGCM lại viết: "Ất Hợi, năm thứ 2. (Minh, năm Cảnh Thái thứ 6). Sai Quốc tử bác sĩ Phan Phu Tiên sửa lại (nguyên văn là tu) bộ Việt sử (Sử cũ không chép tháng). Bộ Việt sử nầy chép từ đời Trần Thái Tông (1225-1257) đến lúc người Minh rút về nước (1427), gồm 10 quyển"(KĐVSTGCM/ChB/Q 18). Có 4 thư tịch cũ cần lưu ý: 4. ĐVSKTT được in vào năm 1679, 2. Vân Đàm Loại Ngữ của Lê Quý Đôn. Năm sinh của Lê Quý Đôn là 1726, 3. LTHCLC của Phan Huy Chú: bắt đầu soạn năm 1809, hoàn thành năm 1819, 4. KĐVSTGCM: bắt đầu soạn năm 1856, soạn xong năm 1881, in năm 1884. Như vậy, nếu con số 30 quyển của ĐVSK được Lê Quý Đôn đề cập tới thì nhất định là đã chép từ ĐVSKTT. Đến lượt Phan Huy Chú thì nó có thể được chép thẳng từ ĐVSKTT mà cũng có thể là sao chép lại từ Lê Quý Đôn. Sau cùng là những nhà viết sử ở triều Nguyễn đã tham chiếu cả ba thư tịch vừa kể để đem con số 30 quyển đó vào KĐVSTGCM. Có thể là từ Lê Văn Hưu kéo dài xuống tới Lê Hy có một nguồn thư tịch nào đó rất gần gũi hoặc ở vào cùng một thời điểm với bộ sử cuả Lê Văn Hưu khiến cho người sau phải lầm lẫn lấy số lượng của nguồn thư tịch đó để gán ghép cho vào bộ sử của Lê Văn Hưu hoặc là bộ sử của Lê Văn Hưu đã được ghi chép như là một trong những đề mục của một bộ thư tịch nào đó gồm có 30 quyển. Căn cứ vào đâu để đưa ra giả định như thế?

VSTK - 66


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

36 37 38 39 40 41 42 43

Trước hết, các quan lại thời phong kiến giữ nhiệm vụ ghi chép tất các công việc của vua chúa và triều đình đã dùng phương pháp biên niên để ghi chép. Theo phương pháp nầy thì tất cả mọi sự kiện tạp loại đều được trình bày sắp xếp theo tuần tự thời gian. Những việc khác nội dung, không liên hệ gì với nhau được chép chung với nhau vào làm một. Những việc đó được chép chung chỉ vì một lý do duy nhất: đã xảy ra cùng trong một ngày, một tháng hoặc một năm. Bài tựa của Lê Quý Đôn trong Lê Triều Thông Sử đã viết về phương pháp đó như sau: "Nước Việt ta từ dựng nước đặt quan làm sử, nối tiếp nhau đều dùng thể biên niên ký sự như sử đời Lý của Lê Văn Hưu, sử đời Trần của Phan Phu Tiên. . ." (Trích dẫn từ LTHCLC/Văn Tịch Chi/Lê Triều Thông Sử/Tựa/ Lê Quý Đôn). Phan Huy Chú cũng xét luận về cách ghi chép theo lối biên niên như sau: "Xét: Thể thức làm sử, không có truyện chí thì không thể chép được đầy đủ. . . .Sử cũ nước ta chỉ dùng thể biên niên, công việc các triều chỉ chép tóm tắt, cho nên đầu đuôi việc duyên cách, gốc ngọn việc thành bại, khó lòng khảo cứu, cả đến điển chương chế độ cũng không khảo chứng vào đâu được"(LTHCLC/Văn Tịch Chí/ Lê Triều Thông Sử ). Như đã đề cập, trong niên hiệu Kiến Trung thứ 6 đời Trần Thái Tông/ 1230, ĐVVSKTT có 2 đoạn viết như sau: "Mùa Xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc triều thông chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển" và: "Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển " (BK5/ 6a). KKĐVSTGCM cũng ghi việc soạn Sách Thông Chế . . ., tất cả 20 quyển nhưng không đề cập tới 10 quyển của bộ Quốc triều thường lễ. LTHCLC của Phan Huy Chú cũng gọi là Quốc triều thông chế, 20 quyển; còn Quốc triều thường lễ thì gọi là Kiến trung thường lễ, 10 quyển. Theo ĐVSKTT, " năm 1272 Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong bộ ĐVSK từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, dâng lên, vua xuống chiếu khen ngợi" có nghĩa là thời gian nhận sắc chỉ để khởi đầu công tác biên soạn nhất định phải là một khoảng thời gian trước 1272, trong lúc Lê Văn Hưu giữ chức vụ Quốc sử viện giám tu. Khảo xét các luật lệ của triều trước, sửa đổi hình luật lễ nghi, chép công việc của quốc triều, 3 công tác nầy nhất định phải là những công tác lâu dài bắt đầu từ năm 1230 nhưng không thấy ghi thời gian hoàn tất. Tuy nhiên, ở năm 1244 ĐVSKTT ghi rằng: "Định các cách thức về luật hình" tức là chỉ có 1 trong 3 công tác kể trên được hoàn tất vào năm 1244 (Khảo xét các luật lệ của triều trước và sửa đổi hình luật). Vào lúc Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn năm 1247 rồi giữ chức vụ Kiểm pháp quan (kiểm soát luật pháp) thì 2 công tác sửa đổi lễ nghi và chép VSTK - 67


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

40 41 42 43

công việc của quốc triều vẫn còn tiếp tục tiến hành và Lê Văn Hưu dù là người đến sau chắc phải có tham dự một phần nào vào 2 công tác lở dở nầy rồi tiếp sau đó mới bắt đầu tu soạn bộ ĐVSK để rồi hoàn thành cùng một lúc tất cả các công tác vào năm 1272. Với phương pháp ghi chép biên niên, rất có thể những quyển sử của Lê Văn Hưu đã được nhập đem chung vào trong tổng số 30 quyển của 2 bộ Quốc triều thông chế (20 quyển) và Quốc triều thường lễ (10 quyển) . KĐVSTGCM không đề cập tới 10 quyển Quốc triều thường lễ mà lại ghi như sau: "Canh Dần năm thứ 6 (1230), tháng 3, mùa xuân. Định thể lệ làm ra sách Thông Chí và các sách chép về việc hình, việc lễ." Đó là đoạn viết trong phần Cương; trong phần Mục (Mục có nghĩa là chi tiết) viết tiếp: "Khảo cứu các lệ luật đời trước, định thể lệ làm ra sách Thông Chế, và sửa đổi các sách hình luật, lễ nghi, tất cả 20 quyển". Từ đó đưa ra 2 suy đoán : 1. Hoặc là từ năm 1230 đến 1244 bộ Quốc triều thông chế và thường lễ (gộp chung chứ không tách riêng) được soạn xong, tất cả chỉ có 20 quyển ; 2. 10 quyển Quốc triều thường lễ theo ĐVSKTT (hay Kiên trung thường lễ theo LTHCLC) có thể là 10 quyển ĐVSK của Lê Văn Hưu . Sau cùng, trong lời chua nói về Sử Sách, KĐVSTG viết: "Theo phần Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì từ đời Trần trở về trước, các đời thường có điển chương và sử sách : Quốc triều thông lễ 10 quyển Trần Thái Tông Kiến trung thường lễ 10 quyển Trần Thái Tông Đại Việt Sử Ký 30 quyển (?) Lê Văn Hưu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . Những sách kê trên mà người Minh tịch thu mất, nay không biết nội dung ra sao". Con số 30 quyển ĐVSK của Lê Văn Hưu có thể là một sự suy đoán nhập chung vào số thư tịch được soạn cùng thời với bộ ĐVSK: có thể do Ngô Sĩ Liên khởi đầu và viết ra trên ĐVSKTT rồi những người kế tiếp cứ để nguyên như thế hay nói khác đi, bộ sử của Lê Văn Hưu chỉ có 10 quyển mà thôi nhưng vì bị phương Bắc cướp mất không còn dấu vết gì trong sách sử ở nước Việt Nam cho nên các người viết sử, bắt đầu từ Ngô Sĩ Liên rồi đến những người chép sử về sau, đã suy định và chấp nhận là bộ sử ĐVSK của Lê Văn Hưu gồm có 30 quyển. Có thể tóm lược phần kê cứu nầy như sau : Lê Văn Hưu không đưa kỷ Hồng Bàng-Thục Phán vào ĐVSK là vì chịu ảnh hưởng của hai nguồn áp lực tương hổ nhau : a/ Áp lực của Trần Thái Tông , b/ Áp lực của hệ tư tưởng Nho giáo. VSTK - 68


1 2

Con số 30 quyển ĐVSK của Lê Văn Hưu được liệt kê trên ĐVSKTT là một con số suy đoán tổng gộp đáng dị nghị. Hồ Tông Thốc với Việt Sử Cương Mục

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17

Kế tiếp Lê Văn Hưu là Hồ Tông Thốc, tác giả bộ Việt Sử Cương Mục và Việt Nam Thế Chí . Có 2 điểm cần nêu ra : 1/ VSCM gồm có 10 quyển , 2/ VNTC gồm có 2 quyển chép thế phả của 18 đời họ Hồng Bàng và họ Triệu. Rõ ràng là cho đến giai đoạn nầy kỷ Hồng Bàng và Thục Phán cũng không được Hồ Tông Thốc đưa vào chính sử nhưng lại chép riêng ra trong VNTC. VSCM chép gì thì không thấy nói, chỉ nghe Ngô Sĩ Liên khen ngợi trong bài tựa ĐVSKTT. Đây có thể là một công tác tu sửa và soạn lại bộ sử của Lê Văn Hưu mà cũng có thể là một công tác biên soạn mới từ đời Trần Thái Tông đến khi quân Minh bị đuổi về nước (12261427). Vì thế cho nên VSCM của Hồ Tông Thốc chỉ có 10 quyển. Điều nầy càng củng cố thêm sự suy đoán đã viết ở phần trên: ĐVSK của Lê Văn Hưu gồm có 10 quyển chứ không phải là 30 quyển. * Phan Phu Tiên với Sử Ký Tục Biên

18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

Đổ Thái học sinh (Tiến sĩ) vào khoa thi cuối cùng của nhà Trần (Trần Thuận Tông/1388-1398) vào lúc Lê (Hồ)Quý Ly làm Phụ chính Thái sư. Theo LTHCLC/ Phan Huy Chú thì khoa thi Thái học sinh cuối cùng ở đời Trần là đời vua Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 6, tháng 2 tức là năm 1393. (LTHCLC/Khoa Mục Chí đời Trần/Phan Huy Chú). Năm 1455, Lê Nhân Tông sai Phan Phu Tiên soạn Sử Ký Tục Biên (tên gọi theo LTHCLC/Phan Huy Chú) giai đoạn từ 1226 đến 1427 tức là chép từ đời Trần Thái Tông đến khi quân Minh bị đánh đuổi về nước (BK11/ 90a). Theo Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú thì bộ sử của Phan Phu Tiên gồm có 10 quyển. Trong ĐVSKTT không thấy ghi con số 10 quyển nầy. KĐVSTGCM lại ghi: Ất Hợi, năm thứ 2 (1455). Sai Quốc tử bác sĩ Phan Phu Tiên sửa lại bộ Việt sử (Sử cũ không chép tháng)". Bộ Việt sử chép từ đời Trần Thái Tông (1225-1257) đến lúc người Minh rút về nước (1427), gồm 10 quyển (CB /Q.18 / 29). Sửa lại bộ Việt Sử chứ không phải soạn như ĐVSKTT đã viết mà cũng không VSTK - 69


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

phải chép tiếp như Ngô Sĩ Liên đã viết trong lời tựa của mình. Sửa lại bộ Việt Sử ở đây có thể là sửa lại bộ Việt Sử Cương Mục của Trần Tông Thốc đã soạn trước đó thành bộ Sử Ký Tục Biên. Như vậy có thể suy định rằng phần biên soạn của Hồ Tông Thốc trong VSCM là phần kế tục bộ sử của Lê Văn Hưu và soạn chép từ đời Trần Thái Tông cho tới lúc quân Minh chạy về nước (1225-1427). Phan Phu Tiên chỉ tu soạn chứ không ghép thêm gì vào bộ SKTB tức là trong bộ sử mới nầy vẫn chưa có kỷ Hồng Bàng và kỷ Thục Phán. Năm 1455 (Lê Nhân Tông/1443-1459) là năm Phan Phu Tiên bắt đầu công tác tu soạn nhưng sử sách, thư tịch cũ chẳng thấy nói gì về thời gian hoàn tất bộ sử .

14

Bộ sử của Phan Phu Tiên cũng không được chính thức chấp nhận bởi các triều đại Trần, Lê. Tại sao ?

15

Quá trình làm quan của Phan Phu Tiên trải qua nhiều giai đoạn :

13

16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

27

28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

Giai đoạn 1: Đời Trần từ năm 1396 đến năm 1400 (Trần Thuận Tông/1388-1398 và Trần Thiếu Đế/1398-1400). Giai đoạn 2: Dưới thời họ Hồ tiếm ngôi nhà Trần từ 1400 đến 1407 (Hồ Quý Ly / 1400-1401 và Hồ Hán Thương / 1401-1407);. Giai đoạn 3: Dưới thời Hậu Trần từ năm 1407-1413 (Trần Triệu Cơ Giản định Đế và Trần Quý Khoách) và thời thuộc nhà Minh 14141427. Giai đoạn 4: Đời nhà Lê : Từ 1429 đến 1459, Nghi Dân tiếm ngôi (1459-1460) , Từ 1460 đến 1479 (Lê Thánh Tông / 1469-1497) Giai đoạn 1: Từ năm 1396 đến năm 1400 Lê Quý Ly có hai bà cô được vua Trần Minh Tông lấy làm cung nhân. Bà chị tên là Minh Từ sinh ra Trần Nghệ Tông, bà em tên là Đôn Từ sinh ra Trần Duệ Tông. Khi mới lên ngôi vua (1370) Trần Nghệ Tông rất tín nhiệm Quý Ly, bổ dụng Lê Quý Ly làm Khu Mật Viện đại sứ và gả em gái là công chúa Huy Ninh cho Quý Ly.Trong mộ thời gian thật ngắn, Quý Ly lại được thăng chức Trung Tuyên quốc thượng hầu. Trong thời gian nầy (tháng Mười/ Tân Hợi/ 1371) vua Trần Nghệ Tông đã có quan tu sử là Phan Nghĩa (Soạn Quốc Triều thông chế). Năm 1372 bổ nhiệm Hồ Tông Thốc làm Hàn lâm viện học sĩ. Kế đó Trần Nghệ Tông lên làm thái thượng hoàng nhường ngôi vua cho

VSTK - 70


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Trần Duệ Tông. Năm 1375 Trần Duệ Tông phong cho Quý Ly làm tham mưu quân sự. (ĐVSKTT/BK/Q.7/ 41b). Năm 1377 Trần Duệ Tông tự mình cầm quân đánh giặc Chiêm Thành, bị địch bao vây và chết trong trận. Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân không đến cứu lo trốn chạy thoát chết. Quý Ly đốc quân chở lương nghe tin vua bị chết trận liền bỏ trốn về trước. Trần Nghệ Tông lập con trưởng của Trần Duệ Tông lên nối ngôi vua tức là Trần Phế Đế (1377) . Năm 1379 Phế Đế ban cho Quý Ly chức Tiểu tư không kiêm Hành khu mật đại sứ như cũ. Đố Tử Bình bỏ chạy không cứu vua được tha tội chết chỉ bị phạt tội đồ làm lính nhưng sau đó không lâu lại được Phế Đế trọng dụng trở lại, khi Bình chết (1380) lại được truy tặng Thiếu Bảo và được đưa vào Văn Miếu để cúng thờ. Phan Phu Tiên nói: "Các bậc danh nho các đời nếu có công trạng bài trừ những sự truyền tụng hoang đường dị đoan, giữ được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, mục đích là làm sáng tỏ đạo học có ngọn nguồn. . . . . .Đến như Tử Bình là hạng nhảm nhí luồn cúi, tham lam bòn rút của công, là kẻ gian thần phản vua hại nước mà sao lai được xen lẫn vào chỗ đó ?" ( Ghi Chú: Tử Bình ăn cắp rồi dấu ỉm đi 10 mâm vàng của vua Chiêm Thành Chế Bông Nga triều cống cho Trần Duệ Tông rồi tâu láo là Bồng Nga ngạo mạn hỗn xược. Trần Duệ Tông nổi giận mới nhất quyết tự mình cầm quân đánh giặc Chiêm và bị chết tại mặt trận). Năm 1384 Thượng hoàng Trần Nghệ Tông cho thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc núi Tiên Dư lấy đỗ 30 người; năm 1386 Hồ Tông Thốc được phong Hàn lâm học sĩ phụng chỉ. (ĐVSKTT/BK/QVII/7a, 9b) Thấy Quý Ly dựa thế Thượng hoàng để tự do thao túng, Trần Phế Đế mưu định trừ khử Quý Ly. Âm mưu bại lộ, Quý Ly giả bộ khóc lóc với Thượng hoàng Trần Nghệ Tông. Nghệ Tông nghe lời sàm tấu truất ngôi Phế Đế, giáng làm Linh Đức Vương, lập con út của Nghệ Tông là Chiêm Định Vương Ngung lên ngôi vua tức là Trần Thuận Tông (1388). Linh Đức vương sau đó bị thắt cổ chết còn các tướng sĩ trung thành đều bị giết hại. Năm 1390 đô tướng Trần Khắc Chân đại thắng quân Chiêm ở Hải Triều, giết được vua Chiêm Chế Bồng Nga. Năm 1393 thi Thái học sinh, cho đỗ 30 người. Như vậy Phan Phu Tiên phải là mộ trong số 30 người nầy và nếu được bổ dụng thì có thì chỉ là một hạng quan lại tập sự cấp thấp chưa có danh vọng gì nhiều vì vào đời Trần dù đã có đặt khoa cử nhưng sự bổ dụng không bắt buộc phải có khoa cử. (LTHCLC/Phan Huy Chú/ Quan Chức Chí /đường xuất thân). Tháng 12, ngày 15 năm Giáp Tuất (1394) thượng hoàng Trần Nghệ Tông qua đời. VSTK - 71


1

2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Giai đoạn 2: Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần (1400-1407) Cuối Năm 1397 Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông dời kinh đô đến phủ Thanh Hóa rồi đầu năm 1398 lại ép vua thoái vị nhường ngôi cho hoàng thái tử An tức là Trần Thiếu Đế mới có 3 tuổi, Quý Ly nắm trọn quyền nhiếp chính. Năm 1399 giết Thuận Tông và tự xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, vào ở cung Nhân Thọ, dùng nghi vệ nhà vua để ra vào, con là Hán Thương xưng là Nhiếp thái phó. Đến tháng 2 năm Canh Thìn (1400) Quý Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xưng vua thay ngôi nhà Trần, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, đổi thành họ Hồ. Phan Phu Tiên nói: "Khổng Tử nói : Không phải ma nhà mình mà cúng là siểm nịnh .. . . .Là vì họ hàng xa xôi, các đời biến đổi, khó mà tin chắc được. Quý Ly lại nhận là dòng dõi xa của Hồ Công Mẫn, tế Ngu Thuấn làm thủy tổ, thì cái tội dối đời để tiếm ngôi thật không gì to bằng." Mùa Thu tháng 8 Canh Thìn (1400) Quý Ly mở khoa thi Thái học sinh. Sau đó nhường ngôi cho Hồ Hán Thương (1401-1407) để lên làm Thái thượng hoàng cùng coi chính sự. Mùa Đông tháng 12 năm Tân Tỵ (1401) bổ nhiệm Nguyễn Phi Khanh làm Hàn Lâm học sĩ. Mùa Thu tháng 7 năm Bính Tuất (1406) Hồ Hán Thương Gọi các quan cũ chờ lệnh bổ dụng (ĐVSKTT/BK/Q.7/52b). Phan Phu Tiên cũng ở trong nhóm các quan lại cũ chờ lệnh bổ dụng nầy. Đây là một chi tiết khá rõ để suy định thân phận của Phan Phu Tiên vào thời Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần: nhiều quan viên cũ của triều Trần không được Hồ Quý Ly thu dụng trở lại và họ phải ở trong tư thế nghe ngóng chờ thời cho đến khi có lệnh của Hồ hán Thương gọi họ đợi lệnh bổ dụng. Có nghĩa là sau khi nhà Trần mất ngôi, một số quan của triều cũ không còn được Quý Ly tin dùng. Về phía các quan văn triều cũ, dù họ có căm hận bất phục kẻ cướp ngôi thì họ cũng phải đè nén im hơi: một cử chỉ, một hành động chống đối dù là tiêu cực cũng sẽ tự chuốc họa vào thân. Kẻ phản nghịch đắc thắng đã không truy giết, giam nhốt mà còn mở đường cho họ được tái bổ dụng thì nhất định là một dịp may rất hiếm, khó có người to gan ra mặt chối từ. Đây là may mắn thứ nhất của họ kể cả Phan Phu Tiên. Tuy nhiên lệnh nầy của Hồ Hán Thương chưa kịp thực hiện thì giặc Minh lại gây hấn sang đánh. Quý Ly, Hán Thương và con cháu cùng họ hàng đều bị giặc nhà Minh bắt. Những quan lại của Quý Ly và Hán Thương người ra hàng, người bị bắt hoặc tự tử vì không chịu nhục. Vua, quan nhà Hồ bị bắt đem về Kim Lăng (bên Trung Quốc);

VSTK - 72


1 2

3 4

Quý Ly bị giam nhốt, rồi sau đó bị đày làm lính ở Quảng Tây còn con cháu và các tướng sĩ tất cả được giặc nhà Minh tha. Giai đoạn 3: Thời kỳ Hậu Trần và thuộc Minh (1407-1413 và 1414-1427)

24

Lệnh tái bổ dụng của Hồ Hán Thương chưa kịp thi hành thì giặc nhà Minh lại tìm cớ mang quân sang đánh để trừng phạt Hồ về việc cướp ngôi nhà Trần. Đây là một mối đại bất hạnh cho dân tộc Đại Việt nhưng lại là một sự may mắn thứ nhì cho đám cựu trào của nhà Trần bởi vì dưới mắt của giặc nhà Minh họ là đám quan lại cũ của nhà Trần đã bỏ đi ẩn dật, không chịu hàng phục, không chịu hợp tác với họ Hồ cho nên sau khi chiến thắng có thể là giặc Minh đã không bắt giữ họ mang về Kim Lăng. Sau đó giặc Minh truy tìm những người ẩn dật ở rừng núi, người tài giỏi, thông minh, có tiếng tâm, đã quen thuộc việc quan. . . . để đưa về Kim Lăng, dụ dỗ, ban cấp quan chức rồi đưa trở về nước cho làm quan ở các phủ, châu, huyện, nghĩa là làm thuộc hạ bù nhìn cho giặc nhà Minh. Rất nhiều người có chút tiếng tâm, hám danh, tham quyền đã tranh giành nhau ra đầu thú giặc nhà Minh. Khi giặc nhà Minh đã bị đánh đuổi ra khỏi bờ cõi, vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đã thẳng tay trừng trị đám quan lại bù nhìn theo ngoại bang nầy. (ĐVSKTT/BK/Q.9/ 6a). Nếu Phan Phu Tiên cũng ở vào trong đám quan lại của triều Trần hùa theo nhà Hồ rồi sau lại ra đầu thú hợp tác với giặc nhà Minh thì Phan Phu Tiên đã không thể nào thoát khỏi sự trừng phạt của Lê Thái Tổ để rồi còn được phép ghi danh kỳ thi Minh Kinh đầu tiên của triều Hậu Lê.

25

Giai đoạn 4: Từ năm 1427 đến 1497 (Lê Lợi - Lê Thánh Tông)

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Phan Phu Tiên trúng tuyển kỳ thi Minh Minh khoa đầu tiên năm 1429 (Lê thái Tổ/Thuận Thiên) và được làm quan với chức An phủ phó sứ phủ Thiên Trường. Thái Tổ lại bắt các quan văn võ từ hàng tứ phẩm trở xuống phải vào thi Minh kinh khoa, nghĩa là quan văn thì phải thi kinh sử .quan võ thì phải thi vũ kinh. Ở các lộ cũng mở khoa thi Minh kinh để cho những người ẩn dật ra ứng thí mà chọn lấy nhân tài . Đây là một điểm móc quan trọng. Có thể suy luận rằng nhờ dịp thi cử nầy mà Phan Phu Tiên mới được triều Lê thu dụng trở lại. *

36 37

Năm 1448 về kinh giữ chức vụ Quốc tử giám bác sĩ tư Quốc Sử viện, vừa dạy học ở Quốc tử Giám vừa trông nôm Quốc sử viện. VSTK - 73


1 2 3 4 5 6 7 8

9

10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

Năm 1455 Lê Nhân Tông (1443-1459) sai Phan Phu Tiên soạn bộ quốc sử giai đoạn từ vua Thái Tông nhà Trần cho đến khi bị thuộc vào nhà Minh, cả thảy là 10 quyển. Năm 1459 Lạng Sơn Vương Nghi Dân sát hại vua Lê Nhân Tông để cướp ngôi. Có thể là Phan Phu Tiên vừa viết xong bộ sử (1443-1459) nhưng vua Lê Nhân Tông chưa kịp phê duyệt thì bị Nghi Dân mưu hại . * Thân phận Phan Phu Tiên sau khi Nghi Dân soán ngôi (1459) ĐVSKTT viết: "Ngày mồng 7 tháng 10, Lạng Sơn Vương Nghi Dân tự lập lên ngôi Hoàng đế, đại xá, đổi niên hiệu là Thiên Hưng.. (Từ mồng 3 trở về trước là niên hiệu Diên Ninh năm thứ 6, từ mồng 7 tháng 10 trở đi là niên hiệu Thiên Hưng năm thứ 1 của Nghi Dân). Ban ân rộng rãi cho các quan văn võ trong ngoài mỗi người một tư " (ĐVSKTT/BKTL/Q.XI /96b). Nhất định là Nghi Dân và Phan Phu Tiên có quen biết nhau bởi vì sau khi Lê nhân Tông bắt đầu đích thân coi chính sự (ngày 21 tháng 2 năm Quý Dậu/1453) đã sai Phan Phu Tiên soạn bộ quốc sử vào năm 1455. Kế đến, vào năm Bính Tý, mùa Xuân, tháng Giêng (1456) Lê Nhân Tông ban đại yến cho các quan và trong buổi tiệc đó Lạng Sơn Vương Nghi Dân cũng được mời dự. (ĐVSKTT/ BK/Q.11/90a). Nghi Dân nhất định có biết rõ trọng trách soạn sử của Phan Phu Tiên trước khi có việc cướp ngôi xảy ra. Sau khi cướp ngôi, Nghi Dân có"ban ân rộng rãi" thăng chức cho Phan Phu Tiên hay không? Chắc chắn là có bởi vì Phan Phu Tiên lúc đó chỉ là một hạng quan văn trong tay không có một tấc sắt làm sao dám chống đối ra mặt vì thế đành phải im hơi lặng tiếng thủ phận làm một hàng thần dưới quyền của kẻ soán nghịch. Về chuyện soán nghịch của Nghi Dân, Phan Phu Tiên có lời bàn như sau: "Nhân Tông lên nối ngôi vua vào tuổi ấu thơ, bên trong có mẫu hậu buông rèm trông coi chính sự, bên ngoài các đại thần đồng lòng phò tá trị nước, cho nên trong khoảng 17 năm, thiên hạ thái bình, an cư lạc nghiệp, xứng đáng là vị vua nhân từ, đến lúc cuối đời bị lũ vô lại Đồn, Ban xướng xuất, khiến Lệ Đức hầu Nghi Dân đang đêm bắt thang trèo thành, lẻn vào cung cấm, vua và Tuyên Từ hoàng thái hậu đều bị hại. Thương thay" (ĐVSKTT/BK/Q.11/ 96b). Lời bàn nầy không buộc tội nghiêm khắc Nghi Dân nhưng nhắm vào những kẻ chủ xướng xúi giục Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng. Thái độ phê phán nhẹ nhàng của Phan Phu Tiên đối với Nghi Dân càng củng cố thêm sự suy diễn về việc Phan Phu Tiên có nhận ân tước của kẻ đoạt ngôi. Hơn nữa, Nghi Dân cũng thuộc dòng chính thống của nhà Lê (Con trưởng của Lê Thái Tông và đúng ra là đông cung VSTK - 74


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

24 25

26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

thái tử chính thống): việc tranh ngôi đoạt vị chỉ là một sự lủng củng thuộc nội vi của gia đình hoàng tộc nhà Lê chứ ngôi vua vẫn chưa bị lọt vào vào tay kẻ ngoại tộc: nhận ân tước và tùng phục Nghi Dân thì vẫn còn là quân thần của nhà Lê. Năm 1460 (mồng 6 tháng 6 năm Canh Thìn, "các đại thần là bọn Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa diệt bọn phản nghịch Đồn, Ban. Giáng Nghi Dân xuống tước hầu. Đón Gia Vương lên ngôi hoàng đế ". (ĐVSKTT/BK/Q.12/2a),(Gia Vương là tước hiệu của Lê thánh Tông lúc bấy giờ). Trong cuộc xướng nghĩa hai kẻ phản nghịch chủ chốt Đồn, Ban và bè đảng phản nghịch Trần Lăng bị nhóm xướng nghĩa giết chết. Thân phận của Phan Phu Tiên ra sao khi xảy ra biến cố xướng nghĩa nầy? Như đã đề cập ở phần trên, Phan Phu Tiên có viết những nhận định của mình về việc Nghi Dân cướp ngôi. Sự nhận định nhất định phải đụng chạm tới nhóm chủ xướng Đồn, Ban. Những lời bàn đó khó có thể được viết trong thời gian Nghi Dân chiếm quyền cai trị mà chỉ có thể được viết vào thời khởi đầu của triều Lê Thánh Tông, sau khi Nghi Dân bị hạ bệ và nhóm Đồn, Ban đã bị tiêu diệt. Cũng trong lời bàn đó Phan Phú Tiên đã gọi Nghi Dân là Lệ Đức hầu: đây là tước vị của Nghi Dân được vua Lê Thánh Tông cấp cho sau khi bị giáng. Vậy có thể suy diễn rằng Phan Phu Tiên vẫn còn sống sót vào lúc khởi đầu triều đại Lê Thánh Tông, không bị nhóm xướng nghĩa bắt giết dù trước đây đã ở lại tiếp tục phục vụ cho kẻ bội nghịch. * Thân phận của Phan Phu Tiên dưới triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497) Sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi vua thì thân phận của Phan Phu Tiên ra sao ? Lúc mới lên ngôi vua, Lê Thánh Tông liền định tội Lê Đắc Ninh vì Đắc Ninh giữ cấm binh không biết phòng vệ cho Lê nhân Tông lại tiếp tay giúp bọn phản nghịch (ĐVSKTT/BK/Q.12/2b). Kê đến là việc tấu trình để cứu xét ban thưởng những người có công trong việc giáng phế Nghi Dân và đưa Thánh Tông lên ngôi. Khi xét đến việc thăng chức cho các quan cũ có công với nhà Lê hiện tại chức hay đã chết, Lê Thánh Tông đã gạt bỏ tên của Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê Ngang theo lệ công thần đã chết. Lý do gạt bỏ là vì những người nầy bất lực không thành công trong mưu đồ lật đổ Nghi Dân: bị bại lộ, tất cả đều bị Nghi Dân giết chết. Thánh Tông đã so sánh tội của những người nầy ngang với tội của Triệu Thuẫn Thời Xuân Thu chiến quốc bên Trung Hoa ngày xưa: Vua nước Tần là Linh Công định hại Thuẫn, Thuẫn bỏ trốn. Sau Triệu Xuân giết Linh Công, đón Thuẫn về phục chức. Tuy Thuẫn không giết vua (Linh Công), VSTK - 75


1 2 3 4 5 6 7 8 9

10

11 12 13 14

15

16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

33 34

35 36 37 38

nhưng sử quan nước Tần vẫn chép là Thuẫn giết vua vì cho Thuẫn cùng là một chí hướng với Xuyên (ĐVSKTT/BK/Q.12/ 6a, 6b). Đó là cách đối xử của vua Lê Thánh Tông với các cựu thần võ quan của nhà Lê trong biến cố soán nghịch của Nghi Dân. Thái độ đối xử, thưởng phạt nầy rất khe khắt, độc đoán và tàn ác, không cần xét tới tình lý nhất là đối với những người đã hy sinh trong cuộc dẹp loạn Nghi Dân. Sự khe khắt và độc đoán nầy Lê Thánh Tông có áp dụng đối với các cựu thần quan văn của nhà Lê hay không? Hai trường hợp có thể xảy ra : 1- Phan Phu Tiên quá già lão nên được bỏ lơ không bị Lê Thánh Tông hặc tội và tạm thời để cho ở yên chức vị cũ nhưng không giao thêm nhiệm vụ mới. 2- Bị định tội, bãi chức hoặc bị xử tội chết. Trường hợp 1: Phan Phu Tiên quá già lão Cho đến khi Nghi Dân làm việc soán nghịch thì Phan Phu Tiên đã là một bậc lão nho thần từng phục vụ qua nhiều triều đại; cùng mộ phương pháp suy định năm sinh giống như đã áp dụng cho Ngô Sĩ Liên thì lúc Lê Thánh Tông lên ngôi (1460) Phan Phu Tiên có thể đã vào khoảng 90-95 tuổi. Với những lời lẽ phê phán về biến cố soán nghịch của Nghi Dân như đã đề cập ở phần trên thì Phan Phu Tiên vẫn còn sống sót trong những ngày tháng đầu của triều đại Lê Thánh Tông. Trong giai đoạn nầy, cũng giống như ở mỗi chế độ khác, mối quan tâm bức thiết nhất của một người cầm đầu một thể chế mới là loại bỏ những nguy cơ xét ra có hại cho tương lai của người đứng đầu triều đại mới. Những nguy cơ đó thường phát xuất từ các người nắm quyền chỉ huy quân sự tức là các hàng quan võ còn sót lại của các triều đại trước. Do đó, sau khi lên ngôi, Lê Thánh Tông đã thực hành ngay việc thưởng phạt thật nghiêm khắt công tội trong hàng quan võ và tạm thời để yên chưa xét tới công tội của các người trong hàng quan văn.Trong bối cảnh vàng thau lẫn lộn đó Phan Phú Tiên đã sống sót. Trường hợp 2 : Phan Phu Tiên bị định tội, bãi chức hoặc bị xử tội chết Sau khi loạn Nghi Dân bị dẹp yên, không thấy sách vở nào nói tới Phan Phu Tiên nữa. Một điểm cần lưu ý là cuối năm 1460, Lê Thánh Tông ra lệnh cho Nguyễn Bá Ký và Hoàng Sằn Phu hiệu định miếu húy và ngự danh: Hoàng Sằn Phu lúc đó là Hoàng môn thị lang kiêm VSTK - 76


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18

19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

38 39 40 41 42

luôn chức vụ Quốc sử viện đồng tu quốc sử. Nhiệm vụ nầy đúng lý phải giao cho Phan Phu Tiên. (Phan Phu Tiên nếu được Lê thánh Tông để yên ở nguyên vị vẫn là Quốc tử giám bác sĩ tư Quốc sử viện một chức vụ Phan Phu Tiên được ban cấp từ năm 1448 dưới triều Lê Nhân Tông). Sự kiện nầy có thể là: Phan Phu Tiên đã quá già yếu nên Thánh Tông để yên không dùng tới nữa và công trình soạn sử của Phan Phu Tiên cũng không được Lê Thánh Tông chấp nhận, đưa chứa cất ở Đông các. Hoặc là Phan Phu Tiên đã bị thất sủng sa thải cho về hưu hoặc cũng có thể Phan Phu Tiên lúc đó chỉ còn được giao cho một công tác thứ yếu ở Quốc Sử Viện trong chương trình thu thập, sưu tầm các sách vở, giấy tờ còn sót lại, tìm tòi những dã sử, thu thập những truyện ký cổ kim còn chứa ở các nhà riêng trong dân chúng . Rồi đến những năm đầu của niên hiệu Quang Thuận (1460-1469), Lê Thánh Tông lại xuống chiếu tìm tòi những dã sử, thu thập những truyện ký cổ kim còn chứa ở các nhà tư nhân để đem về chứa cất ở kho sách riêng của vua để dùng trong việc tham khảo. Lại ra lệnh các Nho thần thảo luận biên chép, sắp xếp. Trong suốt quá trình quan lại của mình, Phan Phu Tiên đã trải qua nhiều cuộc thay ngôi đổi chủ do giặc ngoài, giặc trong chủ xướng và lần nào thì Phan Phu Tiên cũng thoát khỏi sự trừng phạt của các phe phái trong những cuộc chém giết tranh giành quyền lực đó: Lúc Quí Ly tiếm ngôi thì sao? (1400-1407) (7 năm). Trong thời hậu Trần (1407-1413) (7 năm) Phan Phu Tiên làm gì? Rồi trong thời thuộc Minh (1414-1427) (14 năm) thì Phan Phu Tiên ở đâu? Và gần nhất là sự soán nghịch của Nghi Dân? Dù muốn tìm một lý do chính đáng nào để chứng minh biện bạch thì cũng khó có thể che dấu nổi hình ảnh của một nhà nho hữu tài vô đức, không có tiết khí: bất trung, bất hiếu, luồn cuối, xu thời, len lỏi, gió chiều nào che theo chiều đó. Nhất định là Lê Thánh Tông đã xét nghiệm lòng trung quân của Phan Phu Tiên với một thái độ nghi ngờ như thế cho nên dù công trình soạn sử của Phan Phu Tiên có giá trị mấy đi chăng nữa thì cũng không đáng được Lê Thánh Tông ngó tới. Tuy nhiên, không thấy sử sách nói gì về thái độ đối xử của Lê Thánh Tông đối với trường hợp của Phan Phu Tiên mà cũng không ai biết bằng cách nào mà Phan Phu Tiên thoát được sự trách cứ của Lê Thánh Tông và thoát hiểm như những lần trước? Câu trả lời là: Phan Phu Tiên đã được Lê Thánh Tông làm ngơ không buộc tội quở trách một cách công khai nhưng chỉ còn đối xử với Phan Phu Tiên như một lão nho tuổi tác già yếu bất lực chỉ còn dùng được trong những công tác văn hóa không quan trọng chẳng hạn như công tác thu góp dã sử và các truyện, cùng các nhà nho khác VSTK - 77


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

23

24

25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

37

thảo luận biên xếp thư tịch thu lượm được rồi mang vào cất giữ ở nhà chứa sách của triều đình để dùng làm tài liệu tham khảo về sau. Rõ ràng là Lê Thánh Tông đã không chấp nhận bộ sử do Phan Phu Tiên biên soạn. Lý do không chấp nhận có thể là vì người soạn ra bộ sử đó trong quá khứ đã có những hành vi a dua theo bọn phản nghịch, đức độ không tốt. Hoặc là công trình soạn sử của Phan Phu Tiên đã bỏ sót không ghi chép một sử cố nào đó khiến cho Lê Thánh Tông không hài lòng? Sự thiếu sót đó mà theo Lê Thánh Tông nhất định phải là mộ thiếu sót nghiêm trọng gây tai tiếng xấu cho dòng dõi bề thế vương tộc của nhà Lê nói riêng và cho tất cả vương triều đã có từ trước nói chung. Có thể tóm lược phần kê cứu về Phan Phu Tiên như sau : 1. Phan Phu Tiên chỉ tu sửa bộ Việt Sử của Hồ Tông Thốc, 2. Bộ Sử của Phan Phu Tiên gọi là Sử Ký Tục Biên và gồm có 10 quyển, 3. Lê Thánh Tông không chấp nhận bộ sử do Phan Phu Tiên biên soạn. 4. Lý do không chấp nhận có thể là vì người soạn ra bộ sử đó trong quá khứ đã có những hành vi a dua theo bọn phản nghịch, đức độ không tốt hoặc là công trình soạn sử của Phan Phu Tiên đã bỏ sót không ghi chép một sử cố nào đó khiến cho Lê Thánh Tông không hài lòng. Ngô Sĩ Liên với Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục thì Ngô Sĩ Liên: Thọ: 98 tuổi Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn : (1418-1427). Có thể vào lúc nầy ông vào khoảng 15-17 tuổi. Đỗ tiến sĩ đời Lê Thái Tông (1434-1442= 1442 tức là năm Đại bảo thứ 2. Xét những sử gia sau thời Ngô Sĩ Liên thì thấy : Kiều Phú đỗ tiến sĩ lúc 25 tuổi : sinh năm 1450, (đỗ tiến sĩ năm 1475) Vũ Quỳnh đỗ tiến sĩ lúc 26 tuổi : sinh năm 1452, (đỗ tiên sĩ năm 1478) Vậy có thể cho rằng Ngô Sĩ Liên đỗ tiến sĩ vào khoảng tuổi 26-30, trung bình là tuổi 28. Từ đó có thể suy đoán năm sinh của Ngô Sĩ Liên : Năm đỗ tiến sĩ là năm

:

1442 VSTK - 78


1 2 3 4

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

37

38 39 40 41

Đỗ tiến sĩ vào lúc : ______ Vậy năm sinh có thể là : Và năm ông chết có thể là :

- 28 tuổi 1414 = 1414 +98 tuổi = 1512

Bài tựa sách ĐVSKKTT, Ngô Sĩ Liên có đề cập đến công tác thu nhặt tài liệu, sách cũ trong dân chúng như sau : ". . .Hoàng thượng (Lê Thánh Tông) trung hưng cơ nghiệp, sùng nho trọng đạo, chăm sóc sách vở, khảo xét văn chương, khoảng năm Quang Thuận (1460-1469) xuống chiếu tìm kiếm dã sử và các truyện ký xưa nay do các tư nhân cất giữ đều ra lệnh dâng cả lên để sẵn tham khảo. Lại sai các nho thần thảo luận biên sắp. Thần lúc trước ở Sử viện đã được dự vào việc ấy. Đến khi thần lại vào sử viện thì sách ấy dâng lên chứa ở Đông các, không được trông thấy nữa." (ĐVSKTT/QT/Tựa/ 1a). Từ những lời viết tựa của Ngô Sĩ Liên có những điểm đáng chú ý như sau : Cho tới những năm đầu của niên hiệu Quang Thuận (1459-1460) thì: Phan Phu Tiên vẫn còn sống sót sau biến cố Nghi Dân. (Đã đề cập ở phần trên) Ngô Sĩ Liên vẫn tiếp tục được giữ chức vụ Đô Ngự sử đã được phong cấp từ đời Lê nhân Tông. Sau khi Nghi Dân soán ngôi, Ngô Sĩ Liên lại được tiếp tục giữ chức vụ cũ, có nghĩa là cho đến đầu niên hiệu Quang Thuận, sau khi Nghi Dân bị hạ bệ (1459-1460), Ngô Sĩ Liên chưa có dính líu gì đến việc soạn sử. Khi Lê Thánh Tông ra lệnh tìm kiếm thu nhặt tài liệu, sách xưa truyện cũ trong dân gian (khoảng 1460-1469) thì Phan Phú Tiên có thể ở trong nhóm "Các Nho thần thảo luận biên xếp". Ngô Sĩ Liên cũng có tham dự :" Thần lúc trước ở Sử viện đã được dự vào việc ấy ". Cần chú ý rằng bài tựa của Ngô Sĩ Liên viết vào năm 1479 (Niên hiệu Hồng Đức thứ 10). Như vậy, ta có thể xác định rằng sau khi Lê Thánh Tông nắm giữ quyền hành đã ân xá tội chết cho cả Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên nữa. Lúc đó Phan Phu Tiên đã quá già yếu cho nên chỉ được giao phó một công tác văn hóa không quan trọng còn Ngô Sĩ Liên thì chỉ bị giáng chức và cũng bị đưa vào sử viện để cùng làm công tác văn hóa cùng với nhóm Nho thần thất sủng. Căn cứ vào đâu để cho rằng Ngô Sĩ Liên bị giáng chức? Theo LTHCLC/Quan chức chí/ Phan Huy Chú (Quan chế đời Hồng Đức/Văn giai/ trang 451) thì chức Ngự sử là chức vụ cao chánh tam phẩm - chức vụ khá quan trọng của một cận thần gần gũi và tín cẩn của vua. Chức tả hữu thị lang là tòng tam phẩm cũng là VSTK - 79


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13

14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

một chức quan cao nhưng chỉ là hàng phụ tá không có quyền hành rộng rãi như hàng chánh phẩm. Quốc tử giám tư nghiệp là tòng ngũ phẩm. Không thấy nói về phẩm cấp của chức vụ Sử quan tu soạn và rất có thể là chức vụ nầy so với chức vụ Hàn lâm viện tu soạn cũng chỉ là một và xếp vào hàng chánh bát phẩm.( đây là theo cách sắp xếp của thời Hồng Đức không thấy viết rõ về quan cách của chức sử quan tu soạn. Tuy nhiên trong khoảng niên hiệu Bảo Thái 1720-1729 thời Lê Dụ Tông /1706-1729 thì Quốc tử giám tư nghiệp xếp hàng tòng ngũ phẩm còn sử quan tu soạn thuộc hàng chánh bát phẩm. (LTHCLC/trang 457, 458). Chức Đại phu chỉ là một chức hàm dùng để ban thêm cho một quan lại giữ nhiệm vụ cố vấn nhưng không có phẩm trật cho chức nầy. Chức vụ của Ngô Sĩ Liên theo thứ tự thời gian như sau : 1443-1459 (Lê Nhân Tông ): Đô ngự sử (chánh tam phẩm). 1459-1460 (Nghi Dân): Đô Ngự Sử. 1461: (tháng 8 năm Tân Tỵ/ Quang Thuận/ năm thứ 2) bị Lê Thánh Tông trách cứ nặng nề và bị giáng xuống chức Lễ bộ hữu thị lang (tòng tam phẩm):từ hàng chánh xuống hàng tòng, từ một chức danh rất trọng vọng, tai mắt của vua ở Ngự Sử Đài, có thể tra xét tất cả các hàng bá quan văn võ nay bị biếm xuống một chức vị phụ tá (tòng) ở bộ Lễ chuyên giữ việc lễ nghi, tế tự, lễ mừng, tiệc yến, việc học, việc thi cử, các chi tiết về áo mũ. . . tức là một chức vị không quan trọng, một chức vị không dính líu gì đến nền an ninh nội chính của Lê Thánh Tông. Về việc trách cứ nầy ĐVSKTT viết: "Vua (Lê Thánh Tông) dụ bảo Đô ngự sử đài là bọn Ngô Sĩ Liên và Nghiêm Nhân Thọ rằng: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức độ, tuân theo điển cũ của thánh tổ Thần Tông nên mới tế Giao vào đầu mùa xuân. Các ngươi lại bảo tổ tông tế Giao cũng không đáng theo! Các ngươi bảo nước ta đời xưa là hàng phiên bang, thế là các ngươi theo đạo chết, mang lòng không vua. Vã lại, khi Lệ Đức hầu [Nghi Dân] cướp ngôi, Ngô Sĩ Liên chẳng vì hắn trổ tài phong hiến đó sao? Ưu đãi trọng lắm! Nhân Thọ không vì hắn trù hoạch nơi màn trướng đó ư ? Ngôi chức cao lắm! Nay Lệ Đức hầu mất nước về tay ta, các ngươi không biết vì ăn lộc mà chết theo hắn lại đi thờ ta. Nếu không nói ra, trong lòng các ngươi không tự hổ thẹn mà chết ư? Thực là bọn gian thần bán nước!" (ĐVSKTT/BK/Q.12/ 8a, 8b) Tội trạng gian thần bán nước là một tội rất nặng mà hầu hết trong các triều đại phong kiến đều áp dụng án tử hình đối với kẻ tội phạm. Như vậy thì tại sao Ngô Sĩ Liên và kể cả Phan Phu Tiên lại thoát được tội chết?

VSTK - 80


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

37 38 39 40 41

Trong cách xử sự với những quan lại cũ, Lê Thánh Tông là một ông vua khôn ngoan, sáng suốt và rất bản lĩnh trong thuật dùng người. Kể lại vụ biếm chức Binh bộ tả thị lang Nguyễn Đình Mỹ, ĐVSKTT viết : Vua dụ rằng: "Đồ dùng thì chuộng thứ mới, dùng người thì nên dùng người cũ. Nho thần tuổi già như bọn các ngươi còn mấy người đâu, mà ngươi phạm tội cũng là sau vụ phạm tội của Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Thiện thôi. Pháp ty giữ công bằng, theo luật phải giáng bãi, nhưng ta thì tiếc tài ngươi, sai đổi thành lệnh biếm chức. Pháp luật là phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi đều phải theo, ngươi nên nhớ lấy" (ĐVSKTT/BK/ Q.12/16a). (Giáp Thân/Quang Thuận/ năm thứ 5 [1464]). 1462- . . . : Quốc tử giám tư nghiệp (tòng tứ phẩm) kèm chức Triều liệt đại phu, một chức hàm không có thứ bậc và rất có thể là không có bổng lộc (Theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì năm Hồng Đức thứ 2 /1471, Lê Thánh Tông định quan chế và các tước thì chức hàm Triều liệt đại phu được ban cấp kèm thêm cho những quan lại có hàng tòng tứ phẩm). Cũng theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì chức vụ Quốc tử giám theo lệnh của nhà vua trông coi nhà Văn miếu, rèn tập sĩ tử, hàng tháng theo đúng kỳ cho tập làm văn để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nước. Đây cũng chỉ là một chức vụ không quan trọng và Ngô Sĩ Liên cũng chỉ được xếp đứng về hàng phụ tá (tòng) chứ không được trọn quyền nắm giữ. 1462-1469: Trong khoảng thời gian nầy, Lê Thánh Tông xuống chiếu tìm kiếm dã sử và các truyện xưa tích cũ cất giữ trong dân gian, ra lệnh dâng nạp cho triều đình để sẵn mà dùng trong việc tham khảo rồi sai các Nho thần thảo luận biên xếp. Chính là cũng trong dịp nầy Ngô Sĩ Liên được kiêm nhiệm thêm chức vụ Sử quan tu soạn (chánh bát phẩm) sung vào sử quán để tham dự vào công tác sưu tập đó. Trong việc xuống chiếu tìm kiếm dã sử và các truyện xưa tích cũ có thể là Lê Thánh Tông đã áp dụng một chính sách tịch thu, bài trừ, thiêu hủy các nguồn văn hóa phẩm và tất cả các loại sách vở hiện đang có trong dân chúng mà Lê Thánh Tông cho rằng có hại cho chế độ cai trị của mình nhưng sử cũ lại che dấu viết rằng công tác tịch thu chỉ là một công tác thu thập tài liệu để chuẩn bị cho việc viết sử. Một điểm then chốt cần lưu ý đặc biệt: quốc sử viện có ba chức phẩm khác nhau là Sử quan tu soạn, sử quan tu sử, sử quan đồng tu sử. Sử quan tu soạn là người có trách nhiệm trong việc sửa chữa sử cũ, viết bổ túc thêm những phần thiếu sót rồi sắp soạn lại thành sử mới. Với cương vị sử quan tu soạn, Ngô Sĩ Liên phải là người then VSTK - 81


1 2 3 4 5 6 7 8

9 10 11 12 13 14 15 16 17

18 19

20

chốt. Rất có thể là trong thời gian khởi đầu của công tác nầy Phan Phu Tiên vẫn còn sống và hiện diện trong nhóm nho thần kể trên. Tuy nhiên công tác của Ngô Sĩ Liên đã bị giáng đoạn vì phải vắng mặt về nhà lo việc tang chế. Trong khi vắng mặt Ngô Sĩ Liên thì công tác tu soạn vẫn tiếp tục và hoàn thành rồi chỉ được mang cất chứa ở Đông các: phải chăng đây là một bộ sử mới của nhà nước mà trong đó vẫn còn có sự đóng góp của Phan Phu Tiên và vai trò của Phan Phu Tiên đến đây kể như đã chấm dứt? Nhưng tại sao Lê Thánh Tông vẫn không chịu phê chuẩn, không dùng tới. Công trình đó biến đi đâu? Ngô Sĩ Liên viết: "Đến khi thần lại vào Sử viện thì sách ấy đã dâng lên chứa ở Đông các, không được trông thấy nữa." Giải thích tình trạng không được dùng tới như thế nào? Công trình sắp soạn và tu sửa của nhóm nho thần có thực sự được mang cất ở Đông các hay Lê Thánh Tông đã xé bỏ ? Để giải thích nguyên ủy của các nghi vấn vừa kể, có những điểm sau đây cần được nêu ra: 1. 2.

Tiêu chuẩn viết sử của Lê Thánh Tông là gì? Tại sao Ngô Sĩ Liên viết thêm phần Ngoại Kỷ ?

1/ Tiêu chuẩn viết sử của Lê Thánh Tông là gì?

27

Một thái độ thường thấy ở những người viết sử thời phong kiến: dù biết rằng những người đi trước đã viết sai, viết mù mờ, sao đi chép lại từ những tài liệu không có giá trị khoa học nhưng những kẻ tiếp nối theo sau vẫn không dám truất bỏ đi một cách dứt khoát mà vẫn giữ lại những loại truyện, những lời truyền tụng huyền hoặc mập mờ đó với một thái độ nửa tin, nửa nghi, không dứt khoát. Tuy nhiên nếu xét cho kỹ thì vẫn thấy được thái độ đó phản phất sự gò bó miễn cưỡng đối với

28

một nhà khoa học chân chính, vì nhà viết sử cũng là một nhà khoa học.

21 22 23 24 25 26

29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

Rõ ràng là những sử gia thời phong kiến đã không được tự do, độc lập và vô tư trong việc suy nghĩ và viết lách của mình. Họ viết theo ý của người ra lệnh và những người ra lệnh lại là những kẻ cao ngạo lúc nào cũng muốn cất mình lên ngang hàng vai với với ngoại bang phương Bắc. Sự cao ngạo không phát xuất từ niềm tự hào của dân tộc Việt Nam nhưng chính là từ bản chất tự tôn tự đại của một nhóm thiểu số phong kiến nắm quyền cai trị. Thêm vào đó, Nho Giáo lại là một yếu tố tác động khác cũng mạnh không kém gì với tính tự tôn mặc cảm của nhóm thiểu số cai trị khiến cho những người Nho học bị chìm đắm, bị lôi cuốn theo kẻ cầm quyền đương thời, bởi vì Nho giáo là học thuyết tạo dựng người cai trị, tạo dựng người quân tử và

VSTK - 82


10

nguyên tắc cai trị phải là chính danh(1). Khi nhà Nho bỏ qua nguyên tắc cai trị nầy, thì không còn được coi như một người quân tử nữa . Bị ép mình vào hai khuôn khổ vừa kể, những sử gia thời phong kiến đã phải tiếp tục cúi đầu theo vết chân của những người đi trước: thêm vào đó củng cố những cái đã có thì được nhưng cắt bớt để gột bỏ những sự mờ ám nửa tin nửa nghi thì chẳng ai có gan để khởi xướng và dù có khởi xướng và sửa đổi (trùng tu) thực sự thì cũng ít khi được chấp nhận. Trong bối cảnh đó, Lê Văn Hưu, Phan Phú Tiên, Ngô Sĩ Liên và những nhà viết sử kế tiếp đã Tu soạn nền sử học Việt Nam thời phong kiến.

11

(1) Chính danh: tức là đúng với ý nghĩa của hai chữ quân tử. Con người chỉ đạt đến

12

bậc quân tử bằng hai nổ lực thông hiểu và đạo đức.

1 2 3 4 5 6 7 8 9

13 14 15 16 17

18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

28 29 30 31 32 33 34 35

36 37 38 39 40

Qua những lời trách cứ mà Lê Thành Tông nhắm vào những người trong Đô Ngự Sử Đài là Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ cũng như trong dịp biếm chức Binh Bộ Tả Thị Lang Nguyễn Đình Mỹ người ta có thể suy định được quan điểm của Lê Thánh Tông về nguồn gốc dân tộc và thuật dùng người như sau: Đối với Lê Thánh Tông gốc gác của những người được quyền sở hữu ngôi vua không cùng một gốc gác với dân tộc đang ở dưới quyền cai trị của ông vua đó. Phải là con trời "thiên tử" thì mới được làm vua tức là người thay mặt ông trời để thi hành đạo lý dưới trần thế. Vua là hình ảnh tiêu biểu của một dân tộc có tầng cấp, có đạo lý. Một dân tộc không có tôn ti trật tự, không có viền mối kỷ cương là một dân tộc man di không biết vua, không biết trời đất. Kẻ tự nhận mình là phiên rợ, man di, không có đạo lý thì kẻ đó là kẻ không vua, vô đạo, mất gốc đáng ghép vào tộI chết tương đương với tội gian thần bán nước. Đây là một quan điểm yếm trá độc đoán dùng để chối bỏ nguồn gốc, cội rễ thực sự của mình, để bôi vẽ bề thế gốc gác của một cá nhân hay của một dòng họ gia tộc đang nắm quyền thống trị. Không lý nào Lê Thánh Tông cũng là một người học cao hiểu rộng mà lại không có được một ý niệm sơ đẳng về nguồn gốc dân tộc, về vị trí nguyên thủy của lãnh thổ Việt Nam hay sao? Những sách vở nghiên cứu về nguồn gốc lãnh thổ và dân tộc Việt Nam cho thấy : Về mặt lãnh thổ, Việt Nam được cấu tạo và phát triển trên thềm đất của vùng Nam Á và Đông Nam Á, vùng đất gọi là Bách Việt cùng thời với những lãnh thổ Việt khác phân cách với vùng Bắc Á bởi con sông có tên là Dương Tử Giang chạy dài từ Đông sang Tây và vùng lãnh thổ phía Nam giáp giới với lãnh thổ của bộ tộc Lâm Ấp (Chàm). VSTK - 83


1 2

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14

15 16 17 18 19 20 21

22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

32 33 34 35 36 37 38 39 40

Vùng phía Bắc sông Dương Tử là địa bàn khởi nghiệp của bộ tộc Trung Hoa (bộ tộc Pawa=Hoa). Về mặt nhân chủng, tộc Việt Nam được tạo dựng trong phạm vi hình thành những chủng tộc ở phía Đông trải qua nhiều thế hệ và giai đoạn: 1. Chủng Indonesian vùng Đông Nam Á vào khoảng trên dưới 10,000 năm trước Tây lịch, do sự phối hợp của chủng Indonesian nguyên thủy (Melanesian) + chủng Australoid+ chủng Mongoloid (một trong những dòng chủng Á Châu ở gần vùng Mông Cổ, không phải người Mông Cổ hiện nay); 2. Chủng Nam Á (Austroasian ) vùng Nam nước Tàu và vùng phía Bắc Việt Nam vào khoảng trên dưới 4,000 năm trước Tây lịch, do sự phối hợp của một nhóm chủng Indonesian + dòng chủng Á từ phía Bắc ; 3. Chủng Nam Á phân tách ra thành các chủng Việt như Ngô Việt, Mân Việt, Âu Việt, Điền Việt, Lạc Việt, Bách Việt , vân . . .vân. 4. Chủng Bách Việt ở vùng cực Nam qua những tiến trình phối chủng với những dân tộc địa phương nguyên thủy tạo thành các chủng tộc Việt Nam, Việt Mường, Việt Tày, Việt Thái, Việt Mèo, Việt Dao, vân . . .vân. Cũng trong giai đoạn nầy, nhóm chủng Indonesian di chuyển dọc về phía Nam dãy Trường Sơn bắt đầu sinh sống lập nghiệp lâu dần trở thành các tộc chủng riêng như Chàm, Ê Đê, Gia Rai , vân . . vân. Theo sự nghiên cứu trên đây thì nguồn gốc của chủng tộc Việt bắt đầu từ một tổng hợp của nhiều nguồn gốc nhân chủng khác nhau qua một thời gian dài để thành chủng Nam Á rồi dần dần qua nhiều thời đại phối chủng mà thành các chủng tộc Việt ở phía Nam sông Dương Tử gọi là Bách Việt. Lãnh thổ của chủng Bách Việt bị bộ tộc người Pawa (Pawa =Hoa tức là người Hoa bây giờ) từ phía Bắc sông Dương Tử tràn xuống xăm chiếm và bành trướng mãi về phía cực Nam, trải qua nhiều thời đại trở thành thuộc địa của người người Hoa với cương giới kéo dài từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam xuống tới biên giới miền Bắc Việt Nam ngày nay. Một tài liệu nghiên cứu về ngôn ngữ của chủng tộc Việt Nam cho biết rằng : "Tổ tiên người An Nam (tiếng Pháp là les Annamites) là kết quả sự lai giống của dân Thái-Shan miền Nam nước Trung Hoa với đa số thổ dân địa phương miền núi và miền đồng bằng Bắc Việt và Bắc Trung Việt. Những thổ dân đó thuộc giống Thi Lãng còn gọi là Mon (Mán, Mường) (Les Langues du Monde/1887/ Lacouperie). Sự phối trộn giữa chủng Thái-Shan và Thi Lãng cũng giống như sự phối trộn và phân hóa của chủng Nam Á (Austroasian) thành các tộc chủng Việt VSTK - 84


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

rồi các chủng tộc Việt phiêu bạc về phương Nam lại phối chủng với các tộc giống Việt Nam nguyên thủy ở địa phương để tạo thành các sắc tộc Việt Nam ngày nay. Các giống tộc địa phương ở vùng Bắc Bắc Việt, Bắc Trung Việt, Bắc Lào, Bắc Thái hay gọi chung là tộc giống Thi Lãng, một giống tộc lâu đời đã hiện diện từ thời đại tạo chủng Indonesian vùng Đông Nam Á Châu. Con cháu giống Australoid mà điển hình là thổ dân Úc Aboriginees vẫn còn sinh tồn ở Úc Châu cũng như giống Thi Lãng vẫn còn tồn tại được ở tại một số vùng bờ biển của Miến Điện và một số ở phía Tây thủ đô Bangkok Thái Lan: tiếng nói của họ hiện nay, ngôn ngữ Mon, rất giống với ngôn ngữ Việt Nam. Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên viết: "Tại Bắc Kỳ, công cụ đá tìm được ở những cuộc khai quật cho thấy những cư dân có quan hệ với người Indonesian và người Melanesian ở kề nhau tại thời tiền sử. . .Nhưng nguồn gốc dân tộc Việt Nam vẫn cực kỳ mù mịch. . ." Hợp lý hơn hết là chấp nhận sự thiếu hiểu biết của chúng ta về nguồn gốc xa xôi của người Việt Nam, những người chắc chắn là đã được kết tạo qua nhiều sự tạp giao và công nhận rằng tổ tiên của những người Việt Nam nầy đã cư ngụ tại miền trung, đồng bằng Bắc Kỳ từ một thời đại rất xa. Có quan hệ với ngữ tộc Thái, là bà con rất gần với người Mường ở Hòa Bình và Thanh Hóa, Người Việt Nam hiện nay chẳng qua chỉ là người Mường đã bị đồng hoá với người Hán (người Hoa) và có lẽ là lai giống nhiều."(Connaissance de l'Indochine/La Civilisation annamite /1939/ par Nguyễn Văn Huyên, Docteur ès-lettres, Membre de L' École Francaise d'Extrême-Orient).

Ở thời đại Lê Thánh Tông không thấy có một nhà Nho tài giỏi nào thâm cứu về chủng tộc xác thực của người Việt Nam. Có thể vì đây là một vấn đề quá lớn và quá xa đối với họ cho nên dù có nghĩ tới nhưng vì hoàn cảnh lúc đó không thích hợp cho một sự thâm cứu như vậy khiến họ phải bịt mắt khép tai. Bằng chứng sự hiểu biết của họ có thể thấy được qua việc Lê Văn Hưu rồi Hồ Tông Thốc gạt bỏ kỷ Hồng Bàng thị ra ngoài bộ Sử của họ, và nhất là qua những lời phát biểu "Nước ta thuộc hàng phiên ban" hoặc "tế Giao cũng là không phải " của Đô ngự sử Ngô Sĩ Liên trong khi đang giữ vai trò cố vấn cho Lê Thánh Tông; rồi đến các nhà Nho viết sử tiến bộ của thời nhà Tây Sơn, của thời nhà Nguyễn cũng không bừa bãi lầm lẫn về nguồn gốc thực sự của tộc chủng Việt Nam. Sử cũ cho thấy Lê Thánh Tông là một nhà nho sáng chói, uyên bác, thấy xa, hiểu rộng và là người biến Nho giáo thành quốc giáo thì đúng ra Lê Thánh Tông phải được coi như là một người quân tử đầu đoàn thống lãnh guồng máy cai trị lúc đó bởi vì mục đích của Nho giáo là đào tạo người cai trị tốt tức là người cai trị có đạo đức, một người quân tử chính danh. Để thành quân tử thì phải tu thân tức là phải đạt được Đạo và Đức. Nếu một trong hai yếu tố nầy khiếm VSTK - 85


1 2 3 4 5

6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

khuyết hoặc hà tị, tai tiếng dị nghị thì sẽ bị xem là quân tử trá hình, là ngụy quân tử. Muốn đạt tới cái Đức thì quan trọng hơn hết là phải biết kiềm chế mình tức là loại bỏ khỏi bản thân ý thức vượt trên người khác, đè nén sự khoe khoang hợm mình, bỏ đi sự tạo thù gây oán, chế ngự sự thèm muốn cao ngạo. Vì khoe khoang hợm mình muốn vượt trên người khác, vì cao ngạo thèm muốn được cao trọng ngang vai vế với dòng dõi vua chúa bên Trung Quốc cho nên cái đức của người quân tử Lê Thánh Tông đã bị tì ố, và Nho giáo đã bị Lê Thánh Tông làm biến dạng theo chiều hướng cá nhân độc tôn, không dân chủ, thần thánh hóa vai trò người lãnh đạo. Từ đời nhà Đinh, lúc dân tộc Việt Nam dành được độc lập thì nền văn minh của người Hoa đã được tiếp nhập hoàn toàn. Nền quân chủ chuyên chế được dựng lên trong nước, vua lấy danh hiệu Hoàng Đế giống như vua Trung Hoa và cũng có những quyền hành giống như thế. Trong thể chế quân chủ thì Hoàng Đế là Thiên Tử tức là con của ông trời. Thiên Tử thay trời hành đạo, trị dân. Chỉ có Hoàng Đế mới được ông trời trao quyền; tất cả mọi người khác kể cả những thần thánh quỷ ma trong nước đều dưới quyền của Hoàng Đế. Vua là cha mẹ của dân cho nên có quyền tuyệt đối trên sinh mạng và tài sản của dân. Giống như người chủ gia đình phải thờ cúng tổ tiên, vua cũng phải thờ cúng tổ tiên của mình. Bởi vì tổ tiên chính tông và cao trọng nhất của vua là ông trời cho nên cách thức thờ cúng tế lễ ông trời phải được tổ chức một cách đặc biệt long trọng: lễ tế Giao. Bài bác việc lễ tế Giao có nghĩa là không chấp nhận có trời, không tin vua là con của ông trời. Lời dụ trách cứ nặng nề của Lê Thánh Tông là một bản án treo tử hình, một sự cảnh cáo nghiêm khắc sẽ đeo đẳng và ám ảnh Ngô Sĩ Liên rất lâu và tạo áp lực nặng nề vào công tác biên soạn bộ ĐVSKTT. "Đồ dùng thì chọn thứ mới, dùng người thì nên dùng người cũ. . . . Nho thần tuổi già như bọn ngươi còn mấy người đâu . . .", đó là quan điểm của Lê Thánh Tông về thuật dùng người. Đồ dùng ở đây bao gồm cả những bộ quốc sử của Lê Văn Hưu, của Hồ Tông Thốc, của Phan Phu Tiên nhưng đó là những bộ sử cũ nên không được dùng tới; người cũ được dùng lại nhưng phải là những người có học thức uyên bác có kinh nghiệm như Phan Phu Tiên, Nguyễn Đình Mỹ, Ngô Sĩ Liên. Dù những hạng người nầy có phạm lỗi nghiêm trọng nhưng vì họ chỉ là một nhóm nhỏ quan văn già yếu còn sót lại, không có khả năng làm loạn cho nên mới được tha tội tù hoặc tội chết. VSTK - 86


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17

18

19 20 21 22 23 24

25 26 27 28 29 30 31

32 33 34

Cách dùng người của Lê Thánh Tông không phát xuất từ đức nhân ái của người quân tử nhưng lại chính là một phương pháp hăm dọa nham hiểm để bắt người khác phải run sợ tuân phục. Sự run sợ tuân phục nầy được thấy trong bài biểu dâng sách ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên : "Lễ bộ hữu thị lang, triều liệt đại phu kiêm Quốc tử giám tư nghiệp, kiêm Sử quan tu soạn, thần Ngô Sĩ Liên nay đội ơn thánh thượng cất nhắc cho thần chức vụ ở Sử quán, thần đem hai bộ Đại Việt Sử Ký trước đây, tham khảo thêm các dã sử, soạn thành sách Đại Việt sử ký toàn thư, kính cẩn chép làm 15 quyển dâng tiến. Thần Ngô Sĩ Liên thật là sợ hãi, cuối rập đầu dâng lời tâu : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . Thần Ngô Sĩ Liên tình dưới khôn xiết, trông trời ngước thánh, cảm kích sợ hãi rất mực, kính cẩn sửa đóng thành pho, gói kín toàn bộ, kèm theo tờ biểu dâng lên. Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479), tiết Đông chí "(ĐVSKTT/Q.Thủ/1a/Biểu dâng sách ĐVSKTT). Có thể tóm lược phần kê cứu về Ngô Sĩ Liên như sau : 1. Trước Ngô Sĩ Liên đã có sẵn nhiều bộ sử ký kể luôn cả bộ sử của nhóm nho thần biên soạn với sự tiếp tục có mặt của Phan Phu Tiên và sự tham gia nửa chừng của Ngô Sĩ Liên. Những bộ sử nầy không được Lê Thánh Tông công nhận vì không viết ra gốc tích thần thánh của các vua chúa đã và đang nắm quyền thống trị dân tộc Đại Việt. 2. Ngô Sĩ Liên là một nhà Nho có sĩ khí, ngay thẳng, trung thực trong khi giữ chức Đô Ngự Sử. Các đức tình nầy đã bị cùn lụt co cụm lại sau khi bị Lê Thánh Tôn trách cứ một cách nặng nề thậm tệ. Sự trách cứ nầy là một bản án treo tử hình ám ảnh và ảnh hưởng sâu đậm khiến cho Ngô Sĩ Liên khi được Lê Thánh Tông giao phó nhiệm vụ biên soạn ĐVSKTT đã phải dẹp bỏ sĩ khí của mộ nhà Nho chính danh để viết sử theo ý hướng của Lê Thánh Tông. 3. Ngô Sĩ Liên là sử gia đầu tiên đưa kỷ Hồng Bàng Thị và Thục Phán vào quốc sử để thỏa mãn bản chất cao ngạo, hợm mình của Lê Thánh Tông. *

VSTK - 87


HẬU QUẢ CỦA VIỆC ĐƯA KỶ HỒNG BÀNG THỊ VÀO CHÍNH SỬ 1 2

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

33 34 35 36

37

Trước và sau, kể cả Ngô Sĩ Liên, theo tuần tự thời gian đã có nhiều ý kiến phê luận về những điều quái đản viết trong kỷ Hồng Bàng. Hồ Tông Thốc: đỗ Thái học sinh đời Trần Nghệ Tông và làm quan nhà Trần cho dến khi Hồ Quý Ly cướp ngôi (1370-1399); tác giả tập truyện ký Nam Việt Thế Chí và bộ Việt Sử Cương Mục. Nam Việt Thế Chí (NVTC) có 2 quyển. Quyển đầu chép thế phả 18 đời họ Hồng Bàng. Bài tựa NVTC có đoạn viết : "Sách chép về thê phả vốn có từ lâu, cốt xét các đời đã qua, để rõ nguồn gốc lưu truyền, kê cứu những điều truyền văn, để rõ những tiêu chuẩn xưa nay. Hiềm vì chuyện tin chuyện nghi lẫn nhau, có điều chưa hợp hẳn với lòng người .Nhưng việc đời biến đổi khác nhau thì làm sao lại khỏi có những điều quái gở. Nghìn năm về sau, khó lòng biết được đầy đủ, mà tìm trong sách vở cũng không thể tra cứu vào đâu . . . . . . . Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều là lượm lặt ở tiếng vang chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả kỷ từng đời mà thôi, còn những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó xét, tạm giữ đó để chờ các bực quân tử sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị để mê hoặc người đời. Đọc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy nghiệm thì ngọc và đá đều sẽ rõ ràng, những hình tiếng bóng vang của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ v. . v . . . " Ngô Sĩ Liên: trong bài tựa sách ĐVSKTT, Ngô Sĩ Liên cũng phải đề cập tới tính cách quái đản của kỷ Hồng Bàng thị do chính tay mình lần đầu tiên chép vào quốc sử: ". . . . Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương. Nhưng vì thiếu sử sách biên chép mà sự thực đều nghe truyền miệng, lời ghi có phần quái đản, sự việc có khi quên sót, cho đến viết chữ không đúng, ghi chép rườm rà, chỉ làm loạn mắt, còn dùng làm gương sao được.." Khi phê luận về việc Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, trong đoạn Sử thần Ngô Sĩ Liên nói có đoạn viết như sau về tính cách vô luân của sự kết hôn nầy: "Xét sách Thông giám ngoại kỷ nói: "Đế Lai là con Đế Nghi"; cứ theo sự ghi chép ấy thì Kinh Dương Vương là em ruột của Đế Nghi, thế mà kết hôn với nhau, có lẽ vì đời ấy còn hoang sơ, lễ nhạc chưa đặt mà như thế chăng ?" Ở một đoạn khác Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: VSTK - 88


1 2 3 4 5

6 7 8 9 10 11 12 13 14

15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

"Thời Hùng Vương đặt chư hầu để làm phiên giậu, chia nước làm 15 bộ. Ở 15 bộ ấy đều có trưởng và tá. Vua theo thứ bậc cắt đặt các con để cai trị . . .Còn như việc Sơn Tinh, Thủy Tinh thì rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi." (ĐVSKTT/NK/Q.1/ 5a). Vũ Quỳnh (1452-1516): trong ĐVSKTT, Vũ Quỳnh không để lại mộ ý kiến nào về Kỷ Hồng Bàng Thị. Tuy nhiên, theo thứ tự thời gian,Vũ Quỳnh là một trong những người đã hiệu chính tập truyện ký Lĩnh Nam Chích Quái trong đó có truyện Hồng Bàng thị truyện mà hầu hết các nhân vật đều được viết lại trong ĐVSKTT. Theo Vũ Quỳnh thì những truyện trong LNCQ "có quan hệ đến cương thường, đến phong hoá không phải là nhỏ" coi như là những mẩu truyện luân lý chỉ dùng "để tiện xem ở trong nhà mà thôi" (LTHCLC/Văn tịch chí/ bài tựa LNCQ). Hồ Sĩ Dương (1621-1681): trùng tu sách Lam Sơn Thực Lục do Lê Lợi ngự chế. Trong khoảng 1663-1665 có tham dự vào việc biên tu bộ ĐVSK Bản Kỷ Tục Biên do Phạm Công Trứ đứng làm Tổng tài (Sử gia/VNVHSY/1941/Dương Quảng Hàm). Trong bài tựa của bản trùng tu LSTL có đoạn viết: "Ôi! Quyển Lam Sơn Thực Lục nầy không nói chuyện hoang đường như Lĩnh Nam Chích Quái, không chép những điều quái loạn như Việt Điện U Linh tập"(Lam Sơn Thực Lục/ LTHCLC, đd). Năm 1676, Hồ Sĩ Dương được giao cho nhiệm vụ "trông coi việc sửa Quốc sử " nhưng công việc chưa xong thì mất vào năm 1681 và nhiệm vụ đó được giao cho Lê Hy. Nếu Hồ Sĩ Dương không chết thí có thể Kỷ Hồng Bàng đả biến mất trong ĐVSKTT. Ngô Thời Sĩ: (1725-1780): tự Thế Lộc, hiệu Ngọ Phong hay Nhị Thanh cư sĩ, người phủ Thanh Oai (Hà Đông), đậu tiến sĩ năm 41 tuổi (1766/ đời Lê Hiến Tông/ Cảnh hưng thứ 27), tác giả Việt Sử Tiêu Án là sách khảo sát, phê bình các bộ sử cũ từ trước cho đến năm 1418. Ngô Thời Sĩ viết: "Tục truyền thuở trước nước Việt ta có vua đầu tiên là Kinh Dương Vương. Cháu ba đời của Viêm đế là Minh đế lúc đi tuần thú miền Nam gặp tiên nữ họ Vụ bèn lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục là người đoan chính cho nên Minh đế yêu thương muốn lập làm người kế ngôi nhưng Lộc Tục nhường cho anh là Nghi. Minh đế bèn phong cho Lộc Tục làm vua tại Nam Việt gọi là Kinh Dương Vương. Con của Kinh Dương Vương là Sùng Lảm nối ngôi gọi là vua Lạc Long. . . .cứ như truyện chép ở thời đó, vua Lạc Long về ở trong động nước, khi dân có việc cần thì kêu to lên "Bố ở đâu, lại đây với ta "thì Long Quân lại ngay. VSTK - 89


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

38

39 40 41 42

Lúc bấy giờ Đế Lai đi tuần du xem phong cảnh núi sông. Nàng Cơ ở tại hành cung một mình. Người trong nước khổ vì bị người phương Bắc quấy nhiễu cho nên lại gọi Long Quân ra. Long Quân ra trông thấy nàng Cơ đẹp mà bằng lòng lấy, đưa về cho ở trong biển (Sử kiêng không nói chuyện ấy ra, chỉ nói là lấy con gái Đế Lai, là vì xấu hổ việc trai gái chim chuột không khác gì cầm thú, đều là việc không nên nói ra, không bằng bỏ đi thì hơn). . . . . . Ở một đoạn khác, Ngô Thời Sĩ lại dùng những lý luận so sánh kèm theo những lời lẽ nặng nề để bênh vực những truyện kỳ quái dị thường đó: "Sử chép Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên sinh ra Kinh Dương Vương còn sử nhà Nguyên Ngụy thì chép: tục ngữ nói Cát Phân Hoàng Đế không vợ, hai điều nầy cũng giống như nhau. Đại để các bậc thánh thần là do khí thiêng tạo dựng có khác thường nhân nhưng thấy còn có lý. Còn như chuyện Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình, Lạc Long lấy Âu Cơ, loài ở dưới nước lấy loài ở trên cạn, thần thánh ăn ở chung chạ với người, lời đó có vẻ không phù hợp với lẽ thường. Theo tôi nghĩ thì: trời đất từ dựng mở, nước ta nhân văn ở sau Trung Quốc, nước lục đời Nghiêu chưa bình, cái vạc xưa vua Vũ chưa đúc, mênh mông biển Quế Hải vẫn là tổ rồng rắn ma quỉ tụ hợp, những chuyện kỳ quái sao lại không có. Chuyện đời Chu nước dãi con rồng tụ lại mà sinh ra người con gái còn có được, huống hồ là đời Kinh Dương Lạc Long ? Việc tựa hồ lạ mà không phải lạ và cũng không nên tự coi mình là hẹp hòi như con hạ trùng thì mới phải ". Âu Cơ là con gái của Đế Lai mà Đế Lai là con của Đế Nghi, Đế Nghi là anh cùng cha khác mẹ với Kinh Dương Vương ; như vậy Lạc Long Quân là chú của Âu Cơ: chú lấy cháu gái, một hành vi vô luân trái đạo đức mà chỉ có loài cầm thú hạ trùng không có lương tri mới làm như thế mà ngay cả Ngô Thời Sĩ cũng đã phải đồng ý không còn cách nào để biện bạch hành vi trai gái chim chuột không khác gì loài cầm thú đó. Loài ở dưới nước lấy loài ở trên cạn, rồi đẻ ra trăm trứng đem vứt ra ngoài đồng để tự động nở ra thành một trăm quái thai đẹp kỳ dị mà không cần phải bú mớm nuôi nấng. Đây rõ ràng là một sự phối chủng bệnh hoạn, quái đản, phản khoa học mà chỉ có những người đầu óc bệnh hoạn, hẹp hòi, chậm tiến mới cho là có thật, mới cho là không phải lạ.

Quốc Sử Quán Triều Nguyễn và vua Tự Đức (1856-1884):

Bản Tấu Nghị cuả nhóm quan lại được tuyển chọn để biên soạn bộ KĐVSTGCM có đoạn viết : "Nay vâng tra cứu sử cũ thì đời Hồng Bàng có những tên là Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân. Nhưng đó là thuộc về đời thượng VSTK - 90


8

cổ, vẫn còn hỗn độn mơ hồ, tác giả do từ chỗ không hư bày đặt ra, rồi lại vì sợ không đủ cho người ta tin, nên phải dựa vào truyện Liễu Nghị(1) đời Đường của người viết tiểu thuyết để làm chứng cớ. Cứ như Kinh Dương Vương thuộc nước Tần, Động Đình thuộc nước Sở, có liên quan gì với nước ta đâu? Huống chi những chuyện lạ lùng quái gở, rất mực trái lẽ thường, thế thì vịnh vào chỗ nào được để nghiểm nhiên cho rằng những người ấy là những nhà vua đầu tiên đã xây dựng nước nhà và lập nền chính thống(2)? (ĐVSTGCM/T.N/Q.Thủ/

9

3b,4a) . . .

1 2 3 4 5 6 7

10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

Duy bề tôi là Đặng Quốc Lang thiết nghĩ về đời họ Hồng Bàng, có Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương; vẫn biết rằng triều đại đã quá xa xôi, mà cũng không có văn tự lưu truyền, những việc được chép lại phần nhiều là hoang đường quái đản cả. Nhưng các vua đó đã thành lập kinh đô, gây dựng nước nhà, trải qua cũng phải nhiều năm lắm, thế thì cũng đề là những vua đầu tiên của nước Việt ta. Trong quá khứ, sử thần triều Lê là Ngô Sĩ Liên đã biên soạn Đại Việt Sử Ký vào năm thứ 10 niên hiệu Hồng Đức (1479). Vào lúc đương thời Thánh Tông Thuần Hoàng Đế yêu chuộng văn học, ban lệnh sưu tìm các loại sách dã sử cùng với các loại sách truyện ký xưa nay cất giữ trong dân chúng để tham khảo đầy đủ. Bộ sách đó rõ ràng đã khởi đầu từ Hồng Bàng, lấy Kinh Dương Vương như là vua khởi đầu chính thống(2) của quốc gia.Vào thời đó, đình thần quan lại thâm nho đông đảo trọng vọng và có uy tín thế mà chẳng có ai lên tiếng một lời chê bai. Hơn nữa bộ sách ấy được soạn từ hơn ba trăm năm trước, trải qua những năm Hồng Thuận, Cảnh Trị đời nhà Lê, đã hai lần ban lệnh các nho thần biên soạn khảo cứu và sửa chữa, thế mà trong giai đoạn đó thiếu chi những người có họ thức uyên bác vậy mà cũng chẳng có một sự thay đổi nào cả. Như vậy bộ sử cũ do Sĩ Liên biên soạn thiết tưởng cũng không phải là từ chỗ không có chứng cớ mà ra. Nay, nếu chỉ khởi đầu chép từ đời Hùng Vương mà thôi còn thời hai vua Kinh Dương và Lạc Long chỉ chép phụ ở phía dưới thì e rằng khó làm được đầy đủ thứ tự các đời và tỏ rõ nguồn gốc . . . . Chúng tôi xin trộm nghĩ rằng về thời đại Hồng Bàng thì nên khởi sự chép từ hai đời vua Kinh Dương và Lạc Long, tóm lượt những việc có lý liên tiếp đế thời Hùng Vương hầu làm sáng tỏ nguồn gốc nền chính thống của quốc gia. Còn như những chuyện hoang đường quái lạ thì nên chép phụ vào ở phía dưới của phần Mục nhằm để gìn giữ lại những truyền thuyết đó. . . " (VSTGCM/nt/7a,b)

40

(1) Truyện Liễu Nghị: xem phần trên (2) Chính thống: thống nhất thiên hạ, liền nối về một mồi. Ở đây chỉ dòng dõi chính

41

của một họ được truyền ngôi vua.

39

42

Vua Tự Đức:

VSTK - 91


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

Trong Dụ Chỉ(1) ban xuống lần thứ nhì về việc biên soạn bộ DVSTGCM, Tự Đức có ý kiến như sau : "Biên chép lịch sử là một việc lớn. Việc tra cứu chuyện xưa để viết lại sử có liên quan tới việc làm mẫu mực dạy bảo lại vừa ngụ ý khuyên răn, trách phạt. Vậy, phần nghĩa lý thể lệ cần phải rõ ràng và chính đáng, những điều đáng ghi chép hay gạt bỏ thì phải thi hành một cách nghiêm chỉnh và công tâm.. Lần nầy Phan Thanh Giản(2) cùng các đình thần trông coi việc sửa chữa biên chép Việt sử dâng trình lên bản Phàm lệ(3). Trẫm đã duyệt xem kỹ, thấy ý kiến của các sử quan có chỗ hợp nhau, có chỗ không cùng một ý kiến nhưng bên nào cũng có cái đúng cái sai. Nếu không dựa vào sự cùng nhau bàn thảo mà lại để một mình ta phân định, thì lấy gì làm mẫu mực nêu gương sáng cho trăm đời noi theo và làm sao để mà định cán cân cho người cầm bút ? Sử cũ nước Việt ta chép lại việc Kinh Dương Vương và Lạc Long, hoặc còn lại hay mất đi, nhưng nếu hãy còn thì tốt hơn là không nên bàn luận tới. Vậy mà sử cũ lại cứ khăn khăn chép bằng hàng chữ lớn và trong những việc được chép đó phần nhiều lại là những chuyện trâu quỷ rắn thần, những thuyết hoang đường quái lạ, trái với lẽ bình thường. Vậy thì, nếu theo ý bỏ điều quái dị giữ việc bình thường thì đối với người làm sử viết kiểu như thế có được hay không ?. . . ." Lời phê bình của Tự Đức về việc Âu Cơ đẻ ra một trăm trứng nở thành một trăm con trai như sau : "Kinh Thi có câu: Tắc bách tu nam (hằng trăm con trai) thì đó chỉ là lời chúc tụng có nhiều con trai, xét sự thì chưa đến số đó, huống chi lại nói là đẻ ra một trăm trứng? Nếu quả thật có như vậy thì có khác gì loại cầm thú chứ làm sao gọi được đó là con người? Ngay cả đến chuyện nuốt trứng chim én hay giẫm lên dấu chân người khổng lồ cũng chưa quái đản đến mức như thế. Như vậy chuyện này so với chuyện mình rắn đầu người, mình người đầu trâu thì cũng đều là một loại hoang đường không thể kê cứu được". *

32 33 34 35 36 37

(1)Dụ chỉ: lệnh viết của vua ban xuống cho các cấp dưới của triều đình. (2)Phan Thanh Giản: (1796-1867), người huyện Vĩnh Bình, tỉnh Vĩnh Long, đỗ tiến sĩ năm 1826. Làm quan đến chức Hiệp biện Đại học sĩ. Năm 1867 tự tử chết vì không chịu đầu hàng giặc Pháp. (3)Phàm lệ: bài viết ở đầu sách để trình bày thể lệ về việc biên soạn quyển sách đó.

38 39 40

Trên đây là dư luận của những người có tiếng tăm ở thời phong kiến về việc đưa kỷ Hồng Bàng vào lịch sử các triều đại vua chúa Việt Nam thời xưa. Một cách tổng quát thì hầu hết các dư luận thời nầy VSTK - 92


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

39

40 41

đều ẩn hiện dấu vế khó chịu, lúng túng về tính cách quái đản, phản khoa học của những cách thức phối chủng dị loại giữa người và thú. Tuy biết là sai nhưng họ vẫn phải nhắm mắt chép vào, người đầu tiên là Ngô Sĩ Liên thì do áp lực của một Lê Thánh Tông cao ngạo hợm mình, những người nối tiếp chép lại vì vẫn còn phải ép mình dưới một triều Lê kéo dài. Suốt quá trình kiến tạo bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chẳng có một danh nho nào dám can đảm lên tiếng về những hiện tượng quái vật được tôn xưng là quốc tổ của lãnh thổ Văn Lang. Đó không phải là một sự lầm lẫn ngay tình kéo dài nhưng chính là một hành vi cố tình lường gạt man trá không có dân tộc tính. Chủ chốt của sự lường gạt lịch sử nầy là nhóm vua chúa phong kiến triều Lê do Lê Thánh Tông khởi xướng vì bản chất hợm hỉnh cao ngạo cùng với sự ám ảnh dai dẳng của ý tưởng Chính Thống, sản phẩm của bọn vua chúa thực dân Bắc phương du nhập vào nước Việt Nam. Những sử gia có trình độ học vấn cao, với phong cách của một nhà Nho chính danh có sĩ khí từ Ngô Sĩ Liên cho đến Lê Hy chỉ là những công cụ ghi chép của người chủ xướng. Họ có băn khoăn, nghi ngờ, khó chịu nhưng không thể làm gì khác hơn được mà chỉ còn có một cách là dĩ nghi truyền nghi, "ngờ để truyền ngờ" để tự bào chữa cho việc ghi chép gượng ép của mình. Chỉ có những người hẹp hòi, chậm tiến, trên đội dưới đạp mới cố tình tìm những lý lẽ ngu ngơ để bênh vực những chuyện ma trâu thần rắn, những chuyện phối sinh trái luân thường đạo lý, phản khoa học để gieo vào đầu óc của những thế hệ mai sau bắt phải tin theo những cái sai của cha ông mình ngày trước. Chẳng thà chịu mang tiếng bụng dạ hẹp hòi giống như bụng dạ của loài hạ trùng theo kiểu nói của Ngô Thời Sĩ còn hơn là phải tin những chuyện ma trơi phản khoa học , những chuyện súc vật phản đạo lý. Cũng có người không tin là chuyện có thật như Đặng Quốc Lang trong quốc sử quán triều Nguyễn nhưng vì những người khác đã ghi như thế từ bao nhiêu thế hệ rồi, có thể là đúng vì thế nên tiếp tục giữ lại thì mới có thể chứng minh được tính cách liên tục của quốc thống. Đến lượt Tự Đức được xem là một ông vua tiến bộ cũng không dứt khoát quyết định xoá bỏ hẳn theo nguyên tắc bỏ điều quái dị, giữ việc bình thường mà lại cho phép chép về hai triều đại của Kinh Dương và Lạc Long bằng hai hàng chữ nhỏ ở phần dưới đời Hùng Vương để hợp với nghĩa "ngờ để truyền ngờ" và mặc nhiên chấp nhận con Rồng cháu Thánh là tổ tiên và là nguồn gốc nền chính thống của nước Việt Nam. *

Phan Huy Chú

Nổi tiếng là bác học nhưng cũng mặc nhiên chấp nhận những chuyện rồng rắn, thuồng luồng để đem vào bộ LTHCLC (1821) của VSTK - 93


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

11 12 13 14 15 16 17 18

mình. Trong bài dẫn thứ tự các chí Phan Huy Chú đã đồng hoá nước Việt ta với lãnh thổ Văn Lang và lối viết lại tiếp tục như lối viết của những người cũ: "Nước Việt ta từ trước ở vào cõi xa phong khí có phần chậm hơn (so với Trung Quốc). Từ đời Thương, Chu trở về trước, còn là rừng rậm chầm lầy, chỗ rồng rắn ở. Khi ấy, hoặc xen lẫn dưới sông trên cạn, hoặc chia ở miền núi, miền biển, bờ cõi chưa được rõ ràng. Tới khi dựng nước Văn Lang mới chia ra từng bộ nhưng quy mô đời cổ đều hãy còn sơ sài. . ." Kế đến, trong phần Nhân vật chí, những cá nhân như Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương được sao chép lại từ sử sách thư tịch cũ đã có từ trước. * Theo sau Phan Huy Chú là những người viết, sửa đổi hoặc thêm bớt sách Đại Nam Quốc Sử Diễn ca (1857-1873), được viết bằng quốc ngữ theo lối thơ "lục bát" (Câu 6 chữ và câu 8 chữ trong đó chữ thứ 6 của câu 8 chữ ở dưới phải ăn vần với chữ cuối cùng của câu 6 chữ liền ở trên và ngược lại chữ cuối của câu 6 chữ phải ăn vần với chữ thứ 6 của câu 8 chữ liền ở trên). Quyển nầy chép từ đời Hồng Bàng đến hết đời Hậu Lê. Đoạn chép về Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân được viết như sau : Kể từ trời mở Viêm bang (1) Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra. Cháu đời Viêm đế thứ ba, Nối dòng Hỏa đức(2) gọi là Đế Minh. Quan phong(3) khi giá Nam thành, Hay đâu Mai lĩnh(4) duyên sinh Lam kiều(5). Vụ tiên vừa thuở đào yêu(6) Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên. Dòng thần sánh với người tiên, Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra Phong làm quân trưởng(7) nước ta, Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương. Hóa cơ(8) dựng mối luân thường, Động Đình sớm kết với nàng Thần Long Bến hoa ứng vẻ lưu hồng(9) Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì. Lạc Long lại sánh Âu Ky, Trăm trai điềm ứng hùng bi(10) lạ thường. Noản bào(11) dù chuyện hoang đường, Ví xem huyền điểu(12) sinh Thương khác gì ?

19 20 21 22 23 24 25

26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

38 39 40

(1) (2) (3)

Viêm Bang: nước ờ vùng nóng. Ở đây ý nói nước Việt Nam. Hoả đức: dòng dõi vua Thần Nông lấy lửa làm hiệu còn gọi Viêm đế. Quan phong: đi quan sát phong tục của dân chúng.

VSTK - 94


1 2

(4) (5)

3 4 5 6 7

(6) (7) (8) (9)

8 9 10

(10)

11 12

(11)

13 14 15

(12)

Mai lĩnh: tên một dãy núi ở miền Nam nước Tàu. Lam kiều: Bùi Hằng gặp tiên là Vân Anh ở Lam Kiều cho nên địa danh nầy được xem là tượng trưng cho duyên phận may mắn vợ chồng. Đào yêu: trái đào đang chín, ý nói tuổi con gái lấy chồng. Quân trưởng: vua Hóa cơ: nền móng cho phong tục và văn hóa. Lưu hồng: cầu vòng trời. Chuyện cổ tích kể rằng có người đàn bà nằm mơ thấy cầu vòng trôi ở bến Hoa, sau sinh ra con làm vua. Ở đây ý nói điềm tốt sắp sinh được con quý. Hùng bi: giống gấu. Dị đoan cho rằng nằm mơ thấy gấu là điềm sinh con trai. Noản bào: bọc trứng. Ở đây chỉ việc Âu Cơ đẻ ra một bọc có trăm trứng sau nở thành một trăm con trai. Huyền điểu: chim long đen; tổ tiên nhà Thương bên Tàu nằm mơ thấy mình nuốt trứng chim long đen cho nên con cháu về sau đều làm vua.

16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Như thế là những chuyện hoang đường dối trá vẫn tiếp tục hiện hữu cho đến hết thế kỷ thứ 19 mặc dầu trong thế kỷ nầy đã có nhiều sự tham dự và đóng góp của những người thuộc trào lưu tiến bộ trên đất nước Việt Nam đang trên đà phát triển. Rồi bắt đầu sang thế kỷ 20 tân tiến hơn thì ngoài một thiểu sồ người hủ nho, những điều kỳ dị phản khoa học trước kia tưởng chừng như không còn ai lưu ý tới nữa nhưng kỳ dị thay, chúng lại tái xuất hiện trên Việt Nam Sử Lược (1925) của Trần Trọng Kim(1) điều quan trọng đáng phải nói ở đây là lần tái xuất hiện nầy lại có một không gian phổ biến rộng lớn hơn trong đại khối quần chúng sau khi cách viết chữ Việt Nam theo mẫu tự la tinh đã trở thành quốc ngữ. Trong bài Tựa VNSL có đoạn viết như sau : "Nhưng dẫu thế nào mặc lòng, nước ta đã có sử ta thì cũng có thể bởi đó mà biết được những sự đã qua ở nước ta, và có thể bởi đó mà khảo cứu được nhiều việc quan hệ đến vận mệnh nước mình từ xưa đến nay xoay vần ra làm sao. Hiềm vì sử nước ta thì làm bằng chữ Nho cả, mà chữ Nho thì từ rày trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém đi. Hiện nay số người đọc được chữ Nho còn nhiều, mà trong nước còn không có mấy người biết chuyện nước nhà, huống chi mai sau nầy chữ Nho bỏ không học nữa, thì sự khảo cứu về những việc quan hệ đến lịch sử nước mình sẽ khó biết bao nhiêu! Nay nhân sự học ở nước ta đã thay đổi, chữ quốc ngữ(2) đã phổ thông cả trong nước, chi bằng ta lấy tiếng nước nhà mà kể chuyện nước nhà, ta soạn ra bộ Việt Nam Sử Lược, xếp đặt theo thứ tự, chia ra từng thời đại, đặt thành chương, thành mục rõ ràng, để ai ai cũng có thể xem được sử, ai ai cũng có thể hiểu được chuyện, khiến cho sự học sử của người mình được tiện lợi hơn trước. . . . Thời đại thứ nhất là Thượng cổ thời đại, kể từ họ Hồng Bàng cho đến hết đời nhà Triệu. Trong thời đại ấy, từ chương thứ III (có VSTK - 95


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28

29 30 31

32 33 34 35

36 37 38 39 40

lẽ là từ chương I đến chương III thì đúng hơn), bàn về xã hội nước Tàu trước đời nhà Tần, phần nhiều là những chuyện hoang đường huyền hoặc cả. Những nhà chép sử đời trước cũng theo tục truyền mà chép lại, chứ không có di tích gì mà khảo cứu cho đích xác. Tuy vậy, soạn giả cũng cứ theo sử cũ mà chép lại, rồi cũng phê bình một đôi câu để tỏ cho đọc giả biết rằng những chuyện ấy không nên cho là xác thực." Khi viết về họ Hồng Bàng, Trần trọng Kim nhận định như sau: "Xem thế thì đủ biết truyện đời Hồng Bàng không chắc là truyện xác thực". Và để kết thúc chương I tác giả lại viết: "Tóm lại mà xét, nước ta khởi đầu có quốc sử từ cuối thập tam thế kỷ đến đời vua Thánh Tông nhà Trần, mới có quan Hàn lâm học sĩ là Lê Văn Hưu soạn xong bộ Đại Việt Sử Ký, chép từ Triệu Võ vương đến Lê Chiêu Hoàng. Hai trăm rưởi năm về sau lại có ông Ngô Sĩ Liên, làm quan Lễ bộ tả thị lang đời vua Thánh Tông nhà Lê, soạn lại bộ Đại Việt sử ký: chép từ họ Hồng bàng đến vua Lê Thái tổ. Nghĩa là từ ông Ngô Sĩ Liên, ở về thập ngũ thế kỷ trở đi, thì sử ta mới chép truyện về đời thượng cổ. Xem thế thì đủ biết những truyện về đời ấy khó lòng mà đích xác được. Chẳng qua nhà làm sử cũng nhặt nhạnh những truyện hoang đường tục truyền lại, cho nên những truyện ấy toàn là truyện có thần tiên quỉ quái, trái với lẽ tự nhiên cả. Nhưng ta phải hiểu rằng nước nào cũng vậy, lúc ban đầu mờ mịt, ai cũng muốn tìm cái gốc tích của mình ở chỗ thần tiên để cho vẻ vang cái chủng loại của mình. Chắc cũng bởi lẽ ấy mà sử ta chép rằng họ Hồng Bàng là con tiên cháu rồng ..v . v . . . Nay ta theo sử cũ mà chép mọi truyện, người xem sử nên phân biệt truyện nào là truyện thực, truyện nào là truyện đặt ra, thì sự học mới có lợi vậy ". Từ Ngô Sĩ Liên cho đến thời Trần Trọng Kim, bộ ĐVSKTT bị thu nhỏ ngắn lại và chỉ có 1 thay đổi quan trọng: được viết bằng chữ quốc ngữ thay vì viết bằng chữ Nho. (1)

Trần Tọng Kim (1882-1953): hiệu là Lệ Thần, cũng là tác giả quyển Nho

Giáo. (2) Chữ quốc ngữ: tức là chữ viết Việt Nam theo mẫu tự La mã (Roman alphabets). Xem bài đọc thêm về việc sáng tác chữ quốc ngữ.

Năm 1938, Đào Duy Anh trong Việt Nam Văn Hóa Sử Cương lại tiếp nối theo kiểu Tục truyền và viết : "Theo tục truyền thì người Việt Nam là nòi giống Tiên Rồng. Vua đầu tiên họ Hồng Bàng nước Xích Quỷ là Lộc Tục tức Kinh Dương Vương v.v. . ."

VSTK - 96


1 2 3

4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

23 24 25 26 27 28

29 30 31

32 33

34 35 36 37

Lần nầy thì người Việt Nam là nòi giống tiên rồng chứ không phải chỉ riêng những người có số làm vua mới được coi là con rồng cháu tiên. Trong La Civilisation annamite (Nền Văn Minh của người An Nam) của tiến sĩ văn khoa Nguyễn Văn Huyên xuất bản năm 1944 viết lướt rất nhanh về tổ tiên và lãnh thổ của người Việt Nam như sau : "Tổ tiên người Việt ngày nay chẳng phải là cư dân đầu tiên của vùng đất hiện tạo thành quốc gia mà chúng ta gọi là nước Việt Nam. Ngay tên gọi lãnh thổ cũng đã thay đổi nhiều lần. Ở hai thế kỷ cuối cùng trước Tây lịch, nước nầy tên là Văn Lang v.v . ." Nhưng ở một đoạn khác, sau khi phê bình các nhà viết sử biên niên Việt Nam đã tô điểm tác phẩm lịch sử của họ bằng những truyền thuyết thì những chuyện rồng rắn lại tái xuất hiện: " Đất nước chúng ta, mà người Tàu gọi là Giao Chỉ, có vua đầu tiên là chắt của Thần Nông, được xem như là ông thần nghề nông ở bên Tàu. Ông vua nầy kết hôn với Động Đình Quân, con gái nòi rồng, và sinh một con trai nối ngôi với tên gọi Lạc Long Quân. Vị nầy kết hôn với Âu Cơ. Bà đẻ liền một lần một trăm quả trứng nở thành trăm con trai. Con trai trưởng của Lạc Long Quân trị vì với danh hiệu Hùng Vương. Đây là vương triều Hồng Bàng liên tiếp cung cấp mười tám đời vua cho nước Nam, lúc đó gọi là Văn Lang v.v. . ." Tác giả La Civilisation Annamite không biết phải giải thích thế nào cho người ngoại quốc có đầu óc khoa họ (nhất là những người Pháp) về hiện tượng nòi rồng phối chủng với người và đẻ ra một trăm trứng nở thành trăm con trai? Chẳng lẽ chỉ nhún vai để nói với họ rằng đó là do truyền thuyết! Đã như thế thì tác giả tốn công làm gì để nghiên cứu viết thêm một chương dài về Chủng tộc Việt. Năm 1956, đến lượt Phạm Văn Sơn nép mình dưới cái khiên che tục truyền để sao chép lại những điệu xưa vào Việt Sử Tân Biên mà khỏi phải sợ dư luận cho mình là kẻ chậm tiến. Có thể có người sẽ lập luận rằng những sự huyền hoặc quái dị đó phải được hiểu là truyện chứ không phải là sử . Lê Văn Hưu đã hiểu như thế, Phan Phu Tiên đã hiểu như thế, mà ngay cả Ngô Sĩ Liên cũng đã hiểu như thế và đặc biệt hơn hết là Hồ Tông Thốc đã chép riêng họ Hồng Bàng vào một tập chí khác với bộ Việt Sử Cương Mục của mình.

VSTK - 97


1 2 3

4 5 6

7 8 9 10

Tuy nhiên, nếu đem những truyện đó vào sử rồi bảo rằng không nên hiểu nó là sử không khác gì bắt ép người khác uống ly nước biển mà phải mỉm cười khen ngọt ! Cũng có thể có người cho rằng những sử cố huyền thoại là những biểu hiệu rất ý nghĩa nhằm nêu cao lịch sử lâu đời của đất nước và tuyên xưng niềm tự tôn dân tộc. Nếu như vậy thì chẳng thà nói rằng dân tộc Việt Nam là thủy tổ của tất cả các dân tộc khác và đất nước Việt Nam là cái nôi nguyên thủy của loài người thì ta sẽ có một nền lịch sử lâu đời nhất mà niềm kiêu hãnh tự tôn dân tộc cũng được coi như là vô địch tuyệt đỉnh.

11

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

28 29 30 31 32 33 34

35 36

Tóm lại : Những biến cố lịch sử phải tự nó hình thành chứ không thể do cá nhân tạo ra. Kẻ ghi lại những sử cố đó phải trung thực không man trá và nhất là không phải tùy thuộc hay dựa vào bất cứ một áp lực nào đó để bóp méo lịch sử. Những biến cố Lịch Sử không phải chỉ gồm những việc xảy ra nơi cung đình vua chúa mà phải bao gồm tất cả mọi hoạt động sinh sống của một cộng đồng dân tộc thuần nhất trong đó vua chúa cũng chỉ là một thành viên không có sự phân biệt kỳ thị về đẳng cấp, thế phá, dòng dõi. Các bộ sử cũ chỉ là lịch sử của vua chúa cung đình thời phong kiến. Mặc dù từ đó ta có thể nhìn thấy được phần nào dĩ vãng của dân tộc nhưng tính cách trá ngụy về nguồn gốc thần tiên của dân tộc được đem vào những bộ sử đó kéo dài hằng bao nhiêu thế hệ đã và vẫn còn tạo ra trong dân gian Việt Nam một ảnh hưởng tâm lý tác hại khó lòng gột rửa: kẻ nào còn hồ nghi thì kẻ đó sẽ bị dư luận người Việt Nam lên án là kẻ mất cội quên nguồn, bóp méo Lịch Sử, phạm thượng đến tiền nhân. Tính cách trá ngụy mơ hồ về thế phá các dòng họ đế vương trong sử cũ được núp bóng dưới cái vỏ chính thống, một mặt để có thể nắm độc quyền cai trị và mặt khác tạo ra ảo tưởng về một nguồn gốc chủng tộc cao trọng tiêm nhập vào đám thần dân ngây thật, dị đoan, mê tín. Chiêu bài chính thống đó vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay đối với một số người cho dù người dân Việt Nam bây giờ đang tiến bộ kịp thời với trào lưu tiến bộ của thế giới. Niềm tự hào dân tộc không thể đặt trên căn bản chủng tộc bởi vì nó sẽ tạo ra mặc cảm tự tôn siêu đẳng, tự cho mình có quyền đứng

VSTK - 98


1 2

3 4 5

6 7 8 9 10

11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

trên các dân tộc khác mà hậu quả là gây ra những bối cảnh diệt chủng tàn khốc hoặc những cuộc gây hấn xâm lược bạo tàn. Dân Việt Nam nhất định là phải có một nguồn gốc chủng tộc lâu đời nhưng cũng nhất định không thể là con cháu sinh ra từ các loại rồng rắn thuồng luồng phối chủng với yêu tinh quỷ quái. Dân tộc Việt Nam tự hào không phải là vì mình được thuộc về chủng tộc cao sang thần thánh lừa phỉnh do vua chúa thời phong kiến ban cho nhưng chính là tinh thần quật khởi đánh đuổi ngoại xâm, ý chí bền bỉ thoát khỏi sự đồng hóa, cùng với bản tính tự lực, tự cường mới là những yếu tố thực sự hiển nhiên kết tạo niềm tự hào dân tộc. Dù thủy tổ ta có là Mường, Mán, hay thuộc hàng phiên rợ Man Di nhưng người Việt Nam thuộc về loài người biết suy nghĩ, một con người đích thật đúng nghĩa chứ không phải là con cháu của loài bò sát. Thời đại nhà Hùng và lãnh thổ Văn Lang nếu vẫn được đề cập tới không phải là vì nhà Hùng được thừa nhận là thủy tổ của bộ tộc Việt Nam và lãnh thổ Văn Lang là lãnh thổ nước Việt Nam trước thời nước Việt Nam có sử nhưng chính là vì trong thời đại Văn Lang đã có sự hiện hữu của bộ tộc chính tông Việt Nam cùng chung một số phận bị trị như các bộ tộc Việt khác và vì lãnh thổ thực sự của bộ tộc Việt Nam nằm trong lãnh thổ Văn Lang đang bị phương Bắc đô hộ thống trị. Hùng Vương thủy tổ của dân tộc Việt Nam chỉ là một sản phẩm lừa dối hủ lậu thuộc về dĩ vãng và chỉ còn có mỗi một công dụng thực tế là dùng làm điểm móc bắt đầu cho việc luân lưu dòng lịch sử của các triều đại phong kiến Việt Nam. * Tất cả những suy định và khảo luận ở trên để đi tới một kết luận rằng: 1/- Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên là một sản phẩm tưởng tượng phản khoa học. 2/- Chủng tộc Việt Nam không phải là một trong những tộc chủng Bách Việt từ phía Bắc đi xuống. 3/- Chủng tộc nguyên thủy Việt Nam có trước chủng tộc Pa Wa và các chủng tộc Việt khác. 4/- Và điều đáng chú trọng hơn hết là khoa học hiện đại gần đây lại khám phá ra được rằng tổ tiên người Hoa có thể là phát xuất từ chủng tộc Việt Nam nguyên thủy, từ phía Nam đi lên phía Bắc. * VSTK - 99


1 2 3 4 5 6 7 8

9 10 11 12 13 14 15 16 17

18 19 20

21

22 23 24 25 26 27 28 29 30

31 32 33 34 35 36 37

Kết luận 1, 2, 3 VSTK đã truy cứu dứt khoát ở phần trên. Nay chỉ cần truy cứu phần kết luận thứ 4. Các ngành khoa học tiến bộ ngày nay như Nhân chủng học và Di truyền học đã đưa ra những chứng cớ "vật chất" chính xác để chứng minh cho khám phá mới mẻ nầỵ Trước hết, tổng hợp các lý thuyết về sự tiến hóa của nguồn gốc loài người thì 3 loại người cổ xưa nhất gọi là người vượn đã được tìm thấy ở Đông Phi Châu: 1/- Người vượn Proteo - Anthropus xuất hiện cách nay từ 1 triệu năm trở về trước. 2/- Người vượn Arche - Anthropus xuất hiện cách nay vào khoảng từ 100 ngàn năm đến 1 triệu năm. 3/- Người vượn Paleo - Anthropus xuất hiện cách nay trong khoảng 40 ngàn năm đến 100 ngàn năm. Gần hơn hết là người vượn Neo-Anthropus có hình tượng giống như con người ngày nay với tên khoa học gọi là Homo - Sapiens Erectus. Theo nhiều nhà nhân chủng học thì con người hiện đại là kết quả của sự tiến hóa của người vượn cổ xưa theo tiến trình thay đổi sapiens. Câu hỏi đặt ra: tiến trình sapiens là gì ? Nhân chủng đặt ra lý thuyết về tiến trình Sapiens nhưng chưa thể giải thích rõ ràng tiến trình thay đổi đó. Phải đợi đến khi có khoa Di Truyền Học DNA - (DEOXYRIBO NUCLEIC ACID) ra đời người ta mới có được sự giải thích thỏa đáng. Khoa Di Truyền học DNA tân tiến ngày nay đã có thể giải thích được mối liên hệ cấu trúc giữa người Vượn Phi Châu với cấu trúc của Con Người Hiện Đại cũng như đã làm sáng tỏ tại sao có nhiều sắc dân trên thế giới với nhiều loại màu da khác nhau trong khi chỉ có một Ông Tổ của nhân loại phát tích từ vùng đất Phi Châu. Theo Di Truyền học DNA thì con người hiện đại có 23 cặp vòng xoắn nhiểm thể Chromosomes và người vượn thời thượng cổ có 24 cặp. Trong số 24 cặp vòng xoắn nầy của người vượn, có 5 cặp vòng xoắn giống với chúng ta hiện nay. Chính sự thay đổi của những cặp vòng xoắn nầy là nguyên nhân tạo ra tiến trình thay đổi Sapiens, làm biến dạng hình dáng và cấu trúc người vượn Phi Châu.

VSTK - 100


1 2

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17

18 19 20 21 22

23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

Cái gì đã làm thay đổi các các cặp vòng xoắn nhiễm thể ở bên trong thân xác ông Tổ Phi Châu của loài người? * Trước hết, phải nói tới những loại tia phóng xạ như phóng xạ nguyên tử, tia sáng X, tia Cực Tím và nhiều loại tia phóng xạ khác nữa từ ngoại tầng không gian xuyên lớp khí quyển xăm nhập vào mặt địa cầu. Các loại tia phóng xạ nầy có tác dụng tàn phá nhiều loại tế bào trong cơ thể của nhân loại. Một kinh nghiệm về sự tác hại của tia phóng xạ rất gần gũi với chúng ta: mỗi khi ta đi chụp hình phổi, tim, gan, óc não. . . bằng quang tuyến X chúng ta sẽ bị bần thần khó chịu, có khi đưa tới tình trạng ói mửa, nhứt đầu bởi vì tia phóng xạ quang tuyến X khi xuyên qua thân xác chúng ta đã tiêu diệt hàng triệu triệu tế bào hồng huyết cầu và biến chúng ta thành người bị mất máu. Những người da trắng muốn có một màu da nâu "thời trang" đã chịu phơi mình dưới các loại bóng đèn phát ra tia hồng ngoại tuyến hoặc ra bờ biển phơi mình dưới ánh nắng chói chang. Những tác hại về phóng xạ nguyên tử trong thời buổi hiện nay đã tạo ra những hình ảnh dị dạng khủng khiếp khiến cho con người hiện đại phải lo âu run sợ. * Thiên nhiên trên mặt địa cầu cũng có những quy luật riêng của nó và chính những quy luật nầy cũng làm thay đổi cấu trúc di truyền DNA chẳng hạn như những độc chất lấy ra từ các khoáng sản, hầm mỏ gây bệnh ung thư, các loại vi trùng gây mầm bệnh, các loại vi khuẩn giết người lan tràn khắp thế giới . . .v.v . . . Tất cả những nguyên do từ ngoại tầng khí quyển hợp cùng những tai họa thiên nhiên có ngay trên mặt địa cầu, tất cả đã tác động lên ông Tổ Phi Châu của loài người, liên tục qua thời gian cho tới một lúc nào đó, sự tác động nầy đạt tới một mức gọi là điểm đột biến của diễn trình thay đổi DNA mà khoa học Di Truyền gọi là Spontanious Point of Mutation để tự động làm biến đổi các cấu trúc DNA của loại người vượn Homo Erectus thành những cấu trúc của người vượn Homo-Sapiens rồi tiếp tục tiến lần lên đến bậc thang của con người hiện đại ngày nay. Sự đột biến di truyền nầy chỉ xảy ra cách nay khoảng 100 ngàn năm hay từ thời đại người vượn Paleo-Anthropus. Các loại người vượn trước đó vì không có khả năng tự động làm biến đổi cấu trúc DNA theo không gian, thời gian và điều kiện thiên nhiên cho nên đã bị tuyệt tích. Như vậy, Di Truyền học tân tiến ngày nay đã chứng minh được rằng người vượn Paleo-Anthropus của các nhà nhân chủng học đã chuyển hóa thành người hiện đại theo tiến trình thay đổi cấu trúc DNA.

VSTK - 101


1 2 3

Ông tổ Phi Châu của loài người theo thời gian và nhu cầu mưu sinh đã phân tán đi khắp nơi trên mặt địa cầu, chia thành từng nhóm, từng đợt, từng giai đoạn khác nhau:

4 5

-Nhóm qua Á Châu thành người da vàng.

6

-Nhóm qua Âu Châu thành người da trắng.

7 8

9

10 11 12

13 14 15

16 17 18

19 20

21 22 23

24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

-Nhóm xuống phía Nam Phi Châu và qua các hải đảo để trở thành những sắc dân màu nâu Negro-Australoid. Hai câu hỏi đặt ra: 1/ -Làm cách nào ông tổ Phi Châu tới được các vùng đất liền Đông Nam Á Châu và các hải đảo ở phía Nam như Úc Châu, Java (Nam Dương), Borneo, Phi Luật Tân . . . ? 2/ -Cùng một ông tổ Phi Châu mà ra nhưng tại sao lại có Trắng, Đen, Vàng, Đỏ, tóc ngay, tóc quắn, mũi lõ, mũi tẹt, mắt xanh, mắt nâu, người lùn, người thấp . . .? Câu hỏi 1: Làm cách nào ông tổ Phi Châu tới được các vùng đất liền Đông Nam Á Châu và các hải đảo ở phía Nam như Úc Châu, Java (Nam Dương), Borneo, Phi Luật Tân . . . ? Họ đi thuyền, đi ghe ? Hay họ dùng đường bộ ? Trả lời câu hỏi nầy tức là đi tìm vai trò của biển hay nói khác đi là đi tìm sự thay đổi của mực nước đại dương trong tiến trình hình thành các vùng đất liền và hải đảo hiện nay. Nhìn trên bản đồ vùng Đông Nam Á Châu hiện nay, người ta đã khám phá ra được rằng: -Ở phía Nam, giữa Việt Nam và vùng quần đảo Nam Dương chỉ cách nhau bằng một vùng biển nông. -Giữa mũi đất cuối cùng của Việt Nam là mũi Cà Mau và khúc ruột Mã Lai, hay vịnh Thái Lan ngày nay, chỗ sâu nhất chưa quá 50 mét. -Ở phía Bắc nơi có đảo Hải Nam của Trung Quốc và vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam các nhà địa chất khảo cổ học đã tìm thấy rằng địa chất hình thành của khu vực Vịnh Hạ Long gắn liền với vai trò của mực nước biển, đáng chú ý một cách đặc biệt là sự thay đổi của

VSTK - 102


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

mực nước Đại Dương qua hàng triệu năm để kết tạo thành những môi trường sinh sống khác nhau qua nhiều thời đại cổ xưa. Năm 1931, nhà nữ khảo cổ học M.Colani đã đăng trong tập san BEFEO một bài viết với đề mục Recherches sur le Préhistorique Indochinois, trong đó bà đã đặt một giả thuyết rằng đồng bằng châu thổ sông Hồng thời xa xưa có thể là một vịnh biển cũ. Đến năm 1936, một nhà khảo cổ học khác lại thêm rằng châu thổ sông Hồng trải qua 2 giai đoạn hình thành: Giai đoạn 1 thuộc thời kỳ băng hà Wurm và trong thời kỳ đó mực nước biển hạ thấp đáng kể khiến cho nhiều đồng bằng rộng lớn ngày trước bị tràn ngập dưới lòng biển nay lại trồi lên và các vùng biển từ phía Nam, đảo Borneo, Java (Nam Dương) trở thành những nhánh sông chảy tới vùng đồng bằng trồi lên vừa kể. Đến cuối giai đoạn băng hà tan biến còn gọi là thời kỳ Flandrian, tương ứng với thời đại đồ đá mới (thời kỳ của nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn), nước biển lại dâng cao tiến trở vào nền các vùng châu thổ cũ. Nhà khảo cổ học P.W Fairbridge vào năm 1962, trong sách The Level of the Sea World and change for climate, xuất bản ở Luân Đốn, đã đưa ra một bảng kê khai giả định về mực nước biển thế giới so với ngày nay như sau: *13,000 năm trước thấp hơn bây giờ -50m *10,400 " -40m *9000-10,000 " -30m *7500 " -20m *7000 " -10m *5000-6000 năm trước cao hơn bây giờ +3.5m *4,000 " +3.5m *3,000 thắp hơn bây giờ -3m *2,000 " -1.5m *1000 năm trước đây cao hơn bây giờ +0.50m *Hiện tại : 0m Các giả định của những nhà khảo cổ vừa kể trên giúp ta có thể suy định rằng cách nay từ 7,000 đến 13,000 năm, nhờ vào hiện tượng mặt nước biển hạ thắp trong khoảng từ -50 mét đến -10 mét các thềm lục địa ở vùng Đông Nam Á Châu cao hơn mặt nước biển và nhờ vậy ông tổ Phi Châu từ phía Đông Nam Á và các hải đảo phía Nam rất có khả năng đi tới vùng mũi Cà Mau, vùng Vịnh Hạ Long và vùng đồng bằng sông Hồng của nước Việt Nam ngày nay trước khi tiếp tục thiên di về hướng Bắc để qua lục địa Trung Quốc. Suy định nầy để xóa tan lý thuyết vô căn cứ cho rằng tổ tiên người Việt Nam phát nguồn từ tổ tiên của người Hoa hoặc từ trong nhóm Bách Việt bởi vì thủy tổ của người Việt Nam cũng nằm trong một quy luật tiến hóa chung của loài người hay nói khác đi chỉ có một ông tổ Phi VSTK - 103


1 2

3 4 5

6 7 8 9 10 11

12 13 14 15 16 17

Châu là ông tổ chung của nhân loại, cũng là ông tổ của các dân tộc vùng Đông Nam Á Châu bao gồm dân tộc Việt Nam. Câu hỏi 2 : Cùng một ông tổ Phi Châu mà ra nhưng tại sao lại có Trắng, Đen, Vàng, Đỏ, tóc ngay, tóc quắn, mũi lỏ, mũi tẹt, mắt xanh, mắt nâu, người lùn, người thấp . . .? Các nhà nhân chủng học cho rằng vì ảnh hưởng của 2 loại môi sinh: môi sinh bên ngoài và môi sinh thâm nhập vào bên trong cơ thể của con người. * Môi sinh bên ngoài như khí hậu, thời tiết, dinh dưỡng, ánh nắng mặt trời tác động lên hình dạng, da, tóc, mặt mũi của loài người ở mỗi vùng khác nhau trên mặt địa cầu. * Các hình thức môi sinh xăm nhập cơ thể như vi trùng, vi khuẩn, các tia phóng xạ, các loại hóa chất, độc chất làm biến đổi các nhiễm sắc thể DNA kéo theo sự biến đổi về hình dạng, màu da, râu tóc, bệnh tật, trí óc và bản tính của con người. Những nhiễm sắc thể một khi đã bị thay đổi thì sẽ tồn tại rất lâu trong con người, di truyền lại cho các thế hệ mai sau cho tới khi đạt tới mộ tiến trình thay đổi bộc phát mới. *Như vậy phải chăng tổ tiên của người Trung Hoa là người Việt Nam ?

18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

34 35

Cách đây khoảng 4 năm, nhà Di truyền học, giáo sư J.Y.CHU và những người đồng nghiệp của ông thuộc các trường đại học và trung tâm nghiên cứu lớn ở Trung Quốc đã đưa ra một bài tường trình nghiên cứu về Di Truyền học DNA đăng trong tập chí The National Academy of Science-USA, số phát hành 20, tháng 7 năm 1988, trong đó ông CHU viết rằng: "Nevertheless, genetic evidence does not support an independance origin HOMO-SAPIENS in China. The phylogeny also suggested that it is more likely that ancestor of the populations currently residing in East China entered from South-East Asia". (Tạm dịch: Tuy vậy, với chứng cớ khám phá bằng di truyền học cũng chưa có gì để yểm trợ cho sự hiện hữu đơn độc của một người vượn nguyên thủy HOMO-SAPIENS ở Trung Hoa. Khảo cổ học trước đây cũng cho rằng tổ tiên của dân cư ở vùng phía Đông Trung Hoa hiện nay đã đến từ vùng Đông Nam Á Châu.) Khám phá của ông CHU có 2 ý nghĩa: 1/- Ông tổ Phi Châu không có đặt chân tới lãnh thổ Trung Hoa.

VSTK - 104


1 2

3 4 5 6 7 8 9 10 11

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29

30 31 32

33

34 35 36 37 38 39 40

2/- Tổ tiên của dân Trung Hoa ở vùng phía Đông của nước nầy đến từ vùng Đông Nam Á. Nếu như vậy thì: 1-/ Vùng biên giới Đông Bắc của nước Việt Nam tức là vùng Quảng Ninh, vùng Vịnh Hạ Long, vùng đảo Hải Nam hiện nay là một trong những địa bàn mà ông tổ Phi Châu đã đặt chân tới trước rồi sau đó có thể con cháu của ông tổ Phi Châu ở Việt Nam mới tiếp tục thiên di lên phía Bắc để xâm nhập vào nước Trung Hoa hiện nay và lại gặp và phối chủng với ông tổ Phi Châu của các vùng Trung Á từ phía Tây Bắc thiên di sang để tạo ra chủng tộc người Hoa. 2-/ Cũng không có gì gọi là nghịch lý để nói rằng ông tổ Phi Châu-Việt Nam khi tiến lên phía Bắc đã chiếm cứ một vùng rộng lớn trải dài từ phía Đông Bắc bao gồm có các vùng Liêm Châu, Bắc Hải (sử cũ gọi là Hợp Phố), Ung Châu, Khâm Châu, Quảng Đông và ở phía Tây Bắc bao gồm các vùng Quảng Tây, Vân Nam. Các vùng đất nầy ngày nay đã bị người Hoa xâm chiếm và sáp nhập vào nước Trung Hoa và tổ tiên cha ông của người Việt Nam đã từng nhiều phen đứng lên đòi lại chủ quyền lãnh thổ khi thì bằng vũ lực như cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đi sâu vào vùng Lĩnh Nam và cuộc tiến quân của Thái Úy Lý Thường Kiệt đi sâu vào các vùng Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu, khi thì bằng đường lối ngoại giao kèm theo hậu thuẫn sức mạnh quân sự như việc Hoàng đế Quang Trung chuẩn bị tái chiếm các vùng Quảng Đông, Quảng Tây hoặc việc đòi đất của hoàng đế Gia Long dưới hình thức ngoại giao khéo léo yêu cầu người Trung Hoa phải công nhận nước Việt Nam là lãnh thổ Nam Việt thuở trước do tên thực dân con của Trung Hoa là Triệu Đà xâm chiếm bao gồm cả các vùng Quảng Tây và Quảng Đông.. Ông bà dân tộc Việt Nam thường gọi người Hoa là Chú Ba phải chăng có ý nói họ thuộc hàng vai em, sinh sau đẻ muộn, là huyết tộc của người Việt Nam? Tóm lại: * Thủy tổ dân tộc Việt Nam không thể là rồng rắn phối chủng với thần tiên, phản khoa học. * Thủy tổ Việt Nam không phải phát xuất từ nước Trung Hoa. * Thủy tổ Việt Nam không thuộc nhóm Bách Việt . * Thủy tổ của người Hoa có thể phát xuất từ Việt Nam. * Thủy tổ Việt Nam là người chính gốc thuần chủng chưa bị pha trộn như chủng tộc người Hoa. VSTK - 105


VSTK - 106


CÁC DÃU V‰T CH» VI‰T CûA NGÜ©I VIŒT NAM

(a) (b) (c) (d) (e) (f) (g)

DÃu v‰t ch» vi‰t trên quä ÇÒng Thanh Hóa Ch» vi‰t hoa trên Çá ª Sa-pa Ch» vi‰t trên trÓng ÇÒng LÛng Cú (Hà Tuyên) Kš hiŒu væn t¿ trên lÜ«i cày ñông SÖn " rìu ñôngSÖn 24 ch» cái MÜ©ng (Thanh Hóa) Væn t¿ th¡t nút cûa ngÜ©i Chàm H' Rê (Nghïa Bình)

VSTK - 107


BẢN ĐỒ PHÁT TRIỂN CÁC SẮC TỘC VÙNG ĐÔNG Á & ĐÔNG NAM Á

VSTK - 108


²

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

NHỮNG DI CHỈ VỀ THỜI CỔ SỬ Ở MIỀN NAM VIỆT NAM

Những di chỉ thời cổ sử của miền Nam Việt Nam đã được các nhà khảo cổ Pháp khai quật và nghiên cứu từ trước 1975: -Khi đào móng xây nền nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn (xây xong năm 1880) người ta đã tìm thấy những công cụ đồ đá, đồ gốm và xương người trong các chum, vò gốm. Silvestre.J trong sách L'Empire d'Annam et le Peuple annamite, trang 283, phát hành ở Paris, 1889 cho biết là các xương người đó là của những đứa trẻ được chôn cất trong những chum, những vò bằng đất nung. Theo một tác giả người Pháp khác là Mallaret thì cách chôn cất như thế là một tập tục lâu đời. Ngày nay không biết ai là người đang giữ các di chỉ nầỵ -Năm 1888, trong khuôn viên toà Đô Chính Sài Gòn người ta đã khai quật được một chiếc cuốc có vai, kích thước lớn, bằng đá. (theo Mallaret.L, trong L' Archeologie du Delta du Mekong, 1963, trang 425 - 428). -Ở đồn Cây Mai, một người Pháp là Aymonnier đã tìm thấy những công cụ thời tiền sử, như rìu đồng, cuốc, mai, đục giống với những hiện vật khảo cổ ở Somron Sen gần biển Hồ ở Cao Miên. -Năm 1890, trong khi đào nền xây cất Khám Lớn Sài Gòn (nay là Thư Viện Quốc Gia), người ta tìm được một cuốc/mai có vai và một rìu có vai. -Nơi Thảo Cầm Viên của Sài Gòn ngày trước, người ta đã tìm thấy những công cụ đá mài (Holbe.I, BAVH số 1 trang 43-54. Huế, 1915). Cùng với một số di chỉ khác trong phạm vi thành phố Sài Gòn, tất cả cho thấy rằng con người đã hiện diện trên đất Sài Gòn ngày nay kể từ thời xa xưa, tại nhiều nơi, qua nhiều thời điểm tiền sử khác nhau. Các di chỉ khảo cổ khai quật từ các nơi khác của miền Nam Việt Nam như ở các vùng đất quanh tỉnh Biên Hòa, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Chợ Lớn, Gia Định, Bà Rịa, hợp thành một bộ sưu tập khảo cổ gọi là bộ sưu tập Mongeot-Holbé, trong đó có nhiều chiếc rìu bằng đồng. Bộ sưu tập khác của Chénieux gồm nhiều hiện vật khai quật được ở Xóm Cai, Bến Gỗ, Bình Đa, Lò Gạch, cù lao Rùa, Bến Cá do E.T Hamy (1897, trang 48-52) mô tả lại.

Những di chỉ tìm được sau năm 1975 như: - Di chỉ Ngãi Thắng thuộc bờ trái sông Đồng Nai do dân cư ở đó đào thấy trong những năm 70 gồm có nhiều rìu có vai và cuốc có vai, đục, đá mài . . . nhưng không có đồ đồng. - Đi ngược bờ phía mặt sông Đồng Nai là di chỉ Cù Lao Rùa, cách Biên Hòa khoảng hơn 5 cây số về hướng Tây Bắc. Đa số các di vật VSTK - 109


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

tìm thấy đều bằng đá trong đó rìu chiếm số lượng nhiều nhất, một vài hiện vật linh tinh như dao phay, dao có cạnh sắc; đồ gốm như nồi, đồ đựng, thìa, bi gốm, dọi xe chỉ, chì móc lưới . - Những di chỉ đào được ở Mỹ Lộc (hay Gò Đá) ở quận Tân Uyên/ Biên Hòa, Thái Hưng, Phước Tân, ở Cái Vạn thuộc huyện Long Thành, ở Phước Lễ, Phước Hải, ở Bàu Thành/Bà Rịa, ở An Sơn và Rạch Núi thuộc Long An và nhiều địa điểm khác, tất cả đều cho thấy đa số các công cụ khai quật được đều bằng đá: người cổ ở Bến Đò, Cù Lao Rùa, Phước Tân, Ngãi Thắng. . . đã sử dụng những loại công cụ bằng đá và dụng cụ gốm (đất nung). Rất hiếm công cụ bằng đồng. Căn cứ vào chiếc lưỡi câu bằng đá (Barthère,1911, trang 8) và hòn chì lưới, người ta có thể suy đoán rằng người cổ miền Nam cũng sinh sống bằng nghề câu cá hay ngư nghiệp. Phải chăng họ dùng những hòn bi bằng đất nung để đi săn bằng dàn ná hay óng thổi ? - Gần đây, di chỉ ở Cầu Sắt ở xã Bình Lộc, quận Xuân Lộc, cách Sài Gòn khoảng 60 cây số về phía Đông Bắc (cách tỉnh Xuân Lộc khoảng 10 cây số về phía Tây Bắc) chính quyền Việt Nam đã tìm thấy hơn 700 công cụ đồ đá, nhưng không có dấu vết kim loại, nhà cửa, mộ táng. - Cuộc phát hiện các di tích khảo cổ học mới nhất (1978) là những cuộc khai quật ở An Sơn (Long An) . Ở nơi nầy có 2 loại di tích khảo cổ chính: các bếp than tro và những ngôi mộ rất xưa. Bếp than tro, với niên đại cách ngày nay khoảng 2855 năm, thuộc loại có kích thước lớn với nhiều xương răng động vật, võ các loại nhuyễn thể, và xương người: đây là những lò bếp ngoài trời, có thể là được dùng cho một nhóm hay một đoàn người, một tập thể. Ba ngôi mộ cổ được khai quật : ngôi mộ 1 của một bé gái 12 – 14 tuổi; ngôi mộ 2 của một phụ nữ trưởng thành; ngôi mộ 3 của một em bé khoảng 1 – 2 tuổi. Trong ngôi mộ 1 và 2 có nhiều đồ vật được chôn theo. Những hiện vật khác được tìm thấy gồm có các loại đồ dùng bằng đá như rìu, cuốc, đục, vòng tay, bàn mài, bằng xương, bằng sừng, đất nung, gốm. Kỹ thuật chế tạo khá tinh vi và tốt. Những vật bằng xương, sừng thú như lưỡi câu (xương chó, sừng hưu), vòng tay làm bằng yếm rùa hay sừng hưu hoặc bằng vỏ sò, trai. Nhiều loại đồ gốm và đất nung vẫn còn nguyên vẹn. Các hài cốt người ở An Sơn là những dấu tích về con người cổ xưa được tìm thấy ở miền Đông Nam Kỳ: người cổ miền Nam ở giai đoạn An Sơn đã có một trình đệ phát triển cao hơn về kỹ thuật sản xuất. - Di chỉ đồ đồng Dốc Chùa ở xã Tân Mỹ, quận Tân Uyên với niên đại cách ngày nay vào khoản trên dưới 3,145 năm, được chính quyền Việt Nam tìm thấy vào năm 1976. Di tích ở đây gồm có nhiều ngôi mộ táng. Hiện vật trong mộ gồm có đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, đá quý, hạt chuỗi. Về di vật thì có: hiện vật bằng đá như rìu/bôn, đục; dao; mũi nhọn; công cụ lưỡi hẹp; chày; hòn ghè; đá hình đa diện; quả cân; VSTK - 110


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45

bàn mài; vòng tay; hạt chuỗi; tượng động vật; khuôn đúc. Hiện vật bằng đồng như rìu; giáo; lao; qua đồng; dao; tượng động vật; vòng tay; lục lạc . . .Hiện vật gốm và đất nung như dọ xe chỉ; hòn bi hình cầu; mãnh gốm tròn; bàn xoay; con dấu; nồi; chậu; bình; đĩa . . . - Di chỉ Suối Chồn ở xã Xuân Bình, huyện Xuân Lộc, thuộc thời đại đồng thau, cùng một thời đại với di chỉ Dốc Chùa. Tại Suối Chồn, người ta tìm thấy những hiện vật bằng đồng như rìu xoè cán nhỏ; khuôn đúc để đúc lưỡi rìu, lưỡi hái, chuông nhỏ. Hiện vật bằng đá như rìu đá, bàn mài, chày để nghiền, hòn ghè đập. Đồ gốm được chế tạo bằng bàn xoay. Cũng ở di chỉ Suối Chồn người ta cũng tìm thấy rìu sắt, kiếm sắt, mũi nhọn, liềm sắt, hoa tai bằng đá, hạt chuỗi đá: như vậy, với di chỉ Suối Chồn, người ta thấy có 2 khu vực di tích có niên đại khác nhau: Suối Chồn sớm của thời đại đồ đồng và Suối Chồn muộn của thời đại đồ sắt. Từ những di chỉ của thời đại đá mới và kim khí ở miền Nam Việt Nam được tìm thấy từ trước tới nay vừa được trích dẫn một cách tổng quát ở phần trên, có thể suy diễn rằng cách ngày nay từ khoảng 5,000 và 2,500 năm người cổ đã có mặt ở vùng nầy. Ở khu vực đất cao như Cầu Sắt (xã Bình Lộc, quận Xuân Lộc) vào khoảng 5,000 năm trước đây đã có những dấu hiệu về nông nghiệp với những công cụ dao hái. Tiếp theo, người cổ bắt đầu dùng thuật luyện kim với những khuôn đúc (di chỉ Hàng Gòn; niên đại trên dưới 3900 năm). Từ 2,500 năm, người cổ đi vào thời đại kim khí (di chỉ Suối Chồn, Núi Đá, Dầu Giây) Với những công cụ bằng Đồng và sắt mặc dù vẫn còn một số ít loại công cụ đồ dùng bằng đá. Ở vùng địa hình trung bình, dọc theo lưu vực sông đồng Nai, cách nay khoảng 3,000 năm đã có mặt người cổ ở Dốc Chùa, Bến Đò, Bình Đa cùng với thời đại đá mới.

Ở các vùng địa hình thấp, với các di chỉ ở Cái Vạn (xã Phước Thọ, quận Long Thành), An Sơn, Rạch Núi thuộc vùng ngập nước ven biển, kinh tế của người cổ miền Nam dựa vào thiên nhiên: săn bắt và đánh cá ven biển; xử dụng công cụ bằng đá và đã biết dùng xương thú vật để chế tạo công cụ như lưỡi câu , dùi . Di chỉ Dốc chùa (quận Tân Uyên) cho thấy giai đoạn phát triển cao của thời đại đồng thau ở đồng bằng miền Nam Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu về người cổ trên những chiếc sọ cổ thì những di cốt người ở An Sơn (có niên đại trên dưới 2750 năm) có nhiều nét tương đồng với sọ người trong thời đại văn hóa Bắc Sơn và sọ người Thượng miền Nam Việt Nam hiện nay, thường được xếp vào loại hình nhân chủng Indonésien. Vào năm 1984, những sọ cổ tìm được ở Óc Eo (An Giang), ở Gò Tháp (Đồng Tháp) cũng có những dáng nét của người Thượng thuộc chủng Indonésien. Ngoài ra cũng cần ghi thêm rằng năm 1934, người ta đã tìm thấy 1 trống đồng tại Bình Phú ở Thủ Dầu Một và 1 trống đồng ở Vũng Tàu (năm 1980). Tại Long Giao (xã Xuân Tân, quận Xuân Lộc), chính quyền Việt Nam cũng khai quật được một số lượng lớn những lưỡi qua bằng đồng: đây là một loại vũ khí dùng để tấn công theo VSTK - 111


1 2 3

những thế bổ, chém và móc. Hiện nay người ta chưa xác định được một cách chắc chắn xem người cổ ở vùng Đồng Nai đã sản xuất ra hay tiếp nhập loại lưỡi qua nầy.

DI CHỈ KHẢO CỔ BÌNH ĐA

Thanh đàn bằng đá (Bình Đa-Thủ Đức)

Ghi Chú: * Được tìm thấy vào tháng 1 năm 1979. * Niên đại: 3,000 - 2,500 năm cách ngày naỵ * Chất liệu làm đàn: đá phiến thạch ở núi Châu Thới. * Suy diễn: do người địa phương chế tạo. * Người khai quật: Nguyễn Văn Long. * Theo bài viết của Nguyễn Văn Long đăng trên tập chí Những Phát hiện Khảo Cổ Học năm 1980, Hà Nội, 1980.

VSTK - 112


SỌ NGƯỜI CỔ Ở AN SƠN

Hai sọ nữ 12-14 tuổi

Nhìn trước mặt

Nhìn bên trái Ba sọ nữ đã trưởng thành

Nhìn trước mặt

Nhìn bên trái

Nhìn từ trên xuống Ghi chú: Theo các tác giả Lê Trung Khá, Nguyễn Lân Cường và Võ Hưng nghiên cứu (trong Di cốt người cổ An Sơn, 1978, trang 81- 95) thì: * Được khai quật vào đầu năm 1978. * Là những di tích duy nhứt về người ở miền đông Nam Kỳ. * Có niên đại vào khoảng trên dưới 2,750 năm cách ngày naỵ . * Có những đặc điểm giống với lớp người indonésien trong văn hóa Bắc Sơn và sọ người Thượng hiện nay.

VSTK - 113


DI CHỈ CẦU SẮT

Rìu vai

Rìu / bôn không vai

Dao hái

Bát chân cao

Mũi nhọn Cốc

Ghi Chú: * Trích dẫn từ tạp chí Khảo Cổ Học, số 4/1977. * Căn cứ vào vào số nông cụ đá, rìu/bôn, dao hái và đồ dùng bằng gốm, có thể suy diễn người cổ ở Cầu Sắt là những cư dân nông nghiệp.

VSTK - 114


DI CHỈ DỐC CHÙA

Quả cân bằng đá

Rìu đá không vai

Lưỡi rìu bằng đồng

Rìu đá có vai

Mũi lao bằng đồng

Lưỡi cuốc bằng đá có vai

Mũi giáo bằng đồng

Ghi Chú: * Khai quật năm 1976 (Nguyễn Văn Long,Những Phát hiện Khảo Cổ Học năm 1976, trang 136-132, Hà Nội, 1976).

* Niên đại khoảng trên dưới 3,145 năm cách ngày naỵ * Số lượng khuôn đúc đồng (74 chiếc) và đồ đồng (68 hiện vật) thuộc hàng rất phong phú ở Đông Dương và Đông Nam Á cùng với một số lượng lớn các loại vũ khí tấn công như giáo, lao, qua.

VSTK - 115


DI CHỈ SUỐI CHỒN Hoa tai Hoa tai

Hạt chuỗi

Hạt chuỗi

Hạt chuỗi

Vòng tay

Lưỡi rìu bằng đồng-thau

Vòng tay

Lưỡi kiếm bằng sắt

Ghi chú: * Khai quật năm 1978. (Nguyễn Mạnh Lợi, Đỗ Bá Nghiệp và Nguyễn Văn Long, Những phát hiện KCH ở miền Nam, 1978, trang 179-190). * Cùng một niên đại với di chỉ Dốc Chùa. * Khu Suối Chồn muộn (thời đại sắt) gồm các hiện vật như: kiếm sắt, rìu sắt, hoa tai bằng đá, hạt chuỗi đá, rìu đá. * Khu Suối Chồn Sớm (thời đại đồng – thau) gồm các hiện vật bằng đồng như rìu xòe cán nhỏ, khuôn đúc đồng; đồ đá như rìu đá, bàn mài, chài nghiền.

VSTK - 116


DI CHỈ GÒ THÁP VÀ ÓC EO

Sọ cổ ở Óc Eo

Sọ cổ ở Óc Eo

Tượng người bằng đá ở Cần Giuộc Ghi chú: * Hai chuyên gia khảo cổ Việt Nam là Hồ Sĩ Khải và Lê Trung Khá tìm thấy 2 sọ cổ ở Gò Tháp (Đồng Tháp) và ở Óc Eo (An Giang) vào năm 1984 trên các khu di chỉ văn hóa Óc Eo. * Có những đặc điểm của những người Thượng hiện naỵ

VSTK - 117


DI CHỈ LONG GIAO

Hai trong số những lưỡi qua đồng tìm thấy ở Long Giao (xã Xuân Tân, quận Xuân Lộc)

Ghi Chú: * Qua là loại vũ khí tấn công dùng để bổ, chém và móc.

VSTK - 118


DI CHỈ Ở BÀU TRÒ

Rìu đá (BAVH, số tháng 1, 1936)

Rìu đá (BAVH, số tháng 1, 1936)

VSTK - 119


DI CHỈ Ở PHONG NHA

Rìu đá (BAVH, số tháng 1, 1936)

Rìu đá (BAVH, số tháng 1, 1936)

VSTK - 120


DI CHỈ QUẢNG BÌNH

Thời đại đồ đồng Ghi chú: * (1): Tay cán mũi giáo; (2), (3), (4): Lưỡi giáo bằng đồng. * Các di vật nầy được trưng bày ở viện bảo tàng Khải Định ở Huế. * Hình trích từ tập san BAVH, số tháng 1, 1936. * Hiện vật số (3) là di chỉ ở Cương Hà (Bố Trạch, Đồng Hới)

VSTK - 121


DI CHỈ CƯƠNG HÀ (Bố Trạch, Đồng Hới)

Ghi chú: * (5) : Lưỡi giáo bằng sắt, tay cán giáo bằng đồng. * (1) và (2): lưỡi rìu bằng đồng hình tam giác * (3), (6), (4), (7): lưỡi rìu bằng đồng. * Các di vật được trưng bày ở viện bảo tàng Huế * Hình trích từ tập san BAVH, số tháng 1, 1936.

VSTK - 122


DI CHỈ LẠC Ý (Vĩnh Yên)

Mộ cổ thời nhà Hán Ghi Chú: * Khai quật vào năm 1933 ở Lạc Ý tỉnh Vĩnh Yên * Trích dẫn từ BAVH, tháng 12, năm 1934

VSTK - 123


DI CHỈ NGHI VỆ (Bắc Ninh)

Mẫu thành quách (?) và nhà ở (?) tim thấy trong các ngôi mộ thời nhà Hán ở làng Nghi Vệ tỉnh Bắc Ninh.

(Trích dẫn từ BAVH, tháng 12, năm 1934)

VSTK - 124


QUYỂN I CHƯƠNG II

T H Ụ C P H Á N(1) (257 - 207 TTL) 1

2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

Vào thời Nhà Chu ở Trung Hoa sắp bị nhà Tần thay thế, khoảng năm 257 TTL, Thục Phán thôn tính và chiếm cứ lãnh thổ Văn Lang, xưng vương, đổi tên lãnh thổ là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê(2), không thần phục nhà Chu. Năm 255 TTL, Thục Phán xây xong thành trì và cung điện theo hình xoáy trôn ốc gọi là Loa thành. Ở Trung Hoa, từ năm 255 đến năm 249 TTL nhà Chu đã suy yếu (lúc nầy gọi là Đông Chu), các chư hầu(3) liệt quốc(4) mỗi người làm vua một cõi, nước Trung Hoa bị chia cắt thành nhiều nước riêng như Tần, Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn, Tề. Năm 249 TTL nhà Chu mất. Khoảng năm 246 TTL vua nước Tần là Lữ Chính đánh chiếm tất cả sáu nước kia, thống nhất nước Trung Hoa lên ngôi Đế (Tần Thủy Hoàng), bắt đầu xây dựng Vạn Lý Trường Thành để ngăn chận quân Hung Nô quấy nhiễu. Năm 214 TTL Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư và Sử Lộc đánh chiếm vùng đất từ Động Đình hồ sâu xuống tận vùng Lĩnh Nam và miền Lục Lương(5) của lãnh thổ Âu Lạc(6) rồi đặt thành các quận Quế Lâm (Quảng Tây), Nam Hải (Quảng Đông), và Tượng Quận (một phần vùng đất phía Bắc của bộ Giao Chỉ), cho Nhâm Ngao cai quản quận Nam Hải và Triệu Đà giữ chức huyện lệnh huyện Long Xuyên. VSTK - 125


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

Năm 210 TTL Tần Thủy Hoàng mất ở Sa Khâu. Tần Nhị Thế Hồ Hợi kế ngôi. Nhâm Ngao cùng với Triệu Đà liền đem quân sang đánh Thục Phán. Triệu Đà thua trận ở núi Tiên Du(7) phủ Bắc Giang(8) còn Nhâm Ngao vì không chịu nổi khí hậu phong thổ ngã bệnh nên phải rút lui trở về . Sau khi Triệu Đà được Nhâm Ngao giao hết binh quyền liền đem quân đóng ở vùng núi Vũ Ninh(9) rồi giả trá cầu hòa với Thục Phán. Thục Phán cắt một phần đất lãnh thổ Âu Lạc từ sông Bình Giang(10) trở lên phía Bắc để chia cho Triệu Đà cai trị còn từ sông Bình Giang trở xuống miền Nam thì thuộc quyền cai trị của Thục Phán. Vì chiến lược điều quân cung nỏ xung trận của Thục Phán rất hiệu nghiệm cho nên Triệu Đà mới cầu hôn, cho con trai sang ở rể nhà Thục Phán để làm gián điệp dọ thám trận thế cung nỏ. Năm 208 TTL Triệu Đà lại đem quân sang đánh, phá vỡ được trận thế cung nỏ của Thục Phán, chiếm trọn vẹn lãnh thổ Âu Lạc, lập ra lãnh thổ Nam Việt(11). Thục Phán thua chạy rồi nhảy xuống biển tự tận. Lãnh thổ Văn Lang qua đến thời Triệu Đà chỉ còn có Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây), Tượng Quận (vùng đất về phía Tây của Quảng Tây và phía Nam Quý Châu) và toàn thể vùng đất của miền Bắc Việt Nam ngày nay. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

27 28 29 30 31 32 33 34

Thục Phán: ĐVSKTT chép: Họ Thục, tên húy là Phán, người đất Ba Thục. KĐVSTGCM trong phần Cẩn án viết: Nước Thục từ năm thứ 5 đời Thận Tỉnh Vương nhà Chu (316 TTL) đã bị nhà Tần diệt rồi, sao còn có vua được? Huống chi từ đất Thục đến Văn Lang còn có đất Kiện Vi (nay thuộc Vân Nam), đất Dạ Lang, đất Cùng Tác và đất Nhiễm Mang (những đất nầy xưa là đất man di, mọi rợ ở phía Tây Nam, nay thuộc Vân Nam), cách nhau hai ba ngàn dặm thì làm sao mà vua đất Thục có thể vượt ngang qua các nước ấy để sang đánh lấy (1)

VSTK - 126


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

nước Văn Lang ? Sử cũ đã chép: "Cháu của Thục Vương là Phán", lại chép: "An Dương Vương họ Thục, húy là Phán, người Ba Thục", hoặc giả ngoài cõi Tây Bắc giáp với nước Văn Lang còn có họ Thục nào khác mà sử cũ liền nhận là Thục Vương chăng? Còn nói rằng Thục Vương là người đất Ba Thục thì không đúng." (2) Phong Khê: Về sau là thành Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay Cổ Loa còn di tích ở huyện Đông Anh, Hà Nội. (3) Chư hầu: nước nhỏ chịu thần phục một nước lớn nhưng không bị lệ thuộc hẳn vào nước lớn như trường hợp những nước thuộc địa. (4) Liệt quốc: các nước. (5) Lục Lương: vùng đất của hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây bây giờ tức là quận Nam Hải và quận Quế Lâm của Tần Thủy Hoàng. (6) Âu Lạc: tức là lãnh thổ Văn Lang cũ. (7) Tiên Du: ở huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, Kinh Bắc (LTHHCLC/ Dư địa chí). (8) Bắc Giang: tức là Kinh Bắc vào thời nhà Đinh, nay là tỉnh Hà Bắc. (9) Vũ Ninh: tức là huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, Kinh Bắc (lúc nầy đã bị sáp nhập vào quận Nam Hải của Tần Thủy Hoàng) . (10) Bình Giang: tức là sông Thiên Đức, phủ Từ Sơn, huyện Tiên Du, làng Cổ Pháp (nay là Đình Bảng). LLTHCLC viết: "Sông Thiên Đức (Bình Giang) từ dòng nhánh của sông Nhị chảy qua các huyện Đông Ngàn, huyện Quế Dương, huyện Tiên Du rồi chảy vào sông Lục Đầu. Từ đầu đời nhà Lê đặt châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức vì thế gọi sông ở đây là sông Thiên Đức." (11) Nam Việt: là lãnh thổ của Triệu Đà thời cổ xưa, không phải là vùng phía Nam của nước Việt Nam ngày nay. KHẢO LUẬ N: THỤC PHÁN

27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

Sở dĩ có sự thắc mắc tranh luận về gốc tích của Thục Phán là vì ĐVSKTT đã phóng đại khi cho rằng lãnh thổ Văn Lang là lãnh thổ Việt Nam trong thời thượng cổ chứ không phải ĐVSKTT phóng đại cương giới của lãnh thổ Văn Lang: cương giới phía Tây Bắc của lãnh thổ Văn Lang giáp liền với đất Ba Thục như vậy từ Ba Thục sang đánh chiếm Văn Lang không có gì gọi là xa xôi trở ngại cả. KĐVSTGCM cũng cho rằng lãnh thổ Văn Lang là nước Việt Nam nhưng cương giới thu hẹp lại với những lãnh thổ của 14 bộ tộc ở về phía cực Nam nước Trung Hoa với phía Bắc giáp Quảng Đông và Quảng Tây, phía Đông giáp biển, phía Tây giáp Vân Nam, phía Nam giáp Chiêm Thành, tức là vùng Bắc nước Việt Nam ngày nay. Vì thế,

VSTK - 127


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

nếu theo KĐVSTGCM thì hiển nhiên là lãnh thổ Ba Thục và lãnh thổ Văn Lang cách biệt nhau quá xa. Theo ĐVSKTT Thục Phán là người đất Ba Thục; theo một chú thích trong LNCQ thì Ba Thục xưa vốn là một nước riêng, sau bị nhà Tần diệt thì trở thành Thục Quận gồm có các phủ Thành Đô, Long An, Đồng Xuyên, Nhã Châu của tỉnh Tứ Xuyên nước Trung Hoa bây giờ. Lãnh Thổ Văn Lang qua tay Thục Phán chỉ trong vòng hơn 40 năm mà đã bị thu hẹp lại chưa bằng lãnh thổ của vùng miền Bắc của nước Việt Nam bây giờ. KĐVSTGCM/TB.1/10 cho biết: trong khi người của các bộ tộc Việt trong những vùng bị chiếm đóng không chịu hợp tác, bỏ trốn vào rừng tổ chức đội ngũ để đánh lại quân Tần và giết được Đồ Thư thì Thục Phán vẫn im hơi lặng tiếng chẳng dám phản kháng hoặc đưa quân chống cự khiến cho bộ tộc Giao Chỉ lúc đó phải chịu một cổ hai tròng của hai đám ngoại xăm Thục, Tần, cả hai đều cùng từ nước Trung Hoa đến. Xét cho cùng thì Thục Phán cũng là một kẻ ngoại bang, thừa cơ hội nhà Chu suy yếu mà chiếm đoạt lãnh thổ Văn Lang với tham vọng xưng hùng xưng bá, giống như những đám liệt quốc thời Đông Chu bên Trung Hoa, cũng là một trong những nhóm thực dân xăm lược từ phương Bắc chứ chẳng có công trạng gì với bộ tộc Việt Nam thời cổ thế mà vẫn được dân chúng Việt Nam lập đền miếu tôn thờ.

VSTK - 128


QUYỂN I CHƯƠNG III

T R I Ệ U ĐÀ ( 207 - 137 ) 1

2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

Triệu Đà là người Hoa, quê quán ở huyện Chân Định. Năm 206 TTL, nhân lúc nhà Tần vừa mất và sau khi đã diệt được Thục Phán, Triệu Đà liền sáp nhập lãnh thổ Âu Lạc chung vào với các lãnh thổ Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải để thành lập một lãnh thổ mới gọi là Nam Việt, xưng vương, đóng đô ở Phiên Ngung(1) muốn sánh ngang hàng với Hán Bá vương Lưu Bang và Sở Bá vương Hạng Tịch đang tranh hùng(2) giành ngôi đế ở Trung Hoa. Năm 202 TTL, sau khi diệt nhà Tần, trừ được Sở Bá Vương, Hán Bá vương Lưu Bang lên ngôi hoàng đế tức là Cao Tổ của nhà Hán, thống nhất nước Trung Hoa, bình định được thiên hạ, ngoại trừ lãnh thổ Nam Việt vẫn do Triệu Đà chiếm giữ. Năm 198 TTL, Triệu Đà cắt đặt sứ thần(3) cai quản quận Giao Chỉ(4) và Quận Cửu Chân(5) ; quận Giao Chỉ lúc nầy gồm có 9 bộ cũ của lãnh thổ Văn Lang ngày trước: Giao Chỉ, Chu Diên, Phúc Lộc, Vũ Ninh, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Tân Hưng; riêng Quận Cửu Chân thì gồm có 3 bộ Cửu Chân, Hoài Hoan và Việt Thường. Năm 195 TTL Hán Cao Tổ mất, Hán Huệ Đế lên thay nhưng vợ Hán Cao Tổ là Lữ hậu quyền hành lấn áp Huệ Đế. Sau khi Huệ Đế mất (188 TTL), Lữ hậu giữ trọn quyền triều chính nhà Hán . Năm 184 TTL Lữ hậu đóng cửa biên giới, cắt đứt giao thương với Nam Việt. Triệu Đà tức giận tự xưng VSTK - 129


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

Nam Việt hoàng đế (183 TTL) theo nghi vệ thiên tử, phát quân đánh đất Trường Sa(6), đốt phá một số quận rồi rút về. Lữ hậu sai tướng Chu Tào đem quân sang đánh Triệu Đà để trả thù vụ đánh Trường Sa nhưng quân Hán không hạp phong thổ phương Nam mắc bệnh rất nhiều nên thua phải rút lui về. Triệu Đà thắng thế liền thu phục đất Mân Việt(7) , chiếm đất Tây Âu(8) , thanh thế lừng lẫy, nghi vệ không kém gì hoàng đế nhà Hán của nước Trung Hoa. Năm 180 TTL Lữ hậu mất, con của vợ lẻ Hán Cao đế tên là Hằng lên kế nghiệp tức Hán Văn đế Hằng. Sau khi sửa sang chăm sóc mồ mả tổ tiên của Triệu Đà chôn cất ở Chân Định và cấp quan chức cho anh em của họ Triệu ở Trung Hoa, Hán Văn đế sai Lục Giả trở qua Nam Việt chiêu dụ Triệu Đà lập lại bang giao, hai bên không gây hấn chiến tranh với nhau nữa. Triệu Đà viết thư trả lời chịu thần phục làm chư hầu, đổi tước danh, bỏ đế hiệu, chịu triều cống và khi xưng hô gọi Hán đế là thiên tử bệ hạ. Năm 137 TTL Triệu Đà mất, chôn ở Ngung Sơn(9); con đích tôn là Triệu Hồ lên kế nghiệp gọi là Triệu Văn Vương Hồ. Năm 135 TTL vua đất Mân Việt lại nổi dậy đánh phá vùng biên giới Nam Việt, Triệu Hồ không dám tự quyết phải cầu Hán đế cứu viện. Quân nhà Hán bắt giết vua Mân Việt xong bèn gởi uy lệnh bắt Triệu Hồ sang chầu để thi hành bổn phận của một chư hầu. Triệu Hồ cho con là Triệu Anh Tề thay mặt sang chầu và làm con tin. Triệu Anh Tề ở lại bên Trung Hoa, lấy vợ người Hoa là Cù Thị sinh ra Triệu Hưng. Cù Thị trước đó đã thông dâm ăn nằm với quan của Hán đế là An Quốc Thiếu Úy(10) . Năm 125 TTL Triệu Hồ chết, Anh Tề từ bên Trung Hoa trở về kế tục gọi là Triệu Minh Vương Anh Tề, phong vợ lẻ Cù Thị làm hoàng hậu, lập con thứ Triệu VSTK - 130


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

Hưng làm thế tử, phong cựu thần Lữ Gia(11) làm Thái phó. Năm 113 TTL, Triệu Anh Tề mất, Triệu Hưng kế nghiệp gọi là Triệu Ai Vương, phong cho mẹ Cù thị làm thái hậu lấn áp hết quyền hành của Triệu Hưng. Hán đế lại lệnh cho Triệu Hưng sang chầu có ý ép Nam Việt vào khuôn khổ của Hán triều. Triệu Hưng cho người đại diện đi thay vì thế Hán đế liền sai quan An Quốc Thiếu Úy sang thúc hối đồng thời âm mưu với thái hậu Cù thị sáp nhập lãnh thổ Nam Việt vào nước Trung Hoa. Lữ Gia và dư luận ở Nam Việt chống đối ý đồ sáp nhập lãnh thổ; vì thế Cù thị một mặt viết thư trả lời thần phục nhà Hán để lấy hậu thuẫn, một mặt sắp đặt mưu độc sát hại Lữ Gia . Lữ Gia biết rõ âm mưu và tình ý của Cù thị bèn khởi xướng tạo phản, diệt Cù thị và Triệu Hồ, giết hết sứ giả của Hán đế rồi lập con trưởng của Anh Tề là Triệu Kiến Đức lên kế tục. Mẹ của Kiến Đức là người từ một trong các bộ tộc Việt. Năm 111 TTL Hán đế sai nhiều tướng giỏi(12) chinh phạt Nam Việt, hợp binh đánh Phiên Ngung trả đũa việc Lữ Gia giết sứ giả của nhà Hán. Lữ Gia và Kiến Đức đều bị bắt giết. Các quan sứ(13) của họ Triệu ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam mang lễ vật và sổ bộ ra xin hàng. Kể từ lúc nầy, lãnh thổ Nam Việt là thuộc địa của Trung Hoa dưới quyền thống trị của nhà Hán và gọi là bộ Giao Chỉ, gồm có 9 quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đạm Nhĩ. Mỗi quận đặt một thái thú để cai trị. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: VSTK - 131


2

Phiên Ngung: thuộc quận Nam Hải, nay là phủ Quảng Châu tỉnh Quảng Đông.

3

(2)

1

(1)

13

Hán Sở tranh hùng: thời cổ, nước Trung Hoa gồm có nhiều vùng lãnh thổ riêng biệt gọi là những nước chư hầu thuộc vòng kiềm toả của một nước mạnh nhưng không bị lệ thuộc hoàn toàn như thân phận của những nước thuộc địa. Người cầm quyền nước mạnh gọi là hoàng đế; tất cả nước chư hầu phải triều cống và chịu dưới quyền sai khiến của hoàng đế. Số nước chư hầu mỗi thời một khác. Đến thời nhà Chu (1122-256 TTL), nước Trung Hoa cũng còn gần 100 nước được phong chư hầu và được chia ra làm nhiều thứ bậc tùy theo diện tích của vùng lãnh thổ của mình hay được nước lớn cắt ban cho: nước lớn đất rộng 100 dặm được gọi là Công, Hầu, nước rộng cỡ trung 70 dặm thì gọi là Bá v.v . . .

14

(3)

4 5 6 7 8 9 10 11 12

15

Sứ thần: người đại diện của một quốc gia đi công tác ở nước ngoài.

16

(4)

17

(5)

Quận Giao Chỉ : tức là toàn miền Bắc Việt Nam ngày nay.

19

Quận Cửu Chân: thời Triệu Đà gồm có Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên. Còn hai bộ Bình Văn , Cửu Đức thì không thấy chú giải trong sử cũ.

20

(6)

18

21

Trường Sa: là lãnh thổ của một chư hầu nhà Hán nay là phần đất phía Đông tỉnh Hồ Nam bên Trung Hoa.

22

(7)

23

Mân Việt: tên một bộ tộc Việt vùng Phúc Kiến, Chiết Đông phía Đông nước Trung Hoa.

24

(8)

25

Tây Âu: theo chú giải của Nhan Sư Cổ (đời nhà Đương) Tây Âu là một phần của Lạc Việt.

26

(9)

28

Ngung Sơn: theo Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử đời Tống, Ngung Sơn cách huyện Nam Hải mộ dặm về phía Bắc. Theo sách Ngô Lục, Phiên huyện ở Ngung Sơn là chỗ chôn Úy Đà.

29

(10)

27

32

An Quốc Thiếu Úy: ĐVSKTT viết: "An Quốc là họ, Thiếu Úy là tên" (NK/Q.II/13a). Tuy nhiên An Quốc Thiếu Úy có thể là một chức tước bên hàng quan võ giống nhu An Quốc Công, An Quốc Thượng tướng . . .

33

(11)

30 31

Lữ Gia: là người Hoa, từng được Hán đế ban tặng cho ấn bạc.

VSTK - 132


3

Tướng giỏi của Hán đế: gồm có tướng Phục ba Lộ Bác Đức, Lâu Thuyền tướng Dương Bộc, Qua Thuyền tướng Nghiêm, Hạ Lại tướng Giáp, Trì Nghĩa hầu Quế. Tất cả đều tiến đánh Phiên Ngung.

4

(13)

1 2

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19

(12)

Các quan sứ: KĐVSTGCM có lời cẩn án rằng: "trước đây Triệu Đà chỉ sai hai sứ quan để cai trị hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi. Ở đây ĐVSKTT lại nói sai ba quan sứ đem sổ h tịch của ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam ra hàng quân Hán thì thực là trái ngược nhau". Cẩn án lại dẫn sách Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên cũng chỉ ghi có hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, không nói đến quận Nhật Nam. Tuy nhiên chúng ta có thể nhận thấy rằng từ thời Triệu Đà thành lập lãnh thổ Nam Việt cho đến thời Triệu Kiến Đức là một khoảng thời gian dài 97 năm trải qua 5 đời. Trong khoảng gần một trăm năm đó nhất định phải có sự thay đổi về việc cắt cử nhân sự để cai trị các vùng đất nằm trong lãnh thổ Nam Việt. Thời Triệu Đà chỉ có hai sứ trông coi Giao Chỉ và Cửu Chân nhưng cho đến cuối thời họ Triệu vào năm 111 TTL thì nhất định phải có thêm nhiều sứ khác để cai trị nhiều vùng đất thuộc lãnh thổ Nam Việt trong đó quận Nhật Nam là một trường hợp cụ thể . K H Ả O LU Ậ N NHÂN VẬT TRIỆU ĐÀ

20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

33 34 35 36 37

* Lê Văn Hưu nói: "Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đi mũ (như Trung Hoa), đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuần là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ đế. Văn vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đất mà thôi. Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) khai thác đất Việt ta mà tự xưng đế, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là lão phu, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau nầy nếu biết bắt chước Vũ đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngắp nghé được." (ĐVSKTT/NK/Q.2/ 8a) * Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Ngũ Lĩnh đối với nước Việt ta là ải hiểm cửa ngõ của nước cũng như Hồ Lao của nước Trịnh, Hạ Dương của nước Quắc. Làm vua nước Việt tất phải đặt quân chỗ hiểm để giữ nước. Họ Triệu một khi đã không giữ được đất hiểm ấy thì nước mất dòng tuyệt, bờ cõi bị chia cắt. Nước Việt ta lại bị phân chia, thành ra VSTK - 133


1 2 3 4

5 6 7 8 9

10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

34 35 36 37 38 39 40

cái thế Nam Bắc vậy. Sau nầy các bậc đế vương nổi dậy, chỗ đất hiểm đã mất rồi khôi phục lại tất nhiên là khó. . . .; mà các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần chỉ có đất từ Giao Châu trở về Nam thôi, không khôi phục được đất cũ của Triệu Vũ Đế, cái thế khiến như vậy." * Vua Tự Đức trong KĐVSTGCM có lời phê như sau: "Xét chung trước sau thì đất Việt của ta bị mất nhập vào nước Tàu đã hơn quá nửa. Tiếc rằng vua sáng tôi hiền các triều đại cũng có nhiều bậc lỗi lạc xuất hiện ra đời, nhưng rốt cục cũng không có khả năng để lấy lại được một tấc, thật đáng ân hận lắm . . ." (KĐVSTGCK/TB.2/ 4) * Ngô Thời Sĩ bàn: "Xét sách Việt Chí, cách phía Tây huyện Hưng Yên thuộc tỉnh Quảng Tây 40 dặm có một cái thành tương truyền do Tần Thủy Hoàng đắp ra để ngăn cách nước Việt, chân móng xây bằng đá, nền cũ hãy còn. Về phía Tây Nam cũng có thành của nước Việt ta, phía Bắc cách thành của nhà Tần 20 dặm có cửa ải nghiêm cấm, hai bên núi đứng cao, giữa chỉ vừa một con ngựa đi lọt, khi có tuyết chỉ đi được đến đấy thôi, nếu có tuyết lớn, có khi chỉ đi được đến quận Quế Lâm, không đi tới phía Nam được nữa. Lúc nhà Tần đắp thành là vào lúc Tần Thủy hoàng chưa mở mang tới đất Dương Việt, mà khí hậu của trời và hình thế của đất, đã có giới hạn Nam Bắc nhất định rồi. Đến khi nhà Tần chia nước ta ra làm quận huyện, thì đất Ngũ Lĩnh thành ra đất của Trung Quốc. Họ Triệu chiếm lấy đất ấy của nhà Tần. Đến nhà Hán lại diệt họ Triệu mà lấy lại thì đất Giao Nam ta lại ở ngoài Ngũ Lĩnh, Ngũ Lĩnh trước thuộc nhà Triệu sau lại thuộc về nhà Hán vì Triệu mất nước. Như vậy, Ngũ Lĩnh vốn không phải là địa giới của 3 . . . .quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Nếu nhà Triệu giữ được thì ba quận ấy cũng chỉ là thuộc địa của Triệu mà thôi. Sau nầy Đinh, Lê, Lý, Trần chỉ có đất cũ từ Giao Châu trở về phía Nam chứ không phải là do ở chỗ nhà Triệu để mất ở vùng đất hiểm mà gây nên như thế. Nhà Triệu đặt hai viên sứ ở trong nước Việt tức là đất của hai quận đời nay, thì sao lại cho rằng Ngũ Lĩnh là chỗ hiểm của 3 quận được để rồi tiếc cho Đinh, Lê, Lý, Trần không lấy lại được đất cũ ?" (LTHCLC/ Dư Địa Chí/ Lời bàn của Ngô Ngọ Phong tức Ngô Thời Sĩ). Trong Việt Sử Tiêu Án Ngô Thời Sĩ cũng có đoạn viết: "Đến như việc tán tụng công lao của Triệu Đà đã xướng ra cơ nghiệp đế vương trước tiên, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên cứ theo cách chép nầy không thay đổi, rồi đến bài Tổng Luận của Lê Tu, thơ vịnh sử, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng cho Triệu Đà là bậc đế của nước ta. Qua hàng ngàn năm mà không ai cải chính, vì thê mà tôi phải giải bày cho tường tận."

VSTK - 134


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

21 22 23 24

25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

35 36 37 38 39

* Phan Huy Chú viết: "Thường khảo: từ đời Triệu Vũ trở về trước, đất Ngũ Lĩnh đều là cõi đất của Việt. Đến khi Triệu đã mất nước thì các đời sau chỉ có vùng Giao Nam, thế thì đất ở chỗ quan ải (chỗ biên giới của hai nước)trước sau không giống nhau." (LTHCLC/ Dư Địa chí/ Tựa của Phan Huy Chú) Lời Án của Phan Huy Chú viết :". . .Nay xét các sách các sách dư địa chí thì quận Nam Hải, Hợp Phố nay thuộc Cao Châu, Liêm Châu, quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ nay thuộc Quỳnh Châu-Đạm Châu trong địa giới tỉnh Quảng Đông, quận Thương Ngô, Uất Lâm nay thuộc tỉnh Quảng Tây. Duy chỉ có quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam mới là đất của ta: Quận Giao Chỉ có 12 huyện: Lâm Biên, Liên Lâu, An Định, Câu Lậu, Mi Linh, Khúc Dương, Bắc Đới, Kê Từ, Tây du, Chu Diên, Phong Khê, Vọng Hải. (KĐVSTGCM chép là 10 huyện không có Phong Khê, Vọng Hải) Quận Cửu Chân có 5 huyện: Tư Phố, Cư Phong,, Hàm Hoan, Vô Công, Vô Thiết. (KĐVSTGCM chép là 7 huyện, thêm 2 huyện Đô Bàng, Dư Phát) Quận Nhật Nam có 5 huyện: Chu Ngô, Tây Quyền, Tượng Lâm, Lư Dung, Tỵ Ảnh." *Trần Trọng Kim trong VNSL viết kết luận về thời cuối của dòng họ Triệu Đà như sau :" . . .Quân nhà Hán đuổi theo bắt được, vua tôi (tức là Triệu Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia) đều bị hại cả. Năm ấy là năm Canh Ngọ (111 trước Tây lịch), nước Nam bị người Tàu chiếm lấy cải là Giao Chỉ bộ, chia ra làm 9 quận và đặt quan cai trị như các châu quận bên Tàu vậy." * Hoàng Xuân Hãn trong Đại Nam Quốc Sử Diễn ca có viết lời phê bình như sau: "Đoạn sử nhà Triệu, các việc chép chắc đúng nhiều. Bắc sử (tức là sử Trung Hoa) còn có nhiều tài liệu về "Úy Đà", và các địa dư chí của Trung quốc hay kể mộ Úy Đà là một cổ tích ở Quảng Châu. Nhưng đừng quên rằng Triệu Đà là tướng Tần theo Hán sau khi Tần mất. Tuy đã lập nước riêng, nhưng đó có phải là nước ta không? Các sử gia xưa nay có kẻ bàn không nên kể nhà Triệu là một quốc triều, và chỉ cho là một kẻ ngoại xâm. Nhưng nếu bỏ qua tính cách thiêng liêng của chữ triều đại và chỉ coi nó là một tư liệu lịch sử thì tách * Lê Văn Siêu trong Việt Nam Văn Minh Sử Lược Khảo xuất bản năm 1972 viết như sau về Triệu Đà và lãnh thổ Nam Việt: "Triệu Đà chiếm được Âu Lạc, chia thành 2 quận Giao Chỉ và Triệu Đà đóng đô ngay trên đất Âu Lạc, cũng không thể nhận Triệu là một dòng vua chính thống của ta, huống chi lại đóng ở Phiên Ngung. Việc Triệu VSTK - 135


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

bênh vực dân Giao Chỉ đem quân đánh quận Trường Sa, đúng ra là nại cớ để thử sức với Cửu Chân rồi gộp vào với quận Nam Hải lập thành nước Nam Việt và lên ngôi xưng là Nam Việt Vương năm 207 đóng đô tại Phiên Ngung, tức là Quảng Châu, tỉnh lỵ Quảng Đông bây giờ, cũng chỉ là việc riêng của Triệu. Sau đó Triệu lại xin thần phục Hán triệu, thì trên nguyên tắc, Âu Lạc đã là một nước phụ dung của Tần mà Nam Việt cũng là nước phụ dung của Hán. Đó là một loại bán thực dân địa, còn giữ được phần nào quyền tự trị mà thôi." (Lê Văn Siêu/VNVMSLLK/Tập Thượng/ trang 186/ xuất bản năm 1972).

Tổng luận quyển 1 THỜI ĐẠI CỔ SỬ 11 12 13 14 15

16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

Kể từ thời Lê Văn Hưu qua tới những thời gian gần đây, những người chép sử, cùng với nhũng người có dính líu tới nền sử học của nước Việt Nam thời cổ đã bị hai chữ "quốc thống" và "cái tôi" ám ảnh ràng buộc quá nhiều. Hãy thử đọc lại những ý kiến, những lời phê luận thì sẽ thấy ngay điều đó. * Lê Văn Hưu viết: " Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là lảo phu, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau nầy nếu biết bắt chước Vũ đế mà giữ vững bờ cõi,thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngắp nghé được ". Cách viết nầy đã bị Ngô Thời Sĩ phê phán là tôn vinh công trạng kẻ ngoại bang xâm lược. Đây là một sự phê phán không chính xác của Ngô Thời Sĩ. Lê Văn Hưu không xem Triệu Đà là người mở đầu nền đế chính của nước Việt Nam bởi vì nếu đã công nhận thì những người đi sau cứ tiếp nối, cần gì phải bắt chước. Kể công trạng của Triệu Đà ở đây là một cách nói mỉa: việc làm của Triệu Đà chỉ được Lê Văn Hưu xem như là một chiếc gương soi làm mẫu để thức tỉnh ý chí quật cường, tự chủ, độc lập của bộ tộc Việt Nam; trên phương diện nầy, mặc dù Triệu Đà chiếm đoạt và khai thác đất đai của bộ tộc Việt Nam rồi nhập chung vào với các vùng đất khác để xưng đế nhưng kẻ ngoại bang xâm lược nầy có thể ví như là một tên thợ săn đã vô tình vẽ đường cho hưu chạy thoát khỏi những bẫy rập của những tên thợ săn khác trong tương lai xuất phát từ Bắc phương. VSTK - 136


1 2 3 4 5 6

7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

23 24 25 26 27

28 29 30 31 32 33 34 35 36

37 38 39 40

Lê Văn Hưu đã không công nhận thời đại Văn Lang và thời đại Âu Lạc thì không lý do gì Lê Văn Hưu lại đi công nhận thời đại Nam Việt hay nói theo kiểu "tư liệu lịch sử" của Hoàng Xuân Hãn thì Triệu Đà chỉ được Lê Văn Hưu xem là một tư liệu lịch sử được dùng làm móc thời gian vì nó có liên hệ tới thân phận của lãnh thổ và bộ tộc Việt Nam lúc đó nằm chìm trong lãnh thổ Nam Việt. * Đến lượt Ngô Sĩ Liên thì: "Ngũ Lĩnh đối với nước Việt ta là ải hiểm cửa ngõ của nước cũng như Hồ Lao của nước Trịnh, Hạ Dương của nước Quắc. Làm vua nước Việt tất phải đặt quân chỗ hiểm để giữ nước. Họ Triệu một khi đã không giữ được đất hiểm ấy thì nước mất dòng tuyệt, bờ cõi bị chia cắt. Nước Việt ta lại bị phân chia, thành ra cái thế Nam Bắc vậy. Sau nầy các bậc đế vương nổi dậy, chỗ đất hiểm đã mất rồi, khôi phục lại tất nhiên là khó. . . .; mà các nhà Đinh, Lê, Lý, Trần chỉ có đất từ Giao châu trở về Nam thôi, không khôi phục được đất cũ của Triệu Vũ đế, cái thế khiến như vậy." Rõ ràng là đối với Ngô Sĩ Liên, vùng đất Ngũ Lĩnh cũng là vùng đất của ta, của người Việt Nam, và nước Việt Nam ta của Ngô Sĩ Liên là lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà. Đây không phải là do sự sai lầm của Ngô Sĩ Liên nhưng chính là vì bàn tay cầm bút của Ngô Sĩ Liên đã bị áp lực của Lê Thánh Tông uốn nắn. Một Ngô Sĩ Liên Đô ngự sử khí khái trung thực khác với một Ngô Sĩ Liên sử gia lơ láo và sợ chết. * Vua Tự Đức trong KĐVSTGCM có lời phê như sau: "Xét chung trước sau thì đất Việt của ta bị mất nhập vào nước Tàu đã hơn quá nửa. Tiếc rằng vua sáng tôi hiền các triều đại cũng có nhiều bậc lỗi lạc xuất hiện ra đời, nhưng rốt cục cũng không có khả năng để lấy lại được một tấc, thật đáng ân hận lắm . . ." Đất Việt của ta hiểu theo gốc chữ Hán là bản Việt. Ở đây không thể hiểu là vùng phía Bắc nước Việt Nam ngày nay khi mà lời phê phán Tự Đức nhắm về thời điểm của Triệu Đà. Mà cũng không cần phải biện bạch bởi vì đó là tiêu biểu cho một bản chất cố hữu của đám vua chúa phong kiến: tham vọng bành trướng lãnh thổ. Theo Tự Đức, dòng dõi của Nguyễn Ánh, thì nước Việt Nam dưới triều Nguyễn đáng lẽ ra phải lớn hơn gắp hai lần tức là biên giới phía Bắc của nước Việt Nam phải kéo dài và nới rộng sâu vào đất đai của nước Trung Hoa bây giờ. * Với Ngô Thời Sĩ thì dứt khoát: "nước Việt ta gồm có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam" ở phía Nam, không bao gồm vùng Ngũ Lĩnh nhưng cũng lại là thuộc địa của Triệu Đà nằm trong lãnh thổ Nam Việt. VSTK - 137


1 2 3

4 5 6 7 8 9

10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

25 26 27 28 29 30 31

32 33 34 35 36 37 38

Tuy nhiên, việc Ngô Thời Sĩ bênh vực mạnh mẽ những điều quái đản viết về họ Hồng Bàng khiến cho người ta phải nghi ngờ khả năng nhận thức của Ngô Thời Sĩ . Xét cho cùng thì có lẽ cũng không nên chê trách việc làm hùa theo của những người chép sử nối tiếp theo sau Ngô Sĩ Liên kể luôn cả Ngô Thời Sĩ, bởi vì trong lúc đang phục vụ dưới triều đại của con cháu Lê Thánh Tông thì họ cũng như Ngô thời Sĩ rất có thể cũng bị răn đe một cách gián tiếp qua "bản án tử hình treo" chưa cũ lắm mà Lê Thánh Tông đã giằn mặt Ngô Sĩ Liên trước đó. *Phan Huy Chú viết: "Thường khảo: Từ đời Triệu Vũ trở về trước, đất Ngũ Lĩnh đều là cõi đất của Việt. Đến khi Triệu đã mất nước thì các đời sau chỉ có vùng Giao Nam, thế thì đất ở chỗ quan ải trước sau không giống nhau. (LTHCLC/ Dư địa chí/Tựa của Phan Huy Chú). Cõi đất Việt trong bài tựa của Phan huy Chú là cõi đất của nước Việt Nam thời đó gồm các vùng Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và vùng Ngũ Lĩnh và vì Triệu Đà để mất nước Nam Việt nên các đời sau chỉ còn có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam hay nói khác đi Phan Huy Chú cũng cho rằng lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà là nước Việt Nam ngày đó. Hơn nữa, khi viết "Từ đời Triệu Vũ trở về trước" thì Phan Huy Chú cũng đã cho rằng lãnh thổ Âu Lạc, cũng như lãnh thổ của bộ Văn Lang đều là lãnh thổ của nước Việt Nam ở vào thời cổ đại. Sau đó, trong phần lời án Phan Huy Chú lại kết luận: "Duy chỉ có quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam mới là đất của ta". Tính cách bất nhất nầy một lần nữa cho thấy áp lực kinh khủng của vua chúa thời phong kiến đời đời áp đặt lên những nho quan yếu kém bất lực trong tay không một tấc sắt. Áp lực chuyên chế độc đoán đó nặng nề như một dấu ấn in lên trán bằng sắt nung đỏ khó thể xoá bỏ một cách dễ dàng. Ở đây phản phất một Phan Huy Chú bị chèn ép không biết tỏ cùng ai nhưng cuối cùng rồi cũng vớt vác tự biện hộ cho mình qua những lời án trái ngược với những gì đã viết trong bài tựa. *Trần Trọng Kim trong VNSL viết kết luận về thời cuối đời của dòng họ Triệu Đà như sau: ". . .Quân nhà Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị hại cả. Năm ấy là năm Canh Ngọ (111 tr.Tây lịch), nước Nam bị người Tàu chiếm lấy cải là Giao Chỉ Bộ, chia ra làm 9 quận và đặt quan cai trị như các châu quận bên Tàu vậy." Nước Nam theo ý của Trần Trọng Kim là Giao Chỉ Bộ của nhà Hán hay nói khác đi lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà hay toàn thể

VSTK - 138


1 2

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20

21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

36 37 38 39 40

lãnh thổ thuộc bộ Giao Chỉ của nhà Hán là lãnh thổ của Việt Nam thời đó. *Hoàng Xuân Hãn đã có một quan điểm đúng khi viết: "Xưa nay người ta đã thiêng liêng hóa hai chữ triều đại ". Tuy nhiên, phải nói thêm rằng tính cách thiêng liêng nầy không xuất phát từ quần chúng nhưng là một sản phẩm, một sự bày đặt của một nhóm thiểu số cầm quyền thống trị và các sử gia - mà thân phận cũng không khác gì nhiều lắm so với thân phận của những người dân đen ngoài xã hội dưới ách cai trị độc tài phong kiến - chỉ là những công cụ, những óng loa tuyên truyền, những bầy tôi lơ láo run sợ, những hình nộm dễ dạy, những cái máy viết theo nhịp điệu bấm phiếm của kẻ nắm quyền cai trị, sinh sát trong tay. Dù sao thì Hoàng Xuân Hãn cũng chưa dứt khoát hẳn mà vẫn còn e dè không biết có nên giữ hay bỏ hai chữ triều đại, giữ hay loại ra triều đại của Triệu Đà. Và cũng giống như tình trạng của những người cũ, Hoàng Xuân Hãn không dám có ý kiến riêng của mình về lãnh thổ Nam Việt mà chỉ đặt nghi vấn "Tuy đã lập nước riêng, nhưng đó có phải là nước ta không ?" rồi bỏ việc nầy sang một bên để cho người khác trả lời. Rốt cuộc rồi nước ta của Hoàng Xuân Hãn cũng giống với biết bao nhiêu là nước ta từ thời Lê Văn Hưu cho đến nay. *Lê Văn Siêu trong Việt Nam Văn Minh Sử Lược Khảo xuất bản năm 1972 viết như sau về Triệu Đà và lãnh thổ Nam Việt: "Triệu Đà chiếm được Âu Lạc, chia thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân rồi gộp vào với quận Nam Hải lập thành nước Nam Việt và lên ngôi xưng là Nam Việt Vương vào năm 207, đóng đô tại Phiên Ngung, tức là Quản Châu, tỉnh lỵ Quảng Đông bây giờ. Dù Triệu Đà đóng đô ngay trên đất Âu Lạc, cũng không thể nhận Triệu là một dòng vua chính thống của ta, huống chi lại đóng ở Phiên Ngung. Việc Triệu bênh vực dân Giao Chỉ đem quân đánh quận Trường Sa, đúng ra là nại cớ để thử sức với Hán, cũng chỉ là việc riêng của Triệu. Sau đó Triệu lại xin thần phục Hán triều, thì trên nguyên tắc, Âu Lạc đã là một nước phụ dung của Tần mà Nam Việt cũng là nước phụ dung của Hán. Đó là một loại bán thực dân địa, còn giữ được phần nào quyền tự trị mà thôi." (Lê Văn Siêu/VNVMSLLK /Tập Thượng/ trang 186/ xuất bản năm 1972) Từ Lê Văn Hưu năm 1272 đến Lê Văn Siêu 1972, phải cần một thời gian 700 năm dài đăng đẳng để bộ mặt thật thực dân thuộc địa của Triệu Đà mớí được nói thẳng một cách tách bạch và thân phận thuộc địa của lãnh thổ Việt Nam thời đó mới được đưa ra ánh sáng. Tuy nhiên, Lê Văn Siêu vẫn còn mập mờ và ngập ngừng về lãnh thổ VSTK - 139


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19

20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Âu Lạc của Thục Phán mà gốc tích và lý lịch của Thục Phán thì cũng không khác gì nhiều lắm so với Triệu Đà Tóm lại, từ lãnh thổ Văn Lang hay bộ thuộc địa Văn Lang, rồi lãnh thổ Âu Lạc của Thục Phán và lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà, biết bao nhiêu chuyện quỷ ma, rồng rắn, hổ rùa được vẽ vời thêu dệt ra nhằm thần thánh hóa cá nhân hoặc để thiêng liêng hóa chế độ, kèm theo những trò phối chủng cầm thú bệnh hoạn phản khoa học, với những bày biện ru ngủ, mê muội hóa người dân, tất cả chỉ nhằm mục đích vuốt ve và thỏa mãn bản chất cao ngạo hợm mình, tham vọng vô bờ của nhóm vua chúa thời phong kiến nắm giữ độ quyền lãnh đạo thống trị. Nếu chỉ kể từ thời đại Văn Lang, ngang với năm khởi đầu của nhà Đường bên Trung Hoa tức là vào khoảng từ năm 2359 TTL cho đến năm 2000 Tây Lịch, tức đã hơn 4000 ngàn năm qua, sự man trá trong sử cũ vẫn còn ảnh hưởng dây dưa vào nếp suy tư của dân tộc Việt Nam mỗi khi muốn quay về dĩ vãng để tìm nguồn cội thực sự của mình. Sự cao ngạo tự hào về nguồn gốc thần thánh, về tư cách chính thống của nhóm vua chúa thời phong kiến không phải là sản phẩm và niềm tự hào thực sự, đúng đắn của dân tộc Việt Nam. Dù tiền nhân của người Việt Nam có là Mán, Mường hay thuộc hàng Phiên Rợ như nhóm phương Bắc đã khoác cho thì người Việt Nam vẫn là một bộ tộc, một tập thể nhân loại biết suy tư, khác với loài hạ trùng cầm thú, một bộ tộc rất tự hào về lòng kiên trì chịu đựng ách ngoại xâm, hãnh diện về sức đề kháng bền chí chống lại sự đồng hóa của nhóm người ngoại tộc xa lạ, tự tin về sức mạnh đoàn kết đánh đuổi quân xâm lược. Tất cả những niềm tự hào đó gộp lại tạo thành quốc uy và truyền thống của người Viện Nam chứ không phải quốc thống huyền thoại cổ tích của nhóm đế vương phong kiến, độc tài, chậm tiến thời quá khứ.

VSTK - 140


Di vật bằng đất nung tráng men tìm thấy ở khu thành Cổ Loa (Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH-1934)

VSTK - 141


Di vật bằng đất nung tráng men tìm thấy ở khu thành Cổ Loa (Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH-1934)

VSTK - 142


Di vật bằng đất nung tráng men tìm thấy ở khu thành Cổ Loa (Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH-1934)

VSTK - 143


NHÓM CHỦNG INDONÉSIEN

Đàn ông người Thượng Banhar ở vùng cao nguyên Kontum (Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San -BAVH1934)

VSTK - 144


NHÓM CHỦNG INDONÉSIEN

Đàn bà người Thượng Radhé ở vùng cao nguyên Darlac (Ảnh trích từ Đô Thành Hiếu Cổ Tập San - BAVH-1934)

VSTK - 145


QUYỂN 1

THỜI ĐẠI THUỘC ĐỊA VÀ CÁC PHONG TRÀO NỔI DẬY CỦA QUẦN CHÚNG ( 111 TTL - 931 TL ) CHƯƠNG I

THỜI KỲ THUỘC TÂY HÁN ( 111 TTL - 39 TL )

1

2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

Nhà Hán diệt được Triệu Đà, lấy đất Nam Việt lập ra bộ thuộc địa Giao Chỉ để cai quản 9 quận: Nam Hải(1), Thương Ngô(2), Uất Lâm(3), Hợp Phố(4), Giao Chỉ(5), Cửu Chân(6), Nhật Nam(7), Châu Nhai(8), Đạm Nhỉ(9). Mỗi quận đặt một thái thú để cai trị. Hán quan đứng đầu bộ Giao Chỉ tương đương với chức thứ sử(10 trong Hán triều, trụ sở của bộ đặt tại Long Uyên(11). Mười lăm bộ của nước Âu Lạc trước đây, nay nhà Hán lập lại thành 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và vẫn tiếp tục xử dụng các Lạc hầu, Lạc tướng để phụ tá thái thú nhà Hán trong việc cai trị. Trong thời nầy, những thái thú nhà Hán cai trị các huyện đã dùng những đường lối chính trị ve vuốt mị dân nhằm mục đích ru ngủ những mầm móng nổi dậy và cùng một lúc đồng hoá từ từ người dân trong các lãnh thổ bị trị: Tích Quang(12) ở huyện Giao Chỉ có nhiệm vụ phổ biến nhồi sọ văn hoá của Trung Hoa, Nhâm Diên(13) ở huyện Cửu Chân bắt dân khai khẩn đất hoang, tăng gia sản xuất nông phẩm che đậy giả dối dưới hình thức dạy người dân bản xứ kỹ thuật cày cấy trồng trọt. VSTK - 146


1 2 3 4

Khi Tích Quang hết thời hạn công tác và được thuyên chuyển trở về Trung Hoa, thái thú Tô Định được nhà Hán cử sang thay thế cai trị huyện Giao Chỉ vào năm 34 TL.

VSTK - 147


CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

Nam Hải: cai quản 6 huyện Phiên Ngung, Bác La, Trung Túc, Long Xuyên, Tứ Hi, Yết Dương. (nay là Quảng Đông) (2) Thương Ngô: cai quản 10 huyện Quảng Tín, Tạ Mộc, Cao Yêu, Phong Dương, Lâm Hạ, Đoan Khê, Phùng Thặng, Phú Xuyên, Lê Phố, Mãnh Lăng (nay là Quảng Tây). (3) Uất Lâm: cai quản 12 huyện Bồ Sơn, An Quảng, A Lâm, Quảng Uất, Trung Lưu, Quế Lâm, Đàm Trung, Lâm Trần, Định Chu, Tăng Thực, Lĩnh Phương, Ung Khê.(Quảng Tây) (4) Hợp Phố: cai quản 5 huyện Từ Văn, Cao Lương, Hợp Phố, Lâm Doãn, Chu Lư. (5) Giao Chỉ: cai quản 10 huyện Liên Thụ, An Định, Cẩu Lâu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên. (6) Cửu Chân: cai quản 7 huyện Tư Phố, Cư Phong, Đô Bàng, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. (7) Nhật Nam: cai quản 5 huyện Chu Ngô, Tị Ảnh, Lư Dung, Tây Quyển, Tượng Lâm. (8) Châu Nhai: là một huyện nằm trong đảo lớn Hải Nam bây giờ. (9) Đạm Nhỉ: cũng là một huyện nằm trong đảo Hải Nam. (10) Thứ sử: là chức quan đứng đầu một Châu hoặc Bô. (11) Long Uyên: tức là Long Biên, thuộc huyện Giao Chỉ. Theo sách Thủy Kinh Chú thì vào năm 208 đời nhà Hán, khi mới đắp thành trong vùng có nhiều giống thuồng luồng rắn nước sinh xôi nẩy nở cùng khắp vì thế mới gọi là Long Uyên. Nhà Lý đóng đô ở đó nhưng đổi tên là Thăng Long, Nhà Trần nhà Lê cũng gọi là Thăng Long, nay là Hà Nội. (12) Tích Quang: ĐVSKTT viết: "Tích Quang người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy dân". (13) Nhâm Diên: ĐVSKTT viết: "Diên là người Uyển. Tục người Cửu Chân chỉ làm nghề cá, đi săn, không biết cày cấy. Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hằng năm cày trồng, trăm họ no đủ. Dân nghèo không có sính lễ cưới vợ, Diên bảo các trưởng lại cắt bớt bổng lộc của mình để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến 2,000 người." (1)

KHẢO LUẬ N: 33 34 35 36 37

Rất hiếm có những dư luận hay quan điểm bài bác hai người Hoa thái thú Tích Quang và Nhâm Diên. Đa số chỉ biết khen và kể công cho hai người Hoa nầy. Có lẽ vua Tự Đức là người đầu tiên và sớm nhất không tin về những việc làm gọi là có ích lợi, có tình nghĩa của Tích Quang và Nhâm Diên. Lời phê của vua Tự Đức viết: "Triệu Đà VSTK - 148


1 2 3 4 5 6

7 8

9 10 11 12 13

14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25

vốn là người Tàu, làm vua trên nước Nam Việt và truyền nối ngót trăm năm. Xem bức thư trả lời Hán Văn đế thì Triệu Đà vốn là người có học thức có lẽ nào chưa biết dạy dân cày cấy cưới gả mà phải đợi đến lược hai thái thú đó? Huống chi lại nói cùng thời đó có đã có tới hơn hai ngàn người cưới hỏi lấy nhau. Xem thế thì đủ thấy rõ rằng ghi chép không đúng sự thật, không đáng tin." Hoàng Xuân Hãn người viết Tựa và Dẫn cho ĐNQSDC không dám có một ý kiến nào về Tích Quang và Nhâm Diên. Nguyễn Văn Huyên trong La Civilisation Annamite đã ngầm chấp nhận công đức của hai gương mặt thực dân người Tàu khi viết rằng: "Các quan cai trị Trung Quốc chẳng phải bao giờ cũng là những tấm gương thanh liêm". Những tấm gương thanh liêm hiếm hoi ở đây nhất định phải là Tích Quang và Nhâm Diên. Lê Văn Siêu trong VNVMSLK là người đã có những lời đả kích mạnh mẽ nhắm vào Triệu Đà và lãnh thổ Nam Việt nhưng đến chỗ nầy thì lại rơi vào trường hợp của Nguyễn Văn Huyên: "Ngoài hai người ấy thì toàn là tham quan ô lại trong guồng máy hành chính." Bất cứ loại thực dân thuộc địa nào cũng chỉ có một mục tiêu duy nhất là bóc lột tài nguyên, nhân lực của nước bị trị để đưa về chính quốc. Khai hóa chỉ là một ngôn từ mỹ miều dối trá. Để đạt được mức tối đa việc khai thác bóc lột, thực dân thuộc địa sẽ không từ khước bất kỳ hình thức, phương pháp hoặc thủ đoạn lừa dối nào kể cả những chiêu bài ve vuốt, mua chuộc và giáo dục. Tích Quang và Nhâm Diên khai hoá người dân bị trị bằng phong tục tập quán của người Trung Hoa để cho việc cai trị và bóc lột của họ được dễ dàng hơn thế thôi.

*

VSTK - 149


CHƯƠNG II

CUỘC NỔI DẬY CỦA QUẦN CHÚNG LẦN THỨ NHẤT

TRƯNG TRẮC - TRƯNG NHỊ ( 40 - 43 ) 1 2

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

1. Chính sách cai trị của người Hán trên lãnh thổ thuộc địa:

Vào lúc quân Tây Hán đánh chiêm lãnh thổ Nam Việt, một quan lang(1) giống tộc người Việt là Đô Kê lập công bắt Lữ Gia giao nộp cho tướng của nhà Tây Hán để ra đầu phục. Quận trưởng quận Thương Ngô là Triệu Quang nguyên là thân tộc của Triệu Đà và quận trưởng quận Quế Lâm là Cư Ông đều ra hàng rồi dụ thêm nhiều bộ tộc Việt theo về hàng phục với nhà Hán. Những người sứ đại diện Triệu Đà lúc trước cai quản các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cũng đem lễ vật ra đầu hàng và được tướng nhà Hán Lộ Bác Đức cho giữ chức cũ để tiếp tục cai trị dân như trước. Từ đó lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà trở thành thuộc địa và sáp nhập vào nước Trung Hoa. Chế độ của Tây Hán lấy Châu hay Bộ thống trị các quận hay huyện; ở châu, bộ thì đặt châu mục hay thứ sử, ở quận thì đặt thái thú. Lãnh thổ Nam Việt trở thành Giao Chỉ cai quản 9 quận, cử Thạch Đái làm thứ sử đầu tiên của bộ Giao Chỉ, tạm thời giữ nguyên những người của chế độ cũ cho tiếp tục việc cai quản các quận. Trong thời kỳ nầy, người Hoa áp dụng chính sách đồng hóa(2) dân bản xứ trên nhiều lãnh vực: kinh tế, xã hội, văn hoá . . . bằng cách dùng hình thức mua chuộc, khai hoá, truyền bá văn minh kỹ thuật để bắt dân bản xứ phải cật lực khai thác tài nguyên thiên nhiên, khai VSTK - 150


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

khẩn đất hoang để nới rộng diện tích trồng trọt, tăng gia sản xuất nông nghiệp, rập theo phong tục, tập quán, lễ giáo của người Hoa qua trung gian của các thứ sử, thái thú, những người Hoa di dân kinh tế cùng với những người trong các bộ tộc Việt trước đây là quan chức của Triệu Đà nay lại tiếp tục hợp tác với nhà Tây Hán Ngoài ra nhà Tây Hán còn áp dụng chính sách sáp nhập chủng tộc(3) bằng cách đưa đủ hạng, đủ loại tù nhân người Hoa từ chính quốc sang cho sống lẫn lộn với dân bản xứ. Năm 98 TTL Hán Vũ đế chết. Qua đến đời Hán Chiêu đế bộ Giao Chỉ do Chu Chương thống quản rồi đến đời Hán Bình đế (1-5 TL) bộ nầy được trao cho Đặng Nhượng với Tích Quang được cử làm thái thú quận Giao Chỉ . Khoảng năm thứ 8 TL, cháu của Hiếu Nguyên hoàng hậu là Vương Mãng(4) làm loạn cướp ngôi nhà Tây Hán, thành lập nhà Tân với một chính sách cai trị hà khắc khiến cho loạn lạc nổi lên khắp nơi ngay cả bên trong các lãnh thổ thuộc địa. Thứ sử Đặng Nhượng và thái thú Tích Quang cùng những quận thuộc quyền quản trị của bộ Giao Chỉ đều đóng biên giới giữ lấy đất quận của mình. Sau khi diệt được Vương Mãng (23 TL), vào khoảng năm 29 TL Đông Hán đế Quang Vũ Lưu Tú cử tướng Sầm Bành sang chiêu dụ Đặng Nhượng, Tích Quang và các thái thú khác trong bộ Giao Chỉ. Tất cả đều chịu thần phục và được nhà Đông Hán phong tước Hầu. Trước đó không lâu, Nhâm Diên được cử làm thái thú quận Cửu Chân rồi đến năm 34 TL, nhà Đông Hán thay thế Tích Quang, cử Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ . CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN VSTK - 151


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Quan Lang: con cháu của người đứng đầu một bộ tộc Việt (tộc trưởng). (2) Chính sách đồng hoá: về việc nầy các sử sách cũ chỉ nói sơ lược qua chính sách mà Tích Quang và Nhâm Diên đã đem ra áp dụng ở các quận Giao Chỉ và Cửu Chân. ĐVSKTT viết: "Tích Quang người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy dân. Lại lấy Nhâm Diên làm thái thứ Cửu Chân. Diên là người huyện Uyển. Tục người Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá, đi săn, không biết cày cấy. Diên mới dạy cho dân khai khẩn rung đất hằng năm cấy trồng, trăm họ no đủ. Dân nghèo không có sính lễ cưới vợ, Diên bảo các trưởng lại bớt bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến 2,000 người" (NK/ III/1b). (3) Đồng hóa sáp nhập chủng tộc: năm 231 TL, Tiết Tông thời nhà Ngô bên Tàu có viết về việc nầy như sau: "Hiếu Vũ (tức là Hán Vũ đế. Các đế nhà Tây Hán thường dùng chữ Hiếu đặt trước tên của mình) tru Lã Gia, khai cửu quận, thiết Giao Chỉ thứ sử, tỷ Trung Quốc tội nhân, tạp cư kỳ gian, sảo sử học thư, tổ thông lễ hóa ". (dịch: vua Vũ giết Lữ Gia, mở 9 quận, bổ thứ sử Giao Chỉ, đưa tội nhân Trung Quốc sang sống chung đụng hỗn tạp từ lúc đó, truyền bá sử sách, tổ chức thông hiểu lễ nghi phong hóa). Cũng cần nhắc lại là chính sách đưa tù nhân tội phạm để thực hiện chương trình đồng hoá tiêu diệt chủng tộc đã có từ đời nhà Tần mà Triệu Đà là người kế tục và thừa hưởng chính sách đồng hoá chủng tộc đó. (4) Vương Mãng: còn gọi là Cự Quản, cháu của Hiếu Nguyên hoàng hậu, giữ chức đại tư mã nhà Tây Hán, chuyên quyền, tự tiện sinh sát, phế truất Hán đế rồi tự lập làm vua, áp dụng chính sách hà khắc để cai trị khiến hầu hết dân Trung Hoa đều chán ghét, loạn lạc xảy ra khắp nơi trên đất Trung Hoa và ở các lãnh thổ thuộc địa. Sau bị Hán Quang Vũ Lưu Tú đánh bại rồi bị ám sát (9-23TL). (1)

KHẢO LUẬN: 31 32 33 34 35 36 37 38

39 40

Sử sách cũ khi viết về đường lối cai trị và chính sách đồng hóa của người Hoa áp dụng vào các lãnh thổ thuộc địa chẳng những rất sơ lược mà lại còn tâng bốc biết ơn nữa. Từ Thục Phán, đến Triệu Đà rồi Tích Quang, Nhâm Diên và ngay cả đám tù phạm người Hoa bị đày biệt xứ đưa qua sống lẫn lộn với các bộ tộc Việt ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, tất cả đều được xem như là những kẻ đi khai hóa các dân tộc man di phiên rợ ở về phía cực Nam của nước Trung Hoa. Cao Huy Diệu trong Việt Điện U Linh có tiếm bình rằng: "Từ khi Triệu Vũ đế chế ngự 7 quận, đã đem Kinh Thi, Kinh Thư huấn hóa VSTK - 152


1 2 3 4

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

17 18 19

20 21 22 23 24

25 26 27 28

29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

quốc tục, Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân mới đem lễ nghĩa giáo đạo quốc dân. Bởi vậy nước ta dần dần biết được rằng văn tự vẫn hữu ích cho con người, lễ nhạc thì có quan hệ đến phong tục, rồi nhân đó mà văn minh tiến triển lần lên ". Sách Đại Nam Quốc Sử diễn ca viết về Tích Quang và Nhâm Diên như sau: Tuần tuyên mới có Tích Quang, Dạy dân lễ nghĩa theo đường hoa phong, Nhâm Diên theo việc canh nông, Đổi nghề ngư liệp về trong khuê điền. Sính nghi lại giúp bổng tiền, Khiến người bần khổ thỏa nguyền thất gia. Văn phong nhứt dấy gần xa, Tự hai hiền thú ấy là khai tiên, Luân hồi trăm có dư niên, Trải qua Đông Hán thừa tuyên mấy người ? Ở đoạn viết nầy, Hoàng Xuân Hãn đã dẫn giải rất tỉ mỉ rõ ràng nhưng lại không có ý kiến gì về hai khuôn mặt thật của Tích Quang và Nhâm Diên. Phan Huy Chú trong LTHCLC có nhận xét: "Xét trong thời thuộc Đông Hán, có thái thú Giao Chỉ là Tích Quang dạy dân học lễ nghĩa. Cửu Chân có Nhâm Diên dạy dân cày cấy trồng trọt và lễ phép. Họ đều được dân dựng sinh từ. Ở Lĩnh Nam ta có văn phong thực bắt đầu từ hai viên thái thú nầy". Trần Trọng Kim trong VNSL viết: "Về đầu thế kỷ đệ nhất có hai người sang làm thái thú trị dân có nhân chính. Một người tên là Tích quang làm thái thú Giao Chỉ, một người tên là Nhâm Diên làm thái thú quận Cửu Chân". Chủ nghĩa bành trướng của thực dân thuộc địa không phải chỉ có lấn đất cướp đoạt tài nguyên mà còn kèm theo kế hoạch diệt chủng bằng đường lối đồng hóa dưới mọi hình thức giả trá kể cả những hình thức văn hóa như ngôn ngữ, nghệ thuật, tôn giáo, luân lý, sư phạm, và gửi người bản xứ qua mẫu quốc để du học rồi trọng dụng khi những người nầy trở về hợp tác phục vụ cho bộ thuộc địa. Tất cả những mưu mô đồng hóa hiểm độc đó không phải là khai hóa, không phải là ơn nghĩa, không phải là công đức và vì thế không nên để cho các thế hệ mai sau phải tiếp tục lầm lẫn nhớ ơn những người phương Bắc thực dân xâm lược đó.

VSTK - 153


2. Cuộc khởi dậy của quần chúng: 1

2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

HAI BÀ TRƯNG Năm 34 TL, Hán đế Quan Vũ sai Tô Định sang giữ chức thái thú quận Giao Chỉ. Chính sách của Tô Định là dùng luật pháp khe khắc ác độc để đàn áp, trói buộc và đè bẹp dân bị trị kể cả lớp người bản xứ cầm đầu bộ tộc Việt trong quận Giao Chỉ . Trưng Trắc(1) là con của tộc trưởng huyện Mê Linh có chồng là họ Thi(2) con trai của tộc trưởng huyện Chu Diên. Thi và Trưng Trắc phối hợp cùng một lúc, khởi mầm cho dân bản xứ nổi dậy chống lại việc cai trị hà khắc của Tô Định. Phong trào chống đối mạnh mẽ loan rộng ra nhiều quận huyện khác(3). Mặc dù Thi bị Tô Định bắt giết nhưng Trưng Trắc cùng với em gái là Trưng Nhị vẫn tiếp tục cầm đầu cuộc nổi dậy, đánh chiếm và giải phóng nhiều thành ấp, khiến cho Tô Định khiếp sợ bỏ chạy về Trung Hoa(4). Quan bản xứ(5) ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố vì sợ uy thế đang lên của Trưng Trắc và Trưng Nhị cho nên miễn cưỡng hưởng ứng theo. Thứ sử bộ Giao Chỉ cố thủ Long Uyên(6) và một số huyện phụ cận của quận Giao Chỉ(6) chờ quân nhà Hán từ Trung Hoa sang cứu viện. Năm 40 TL Trưng Trắc tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Vào cuối năm 41 TL, Đông Hán đế Quan Vũ sai tướng Phục ba Mã Viện, phó tướng Lưu Long, tướng thủy quân Đoàn Chí sang đánh với sự tiếp tế và nộ ứng của quân Hán hiện còn đồn trú cố thủ ở bộ Giao Chỉ và ở quận Hợp Phố. Đầu năm 42 TL, quân Mã Viện đến Lãng Bạc(7) cùng quân Trưng Trắc đánh nhau. Tuy nhiên quân dân VSTK - 154


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

của Trưng Trắc là một đoàn người ô hợp thiếu tổ chức huấn luyện, thiếu kinh nghiệm, không tin tưởng cấp chỉ huy cho nên không thể đương đầu nổi với quân Hán dưới sự điều binh của tướng Mã Viện tài giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trận. Trưng Trắc phải lui về giữ đất Cấm Khê(8) nhưng sau đó quân Mả Viện lại truy đuổi; tàn quân kháng chiến hoàn toàn bại trận, chị em họ Trưng chết (43 TL). Quân nhà Hán tiếp tục truy sát tàn quân đến huyện Cư Phong(9) thì hoàn toàn làm chủ trận thế. Mã Viện cho dựng trụ đồng(10) làm móc biên giới của vùng đất ở về phía Nam do quân Hán chiếm đoạt.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Trưng Trắc: ĐVSKTT: tên húy là Trắc, họ Trưng; nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh. KĐVSTGCM : Vương vốn họ Lạc, lại có họ riêng là Trưng, con gái quan lạc tướng huyện Mê Linh . (2) Thi: ĐVSKTT, KĐVSTGCM viết: Thi Sách là người huyện Chu Diên. Tuy nhiên theo sách Thủy Kinh Chú của Trung Hoa thì : "Chu Diên lạc tướng tử danh Thi, sách Mi Linh lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê " (con Lạc tướng ở Chu Diên là Thi hỏi lấy [sách] con gái Lạc tướng ở Mê Linh tên là Trắc làm vợ). Như vậy, có thể sử cũ đã ghép chữ Sách với tên Thi nên mới gọi là Thi Sách. (3) *Các bộ sử trước đều viết: lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Có thể là các vùng giáp biên giới với nước Tàu hiện giờ. (4) Tô Định chạy về Trung Quốc: KĐVSTGCM viết là Tô Định chạy về Nam Hải trong khi ĐVSKTT lại viết rằng Nam Hải bị quân dân nổi dậy đánh chiếm. (5) Quan bản xứ ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam: những người cai quản hai quận nầy ngày trước đã từng đem lễ vật dâng hiến ra đầu (1)

VSTK - 155


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15

16 17 18 19 20 21

thú quân Hán để được cho giữ nguyên địa vị như cũ nay lại ra đầu hàng hưởng ứng theo phong trào nổi dậy của quần chúng. (6) Cố thủ Long Uyên: ĐVSKTT không đề cập tới việc nầy. KĐVSTGCM thì viết: Các thứ sử, thái thú ở quận Giao Chỉ đều tự lo bảo toàn cho chính mình mà thôi. Như vậy, Trưng Trắc chỉ chiếm được những thành ấp ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và toàn bộ huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ mà thôi. Thành Long Uyên (tức Hà Nội bây giờ) vẫn còn nằm dưới sự kiểm soát của quan quân nhà Hán trong bộ Giao Chỉ đồn trú ở Long Uyên. (7) Lãng Bạc: các bộ sử cũ đều cho Lãng Bạc là Hồ Tây hiện nay nhưng đây có thể là lầm lẫn bởi vì lúc đó vùng lãnh thổ hành chánh Long Uyên tức Hà Nội bây giờ vẫn còn do quan quân người Hán trong bộ Giao Chỉ đồn trú và cố thủ để chờ viện binh của Mã Viện sang. Có người lại đoán Lãng Bạc ở vùng huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc ngày nay. (8) Cấm Khê: ở vào địa hạt phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. (9) Cư Phong: thuộc địa hạt tỉnh Thanh Hóa ngày nay. (10) Cột đồng của Mã Viện: sách sử tài liệu cũ của Trung Hoa viết về chuyện cột đồng nầy nhiều cách khác nhau. Cho đến ngày nay, ngoài những lời đồn miệng vô chứng cớ, cột biên giới bằng đồng nầy được dựng lên từ thời Mã Viện có lẽ đã bị xiêu tán mất đi không còn vết tích gì nữa.

KHẢO LUẬN: 22 23 24 25 26 27 28 29

30 31 32 33 34 35 36 37 38

Lê Văn Hưu nói: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn hai ngàn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người phương Bắc há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao ?" Đến lượt Ngô Sĩ Liên thì lại có một cái nhìn sai lệch và thành kiến về sự khởi xướng ngắn ngủi của Trưng Trắc: "...nhưng vì là vua đàn bà, không thể làm nên công tái tạo". Ngay cả căn nguyên thúc đẩy việc khởi xương cũng bị đánh giá thấp: " Vua khổ vì thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Định giết chồng mình, mới cùng em gái là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở Châu ". Ngô Thời Sĩ (1726-1780) cũng có một nhận định hẹp hòi như Ngô Sĩ Liên: "Nhưng, tài đàn bà yếu ớt, đương khi vận nước còn bĩ nên không làm xong công nghiệp" và "vợ trả thù chồng, em giúp việc chị VSTK - 156


1 2 3 4 5 6

7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

39 40 41

thì một vị là tiết phụ, một vị là nghĩa nữ đều ở vào cả một nhà, ấy mới là kỳ cho ! " tức là theo Ngô Sĩ Liên và Ngô Thời Sĩ thì Trưng Trắc chỉ vì quyền lợi và thù hận riêng tư mà chống lại Tô Định chứ không phải vì quyền lợi của dân bản xứ bị trị hay là vì lòng yêu nước thương dân thúc đẩy. Dù sao thì cả hai sử gia nầy cũng đều phải công nhận Trưng Trắc là một hào kiệt hùng mạnh trong giới phụ nữ. Nguyễn Nghiễm (1708-1775) trong Đại Việt Sử Ký Tiền Biên (đời Tây Sơn, 1800) có lời bàn như sau: "Như bọn Tô Định, làm sao dung túng chúng nó làm càng cho tới một ngày nào nữa được? Trưng Vương nổi giận, khích lệ đồng bào, nghĩa binh đi tới đâu, gần xa đều hưởng ứng, 50 thành Ngũ Lĩnh đều khôi phục được cả. Nhân dân đang khổ sở lại trông thấy mặt trời! Quả thật bà là một bậc anh hùng hơn người nhiều lắm. Dẫu rằng một đám quân mới tập hợp, vừa nhóm lên đã tan vỡ, chứ cũng đã hả lòng phẫn uất của thần dân. . .Còn bọn tu mi thời bấy giờ cứ vẫn cam chịu cúi đầu, bó tay, làm tôi tớ cho người ta, thì chẳng đáng hổ thẹn lắm ru? " Cao Huy Diệu (đời Lê Dụ Tông) viết: "Các triều vua Trung Hoa ở xa cách, những quan thú lệnh cứ mặc sức tham tàn, lúc bấy giờ, cả nước trăm trai mạnh khỏe này cũng phải đều làm hạng nô tỳ cho tên sứ quân họ Tô kia. Bà Trưng lấy tư cách là bậc vợ hiền "cử án tề mi ", vẫn mang một mối thù bất cộng đái thiên. Quần thoa xướng nghĩa, khuê khổn đồng thề, đuổi tên thứ sử, chiếm lại đô thành. Các miền Cửu Chân, Hợp Phố lại được thấy rõ ánh sáng mặt trời. há chẳng phải là mộ bậc đại trượng phu oanh oanh liệt liệt hay sao? . . . Lã Trỉ nhà Hán, Vũ Anh nhà Đường đã hiệu lệnh được cả thiên hạ, thét gầm như sấm gió song cả hai đề nhờ nơi nghiệp cả của các tiên đế và khinh lờn sự ngây thơ của tự quân, rồi đem oai lực mà chế kềm kẻ dưới, song rốt cuộc lại thì họ cũng chỉ là những người đắc tội nghìn xưa. Trái lại, hai bà đây đã đưa ra mộ đoàn binh sĩ, chỉ có mộ mai mà đã bình định được 56 thành trì, rủ xiêm cả miền Bách Việt, nhìn phương Nam mà xưng Cô, với Triệu Vũ đế, Lý Nam Đế, cùng tranh hơn kém, khiến cho đời sau phải chịu mà khen phục là Vương. Mặc dù bị thảm bại, nhưng cái chính khí quảng đại quang minh cũng đã lan tràn đầy vũ trụ khiến cho người đời sau thán phục hâm mộ mà hung đúc hăng say thêm lên. Chí như những con gà mái gái sáng của nhà Hán và nhà Đường có đáng làm đứa thị tỳ mũ hoa áo xanh mà đẩy xe cho hai bà Trưng hay chăng ? " Vua Tự Đức là người tự phụ nhưng vẫn tôn trọng và khâm phục mà phê rằng: "Hai bà Trưng là hạng quần thoa lại có thể hùng dũng tâm chí khởi nghĩa, làm chấn động triều đình nhà Hán, tuy yếu thế VSTK - 157


1 2 3

4 5 6 7

8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

nghịch thời, cũng đủ hứng khởi lòng người lưu danh rạng rỡ ở sử sách. Kìa những bọ đàn ông râu mày lại khúm núm làm tôi tớ người ngoại tộc chẳng cũng mặt dày đáng hổ thẹn lắm sao ? " Trần Trọng Kim cũng tỏ bày sự khâm phục trong Việt Nam Sử Lược: "Hai bà Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài trí của người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn đời ". Tưởng không cần phải viết thêm một lời lẽ khen tặng nào nữa, mà dù muốn viết thì không còn ý nào tốt đẹp hơn để mà chen vào. Tuy nhiên ở đây cần phải phế bỏ thành kiến sai lầm và thiển cận cho rằng Trưng Trắc chỉ vì thù chồng mà xúi dục dân bản xứ làm loạn rồi vì là đàn bà không có trí dũng, mưu lược như đàn ông cho nên bị thất bại. Thử đặt câu hỏi: nếu như sau khi tướng Thi chồng của bà Trưng Trắc bị Tô Định giết hại để trừ mầm móng nổi loạn của dân bản xứ và nếu Trưng Trắc là một người đàn bà tầm thường yên phận không dám hó hé cựa quậy thì dân bản xứ có tự động đứng lên đánh đuổi Tô Định hay không? Mặc dù sử cũ không nói rõ ai là người khởi động châm ngọn lửa đầu tiên khơi dậy ý thức độc lập tự chủ đang ngủ yên trong tâm não người dân bản xứ nhưng khó có ai lại ngoan cố phủ nhận người châm ngọn lửa đầu tiên đó là cả hai vợ chồng Thi-Trưng Trắc. Hai người vừa là vợ chồng vừa là cộng sự có cùng một chí hướng.Vì thế nếu người nầy bị hy sinh nằm xuống thì người kia vẫn tiếp tục mãnh liệt hơn, quyết chí hơn. Nếu Trưng Trắc hy sinh trước và thủ lãnh Thi tiếp tục công cuộc khởi dậy thì những dư luận hẹp hòi đầy thành kiến kia phải viết như thế nào? Có người hỏi tại sao cuộc nổi dậy tồn tại quá ngắn ngủi, chỉ kéo dài được 3 năm? Và cũng có nhiều người đã trả lời câu hỏi nầy: Một người Pháp viết: <<Sau khi thắng được Tô Định, hai bà tạo dựng một quốc gia tự chủ được 3 năm nhưng quốc gia đó không có sự thống nhất. Nhóm tộc trưởng Giao Chỉ trước đó đã cùng hai bà đánh đuổi thái thú họ Tô và bọn hợp tác tay sai, nhưng sau đó lại không chịu phục chế độ chính trị của hai bà cho nên khi Mã Viện đưa quân sang Giao Chỉ đê tái lập chính quyền đô hộ thì nhóm tộc trưởng vừa kể lại ra đón tiếp quy phục.>>(H.G Maspéro/ An Nam Đô Hộ Phủ / tập chí B.E.F.E.O/ số 11,12 / 1910). Nhận định nầy có phần hợp lý nhưng tác giả người ngoại quốc nầy đã viết một cách quá tổng quát khi cho rằng chỉ có nhóm tộc trưởng ở Giao Chỉ là những kẻ cơ hội trở cờ. ĐVSKTT và KĐVSTGCM cho biết là Hán đế ra lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố, Giao Chỉ sắm sửa đủ xe, thuyền, sửa sang cầu đường, khơi thông khe rạch sông núi, tích trữ lương thực để yểm trợ cho đoàn quân của Mã Viện, tức là cho tới lúc nầy Trưng Trắc vẫn VSTK - 158


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

17 18 19 20

21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

32 33

34 35 36 37 38 39

chưa triệt hạ và thu hồi được toàn quận Giao Chỉ vì quân Hán của bộ thuộc địa vẫn tiếp tục cầm cự để chờ quân tiếp viện. Ngay cả quận Hợp Phố cũng vẫn còn có sự hiện diện của quân Hán. Như vậy không phải các hàng tộc trưởng ở quận Giao Chỉ đã trở cờ phản phúc để tiếp quân Mã Viện nhưng chính là quân Hán đồn trú cố thủ của thứ sử bộ Giao Chỉ phối hợp với quân Mã Viện để chuẩn bị phản công đánh trả quân của Trưng Trắc. Lẽ dĩ nhiên là thời đại nào cũng có hạng người thừa cơ hội, đón gió trở cờ và hạng người đó trong sử cũ thường thấy xuất hiện ở các quận Cửu Chân và Nhật Nam từ thời Triệu Đà xưng hùng xưng bá, rồi qua thời Tích Quang, Nhâm Diên, Tô Định rồi lại hưởng ứng theo Trưng Trắc và nhất định cũng chính là những hạng người nầy lại trở mặt tiếp tay cho giặc ngoài phản lại Trưng Trắc. Như vậy, có thể nói rằng cuộc nổi dậy của quần chúng do tướng Thi và Trưng Trắc khởi động có thành công nhưng không củng cố được được lâu là vì: 1/ Chuẩn bị không chu đáo, quân dân không được huấn luyện về kỹ thuật và kinh nghiệm quân sự. Không có kỹ thuật và kinh nghiệm chiến trường thì sẽ không có gan dạ chiến đấu khi đối đầu với một đối phương già dặn và đông đảo hơn . 2/ Tương quan lực lượng giữa quân Hán thiện chiến so với đám quân ô hợp của Trưng Trắc có một cách biệt quá xa về quân số, về chiến lược và chiến thuật. Với số quân tăng viện của Mã Viện từ Trung Hoa cộng thêm với đoàn quân cố thủ của bộ Giao Chỉ và rải rác khắp nơi trong các quận khác của bộ Giao Chỉ. Về chiến lược thì quân Hán một mặt cầm cự, một mặt sửa đường, tích trữ lương thực. Khi đánh thì quân Hán dùng chiến thuật ngoài đánh vào trong đánh ra. Trong khi đó, với 3 năm nắm giữ những vùng đất đã chiếm được thì sử sách cũ không thấy nói gì về việc vua Trưng Trắc có một kế hoạch lâu dài để nới rộng vùng đất hoặc gìn giữ những vùng mình đang làm chủ. 3/ Sự trở cờ tiếp tay của những người bản xứ cơ hội đón gió làm nội kích cho kẻ ngoại xăm. Tóm lại, cho dù việc làm của tướng Thi và bà Trưng Trắc có chính nghĩa hay không thì công cuộc khởi xướng của họ cũng là ánh sáng đích thật lần đầu tiên tỏ rõ sự có mặt của một dân tộc Việt chính tông khác biệt hẳn với những bộ mặt của những người Trung Hoa đội lớp dân bản xứ từ thời đại Văn Lang qua thời của Triệu Đà và kéo dài cho đến thời Tô Định.

VSTK - 159


Tranh vẽ bà Triệu

VSTK - 160


CHƯƠNG III

BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI ( 43 - 544 ) THỜI KỲ THUỘC ĐÔNG HÁN ( 25 - 220 ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị chống cự quân Hán, cô thế bị thua, cả hai đều chết. Mã Viện truy đuổi, tàn quân rút lui đến huyện Cư Phong ở Cửu Chân; tướng của Trưng Trắc là Đô Dương cũng phải đầu hàng, toàn bộ quân của Trưng Trắc tan rã. Sau khi bình định xong, Mã Viện cắt đặt lại đất đai ở huyện Tây Vu lập thêm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải, xây cất thành lũy ở huyện Phong Khê gọi là thành Kiến Giang(1), đặt cột làm dấu móc biên giới(2) tận cùng lãnh thổ thuộc địa của nhà Hán. Ba năm sau Mã Viện về trung Hoa; lãnh thổ Nam Việt lại thuộc về nhà Hán. Từ đó, chính sách cai trị của Đông Hán áp dụng trên các lãnh thổ thuộc địa càng lúc càng trở nên khắc nghiệt và bóc lột(3). Lần lượt các thứ sử, cùng với bọn thái thú người Hán thay phiên nhau tham nhũng vơ vét tài nguyên báu vật, hành hạ dân bản xứ, gây căm phẫn, uất hận khắp nơi nhưng người dân bị trị không biết kêu la vào đâu. Năm 137, dân bản xứ bị trị ở các huyện Tượng Lâm, Nhật Nam khởi dậy đánh phá quận huyện, giết được trưởng lại của nhà Hán. Thứ sử Phàn Diễn đem quân đồn trú đánh dẹp nhưng không thể dập tắt được phong trào nổi dậy. Năm 178, phong trào khởi dậy loan rộng ra tới quận Giao Chỉ và Hợp Phố nhưng chỉ kéo dài được 3 năm thì bị thứ sử Chu Tuấn dẹp tan. VSTK - 161


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

Năm 184 quân Hán đồn trú làm loạn bắt giết thứ sử tham ô Chu Ngung. Triều đình nhà Hán thấy không thể dùng quân sự để trấn áp liền đổi sang chính sách dụ dỗ, mua chuộc, vuốt ve để ly gián, chia rẽ người bản xứ, cử Giả Mạnh Kiên làm thứ sử nhằm ổn định tình thế rồi sau đó chọn người bản xứ muốn làm quan với triều Hán là Lý Tiến4 cho giữ chức thứ sử thay thế Mạnh Kiên. Đời Đông Hán đế Hiến (190-219), người Hoa ở phủ Quảng Tín, quận Thương Ngô là Sĩ Nhiếp được cử sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Năm 201 Trương Tân làm thứ sử bộ Giao Chỉ thay thế thứ sử Chu Phù trước đây bị dân bản xứ chống đối giết chết. Theo đề nghị của Trương Tân và Sĩ Nhiếp, năm 203 nhà Hán nâng cấp Bộ Giao Chỉ thành Châu Giao Chỉ và đổi gọi là Giao Châu ngang hàng với các châu khác ở Trung Hoa và phong Trương Tân làm quan mục Giao Châu. Tên Giao Châu bắt đầu có từ đó. Sĩ Nhiếp lại tìm cách đưa anh em họ hàng vào giữ chức thái thú ở các quận Nam Hải , Hợp Phố, Cửu Chân. Như vậy, hầu hết lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà trước đây nay do gia đình của Sĩ Nhiếp thống trị . Sau khi Trương Tân bị tướng Khu Cảnh giết chết, Đông Hán đế giao cho Sĩ Nhiếp cai quản 7 quận và vẫn được giữ chức thái thú quận Giao Chỉ như cũ. Sĩ Nhiếp tiếp tục trung thành với nhà Đông Hán mặc dù Trung Hoa lúc đó bắt đầu có sự phân tranh lãnh thổ. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

28 29 30 31 32 33

Thành Kiến Giang: thành xây đắp giống như cái tổ kén tầm (kiến). (2) Cột móc biên giới: sử cũ chép: "Mã Viện dựng cột đồng để ghi địa giới tận cùng của nhà Hán". Sử sách Trung Hoa đã thêu dệt về cột móc biên giới nầy thành một chuyện hoang đường để tâng bốc công trạng của Mã Viện đồng thời (1)

VSTK - 162


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

muốn làm nhục tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm của bộ tộc Việt trong các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên viết: "Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía Nam Trung Quốc." Sách Nhất Thống Chí của đời nhà Thanh viết: " Tục truyền cột đồng ở Cổ Sâm châu Khâm, Mã Viện có ghi khắc hàng chữ "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt ", nghĩa là cột đồng đó nếu bị xiêu gãy thì dân Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt. Và từ chuyện nầy lại vẽ vời thêm rằng người Việt vì khiếp sợ lời hăm dọa của Mã Viện cho nên mỗi khi đi qua chân cột đồng ấy cứ phải lấy đá bồi đắp lên mãi thành núi để giữ cho cột đồng không bị xiêu vẹo đổ gãy. Ngày nay không ai còn lạ gì về tài viết lách hồ lốn của các văn gia Trung Hoa, không phải chỉ ở thời xưa mà ngay trong cả trong thời đại văn minh tiến bộ ngày nay vẫn còn thấy kiểu viết đó. (3) Chính sách thuộc địa bóc lột của quan quân nhà Đông Hán: sách Hậu Hán thư của Trung Hoa chép: "Trước kia, huyện lệnh huyện Cư Phong là người tham lam, tàn bạo, không biết thế nào là chán". ĐVSKTT và KĐVSTGCM viết về năm 184 (tức là vào đời Hán Trung Bình ở Trung Hoa) như sau: <<Quân đồn trú ở quận Giao Chỉ bắt thứ sử Châu Ngung giết đi rồi báo cáo kể tội tham tàn của Chu Ngung lên Hán đế. Hán đế mới cử Mạnh Kiên sang làm thứ sử. Trước kia, ai được cho sang làm thứ sử, thấy đất Giao Chỉ có nhiều châu báu, cánh trả, ngà voi, sừng tê giác, vỏ đồi mồi, trầm hương, gỗ quý . . . đều tham lam lo vơ vét, khai thác, bốc lột tận cùng để cho thật đầy túi. Mạnh Kiên dò hỏi tình cảnh gây ra việc tạo phản của quân đồn trú và được báo cáo rằng luật lệ hà khắc, thuế má quá nặng, dân khốn khổ không biết kêu gào với ai cho nên hợp nhau để chống lại chính sách ấy. Mạnh Kiên phủ dụ, vuốt ve dân chúng, giảm bớt thuế khóa, giết tượng trưng một số quan lại tham ngược để xoa dịu lòng câm phẫn của dân chúng rồi cắt đặt người chưa có thành tích xấu cho giữ chức cai trị ở các quận huyện.>> (4) Lý Tiến: ĐVSKTT chua thêm: (Lý Tiến là người Giao Châu ta (tức Giao Chỉ).Theo sách Bách Việt Hiền Chí thì Lý Tiến là người đất Cao Hưng quận Giao Chỉ, khởi đầu được nhà Hán cho giữ chức công tào (giữ nhiệm vụ tuyển lựa và thu dụng những người bản xứ có công lao với triều đình nhà Hán) ở quận rồi lên chức lần lần đến kỵ đô úy. Năm 137 được làm thái thú Linh Lăng rồi thái thú Giao Chỉ (khoảng năm 184-189).

VSTK - 163


THỜI TAM QUỐC ( 220 - 265 ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

Sau khi nhà Đông Hán mất ngôi, Trung Hoa bị phân chia thành ba nước: Bắc Ngụy, Tây Thục, Đông Ngô và Giao Châu bấy giờ thuộc về Đông Ngô. Năm 210, vua Đông Ngô là Tôn Quyền cử Bộ Chất làm thứ sử Giao Châu, Sĩ Nhiếp đem anh em họ hàng ra đầu phục, chịu triều cống . Năm 226 Sĩ Nhiếp mất, con là Sĩ Huy tự động xưng làm thái thú Giao Chỉ. Đông Ngô lại chia cắt Giao Châu, đặt thêm một châu mới là Quảng Châu phong cho Lữ Đại làm thứ sử Quảng Châu, Đái Lương làm thứ sử Giao Châu và Trần Thì làm thái thú Giao Chỉ thay chỗ của Sĩ Nhiếp. Sĩ Huy chống đối việc cắt cử sắp xếp mới của Đông Ngô do đó bị Lữ Đại bắt giết đi cùng với tất cả anh em họ hàng. Đông Ngô lại bỏ Quảng Châu lập lại Giao Châu như cũ. Lữ Đại dẹp yên loạn Sĩ Huy lại tiến đánh quận Cửu Chân và được Đông Ngô phong làm quan mục Giao Châu. Năm 248, dân bản xứ do bà Triệu Ẩu(1) ở quận Cửu Chân cầm đầu cuộc khởi dậy đánh phá thành ấp làm rối động cả châu, quận. Đông Ngô cử thứ sử Lục Dậu sang đánh dẹp rồi dùng chính sách mua chuộc ve vuốt để trấn an quần chúng. Năm 263 nhà Đông Hán mất. Năm 264 Đông Ngô tách ba quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm đặt làm Quảng Châu, đặt Châu trị ở Phiên Ngung; lấy Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam làm Giao Châu, Châu trị ở Long Biên. Lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà ngày xưa nay trở thành hai châu: Quảng Châu và Giao Châu. Năm 265 nhà Tấn cướp ngôi Bắc Ngụy rồi cử người sang chiếm lĩnh Giao Châu. Đông Ngô nhiều lần giành giựt với nhà Tấn nhưng sau nhờ có Đào Hoàng(2) mới VSTK - 164


1 2 3 4 5 6

lấy lại được Giao Chỉ lập ra quận Tân Xương(3) rồi bình định được luôn Giao Châu. Đào Hoàng được Đông Ngô phong làm Giao Châu Mục. Năm 280, Đông Ngô đầu hàng nhà Tấn; Đào Hoàng cũng phải hàng phục theo và được nhà Tấn cho giữ chức như cũ.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19

Triệu Ẩu: Theo sách Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử đời nhà Tống thì: trong miền núi quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài 3 thước, không lấy chồng, tụ hợp đồ đảng đánh cướp các quận huyện thường mặc áo vải mộc màu vàng, đi guốc, cưỡi voi, xong pha trận mạc. Sau khi chết thành thần. Sách Giao Chỉ Chí cũng chép giống như thế. Theo Thanh Hóa kỳ thắng của Vương Duy Trinh thì bà Triệu tức là Lệ Hải Bà Vương, họ Triệu, húy Trinh , tự là Nữ Ẩu, em gái Triệu Quốc Đạt. (2) Đào Hoàng: con Đào Cơ, người Mạt Lăng thuộc Đan Dương bên Tàu. (3) Tân Xương: KĐVSTGCM viện dẫn theo lời chú thích của Hồ Tam Tỉnh: Tân Xương là Phong Châu, nay là đất tỉnh Sơn Tây. (1)

KHẢO LUẬN : 20 21 22 23 24 25

Sách sử của người Trung Hoa lúc nào cũng tìm cách bôi nhọ hạ nhục khi viết về những người chống đối chính sách đế quốc bành trướng, chủ nghĩa thực dân thuộc địa của họ. Vua Tự Đức có lời phê như sau: "Con gái nước ta, nhiều người hùng dũng khác thường. Bà Triệu Ẩu cũng là người sánh vai được với hai bà Trưng. . .Nhưng nói là vú dài ba thước thì cũng quái gở đáng cười".

VSTK - 165


THỜI ĐẠI THUỘC TẤN, TỐNG, TỀ, LƯƠNG ( 265 - 540 ) NHÀ TẤN VÀ ĐÔNG TẤN (265-420) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29

Sau khi Đào Hoàng chết dân chúng bản xứ quận Cửu Chân lại khởi dậy nhiều lần để chống đối nhưng sau đó lại bị dẹp yên và các thứ sử của nhà Tấn lại dùng chính sách ve vuốt mua chuộc để xoa dịu các phong trào nổi dậy của dân bản xứ. Lúc nhà Tấn cai trị thì có loạn Ngũ Hồ nổi lên ở phía Tây Bắc Trung Hoa. Khi nhà Tấn mất vào khoảng năm 317 thì mất cả lãnh thổ phía Tây Bắc. Giao Châu lại thuộc nhà Đông Tấn. Chính sách cai trị đồng hóa của Đông Tấn cũng giống như những thời trước, có khi ve vuốt mua chuộc nhưng hầu hết chẳng những tham tàn bạo ngược với dân bị trị mà nôi bộ còn hám quyền tranh ăn chém giết lẫn nhau. Từ năm 102 thời Đông Hán, dân bản xứ ở huyện Tượng Lâm thường khởi dậy chống đối chính sách cai trị của người Hán ở quận Nhật Nam; vì thế nhà Hán phải đặt huyện lệnh ở Tượng Lâm để khống chế các mầm móng chống đối. Huyện Tượng Lâm của nhà Hán nguyên là lãnh thổ của bộ tộc Lâm Ấp(1). Năm 399 người trưởng bộ tộc Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt khởi dậy đánh lấy quận Nhật Nam, Cửu Chân, vây hãm Giao Châu, bị thái thú Giao Chỉ là Đỗ Viện đánh lui nhưng phong trào khởi dậy vẫn tiếp tục. Đỗ Viện được nhà Đông Tấn cho giữ chức Giao Châu mục. Năm 420, Lưu Dụ cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam Trung Hoa và Giao Châu thuộc nhà Tống. VSTK - 166


TỐNG (420-479), TỀ (479-501), LƯƠNG (501-540) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

Lúc bấy giờ về phía Bắc nước Trung Hoa thì có nhà Ngụy, nhà Tề, nhà Chu thay phiên nhau cai trị còn phía Nam thì có nhà Tống, nhà Lương và nhà Trần lần lượt chia nhau cai trị. Vì vậy thời nầy còn gọi là thời Nam Triều - Bắc Triều. Năm 433 nhà Tống sai thứ sử Giao Châu Đàn Hòa Chi cử binh đánh dẹp phong trào khởi dậy của bộ tộc Lâm Ấp, cướp được vàng bạc châu báu rất nhiều. Năm 479 nhà Tống mất ngôi về nhà Tề rồi nhà Tề lại mất ngôi về nhà Lương vào năm 502. Năm 523 nhà Lương cắt đất Giao Châu, đặt thêm Ái Châu tức là đất của quận Cửu Chân. Trải qua năm triều đại thực dân thuộc địa của Trung Hoa, dưới ách xâm lược của Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng lại tất cả là 314 năm, người dân của bộ Giao Chỉ rồi kế đến đổi là Giao Châu không bao giờ có được hòa bình dưới chính sách cai trị hà khắc bóc lột tận xương tủy đè lên người dân bản xứ bị trị cộng thêm sự tranh giành quyền lực giữa những người Trung Hoa với nhau muốn xưng hùng xưng bá làm vua riêng một cõi khiến cho dân tộc bản xứ càng thêm cùng cực oán hận. LÝ BÔN ( 544 - 548 )

23 24 25 26 27

Tổ tiên Lý Bôn là người Hoa, thời Tây Hán tránh loạn chạy sang Giao Chỉ. Lý Bôn là quan của nhà Lương coi việc quân sự ở quận Cửu Đức. Vì bất mãn không được trọng dụng cho nên mới liên kết với một tộc trưởng dân bản xứ là Triệu Túc ở huyện Chu Diên VSTK - 167


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

khởi loạn đánh đuổi đám quan cai trị của nhà Lương, chiếm thành Long Biên, dẹp yên giặc Lâm Ấp quấy phá ở biên giới rồi tự xưng là Nam Việt đế vào năm 544, thiết đặt quan chức, sắp xếp triều chính, phong cho Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều, làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, lấy quốc hiệu là Vạn Xuân(2), đặt niên hiệu là Thiên Đức, đóng đô ở Long Biên. Năm 545, nhà Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên sang đánh dẹp, Lý Bôn thua bỏ chạy về cố thủ ở động Khuất Lạo(3) nhưng chỉ cầm cự được đến năm 548 thì bị bệnh chết.

TRIỆU QUANG PHỤC ( 549 - 571 ) 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

Quang Phục là con của Triệu Túc, người huyện Chu Diên, tùy tướng của Lý Bôn. Khi thế quân nhà Lương đang mạnh, Quang Phục rút quân về cố thủ vùng Dạ Trạch(4) rồi dùng chiến thuật du kích để đánh với quân của tướng nhà Lương Trần Bá Tiên. Khi Lý Bôn mất, Quang Phục tự xưng là Việt vương, tiếp tục đánh phá quân Lương, chiếm lại thành Long Biên. Năm 571, Lý Phật Tử dùng kế nội gián rồi đem quân đến đánh để tranh quyền; Triệu Quang Phục phải thua chạy, tự sát chết ở cửa biển Đại Nha.(5) LÝ PHẬT TỬ ( 571 - 602 )

VSTK - 168


1 2 3 4 5 6 7 8 9

Lý Phật Tử là em họ của Lý Bôn. Sau khi tạm giảng hoà và phân ranh giới cai trị với Triệu Quang Phục, Phật Tử cho gián điệp(6) dò xét quân tình của Quang Phục rồi đem quân tràn sang để đánh úp. Sau khi đã diệt được Quang Phục, năm 571, Phật Tử theo hiệu Nam Đế trước tự xưng là Hậu Nam đế, dời thủ đô từ Ô Diên về Phong Châu. Trong lúc nầy nhà Tùy đã thống nhất và gồm thâu cả Nam Bắc nước Trung Hoa. Năm 602 nhà Tùy cử tướng Lưu Phương sang đánh. Phật Tử khiếp sợ phải quy hàng và bị bắt giải về Trung Hoa, các hàng tướng tá của Phật Tử đều bị giết. Giao Châu lại trở thành thuộc địa của nước Trung Hoa. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

Lâm Ấp: tên nước Lâm Ấp được nhắc đến từ thời Đông Hán (Tấn Thư/ Lâm Ấp truyện) ở phần đất mà thời Đông Hán gọi là huyện Tượng Lâm, phía nam quận Nhật Nam. Đời Đường, sử sách Tàu gọi nước nầy là Hoàn Vương rồi Chiêm Thành. KĐVSTGCM chú giải như sau: Xưa là quốc giới của Việt Thường thị; đời Tần là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận; đời Hán đổi thành huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam. Cuối đời Hán, con của một viên công tào ở huyện Tượng Lâm là Khu Liên giết huyện quan (của nhà Hán) tự xưng làm vua nước Lâm Ấp. Cháu ngoại Khu Liên là Phạm Hùng kế tục làm vua. . . . ..Khoảng giữa niên hiệu Trinh Quán (627-649) đời Đường, vua Lâm Ấp là Đầu Lê chết, con là Trấn Long bị sát hại, người trong nước lập con nhà cô của Đầu Lê là Gia Cát Địa làm vua, đổi quốc hiệu là Hoàn Vương, thường sang xăm lấn An Nam. Quan Đô hộ của nhà Đường là Trương Chu đánh dẹp được, vua nước ấy mới bỏ Lâm Ấp, dời đến đất Chiêm, gọi là nước Chiêm Thành. (2) Vạn Xuân: theo sách Thái Bình Hoàn Vũ Ký: huyện Long Biên có đền Vạn Xuân do Lý Bôn người Giao Chỉ xây. KĐVSTGCM chua thêm: Nay ở xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì có hồ Vạn Xuân còn gọi là đầm Vạn Phúc. Vậy điện Vạn Xuân có lẽ ở đây. (3) Động Khuất Lạo: ở vùng núi thuộc 2 xã Cổ Tiết, Văn Lang, huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú nay còn di tích mộ chôn và đền thờ Lý Bôn ở gò Cô Bồng (trích chú dẫn trong ĐVSKTT). (1)

VSTK - 169


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Dạ Trạch: Chú giải trong ĐVSKTT ghi: Đầm Dạ Trạch cũng gọi là Nhất Dạ Trạch, nay là bãi Màn Trò, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng. Nhưng ở 1 đoạn khác ĐVSKTT cũng viết: Đầm nầy ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được . . ." (ĐVSKTT/NK/Q.4/17a,17b) KĐVSTGCM: Theo sách Thanh Nhất Thống Chí, Dạ Trạch thuộc huyện Đông Kết, phủ Kiến Xương. Thời Lương Vũ đế, Trần Bá Tiên đánh Lý Bôn, Lý Bôn trốn vào trong chầm nầy, đêm đến đem quân ra đánh; nhân thế gọi là Dạ Trạch. Đông kết là huyện Đông An phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên bây giờ. (5) Cửa biển Đại Nha: chú thích trong ĐVSKTT: cũng có tên là Đại Ác, thời Lý đổi là Đại An nay là cửa Liêu (cửa sông Đáy); huyện Đại An thời Lê nay thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Hà. KĐVSTGCM cũng chú thích tương tựa và thêm:. . cửa Liêu thuộc xã Quần Liêu hay cồn Liêu, nay thuộc Nam Định; huyện Đại An có đền thờ Triệu Việt Vương (tức Triệu Quang Phục). (6) Gián điệp: ĐVSKTT ghi lại công tác gián điệp nầy như sau: Vua ở trong đầm thấy quân Lương không lui mới đốt cầu đảo, thế rồi có điềm lành được mũ đầu mâu (a) móng rồng dùng để đánh giặc. Từ đó quân thanh lừng lẫy, đến đâu không ai địch nổi (tục truyền móng rồng của thần nhân trong đầm là Chữ Đồng Tử trao cho. Tiếp sau đó lại chép rằng Phật Tử chịu hoà với Quang Phục rồi cầu hôn cho con trai là Nhã Lang để cưới con gái Quang Phục là Cảo Nương và cho ở rể. Sau Nhã Lang lợi dụng lòng tín cẩn của vợ bèn dò hỏi và đánh tráo móng rồng rồi trở về bàn mưu với Phật Tử đánh úp Quang Phục. Vì móng rồng đã mất nên Quang Phục bị thua trận và phải gieo mình xuống biển . (a) Mũ đầu mâu: mũ đội che chở đầu lúc đánh trận. (4)

KHẢO LUẬN : 31 32 33 34 35 36

Chuyện rồng rắn thần ma quái dị bị quên đi một thời gian khá dài nay lại tái xuất hiện trong truyện móng rồng, mũ đầu mâu của Triệu Quang Phục. Các sử gia soạn KĐVSTGCM có phê phán về việc nầy như sau: Sử cũ (tức ĐVSKTT) chép chuyện Việt Vương được cái móng rồng của Chữ Đồng Tử cho; việc Nhã Lang sang gửi rể rồi lấy trộm móng rồng; việc Triệu Việt Vương vì mất cái móng rồng mà bị VSTK - 170


1 2 3 4 5

thua. Đem những việc ấy mà so với chuyện Thục An Dương Vương và Triệu Trọng Thủy trước kia giống nhau như hệt, kỳ quái trái thường không cần phải biện bạch thêm. Sử cũ phần nhiều chép đi chép lại, sai hẳn sự thật đại loại nhiều như thế. Nay muốn dựa vào sử cũ tìm chuyện đáng tin để truyền lại cho đời sau thì thật là khó lắm. Về lý lịch của Lý Bôn

6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Sử cũ viết rằng tổ tiên của Lý Bôn là người Hoa sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam. VNSL của Trần Trọng Kim thì viết :". thành ra người bản xứ." Thân cách của Lý Bôn nếu so sánh với thân cách của Thục Phán, Triệu Đà thì cũng không khác biệt gì nhiều. Người Hoa nào khi tới phương Nam rồi mà tránh khỏi không dậy lên lòng ham muốn xưng hùng xưng bá làm chủ riêng mình một phương khi thời cơ đưa tới. Xét cho cùng thì Lý Bôn cũng là người của đám thực dân thuộc địa từ phương Bắc nhưng vì không được trọng dụng, bất mãn cho nên chiêu dụ người bản xứ như tộc trưởng Triệu Túc ở huyện Chu Diên hợp lực cùng chống đối nhà Lương. Trong giai đoạn nầy hình ảnh khởi dậy của dân bản xứ không phải là Lý Bôn, không phải Lý Phật Tử nhưng chính là Triệu Quang Phục, con của Triệu Túc. Ngô Sĩ Liên phê luận về Triệu Quang Phục như sau :" . .Tiền Lý Nam Đế đem việc quân ủy cho Triệu Việt Vương, Việt Vương thu nhặt tàn quân giữ hiểm ở Dạ Trạch bùn lầy, đương đầu với Trần Bá Tiên là người hùng một đời, cuối cùng bắt được tướng của y là Dương Sàn. Tiên, người phương Bắc phải lui quân. . . Những việc làm của Việt Vương (đối với Lý Phật Tử) đều là chính nghĩa, giao hảo phải đạo, thăm viếng phải thời, há chẳng phải là đạo trị yên lâu dài hay sao? Thế mà (Lý Phật Tử) lại dùng mưu gian của Nhã Lang, vứt bỏ chính đạo nhân nghĩa, đánh cướp lấy nước, tuy rằng lấy được, mà Nhã Lang thì chết trước, bản thân (Lý Phật Tử) cũng không khỏi làm tù, có lợi gì đâu?"(ĐVSKTT/NK. 4 / 21b). Cao Huy Diệu tiếm bình như sau:". . thực hiểm ác thay dụng tâm của Hậu Lý Nam đế (Lý Phật Tử). Triều nhà Trần ta sách phong cho cả hai, vốn không hề phân biệt Giáp Ất chi, nhưng rộng xét những điều đã chép thì Việt ương Triệu Quang Phục vẫn gần với chính nghĩa hơn." Và xét về chính sách người Trung Hoa cai trị trong thời thuộc địa thì có thể lấy lời của Hoàng Cao Khải trong Gương Sử Nam viết như sau: "Tuy thế dân nước ta thuở ấy còn man rợ, từ khi nước Tàu sang cai trị, chẳng những làm cho ta hóa được cái sự giống nòi, mà lại mở cho ta thấy đường giáo hóa, dẫu như Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, là VSTK - 171


1 2 3 4 5 6 7 8 9

những người dạy cho ta lễ nghĩa, mới nên ra giống văn minh; dẫu đến Lý Bân, Mã Kỳ làm cho ta oán thù, bởi sự oán thù ấy, mới nên cho ta lấy sự độc lập. Thế thì chung lại mà nói rằng: người hay người dở cũng đều là có công với nước ta vậy. Cách viết nầy Hoàng Cao Khải không nhằm mục đích ca tụng công lao của nhóm thực dân đô hộ đến từ phương Bắc mà chỉ coi họ như những kẻ khơi mào làm gương cho người Việt Nam nổi dậy để dành lấy độc lập tự chủ cho mình trong tương lai.

VSTK - 172


CHƯƠNG IV

BẮC THUỘC LẦN THỨ BA ( 603 - 939 ) THỜI KỲ THUỘC TÙY (589 - 617) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Mãi đến năm 605 tướng nhà Tùy là Lưu Phương mới bình định xong đất Giao Châu rồi được phong chức chỉ huy quân sự ở đạo Hoan Châu(1) để cất binh đánh dẹp lãnh thổ Lâm Ấp. Lúc khởi trận Lưu Phương bị chận đánh ở sông Chà Lê(2) và thua cho nên sau đó phải dùng thế trận đào hầm phục kích mới phá tan được quân Lâm Ấp. Lưu Phương thắng trận tiến vào kinh đô(3) của Lâm Ấp cướp bóc tài vật châu báu, vơ vét vàng bạc, dựng ghi bia chiến công rồi kéo quân về nhưng mắc bệnh chết ở dọc đường . * THỜI KỲ THUỘC NHÀ ĐƯỜNG ( 618 - 907 )

11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21

Năm 618, nhà Tùy mất, nhà Đường lên thay, áp dụng chính sách tham nhũng, bóc lột, ác nghiệt chưa từng có lên các lãnh thổ thuộc địa ở Giao Châu. Khi nhà Tùy mất thái thú Giao Chỉ là Khâu Hoà(4) xin thần phục nhà Đường và được phong làm đại tổng quản(5) Giao Châu. Năm 622, nhà Đường lấy 2 huyện của quận Nhật Nam để lập Châu Trí, đặt riêng một thứ sử để cai trị và đổi quận Giao Chỉ thành Giao Châu tổng quản phủ rồi đến năm 679 lại đổi làm An Nam đô hộ phủ(6) chia Giao Châu thành 12 châu : VSTK - 173


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

1. Châu Lục cai quản 3 huyện(7) nay là Quảng Yên, Lạng Sơn) 2. Châu Phong cai quản 5 huyện(8) (nay là Sơn Tây) 3. Châu Ái cai quản 6 huyện (9) (nay là Thanh Hóa) 4. Châu Phúc Lộc cai quản 3 huyện(10) (nay thuộc địa giới Thanh Hóa) 5. Châu Thang cai quản 3 huyện(11) (nay là Tuyên Quang) 6. Châu Chi cai quản 7 huyện(12) (nay là Hưng Hóa) 7. Châu Diễn cai quản 7 huyện(13) (nay là phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) 8. Châu Vũ Nga cai quản 7 huyện(14) (nay là Thái Nguyên) 9. Châu Hoan cai quản 4 huyện(15) (nay cũng thuộc Nghệ An) 10. Châu Trường cai quản 4 huyện(16) (nay cũng thuộc Tuyên Quang) 11. Châu Vũ An cai quản 2 huyện(17) (có thể là tỉnh Quảng Yên ngày nay) 12. Châu Giao cai quản 8 huyện(18) (nay là Hà Nội, Nam Định, Thái Bình...) Năm 722, dân bản xứ do Mai Thúc Loan(19) cầm đầu liên kết với Lâm Ấp, Chân Lập khởi dậy chống chính sách cai trị của nhà Đường, đánh chiếm Châu Hoan, xưng là Hắc Đế nhưng rồi bị dẹp tan ngay trong năm đó. Năm 757 nhà Đường đổi An Nam đô hộ phủ thành Trấn Nam đô hộ phủ. Năm 767 các bộ tộc Côn Luân(20), Chà Bàn(21) đánh phá vây hãm các vùng chung quanh Trấn Nam đô hộ phủ. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với Cao Chính Bình; Chính Bình từ châu Vũ Định đem quân sang đánh và dẹp tan hết quân Côn Luân, Chà Bà ở huyện Chu Diên; sau đó Trương Bá Nghi xây đắp La VSTK - 174


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

Thành để phòng ngự. Cũng vào lúc nầy, ở huyện Đường Lâm, châu Phúc Lộc dân bản xứ do anh em Phùng Hưng, Phùng Hải chủ xướng khởi dậy chống đối và đánh nhau với quân đồn trú của nhà Đường ở Châu Vũ Định do Cao Chính Bình chỉ huy. Năm 768 lại đổi Giao Châu (Trấn Nam đô hộ phủ) thành An Nam đô hộ phủ. Năm 791 quân và dân do anh em Phùng Hưng cầm đầu bao vây An Nam Đô hộ phủ. Cao Chính Bình quá lo sợ phát bệnh chết. Anh em Phùng Hưng chiếm được trị sở của An Nam đô hộ phủ nhưng được ít lâu thì Phùng Hưng mất. Dân bản xứ tôn con của Phùng Hưng là Phùng An nối nghiệp lãnh đạo phong trào nổi dậy và tôn xưng Phùng Hưng là Bố Cái Đại Vương(22). Cùng trong năm nầy, nhà Đường sai Triệu Xương sang làm đô hộ sứ, Phùng An yếu hèn lại bị khuyến dụ, đem quân ra hàng. Từ năm 801 đế năm 846 nhà Đường lần lượt có những đô hộ kinh lược sứ sau đây sang Giao Châu: Bùi Thái (801), Triệu Xương (803) (lần thứ nhì), Trương Chu (808), Lý Tượng Cổ (819) rất tàn bạo hà khắc, Lý Nguyên Gia (824), Hàn Ước (828), Mã Thực(836), Vũ Hồn (842), Bùi Nguyên Hựu (846). Năm 846 bộ tộc Nam Chiếu(23) đánh phá Giao Châu nhưng Bùi Nguyên Hựu dẹp tan. Năm 857, Tống Nhai được cử làm Kinh lược sứ nhưng chỉ trong một thời gian ngắn lại đổi về Quảng Châu. Năm 858, nhà Đường dùng Vương Thức làm kinh lược đô hộ sứ. Dân bản xứ(24) Giao Châu vì chịu nhiều đói kém, loạn lạc, cướp bóc, sưu cao thuế nặng, cho nên lại khởi dậy chống đối nhưng bị Vương Thức tàn sát, đập tan. Sau đó Vương Thức lại gia tăng thuế khóa, bóc lột thêm nhiều hơn trước để cống nạp cho VSTK - 175


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

vương triều nhà Đường và nuôi quân(25) thuộc địa dồn trú ở Giao Châu. Năm 863 quân Nam Chiếu lại đánh phá phủ đô hộ. Kinh lược sứ Thái Tập thua trận, tự tử. Nhà Đường phải di tản An Nam đô hộ phủ về ở trấn Hải Môn(26) trên lãnh thổ Trung Hoa rồi đổi thành Hành Giao Châu còn quân nhà Đường đồn trú ở Giao châu thì rút chạy về giữ Tây Đạo(27). Nam Chiếu sau hai lần chiếm Giao Châu vừa bắt vừa giết quân nhà Đường kể cả dân bản xứ Giao Châu tất cả gần 150 ngàn người. Sau khi thắng được quân nhà Đường vua Nam Chiếu Mông Thế Long cho thuộc hạ của mình là Đoàn Tù Thiên ở lại nắm quyền cai trị Giao Châu cùng với 20 ngàn quân đồn trú. Giao Châu bây giờ lại trở thành thuộc địa của Nam Chiếu. Nhà Đường lại đặt phủ đô hộ mới gọi là Hành Giao Châu, bản doanh rút về đóng ở trấn Hải Môn. Rồi năm 864 dùng Cao Biền làm đô hộ kinh lược chiêu thảo sứ cai quản tất cả mọi công việc của Hành Giao Châu, chuẩn bị lương thực binh mã để sang đánh Nam Chiếu chiếm lại Giao Châu. Cuối năm 865, Cao Biền tiến quân theo đường biển đến Nam Định(28) chiếm Phong Châu, chém giết hàng vạn dân bản xứ đang thu hoạch mùa màn, thu vét hết lúa gạo đem về nuôi quân. Năm 866, Cao Biền bình định xong Giao Châu, giết được tiết độ sứ của Nam Chiếu là Đoàn Tù Thiên. Nhà Đường liền đặt một cơ quan quân sự ở Giao Châu gọi là Tỉnh Hải quân(29) để thay thế Hành Giao Châu trong việc cai trị và cử Cao Biền làm Tỉnh Hải quân Tiết độ sứ. An Nam đô hộ phủ từ đó được gọi là Tỉnh Hải quân tiết trấn. Cao Biền bắt dân bản xứ lao công phục dịch xây thành đắp lũy, vét sông, đào kinh, dùng chất nổ để VSTK - 176


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18

khai thông các thủy lộ, xây bến cảng, kiểm soát thuế dịch để thu vét nhiều hơn trước, áp dụng chính sách cai trị độc tài phong kiến, bắt người dân bị trị tôn xưng mình như là một bậc vua con, một mình một cõi. Năm 875 Cao Biền tiến cử Cao Tần sang thay. Năm 880 quân nhà Đường đồn trú ở phủ đô hộ nổi loạn(30), tiết độ sứ lúc đó là Tăng Cổn phủ dụ dẹp yên(31). Năm 892 Chu Toàn Dục sang thay. Năm 905, ở Trung Hoa loạn lạc khắp nơi. Nhà Đường suy yếu, những kẻ có uy thề đều nổi lên xưng hùng xưng bá mưu đồ tranh đoạt đất đai lãnh thổ của nhà Đường. Khúc Thừa Dụ(32) gốc gác ở Hồng Châu(33) nhân cơ hội nầy tự xưng tiết độ sứ Giao Châu khi Chu Toàn Dực vừa bị nhà Đường bãi chức. Năm 906 Nhà Đường phải gia phong cho Khúc Thừa Dụ chức đổng bình chương sự tiết độ sứ. Năm 907 anh của Chu Toàn Dực là Chu Toàn Trung đoạt ngôi của nhà Đường lập ra nhà hậu Lương(34).

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Hoan Châu: đời nhà Lý đổi là châu Nghệ An, đời Trần là trấn Lâm Giang, nhà Lê là thừa tuyên Nghệ An. Nay là tỉnh Nghệ An. (2) Sông Chà Lê: sách Thông Giám Tạp Lãm chú thích là ở phía Bắc nước Chiêm Thành ngày xưa. (3) Kinh đô của Lâm Ấp: không rõ ở đâu; tuy nhiên hiện nay nước Việt Nam có rất nhiều di tích thành cũ của vua Chiêm ở các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Bình Định. (5) Khâu Hoà: sách Đường Thư của Trung Hoa khen Khâu Hòa là người tốt khoan hậu, gần gũi với dân nhưng sự thật lại là người tham nhũng chuyên lo bòn rút, dụ dỗ dân tộc bản xứ để làm giàu.(ĐVSKTT/NK.V/3a, KĐVSTGCM/TB.IV/16b) (5) Tổng quản: giống như chức thứ sử. (1)

VSTK - 177


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

An Nam Đô hộ phủ: sách Đường thư/Địa lý chí chép: là quận Giao chỉ đời nhà Tùy; năm Vũ Đức thứ 5 đời nhà Đường (622 TL) đổi thành Giao Châu tổng quản phủ. (7) Châu Lục: 3 huyện là Ô Lôi, Hoa Thanh, Ninh Hải. (8) Châu Phong: 5 huyện là Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương, Cao Sơn, Châu Lục. (9) Châu Ái: 6 huyện là Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Trường Lâm. (10) Châu Phúc Lộc: 3 huyện là Phúc Lộc, Đường Lâm, Nhu Viễn. (11) Châu Thang: 3 huyện là Dương Tuyền, Lục Thủy, La Thiều. (12) Châu Chi: 7 huyện là Hân Thành, Phú Xuyên, Bình Tây, Lạc Quang, Lạc Diễm, Ân Long (hay Mã Long, Tư Long), Đa Vân. (13) Châu Diễn: 7 huyện là Trung Nghĩa, Long Trì, Tư Nông, Vũ Động, Vũ Dung, Vũ Kim, Vũ Lang. (14) Châu Vũ Nga: 7 huyện là Vũ Nga, Vũ Nghĩa, Vũ Di, Vũ Duyên, Vũ Lao, Như Mã (hay Mã Thạch), Lương Sơn. (15) Châu Hoan: 4 huyện là Cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường, Hoài Hoan. (16) Châu Trường: 4 huyện là Văn Dương, Đồng Thái, Trường Sơn, Kỳ Thường. (17) Châu Vũ An: 2 huyện là Vũ An, Lâm Giang. (18) Châu Giao: 8 huyện là Tống Bình, Nam Định, Thái Bình, Giao Chỉ, Chu Diên, Long Biên, Bình Đạo, Vũ Bình. (19) Mai Thúc loan: người huyện Thiên Lộc nay là huyện Can Lộc tỉnh Hà Tỉnh, sắc da đen đen nên gọi là Hắc đế. (20) Côn Luân: các bộ tộc nầy gồm các quần đảo trong vùng Nam Hải tức là vùng Đông Nam Á Châu bây giờ. Sử sách Trung Hoa gọi các bộ tộc nầy là người Di ở các đảo châu Nam Hải, người rất đen, có nhiều tộc giống khác nhau; Nam Man truyện trong Đường Thư cũng chép :Từ Lâm Áp trở về phía Nam, đầu tóc quăn, da đen, gọi chung là Côn luân. Ngày nay ngoài hải phận tỉnh Vĩnh Long (Nam Việt Nam ngày nay) vẫn còn hai cù lao Đại Côn Luân và Tiểu Côn Luân mà đa số dân cư là người Tàu đã sinh cư lập nghiệp lâu đời ở đó. (21) Chà Bà: phiên âm tên quần đảo Java tức là vùng Nam Dương, Borneo và Timor. (22) Bố Cái đại vương: ĐVSKTT chua: tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái nên lấy hai chữ nầy làm hiệu. (23) Nam Chiếu: ĐVSKTT chép: Người Nam Man là dân Nam Chiếu gồm các bộ tộc người vùng Vân Nam bên Tàu. Theo lời chua của sách Tàu Cương Mục thì người Nam Chiếu là giống man di ở Ai Lao vị trí ở phía Tây Diêu Châu. Theo Đường Thư/ Địa lý chí thì Nam Chiếu ở quận Vân Nam thuộc Diêu Châu, Đông Nam giáp Giao Chỉ, Tây Bắc giáp Thổ Phồn (nay là Tây Tạng). Tiếng Man gọi vua là Chiếu. Ngày trước có 6 Chiếu: Mông Tuấn,Việt Tích, Lãng Khung, Đăng Đạm, Thi (6)

VSTK - 178


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Lãng và Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở tận về phía Nam nên gọi Nam Chiếu. Khoảng năm 713-741 Nam Chiếu lớn mạnh và sáp nhập hết 5 Chiếu kia vào chung làm một, thu phục nhiều Man khác, chiếm nước Thổ Phồn, tạo bất ổn khắp miền biên giới. (24) Dân bản xứ Giao Châu: SKTT viết về cuộc khởi dậy nầy như sau: Mùa thu, tháng 7, có bọn dân xấu nhiều lần nổi loạn, nói phao rằng: " Nghe đồn kinh lược sứ Tống Nhai sai quân hoàng đầu (bịt đầu bằng khăn màu vàng) vượt biên sang đánh úp châu ta". Rồi họ đang đêm kéo nhau đến vây thành, đánh trống reo hò: " Vương Thức hãy lui về Tàu" (nguyên văn là: Xin đuổi Thức về để bọn ta giữ thành nầy chống giữ quân hoàng đầu phương Bắc)... Bấy giờ đói kém loạn lạc liên tiếp, 6 năm không nộp thượng cung (là tiền, lụa nộp sang kinh sư để cho vua nước Trung Hoa chi dùng), trong quân không có khao thưởng. Thức bắt đầu sửa sang việc thuế khóa, khao thưởng quân lính." (ĐVSKTT/NK.V/ 9b) (25) Nuôi quân: Theo truyện Nam Chiếu trong Đường thư có đoạn viết: "trước kia (tức là trước năm 585) Lý Trác làm kinh lược sứ khắc nghiệt tham ô, tự tư tự lợi, cứ mỗi đấu muối đổi lấy một con trâu". (trích dẫn theo KDVSCM/TB.IV/ 37,38,39) (26) Hải Môn: huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây bây giờ. (27) Tây Đạo: tức là Ung Châu, nay là huyện nam Ninh, tỉnh Quảng Tây. (28) Nam Định: tên huyện do nhà Đường đặt vào năm 621 (Đường Thư/Địa Lý Chí). Nam Định có núi Đông Cừu ở châu Gia Lâm (Thái Bình hoàn vũ ký/Nhạc Sử). Nay thấy có núi Đông Cừu ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh; vậy huyện Nam Định ở vào địa giới Gia Lâm và Gia Bình. (29) Tĩnh Hải Quân: có thể đây là một hình thức đặt một vùng lãnh thổ dưới quyền kiểm soát và cai trị của quân đội tương tựa như quân khu, quân trấn gần đây. Người cai trị là một võ quan có kinh nghiệm chiến trận và áp dụng quân luật để ổn định vùng lãnh thổ vừa chiếm được. (30) Nổi loạn: ĐVSKTT chép: Quân phủ đô hộ làm loạn, tiết độ sứ Tăng Cổn bỏ chạy khỏi thành. Các đạo quân nhà Đường đóng giữ Ung Quảng thường tự ý bỏ về luôn. (31) Tăng Cổn: ĐVSKTT viết là Tăng Cổn bỏ chạy. Chi tiết nầy của ĐVSKTT có vẻ mâu thuẫn khó có thể chấp nhận được bởi lẽ nếu Tăng Cổn bỏ nhiệm sở để trốn chạy thì trong khoảng thời gian 12 năm tử 880 đến 892 ai là người cai quản Giao Châu? Mặc khác ĐVSKTT lại chua thêm rằng: Cổn là người biết vỗ dân, người trong châu gọi là Tăng thượng thư; Cổn từng soạn sách Giao Châu ký, 1 thiên. KĐVSTGCM viết theo sách Tàu An Nam Kỷ Yếu của Cao Hùng Trưng: Tiết độ sứ Tăng Cổn phủ dụ được yên.

VSTK - 179


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Khúc Thừa Dụ: KĐVSTGCM viết: Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Nhân loạn lạc, nhân danh là hào trưởng mt xứ tự xưng là tiết độ sứ, chịu thần phục nhà Đường, vua Đường nhân đó trao cho chức tiết độ sứ . ĐVSK TT không đề cập gì tới tên Khúc Thừa Dụ. Sách Thông Giám viết: Năm Thiên Hựu thứ 3 (906), nhà Đường Gia phong cho Thừa Dụ chức đổng bình chương sự. Sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn chép: "Thừa Dụ tức là Tiên chúa. Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ đều là con cháu". (33) Hồng Châu: là tên củ. đời Lê là hai phủ Thượng Hồng và Hạ Hồng thuộc tỉnh Hải Dương. (34) Hậu Lương: gọi là hậu Lương để phân biệt với nhà tiền Lương vào thời loạn trong năm 265-420 bên Trung Hoa (32)

KHẢO LUẬN:

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

VƯƠNG THỨC

Sách sử Trung Hoa đều ca tụng Vương Thức: theo sách Cương Mục, Vương Thức là người có tài năng và mưu lược. Theo truyện Vương Bá trong Đường thư, Vương Thức khi làm thứ sử ở Tân Châu ở Trung Hoa Tàu, cứu sống mấy nghìn dân xiêu giạt vì thế nổi tiếng được thăng làm đô hộ An Nam; một đoạn tiếp lại viết rằng: "Người làm đô hộ trước, gặp lúc đang đại hạn, rung bị khô, lại làm lũy gỗ để ngăn ngừa giặc cướp, bắt dân hằng năm nộp tiền. Đã không làm hoàn thành cho kịp thời, lại hạch sách bắt dân đóng góp rất gắt gao". ĐVSKTT cũng như KĐVSTGCM đều viết rằng: "Giao Châu bấy giờ luôn luôn đói kém giặc giã, 6 năm liền không thu được thuế để nộp về cho cấp trên, trong quân đội không hề khao thưởng. Vương Thức mới sửa lễ cống, đãi quân sĩ ăn uống". Rõ ràng là trước khi Vương Thức được cử sang, dân bản xứ bị trị ở Giao Châu đã gánh chịu một chính sách cai trị bóc lột tàn khóc rồi mà vẫn chưa đủ cung cấp cho chính quyền thực dân thuộc địa. Đến khi Vương Thức nắm quyền cai trị đô hộ thì sự bóc lột vơ vét lại càng nghiệt ngã hơn và nhờ thế mới có đủ lễ cống mà còn dư để nuôi ăn đoàn quân viễn chinh của Trung Quốc đồn trú ở Giao Châu. Hậu quả tất nhiên là dân bản xứ bị trị lại phải khởi dậy chống đối nhưng sách sử của Trung Quốc lại viết rằng cuộc khởi dậy lần nầy chỉ là một đám gian dân, bọn dân xấu không chịu chăm lo làm ăn, sống ngoài vòng luật pháp.

CAO BIỀN

VSTK - 180


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Theo truyện Cao Biền trong Đường Thư, Biền có hiệu là Thiên Lý, người U Châu, dòng họ trải nhiều đời theo nghiệp quân sự. Biền giỏi cả về hai mặt chính trị và quân sự cho nên khi tình thế cấp bách đã được cử thay thế kinh lược sứ ngu dốt không có dũng lược là Trương Nhân. Bao giờ cũng vậy, sách sử Trung Hoa luôn luôn ca tụng, tôn xưng và thần thánh hóa những khuôn mặt đại diện của họ đi làm việc đô hộ tại các nước thuộc địa nhược tiểu. Trên thực tế, Cao Biền cũng giống như những thứ sử, châu mục từ các thời trước, cũng vơ vét, hành hạ, bóc lộ, hà khắc nhưng lần nầy thì lại nặng nề hơn vạn lần bằng cách áp đặt chế độ quân phiệt sắt thép, tàn bạo lên đầu lên cổ người dân bị trị. Sử cũ không đề cập về những điều vừa kể nhưng chỉ viết lại chính sách cai trị của Cao Biền bằng cách chép lại những gì đã viết trong sử sách Trung Hoa Về việc nhà Đường đặt Tỉnh Hải quân ở An Nam, ĐVSKTT chép: ". . .đặt Tỉnh Hải quân ở Giao Châu, lấy Biền làm Tiết độ sứ (Từ đây đến đời nhà Tống, An Nam gọi là Tỉnh Hải quân tiết trấn). Từ khi Lý Trác xăm phạm quấy nhiễu khiến cho người Man (Nam Chiếu) gây họa gần đến 10 năm, đến đây mới yên" (ĐVSKTT/NK.5/14b). Theo sách Cương Mục (của Tàu) thì: "Kể từ khi Lý Trác sách nhiễu nhân dân, dân các Man nổi lên gần 10 năm; đến nay mới bình định xong, nhà Đường đặt Tỉnh Hải quân ở An Nam, dùng Cao Biền làm tiết độ sứ. Bắt đầu từ đây, An Nam đổi tên Tỉnh Hải quân tiết trấn ". Cao Biền bắt dân bản xứ lao công phục dịch để xây đắp thành lũy phòng thủ. Thành lũy nầy ĐVSKTT gọi là thành Đại La. Về việc Cao Biền khi bắt dân vét sông, đào kinh, khai thông thủy lộ ĐVSKTT chép: "Cao Biền bảo: Đạo trời giúp người thuận, thần linh phù kẻ ngay. Nay khai đường biển để giúp cho việc sinh sống của dân, nếu mình không vì lợi riêng thì việc làm có gì là khó ". Khởi công đào vét thì có hai tảng đá lớn giăng dài đến mấy trượng, làm gãy đục, gãy búa, người làm việc ngó nhau cả ngày không biết phải làm sao. Thế rồi tự nhiên có sấm sét đánh liên tiếp mấy trăm tiếng, hai tảng đá lớn đều vỡ nát. Phía Tây lại có hai tảng đá lớn đứng đối nhau sừng sững, đám thợ phải bó tay không làm gì được. Lại có sấm sét như trước làm cho hai tảng đá tan nát. Đường biển được khai thông vì thế gọi là Thiên uy cảng (bến cảng oai trời)" (ĐVSKTT/NK5/15 a,b và 16 a). Trong Đường thư cũng có viết về chuyện Cao Biền đào sông kèm theo với chuyện sấm sét thần uy như trong ĐVSKTT đã chép. Vua Tự Đức phê bình như sau: "Con sông mà Biền đứng đào nay ở vào đâu cũng không rõ. Nếu bảo là ở tỉnh Nghệ An bây giờ thì vẫn còn nghẽn tắc nào đã thông suốt được gì đâu? Lời của sử cũ chép đây so với lời truyện Cao Biền trong Đường thư khen là thần tiên cũng chỉ là một lối hoang đường. Vậy mà sử cũ khen việc Biền đào cảng là được trời giúp, thì đây cũng lại là truyền văn mà lại vi tin vậy". Cũng VSTK - 181


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21

trong Đường thư/ Địa lý chí viết rằng: Ở huyện Bác Bạch có ghềnh Bắc thú (Bắc thú than). Trong niên hiệu Hàm thông (860-873) nhà Đường, Cao Biền mộ dân đục phẳng đá ngầm nguy hiểm dưới nước để cho tàu bè lưu thông an toàn. Theo Thanh Nhất Thống Chí, thì huyện Bác Bạch nay thuộc châu Uất Lâm (nay là tỉnh Quảng Tây). Vậy thì nơi Cao Biền khai thông có thể là ở Bác Bạch để phá vỡ ghềnh Bắc Thú tức là cái ghềnh nầy không nằm trong địa giới của Giao Châu. Cũng có người cho rằng Thiết cảng ở Nghệ An còn được gọi là Thiên uy cảng nhưng chẳng có gì để chứng minh hai cảng nầy là một. Như vậy, chuyện Cao Biền cũng xếp vào cùng mộ loại với chuyện Liễu Nghị trong sử sách của Trung Hoa và đã được người xưa của ta thần thông biến hóa thành những chi tiết quan trọng đưa vào quốc sử trong khi chính

sách cai trị quân quản tàn bạo của Cao Biền thì lại chẳng thấy ai đưa ra ánh sáng. Chẳng những thế, chuyện sét đánh lại được Ngô Sĩ Liên bênh vực và cho là chuyện đó là chuyện bình thường, không có gì gọi là lạ cả. Ngô Sĩ Liên nói: "Theo Kinh Dịch:"giữ điều tín mà nghĩ điều thuận, thì trời sẽ giúp. Thế thì việc sét đánh đá lớn để giúp chẳng có gì là lạ cả" (ĐVSKTT/NK.5/16a,b). Không còn ngạc nhiên nữa khi thấy Ngô Sĩ Liên lập lại kiểu phê luận dị đoan huyền hoặc như thế trong ĐVSKTT. Bàn thờ thần bếp (Táo quân: 2 Ông một Bà) do người Trung Hoa du nhập vào Việt Nam qua chính sách đồng hóa của họ

VSTK - 182


Bàn thờ thần Đất (Thổ Địa)

*

BỊ THUỘC NHÀ HẬU LƯƠNG ( 917 - 923 ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Năm 907, Hậu Lương cử tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm nhiệm luôn chức tiết độ sứ Tỉnh Hải Quân. Lưu Ẩn liền sang chiếm giữ Phiên Ngung. Trong thời nầy dòng họ của Khúc Thừa Dụ là Khúc Hạo(35) đã chiếm giữ phủ trị của Tỉnh Hải Quân ở Giao Châu từ tay tiết độ sứ của nhà Đường là Độc Cô Tôn rồi tự xưng Tiết độ sứ. Năm 911 Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nham (sau đổi là Lưu Cung) thay thế rồi tách khỏi nhà Lương, xưng đế, lập ra nhà Hậu Hán cũng gọi là Nam Hán. Năm 917 Khúc Hạo chết, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay và thần phục nhà Lương. * VSTK - 183


BỊ THUỘC NHÀ NAM HÁN ( 923 - 931 ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Năm 923 Nam Hán sai tướng Lý Khắc Chính đem quân sang đánh Giao Châu, bắt được Khúc Thừa Mỹ. Nam Hán cử Lý Tiến làm thứ sử, cùng với Lý Khắc Chính chiếm giữ Giao Châu. Năm 931, một tướng cũ của Khúc Hạo là Dương Diên Nghệ(36) chiêu mộ quân dân khởi dậy lần lượt đánh đuổi Lý Khắc Chính và Lý Tiến rồi tự xưng tiết độ sứ, cai trị Giao Châu. Năm 937 Dương Diên Nghệ bị thuộc hạ của mình là Kiều Công Tiện(37) giết chết và cướp quyền rồi chịu thần phục Nam Hán. Năm 938, một thuộc tướng khác của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền từ Ái Châu cất quân đánh Kiều Công Tiện. Công Tiện cầu cứu với Nam Hán. Vua Nam Hán thừa dịp muốn đánh chiếm Giao Châu liền cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo cử đại binh sang đánh Ngô Quyền(38) Sau khi diệt được Kiều Công Tiện, Ngô Quyền liền chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Ngô Quyền dùng kế giả thua từ cửa biển để dụ cho địch đuổi theo sâu vào lòng sông Bạch Đằng(39) rồi chận đường rút lui và phản công. Đại quân của Nam Hán tan nát, Hoằng Tháo bị Ngô Quyền đuổi bắt, giết chết. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN

25 26 27 28

(35) Khúc

Hạo: người làng Cúc Bồ, huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng ngày nay. KDVSTGCM trích dẫn An Nam kỷ yếu ghi rằng: "Khúc Hạo người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay cho Độc Cô Tôn: đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt ở mỗi giáp VSTK - 184


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

một viên quản giáp và một phó tri giáp để lo việc thu thuế" (ĐVSTGCM/ TB5/ 15a) (36) Dương Diên Nghệ: theo KĐVSTGCM, Nghệ là người Ái Châu tức Thanh Hóa. Sách An Nam kỷ yếu (viết tắt ANKY) chép là Dương Đình Nghệ. (37) Kiều Công Tiện: theo ANKY, Tiện là người Phong Châu. (38) Ngô Quyền: ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều chép giống nhau: "Ngô Quyền người huyện Đường Lâm (nay thuộc Ba Vì, tỉnh Hà Tây), vừa là nha tướng vừa là con rể của Dương Đình Nghệ, được Nghệ giao cho giữ Ái Châu. Khi Kiều Công Tiện giết Nghệ, Ngô Quyền từ Ái Châu cất binh đến đánh và giết được Công Tiện". (39) Sông Bạch Đằng: từ sông Lục Đầu thuộc tỉnh Bắc Ninh chia dòng chảy vào tỉnh Hải Dương: mộ nhánh theo sông Mỹ Giang, một nhánh theo Châu Cốc Sơn ; rồi hai nhánh đó hợp lại ở xã Đoan Lễ tạo thành sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng phía Nam giáp giới huyện Thủy Đường, tỉnh Hải Dương; phía Bắc giáp giới huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên, chuyển về hướng Nam 29 dặm rồi đổ ra cửa biển Nam Triệu. Theo Dư địa Chí của Nguyễn Trãi, sông Bạch Đằng có tên gọi khác nữa là sông Vân Cừ, rộng trên 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao, cây cối dầy đặc um tùm suốt dọc hai bờ sông, đúng là một nơi hiểm yếu suốt ra đến cửa biển. Ngô Vương Quyền đánh bại Hoằng Tháo, Hưng Đạo Vương đời nhà Trần đánh bại quân Nguyên đều ở trên sông Bạch Đằng nầy. LTHCLC/ Dư Địa Chí/Phủ Kinh Môn và phủ Hải Đông/ của Phan Huy Chú viết: "Huyện Thủy Đường, núi sông rải rác. . .phía Đông đến sông Bạch Đằng, đối ngạn với trấn Quảng Yên. Sông Bạch Đằng là nơi có tiếng nhất trong những chỗ xung yếu. Các đời, phần nhiều lập nên chiến công ở chỗ nầy". Và tiếp theo: "Cửa sông Bạch Đằng liên tiếp với trấn Hải Dương, sóng nước lưng trời, từng lượt núi đứng sững, cảnh trí rất rộng thoáng. Ba huyện Hoa Phong, Yên Hưng và Hoành Bồ chia ở hai bên tả hữu sông này. Phía Đông cửa biển giáp giới châu Khâm, tỉnh Quảng Đông, cách đó vài trăm dặm là đỉnh núi Phân Mao, chỗ Nam Bắc chia bờ cõi từ trước. Nhà Mạc buổi đầu, đem dâng hai châu (châu Như Tích và Thiện Lảm) bốn động (động Cổ Sâm, Tê Lẩm, Kim Lặc và Liễu Cát) cho nhà Minh, cõi đất mới hẹp đi . KHẢO LUẬN : TRẬN CHIẾN SÔNG BẠCH ĐẰNG

38

39 40

Người viết sử cũng như người đọc sử đến đây tự nhiên thở phào, hân hoan với chiến thắng của Ngô Quyền trên dòng sông Bạch Đằng VSTK - 185


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

hùng dũng của tộc giống Việt Nam chính gốc sau hơn 3,000 năm dưới ách thuộc địa đô hộ của phương Bắc (từ năm 2,359 TTL của thời đại Văn Lang đến năm 938 TL với chiến thắng Bạch Đằng là 3,297 năm). Lê Văn Hưu nói: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới vừa được kết hợp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người Tàu ở phương Bắc không dám lại sang nữa. Chỉ cần một lần nổi giận vì tự ái dân tộc bị xúc phạm mà yên định được cho dân, mưu đã giỏi mà đánh cũng rất hay. Dù chỉ mới xưng vương, chưa kịp xưng đế và chưa đặt quốc hiệu nhưng đây mới là chính thống thực sự và đúng nghĩa của nước Việt ta ". Ngô Sĩ Liên có lời bàn rằng: "Nhà Tiền Ngô khởi lên, không những có công đánh giặc thắng lợi mà còn đặt trăm quan, chế định triều nghi (nghi lễ trong triều đình) phẩm phục (đồ mặc) rõ thật là một quy mô đế vương. Tuy nhiên ngôi vua lại không được lâu dài, chưa thấy có thành quả nào về chính sách trị nước an dân, thật đáng tiếc ! " Ngô Thời Sĩ viết: "Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù cho chúa, đuổi quân Tàu xâm lược để cứu nước, xây dựng quốc gia, đem lại chính thống, công nghiệp thật vĩ đại . Trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng là đầu mối cho công cuộc khôi phục quốc thống ngày sau. Những chiến công của những đời Đinh, Lê, Lý chính là noi theo tiếng tâm lẫm liệt của trận đánh trên sông Bạch Đằng. Chiến tích lẫy lừng nầy vang vội đến ngàn đời sau chứ đâu phải chỉ là chiến thắng một thời mà thôi đâu ?" Tuy nhiên, Tự Đức lại cảm thấy khó chịu về những sự tuyên xưng công trạng hiển hách của Ngô Quyền với chiến tích Bạch Đằng: "Ngô Quyền gặp ngụy triều Nam Hán là một nước nhỏ, Hoằng Tháo là tên trẻ con hèn kém cho nên mới có được trận thắng trên sông Bạch Đằng. Đó là gặp may mắn, đâu có gì đáng được ca tụng. Nếu gặp phải tay Trần Bá Tiên mà bảo rằng không phải theo gót Lý Nam Đế, Triệu Việt vương, thì ít có lắm". Người ta không ngạc nhiên về tư cách phê phán tự tôn, tiền hậu bất nhất của Tự Đức: một mặt không công nhận Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục là chính thống, một mặt lại so sánh đánh giá cao thành tích chiến trận của người Hoa Trần Bá Tiên để hạ thấp giá trị công trạng của Ngô Quyền. Chỉ có những kẻ ngồi mát ăn bát vàng như Tự Đức mới không chịu công nhận chiến thắng Bạch Đằng và tài năng hiếm có của Ngô Quyền: đây là bản chất tự tôn cao ngạo hằng cửu khó gột rửa của đa số vua chúa thời phong kiến vì vậy không cần phải ngạc nhiên .

VSTK - 186


Bài đọc thêm về chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng

PHIÊN ÂM (hình 1) Ngô Sĩ viết: Bạch Đằng chi tiệp, nải phục quốc thông trương bản, Đinh, Lê, Lý, Trần do tạ kỳ dư liệt yên. Vũ công chi thanh, thiên cổ vĩ quan, khi đặc khoa diệu ư nhất nhi dỉ tai. Chú Cổ xã danh, chú kiến thuộc Đường Trinh nguyên thất niên. An Nam kỷ yếu Ngô Quyền Ái châu nhân, vị tri thục thị . Bạch Đằng Giang, tự Bắc Ninh Lục đầu giang phân lưu nhập Hải Dương, nhất tùng Châu cốc sơn, hợp chủ Đoan Lễ xã, vi Bạch Đằng giang, nam Hải Dương Thủy Đường Dịch Nghĩa trang 187 (Hình 1) Lời bàn của Ngô Thời Sĩ: Trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng là đầu mối cho việc lấy lại quốc thống ngày sau. Các đời Đinh, Lê, Lý, Trần còn nhờ tiếng tăm oanh liệt nầy. Võ công thì lớn lao, cảnh trí thì hùng vĩ từ ngàn xưa chứ đâu phải khoa trương rạng rỡ mt thời rồi thôi đâu. Chú: Đường Lâm là tên xã ngày xưa, lời chú xem thuộc Đường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ 7. Theo An nam kỷ yếu, Ngô Quyền người Ái Châu, không biết có phải thế không. Sông Bạch Đằng, từ sông Lục Đầu thuộc tỉnh Bắc Ninh, chia dòng chảy vào tỉnh Hải Dương, một nhánh theo con sông Mỹ, một nhánh qua Châu cốc sơn, rồi hợp lại chảy vào xã Đoan Lễ tạo thành con sông Bạch Đằng. Sông nầy về phía Nam nằm trong lãnh vực xã Thủy Đường tỉnh Hải Dương.

VSTK - 187


PHIÊN ÂM (Hình 2) huyện giới, Bắc Quảng Yên, Yên Hưng huyện giới, Nam chuyển nhị thập cửu lý, phóng Nam Triệu hải khẩu. Nguyễn Trãi Địa lý chí, Bạch Đằng biệt hiệu Vân Cừ giang, quảng nhị lý linh, quần sơn sừng tiếu, chúng thủy giao lưu, ba đào tiếp thiên, thọ mộc tề ngăn, chân hải đạo hiểm yếu xử dã. Tiến Ngô Vương Quyền bại Hoằng Tháo, Trần Hưng đạo vương bại Nguyên ninh ư thứ. KỶ HỢI NGÔ VƯƠNG QUYỀN NGUYÊN NIÊN, TẤN THIÊN PHÚC TỨ NIÊN Xuân, Ngô Quyền xưng vương, đô Cổ loa Ngô sĩ tán viết: Vương tru nội tặc dĩ phục chủ thù, điển ngoại địch dĩ.

DỊCH NGHĨA (Hình 2) phía Bắc thuộc ranh giới huyện Yên Hưng tỉnh quảng Yên, chuyển về Nam 29 dặm rồi đổ ra cửa biển Nam Triệu. Theo Địa lý chi của Nguyễn Trãi, sông Bạch Đằng còn có một biệt hiệu khác nữa là sông Vân Cừ rộng trên hai dặm, núi cao sừng sững, sóng nước ngất trời, cây xanh che phủ bên bờ, đúng là chỗ đường biển hóc hiểm. Tiền Ngô vương Quyền đánh bại Hoằng Tháo, Trần Hưng đạo vương đánh bại quân Nguyên đều xảy ra ở chốn nầy. NĂM KỶ HỢI, NGÔ VƯƠNG QUYỀN NĂM THỨ 1 NHÀ TẤN, NIÊN HIỆU THIÊN PHÚC THỨ 4 Mùa Xuân, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa Ngô Thời Sĩ ca tụng rằng: Ngô vương giết giặc trong nước để trả thù chúa, giết quân ngoại xăm . . .

VSTK - 188


PHIÊN ÂM (Hình 3) thư quốc nạn, kiến bang phục thống, công liệt dĩ nhiên. Chú: Cổ Loa, kiến An Dương vương tam niên. Lập Dương thị vi hậu. PHIÊN ÂM (Hình 3) tiếp theo Dương hậu Diên Nghệ chi nữ. Sơ Ngô vương vi Diên Nghệ nha tướng. Nghệ dĩ nữ thế chi, chi thị lập vi hậu. Trí bách quan, chế triều nghi, định phục sắc. GIÁP THÌN, NGÔ VƯƠNG LỤC NIÊN-TẤN, TỀ VƯƠNG KHAI VẠN NGUYÊN NIÊN. Ngô vương Quyền hoảng. * DỊCH NGHĨA (Hình 3) cứu nguy nạn nước, xây dựng quốc gia, phục hồi quốc thống, công nghiệp thật lớn lao. Chú: Cổ Loa, xem An Dương Vương năm thứ 3. Ngô vương lập bà họ Dương làm hoàng hậu. Dương hậu là con gái Diên Nghệ. Lúc đầu Ngô vương là nha tướng của Diên Nghệ, Diên Nghệ gả con gái cho. Đến bấy giờ vương lập Dương thị làm hoàng hậu. Đặt trăm quan, chế nghi lễ ở triều đình, ấn định màu sắc y phục. NĂM GIÁP THÌN, NGÔ VƯƠNG NĂM THỨ 6-TẤN, TỀ VƯƠNG KHAI VẬN NĂM THỨ 1. Ngô vương Quyền mất. (Ghi chú: Các bài đọc thêm viết bằng chữ Nho ở trên được trích ra từ bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Tiền Biên, Quyển thứ 5, tờ 19, 20)

VSTK - 189


Lăng Ngô Quyền (Hà Tây)

VSTK - 190


QUYỂN 1

THỜI ĐẠI TỰ CHỦ CHƯƠNG I

NHÀ NGÔ ( 939 - 965 ) & LOẠN 12 SỨ QUÂN ( 966 - 967 )

1

2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

N

ăm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, đặt quan chức, chế triều nghi, định phẩm phục, lập Dương thị(1) làm hoàng hậu, chỉnh đốn việc cai trị trong nước nhưng chỉ làm vua được 6 năm thì mất (944). Năm 945, Dương Tam Kha(2) cướp ngôi của Ngô Quyền rồi xưng là Bình Vương. Con trưởng của Ngô Quyền là Xương Ngập chạy về Nam Sách Giang(3), ẩn náu tại nhà của Phạm Lệnh Công ở Trà Hương(4). Dương Tam Kha nuôi con thứ của Ngô Quyền là Xương Văn làm con mình và truy lùng nhiều lượt để bắt Xương Ngập nhưng không thành công. Năm 950, Tam Kha sai Xương Văn cùng hai quan sứ Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc(5) đem quân đi đánh hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình(6) Xương Văn đem quân quay trở về đánh úp Tam Kha nhưng không giết mà phế xuống làm hầu công(7) ban cho thực ấp(8) ở Chương Dương(9) Năm 951, Xương Văn lên ngôi vua xưng là Nam Tấn vương rồi đón Xương Ngập ở Trà Hương về kinh đô cùng cai trị. Xương Ngập xưng là Thiên Sách vương. VSTK - 191


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Bấy giờ trong nước bắt đầu có loạn, mỗi người chiếm giữ một vùng lãnh thổ riêng để làm chủ. Ở vùng Hoa Lư, Minh Công Trần Lãm làm chủ và giao cho Đinh Bộ Lĩnh thống lĩnh binh quyền. Xương Xí và Xương Ngập đem quân tới đánh nhưng không dẹp được phải lui quân về. Năm 954, Xương Ngập mất, Xương Văn liền thần phục vua Nam Hán và được phong làm Tỉnh Hải quân tiết độ sứ kiêm đô hộ. Năm 965, Xương Văn đem quân đi dẹp loạn ở Thái Bình bị phục kích chết tại trận. Kể từ lúc đó, các đầu lĩnh(10) ở các quận ấp đua nhau nổi dậy chiếm cứ khắp nơi: 1. Ngô Xương Xí(11) chiếm Bình Kiều; (nay ở huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá) 2. Kiều Công Hãn chiếm Phong Châu; (nay là huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú)

3. Nguyễn Khoan tự xưng là Nguyễn Thái Bình chiếm Tam Đái (12); 4. Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm; (nay ở huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) 5. Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động; (có thể nay là huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây) 6. Lý Khuê ở Siêu Loại; (nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc) 7. Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du; (nay thuộc phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) 8. Lữ Đường chiếm Tế Giang; (nay thuộc huyện Mỹ Vân, tỉnh Hải Hưng) 9. Nguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt; (nay là huyện Thang Trì, Hà Nội) 10. Kiều Thuận chiếm Hồi Hồ; (nay ở xã Trần Xá huyện Hoa Khê, tỉnh Vĩnh Phú) 11. Phạm Bạch Hổ chiếm Đằng Châu; (nay là huyện Kim Thi, tỉnh Hà Bắc)

VSTK - 192


1 2

12. Trần Lãm chiếm Bố Hải Khẩu. (nay là vùng thị xã Thái Bình) CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

3

(1)

4

(2)

5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28

Dương thị: là con gái của Dương Diên Nghệ. Dương Tam Kha: ĐVSKTT chép là em của Dương thị nhưng KĐVSTGCM thì viết là anh của Dương thị. Theo Ngô Thời Sĩ trong VSTA thì Tam Kha người làng Dương Xá, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (3) Nam Sách Giang: nay thuộc các huyện Chí Linh và Nam Thanh tỉnh Hải Hưng. (4) Trà Hương: nay là huyện Kim Thành thuộc tỉnh Hải Hưng. (5) Đỗ Cảnh Thạc: người huyện Thuận Đức thuộc tỉnh Quảng Đông ở Trung Hoa. (6) Thái Bình: sử cũ giải thích rối loạn, chưa rõ ở đâu. Hai thôn Đường Nguyễn không biết có phải là Đường Lâm và Nam Nguyễn huyện Ba Vì, Hà Tây hay không. Theo Địa lý chí/ Đường thư thì "Huyện Thái Bình bị cắt ra đặt làm Phong Khê" mà "Phong Khê thì thuộc Phong Châu" tức là Thái Bình ngày xưa nằm trong lãnh vực của Phong Châu (nay là Sơn Tây). (7) Hầu công: sử cũ viết là Chương Dương công. (8) Thực ấp: phần đất được ban cấp cho người có tước phong thu lợi trên phần đất đó. (9) Chương Dương: nay là tên một xã thuộc Thường Tín, tỉnh Hà Tây ở đó có bến Chương Dương bên hữu ngạn sông Hồng. (10) Đầu lĩnh: người đứng đầu để thống lãnh việc cai trị trong một vùng. Các bộ sử cũ đều gọi là Hùng trưởng. Phải chăng Hùng trưởng nầy ở thời đại Văn Lang sử cũ gọi là Hùng vương? (11) Ngô Xương Xí: con của Ngô Xương Ngập. (12) Tam Đái: nay ở vùng huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú.

VSTK - 193


CHƯƠNG II

NHÀ ĐINH ( 968 - 980 ) 1. ĐINH TIÊN HOÀNG ( 968 - 979 ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Khi nhà Ngô mất, Đinh Bộ Lĩnh hàng phục được Phạm Phòng Át1, diệt Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động2, hạ thành phá lũy, chiếm ấp lấy thôn, đánh thắng khắp nơi, được tôn xưng là Vạn Thắng Vương. Năm 968, sau khi dẹp tan hết các sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh tự lập lên ngôi đế, phong cho con Đinh Liễn làm Nam Việt Vương, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, xây cung điện, đặt triều nghi, ấn định các chức quan văn, quan võ, quy định pháp luật và hình phạt3. Năm 970, ở Trung Hoa nhà Tống diệt nhà Nam Hán. Để tránh giặc giã4, Đinh Bộ Lĩnh liền sai sứ sang nhà Tống thiết lập bang giao; đặt niên hiệu5, lập 5 hoàng hậu6. Năm 971, phong cho Lê Hoàn(#) làm thập đạo tướng7, Nguyễn Bặc làm định quốc công, Lưu Cơ làm phủ sĩ sứ8 cùng lập ra các cấp bậc tăng đạo9. Năm 972, sai Đinh Liễn đi sứ sang Trung Quốc tặng biếu nhà Tống nhiều sản vật hiếm và quý của Đại Cồ Việt. Năm 973, nhà Tống cử đại diện qua để công nhận ngoại giao triều đại nhà Đinh10. Năm 974, tổ chức các hàng ngũ quân đội chia thành đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi đạo có 10 quân, mỗi quân có 10 lữ, mỗi lữ có 10 tốt, mỗi tốt có 10 ngũ, mỗi ngũ là 10 người . Năm 975, sai Trịnh Tống đi sứ sang Trung Hoa. Nhà Tống lại cử sứ qua phong tước cho Đinh Liễn11 Năm 978, lập con nhỏ là Hạng Lang làm hoàng thái tử, phong cho con thứ là Toàn làm Vệ Vương. VSTK - 194


1 2 3 4 5 6 7 8

Năm 979, Đinh Liễn bất bình về việc lập thái tử cho nên sai người ngầm giết Hạng Lang. Tiếp sau đó Đỗ Thích12 thừa cơ Đinh Bộ Lĩnh đang say rượu nằm ngủ liền giết đi rồi giết luôn Đinh Liễn. Nguyễn Bặc bắt được Đỗ Thích giết chết rồi cùng Lê Hoàn đưa Vệ vương Toàn mới được 6 tuổi lên ngôi, truy tôn Đinh Bộ Lĩnh là Tiên Hoàng đế, chôn ở sơn lăng Trường Yên13, tôn mẹ Dương thị làm hoàng thái hậu. 2. ĐINH TOÀN ( 979 - 980 )

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32

Con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Vệ vương Đinh Toàn nối ngôi vào lúc mới được 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, toàn quyền nắm giữ quân đội, tự do ra vào cung cấm, tự xưng là phó vương. Khi thấy Lê Hoàn tư thông với Dương thái hậu14, thao túng và vượt quyền vua nhỏ, các đại thần phụ chính Nguyễn Bậc, Đinh Điền, Phạm Hạp hợp nhau bàn định diệt trừ, kéo quân về kinh đô Hoa Lư. Dương thái hậu biết được tin liền tỏ lời xúi bẩy và thúc hối Lê Hoàn đem quân đón đánh ở châu Ái. Đinh Điền chết tại trận, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp bị Lê Hoàn truy đuổi bắt đem về Hoa Lư xử tội chết. Ngô Nhật Khánh15 trước đây là một trong 12 sứ quân chiếm cứ vùng huyện Đường Lâm đã bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan nay lại đi cầu viện và đưa quân ngoại bang Chiêm Thành theo đường biển trở về cướp phá, vây đánh Hoa Lư nhưng bị bão tố đắm thuyền chết ở cửa biển Đại Nha và Tiểu Khang16. Năm 980, nhà Tống cử tướng Hầu Nhân Bảo cùng nhiều tướng khác hợp quân bốn hướng sang đánh bất ngờ Đại Cồ Việt để thực hiện âm mưu thôn tính17 đã dự định từ lúc triều nhà Đinh đang có nội loạn Đỗ Thích. Dương thị lại thúc hối Lê Hoàn điều động quân binh chống cự. Thừa cơ hội nầy Lê Hoàn đã sắp xếp VSTK - 195


1 2 3

với bộ tướng của mình là Phạm Cự Lượng18 để chiếm ngôi vua của nhà Đinh với sự đồng tình19 của Dương thị. Nhà Đinh mất.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: Phạm Phòng Át: chiếm giữ Đằng Châu. Đỗ Động: do Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ. 3 Hình phạt: sử cũ chép là đặt vạc dầu lớn đun sôi ở sân triều, nuôi hổ dữ trong chuồng, kẻ nào phạm tội sẽ bị bỏ vào vạc dầu hoặc cho hổ ăn. 4 Tránh giặc giã: sử cũ ĐVSKTT và KĐVSTG đều viết là nhà vua nghe tin quân Tống đã diệt được nhà Nam Hán nên sợ mới sai sứ sang giao hảo với Tống. 5 Đặt niên hiệu: niên hiệu Thái Bình (970 - 979). 6 Lập 5 hoàng hậu: Đan Gia, Trinh Minh, Kiểu Quốc, Cồ Quốc, Ca Ông. 7 Thập đạo tướng: tướng cai quản 10 đạo quân. (Thập là 10 ) 8 Phủ sĩ sứ: chức quan coi việc hình án và hình sự ở phủ cai trị. (Phủ cai trị thời này có trụ sở ở thủ đô Hoa Lư. Sử cũ viết là đô hộ phủ sĩ sứ tức là dùng tên phủ đô hộ thay vì phủ cai trị). 9 Các cấp bậc tăng đạo: KĐVSTGCM viết: nhà vua tôn sùng đạo phật mới đặt phẩm cấp cho tăng nhân và đạo sĩ. ĐVSKTT viết: Tăng thống(a) Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm tăng lục(b), đạo sĩ Đặng Huyền Quang giữ chức Sùng chân uy nghi(c) .

4

1

5

2

6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

(a) (b) (c)

Tăng thống: chức quan phong cho người đứng đầu Phật giáo. Tăng lục: chức quan trông coi Phật giáo dưới chức tăng thống. Sùng chân uy nghi: chức quan trông coi về Đạo giáo.

# Lê Hoàn: người xã Bảo Thái, huyện Thanh Liêm nay thuộc tỉnh Hà Nam. 10 Công nhận ngoại giao: Về việc nầy cả hai bộ sử cũ đều viết rằng sứ nhà Tống sang để phong chức cho Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương và Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ phủ . 11 Phong tước cho Đinh Liễn(@): ban cho chức Khai Phủ nghi đồng tam ti kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. 12 Đỗ Thích: người xã Đại Đê, huyện Thiên Bản, nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Hà Nam Ninh. VSTK - 196


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

Sơn lăng Trường Yên: ĐVSKTT viết là táng ở sơn lăng Trường Yên. KĐVSTGCM viết là Hoa Lư thay vì Trường Yên. Đời nhà Đinh chưa có xã Trường Yên. Cho đến đời nhà Lý (vào khoảng năm 1010) mới đổi Hoa Lư làm Phủ Trường Yên. Như vậy người chép sử giai đoạn nầy trong ĐVSKTT có thể là người từ đời nhà Lý, niên hiệu Thuận Thiên tức là từ năm 1010 trở về sau: người chép là Trường Yên trong ĐVSKTT đã không bị lầm như lời cẩn án trong KĐVSTGCM đã hiệu đính. 14 Dương thái hậu: trước kia là con gái của Dương Diên Nghệ, là vợ và hoàng hậu của Ngô Quyền, kế đến là vợ của Đinh Tiên Hoàng (là 1 trong 5 hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng) và là mẹ của Đinh Toàn, nay lại trở thành vợ của Lê Hoàn và được Lê Hoàn ban tước vị hoàng hậu. 15 Ngô Nhật Khánh: theo 2 bộ sử cũ ĐVSKTT và KĐVSTGCM thì Ngô Nhật Khánh là con cháu của Ngô Quyền, mẹ Khánh là một trong 5 hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng. Như vậy Nhật Khánh có thể là: a/ con của Ngô Quyền với Dương thị, b/ con của một người vợ thứ của Ngô Quyền, mà sau nầy cũng là 1 trong 5 hoàng hậu của Đinh Bộ Lĩnh, tức là vợ chính và thứ của Ngô Quyền đều trở thành hoàng hậu của Đinh Bộ Lĩnh. c/ con của Ngô Xương Văn hoặc con của Ngô Xương Ngập; nếu như thế thì Đinh Bộ Lĩnh lấy vợ của Ngô Quyền mà cũng lấy luôn con dâu của Ngô Quyền (mẹ của Ngô Nhật Khánh) làm vợ, tạo ra cảnh mẹ chồng (tức Dương thị ) và con dâu thành 2 hoàng hậu ngang hàng nhau. 16 Cửa Tiểu Khang: thuộc địa phận Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, nay là cửa Kiền. 17 Âm mưu thôn tính của Tống: sử cũ chép: "Trước đây, quan giữ Ung Châu(a) nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dâng thơ nói bên Giao Châu đương có nội loạn (chỉ việc Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết chết ), có thể nhân lúc nầy đem một ít quân sang đánh lấy. Nếu không mưu tính sẽ lở mất cơ hội " (ĐVSKTT/ BK.1/ 9a , KĐVSTGCM/ CB.1/ 13). 18 Phạm Cự Lượng: em của Phạm Hạp đã bị Lê Hoàn bắt giết khi dấy quân chống đối Lê Hoàn. 19 Sự Đồng tình của Dương thị: ĐVVSKTT và KĐVSTGCM đều viết: "Dương hậu thấy mọi người vui lòng liền sai lấy áo long cổn(b) khoác lên mình Lê Hoàn, rồi chính Dương hậu đưa mời Lê Hoàn ngồi vào ngai vàng(c) để lên ngôi hoàng đế " . 13

42

(a) Ung Châu: nay là huyện Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây bên Tàu. (b) Áo long cổn: áo thêu hình rồng cuộn dành riêng cho vua chúa mặc.

43

(c) Ngai

41

vàng: ghế sơn son thếp vàng dành cho vua ngồi.

VSTK - 197


KHẢO LUẬN về NHÀ ĐINH: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

Lê Văn Hưu nói: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại tạo ra bậc tài giỏi để tiếp nối quốc thống của Triệu Vương (Việt Vương Triệu Quang Phục) chăng?" Sử cũ dùng chữ Triệu Vương để gọi Triệu Quang Phục có thể khiến người đọc lầm với Triệu Đà. Như trên đã khảo luận, Triệu Đà là một trong những gương mặt thực dân thuộc địa đến từ nước Trung Hoa rồi thừa cơ hội nổi lên chiếm đoạt lãnh thổ Âu Lạc (tức là bộ Văn Lang) từ tay của Thục Phán để xưng hùng xưng bá riêng mình một phương tức là Triệu Vũ Vương. Triệu Đà là người chia phần quốc thống của triều đình ở bên Trung Hoa chứ không phải là người lập ra nền quốc thống cho bộ tộc Việt Nam lúc đó còn đang bị sáp nhập chung trong lãnh thổ Âu Lạc. Vì vậy, ở đoạn nầy, Triệu Vương mà Lê Văn Hưu đã viết trong phần Lê Văn Hưu nói phải là Việt Vương Triệu Quang Phục. Ở một đoạn khác, Lê Văn Hưu cũng có lời bàn như sau: "Trời đất cùng che chở, mặt trời mặt trăng cùng chiếu soi mới sinh muôn vật, nảy nở mọi loài, cũng như hoàng hậu sánh với ngôi vua, cho nên mới có thể đứng đầu tiêu biểu cho nội cung, tác thành cho thiên hạ. Từ xưa chỉ lập một người để chủ việc nội trị mà thôi, chưa từng nghe nói lập đến 5 người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà bầy tôi đương thời lại không có ai biết giúp sửa cho đúng, để đến nỗi chìm đắm trong tình riêng, cùng lập 5 hoàng hậu. Sau đến hai triều Lê, Lý cũng phần nhiều bắt chước làm theo, ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc vậy ". Tự Đức có lời phê như sau: "Đạo trời ưa kẻ khiêm nhường, đạo ở đời răn người tự mãn. Đinh Tiên Hoàng là người vô học, không có mưu mô gì, chỉ quen dữ tợn, kiêu căng, đến nỗi cuối cùng cả hai cha con đều bất đắc kỳ tử, mới được hai đời đã mất! Nhân đức và tàn bạo thật khác nhau hẳn, đáng làm gương chung. Đinh kêu là Vạn Thắng, Tần mong được Vạn Thế, xe trước xe sau cùng đi một vết, thiệt là tội nghiệp! ". Lại thấy một lần nữa sự tự tôn mặc cảm 'ngồi mát ăn bát vàng' của Tự Đức. Trước đây đã thấy kiểu cách phê bình tương tựa của Tự Đức đối với chiến thắng lẫy lừng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng. *

VSTK - 198


(@)NHÀ

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

TỐNG PHONG TƯỚC CHO ĐINH BỘ LĨNH & ĐINH LIỄN CÓ NHIỀU ĐIỂM MỜ ÁM

Năm 969, khi Đinh Bộ Lĩnh xưng đế và phong cho Đinh Liễn làm Nam Việt Vương tức là vai vế của Đinh Bộ Lĩnh sánh ngang hàng với một tước đế của nước Tàu lúc đó. Tuy nhiên, vì mới lên ngôi, việc tổ chức nội trị chưa ổn định cho nên Đinh Bộ Lĩnh mới chọn đường giao hảo cầu hoà với nhà Tống ở Trung Hoa Tới lúc nầy, Đại Cồ Việt rất có thể là toàn vùng lãnh thổ Giao Châu của nhà Đường. Từ thời đại nhà Ngô ở Trung Hoa (264) lãnh thổ Nam Việt của Triệu Đà bi cắt bớt đi ba vùng đất Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm để lập thành Quảng Châu đặt châu trị ở Phiên Ngung, phần còn lại là Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phó đặt thành Giao Châu, châu trị ở Long Biên. Thời Lý Bôn tự xưng vương (544), lãnh thổ Giao Châu của nhà Ngô trở thành lãnh thổ Vạn Xuân. Nhà Đường (679) chia đất Giao Châu thành 12 châu, lấy quận Giao Chỉ cũ (quận Giao Chỉ bấy giờ gọi là châu Giao, không còn gọi là quận Giao Chỉ nữa) làm trụ sở cho cơ quan thuộc địa An Nam đô hộ phủ cai trị tất cả 12 châu. Theo Ngô Thời Sĩ thì An Nam đô hộ phủ chỉ cai quản có 7 châu nằm trong địa giới của nước Việt Nam; 7 châu đó là: châu Giao Chỉ (gọi tắt là châu Giao), châu Ái, châu Phúc Lộc, châu Hoan, châu Phong, châu Lục, châu Diễn và châu Trường. Năm châu còn lại: châu Thang, châu Chi, châu Vũ Nga, châu Vũ An thì giáp giới châu Giao, ở ngoài địa giới Việt Nam nhưng cũng vẫn do An Nam đô hộ phủ ở châu Giao Chỉ cai quản . Thời nhà Lương bên Trung Hoa (907), tình trạng lãnh thổ cũng chia thành hai phần: Quảng Châu và Giao Châu. Quảng Châu gồm có Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm do Lưu Ẩn của nhà Lương làm tiết độ sứ, trụ sở ở Phiên Ngung. Trong khi đó Giao Châu của nhà Đường gồm 12 châu do Khúc Hạo chiếm giữ và tự xưng là tiết độ sứ trụ sở ở châu Giao Chỉ tức là An Nam đô hộ phủ trước đây. Khi Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ thần phục nhà Lương và được làm tiết độ sứ An Nam đô hộ phủ cai quản 12 châu của Khúc Hạo. Tình trạng lãnh thổ Giao Châu từ đây không có gì khác biệt mặc dù có sự thay ngôi đổi chủ nhiều lần cho đến thời của Đinh Bộ Lĩnh. Như vậy, khi lên ngôi hoàng đế (968), lãnh thổ Đại Cồ Việt của Đinh Bộ Lĩnh là lãnh thổ 12 châu đã có từ thời Khúc Hạo tức là bao gồm cả quận Hợp Phố và những châu giáp ranh ở phía Bắc nằm ngoài biên giới lãnh thổ Việt Nam hiện giờ. Sau khi Đinh Liễn đi sứ để thiết lập giao hảo với nhà Tống thì Đinh Bộ Lĩnh chỉ được nhà Tống công nhận là Giao Chỉ Quận Vương còn Đinh Liễn thì được phong làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải Quân VSTK - 199


25

tiết độ sứ An Nam đô hộ tức là bây giờ Đinh Bộ Lĩnh trở thành một chư hầu của nhà Tống và lãnh thổ cai trị chỉ còn có mt quận Giao Chỉ hay châu Giao Chỉ. Tất cả 11 châu còn lại kể như là thuộc địa của nhà Tống đặt dưới quyền cai trị của bộ thuộc địa Tỉnh Hải quân An Nam đô hộ do Đinh Liễn đại diện cho nhà Tống cai quản với chức tiết độ sứ. Đây là một âm mưu xảo quyệt và thâm độc của nhà Tống muốn nhân cơ hội thiết đặt bang giao nầy để đặt lãnh thổ Đại Cồ Việt vào quỹ đạo thuộc địa của họ. Tuy nhiên, 11 châu do Đinh Liễn cai quản vẫn theo cách tổ chức triều chính riêng của Đinh Bộ Lĩnh hoàng đế chứ không theo khuôn khổ và thể chế áp dụng cho một vùng đất thuộc địa của nhà Tống. Cuối cùng nhà Tống phải xem Đại Cồ Việt như là một lãnh thổ chư hầu chứ không còn là một lãnh thổ thuộc địa như mưu đồ của họ từ trước và phải công nhận nhưng lại phong cho Đinh Liễn tước vị Giao Chỉ Quận Vương. Thông thường người cai trị lãnh thổ thuộc địa là một quan lại giữ chức Tiết độ sứ hay thứ sử của triều đình Trung Hoa và chính sách cai trị áp dụng cũng là chính sách của triều đình Trung Hoa. Nhưng, với các nước chư hầu thì vua nước Trung Hoa được tôn là hoàng đế và có quyền ra lệnh, điều động các vương bá làm chủ các lãnh thổ chư hầu nhưng không xen vào việc nội trị riêng của họ. Nếu kể về thứ bậc thì chức vương của một nước chư hầu lớn hơn chức thứ sử hay tiết độ sử của triều đình phương Bắc và có quyền có tiếng nói trong các kỳ hội chư hầu. Sử cũ cũng cho biết là sau khi Đinh Liễn sai sứ sang nhà Tống lần thứ nhì (975) thì nhà Tống mới phong cho Đinh Liễn chức Giao Chỉ Quận Vương.

26

Có 3 vấn đề cần nêu ra :

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

27 28

29 30 31 32

33

34 35 36 37 38 39 40

1. Tại sao nhà Tống chịu để cho Đinh Liễn làm Giao Chỉ Quận Vương thay vì cho giữ chức tiết độ sứ của triều đình nhà Tống? Có thể là Đinh Liễn đã trao đổi với nhà Tống một số vùng lãnh thổ nào đó để được phong Vương. Những vùng lãnh thổ trao đổi cho nhà Tống có thể gồm có quận Hợp Phố và 5 châu giáp ranh ở phía Bắc châu Giao Chỉ. (?) 2. Lý do gì mà chỉ được làm vua ở quận Giao Chỉ? Có thể đưa ra suy định như sau: Chức Nam Việt Vương của Đinh Liễn do Đinh Bộ Lĩnh ban cho để cai quản Quận Hợp Phố cùng với 5 châu ngoại biên và châu Giao Chỉ, trị sở ở châu Giao Chỉ. Các châu còn lại thuộc quyền thống trị của hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh trị sở ở Hoa Lư. Sau khi đã dâng nạp quận Hợp Phố và 5 châu ngoại biên thì Đinh Liễn chỉ còn lại có châu Giao Chỉ mà nhà Tống gọi là quận

VSTK - 200


1 2 3

4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Giao Chỉ khi phong cho Đinh Liễn làm Giao Chỉ quận vương và cũng kể từ đó trở về sau chỉ có Đinh Liễn luôn luôn phải đích thân đi sứ sang triều bái vua Tống. 3. Còn chức Giao Chỉ quận Vương trước đây của Đinh Bộ Lĩnh thì sao? Đây là âm mưu thâm độc của nhà Tống nhằm chia rẽ, ly gián, tạo hiềm khích, nghi kỵ giữa cha con nhà họ Đinh: hủy bỏ tước vương đã ban cho Bộ Lĩnh để ban cấp cho Đinh Liễn. Sự hiềm khích đã có xảy ra thật sự vì Đinh Bộ Lĩnh đã bỏ Đinh Liễn (con trưởng) để lập Hạng Lang là con thứ làm thái tử kế tục ngôi đế của mình (978). Và Đinh Liễn đã bất bình nên sai người ngầm giết Hạng Lang. Rõ ràng là Đinh Liễn đã lộng hành và tự quyền mà Đinh Bộ Lĩnh cũng chẳng dám phản ứng vì Đinh Liễn đang được ngoại bang hậu thuẫn. Vua Tự Đức đã có lý khi tỏ ý nghi ngờ về việc nhà Tống phong Đinh Liễn làm Giao Chỉ Quận Vương và có lời phê rằng: "Sự thực bấy giờ thế nào không rõ được, hoặc giả có điều gì giấu giếm mà như thế chăng?" Trong ĐVSKTT không có ai đề cập đến các nghi vấn vừa kể mà chỉ viết lại một cách đại lược lời chế chỉ của nhà Tống như sau: "Họ Đinh vốn thuộc hàng vọng tộc, gìn giữ được phương xa, có lòng hâm mộ phong hóa văn minh Trung Hoa cho nên thường có ý muốn quy thuộc. Nay 9 châu đã hợp một, vùng Ngũ Lĩnh đã an bình cho nên họ Đinh mới sai sứ vượt biển leo núi mà tới để dâng cống. Khen ngươi làm con biết giữ lễ phiên thần cho nên ban tước cắt đất cho cha ngươi, xếp phẩm trật vào hàng được giữ riêng binh quyền, tùy nghi tự quyết trong việc đánh dẹp, được hưởng bổng cấp hoa lợi theo mức ngạch tỉnh phú(a) ".

Theo như ý của lời chế nầy thì rõ ràng là Đinh Liễn đã về đầu phục và trở thành phiên thần của Tống triều để được người Tàu ban cho chức tiết độ sứ. Lãnh thổ Đại Cồ Việt trên thực tế chỉ còn có một quận Giao Chỉ duy nhất mà Tống Triều đã cắt ra để cấp phong cho Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương. Việc làm nầy của Đinh Liễn là một hành vi phản bội, tự ý không được Đinh Bộ Lĩnh phê chuẩn và vì thế Đinh Bộ Lĩnh phải chuẩn bị đối phó bằng cách tổ chức, huấn luyện quân sự với một triệu quân vào năm 974 và tiếp tục lập triều chế theo ý riêng của mình (975). Có thể vì chuyện nầy mà Đinh Bộ Lĩnh đã truất bỏ không lập Đinh Liễn làm thái tử. Cũng rõ ràng là Đinh Bộ Lĩnh đã không thèm nhận chức Giao Chỉ Quận Vương của Tống triều. Đâu là bằng chứng? Với tước phong Giao chỉ quận Vương, Đinh Bộ Lĩnh trở thành một chư hầu của Tống triều và do đó phải đích thân đi sứ để làm bổn phận của một nước chư hầu. Đinh Bộ Lĩnh đã không làm như thế mà chỉ sai Trịnh Tú đi sứ (975) với mục đích ngoại giao chứ không vì bắt buộc phải thi hành một nghĩa vụ nào đối với Trung Hoa. Đinh Liễn sau nầy được Tống triều phong Giao Chỉ quận Vương đã phải hằng năm đích thân sang chầu vua nhà Tống. ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết: "Tống sai VSTK - 201


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21

Cao Bảo Tự cùng bọn Vương Ngạn Phù đem chế văn sang gia phong cho Đinh Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, mỗi lần đi sứ sang Tống đều do Đinh Liễn làm chủ "(KTT/BK.I/4b, KĐVSTGCM/CB.I/ 6). KĐVSTGCM cũng có viết lời chế nầy kèm theo với lời bình chú của nhóm sử gia của quốc sử quán triều Nguyễn như sau: "Sử Cương Mục tục biên (Trung Quốc) chép rằng: Bộ Lĩnh đề cử con là Liễn làm tiết độ sứ, rồi lại nhường ngôi cho con. Khi Nam Hán mất, Đinh Liễn vào cống. Sách Đông Đô sự lược chép: Đinh Liễn nối ngôi cha. Lúc nhà Tống đã bình định xong vùng đất Lĩnh Nam, Liễn bèn gởi sứ sang xin thần phục. Có lẽ lúc đó Đinh Tiên Hoàng cầm quyền cai trị trong nước, còn việc bang giao trọng đại thì giao cho cả Đinh Liễn. Việc Tống phong vương tước cho Đinh Liễn có thể là vì Tống muốn Liễn thay thế ngôi vị của Bộ Lĩnh. Về phần Đinh Bộ Lĩnh thì có lẽ vì đã tự xưng là Hoàng đế ở trong nước rồi, nên cũng chẳng thắc mắc hay lý tới chuyện Tống phong Vương tước cho Đinh Liễn". Nhóm sử gia nhà Nguyễn chỉ nhìn vấn đề một cách hời hợt cho nên đã giải thích quá đơn giản mà không dám nói thẳng ra Đinh Liễn là một kẻ phản bội, bán nước cầu vinh. *

LÊ HOÀN 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

Sử cũ viết về việc Lê Hoàn tiếm ngôi nhà Đinh cũng tương tựa như chuyện nhà Tống lấy ngôi nhà Chu ở bên Tàu. Lời phê của Tự Đức trong KĐVSTGCM viết về biến cố lịch sử nầy như sau: "Bờ cõi Bắc (chỉ nước Trung Hoa) Nam (chỉ lãnh thổ Đại Cồ Việt) tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê thì có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện ở bên Tống vậy ! Hay là người làm sử thấy thế, gò ép gán ghép vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời kia nào có ý làm ra như vậy ?" Sử Trung Hoa viết chuyện Triệu Khuông Dẫn (tức Tống Thái Tổ) như sau: "Vào thời Ngũ Đại (907-959) Triệu Khuông Dẫn đóng quân ở Trần Kiều, say rượu ngủ suốt đêm, qua sáng hôm sau được các tướng suy tôn làm hoàng đế. Khuông Dẫn chưa kịp phản ứng thì các tướng đã khoác chiếc áo long bào lên người Khuông Dẫn rồi đồng loạt phũ phục xuống tung hô". Trước đó, khi viết về Đinh Bộ Lĩnh thì hiện tượng rồng rắn thần ma lại tái xuất hiện: "Bấy giờ chú của vua (vua = chỉ Đinh Bộ Lĩnh) VSTK - 202


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

là Thúc Dự giữ sách Bông(a) chống đánh với vua (Đinh Bộ Lĩnh), vua vì quân ít và thiếu kinh nghiệm không địch lại nên phải thua chạy. Khi qua cầu Đầm Gia, cầu bị gãy vua bị sa lầy. Thúc Dự đuổi theo toan đâm bổng thấy rồng vàng che phủ hai bên, Dự sợ quá phải rút lui ". Ở một đoạn khác, ĐVSKTT cũng đưa chuyện chiêm bao mộng mị về lai lịch của tên Đỗ Thích để giải thích nguyên lai vì sao hắn giết cha con họ Đinh. Ngay cả việc Đinh Bộ Lĩnh chết sớm cũng do hột ngọc vớt được ở sông Giao Thủy và lời sấm ứng điềm báo trước. Loại sấm dự đoán vận mệnh nầy sẽ còn tiếp tục xuất hiện và lạ lùng thay, lần nào cũng thế, đều được các thầy, các sư giải đoán. (ĐVSKTT/BK/Q.1/6a,6b) (KĐVSTGCM/CB.1/18/Đỗ Thích). Ngô Sĩ Liên sau khi phê phán những việc làm không đúng của cha con nhà Đinh đã kết luận bằng một câu "sấm" rất là u mê:"Không thế thì tội ác của Đỗ Thích do đâu nảy ra để hợp với lời sấm được?" Có thể các lời sấm kiểu nầy do Ngô Sĩ Liên lục lạo tìm được rồi đem vào sử cho nên chúng mới được Ngô Sĩ Liên công nhận là có thật? Ngoài ra các nhà viết sử cũ còn vẽ ra cho người ta thấy hình ảnh một bộ tộc Việt ngày đó còn dã man rừng rú khi " Nguyễn Bặc bắt được Đỗ Thích đem chém, đập nát xương, băm thịt ra từng mảnh, chia cho người trong nước ăn, chẳng ai không tranh lấy mà nhai nuốt". (ĐVSKTT/ đã dẫn). Không ngạc nhiên khi ngoại bang phương Bắc cho người mình là dân bán khai, man di, mọi rợ khi đọc được những kiểu viết như thế.

VSTK - 203


CHƯƠNG III

NHÀ TIỀN LÊ ( 980 - 1009 ) 1. LÊ HOÀN ( 980 - 1005 ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

Người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Năm 980, trong khi quân Tàu động binh chuẩn bị gây hấn, Lê Hoàn âm mưu xếp đặt với hạ thuộc(1) cùng với sự hổ trợ@ của Dương thị để tiếm ngôi nhà Đinh rồi tự xưng vua, truất phế Đinh Toàn xuống làm Vệ Vương thay niên hiệu 3 lần(2). Để làm chậm sức tiến của quân nhà Tống, Lê Hoàn liền gởi sứ sang để giả trá thương lượng(3) nhưng rồi bỏ qua đi những điều kiện và đòi hỏi(4) của nhà Tống. Năm 981, quân Tống từ nhiều hướng tràn sang xâm lấn: hướng Lạng Sơn do Hầu Nhân Bảo và Tôn Hoàng Hưng, hướng Tây Kết do Trần Khâm Tộ, hướng sông Bạch Đằng do Lưu Trừng. Lê Hoàn đích thân cầm quân chống cự, giết được Hầu Nhân Bảo ở sông Chi Lăng, bắt sống được 2 tướng của quân Tống. Quân Tống thua phải rút chạy về Trung Hoa. Năm 982, Lê Hoàn lập Dương thị làm hoàng hậu(5) cùng với 4 hoàng hậu khác; gởi sứ sang nhà Tống để tái lập bang giao che đậy dưới danh nghĩa nhà Đinh chứ không phải nhà Lê vì sợ quân Tống lại sang. Cùng trong khoảng thời gian nầy, Lê Hoàn đem quân đánh cướp và đốt phá(6) nước Chiêm Thành. Trong nước năm đó có nạn đói trầm trọng. Năm 983, lại cử sứ sang giao hảo với nhà Tống. Trong nước thì hoàn thành và khai thủy con kênh mới trong vùng núi Đồng Cổ(7) và sông Ba Hoà(8).

VSTK - 204


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Năm 984, đúc tiền Thiên Phúc(9), xây cung điện đền đài, dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế tráng lệ(10) ở núi Đại Vân(11). Năm 985, bày ra hội đua thuyền và cử sứ sang Tống xin thụ phong chức tiết trấn(12) tức là xin trở thành thuộc địa của nhà Tống. Năm 986, tuyển lính làm quân túc vệ, phong cho Phạm Cự Lượng làm Thái Úy, lấy Từ Mục làm Thống lãnh quân dân sự(13). Nhà Tống cử sứ sang phong cho Lê Hoàn chức An Nam đô hộ Tỉnh Hải quân tiết độ sứ. Như vậy là lãnh thổ Đại Cồ Việt nay trở thành nước An Nam thuộc địa của Trung Hoa và Lê Hoàn là quan cai trị của nhà Tống nắm giữ Bộ thuộc địa Tỉnh Hải quân. Năm 987, Lê Hoàn cày ruộng tịch điền@ ở núi Đọi(a). Năm 989, đổi niên hiệu là Hưng Thống, lập Lê Long Việt làm Nam Phong Vương. Cùng năm nầy, nhà Tống thăng chức thêm hai chữ Đặc Tiến(14) cho Lê Hoàn. Năm 992, Lê Hoàn phong cấp cho các con : Lê Long Đỉnh làm Khai Minh vương ở Đằng Châu(15), (con thứ 5) Lê Long Đinh làm Ngự Man vương cai quản Phong Châu, (con thứ 4) Lê Long Ngận làm Ngự Bắc vương ở Phù Lan(16), (con thứ 6) Định Phiên vương Lê Long Tung ở Ngũ Huyện Giang(17), (con thứ 7) Tư Doanh Thành phó vương Lê Long Tương ở Đỗ Động(18), (con thứ 8) Trung Quốc vương Lê Long Kính ở Mạt Liên(19), (con thứ 9) Nam Quốc vương Lê Long Mang ở Vũ Lũng(20), (con thứ 10) Hành Quân vương Lê Long Đề ở Cổ Lãm(21), (con thứ 11) VSTK - 205


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

Phù Đái Vương(22), ở Phù Đái(23), (con nuôi của Lê Hoàn) Năm 993, Lê Hoàn sai sứ sang cống và dâng tờ biểu dối rằng Đinh Toàn đã nhường ngôi cho họ Lê, nay xin Tống thừa nhận. Tống ưng thuận, sai sứ sang phong cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ Quận Vương tức là từ nay là chư hầu(24) của nhà Tống. Năm 997, nhà Tống lại thăng phong Lê Hoàn tước Nam Bình vương. Năm nầy trong nước bị nạn lục lớn tàn phá nặng nề. Năm 998 lại có động đất. Năm 1001, Vệ vương Đinh Toàn mất ở Cử Long(25). Năm 1002, đặt luật lệ, pháp lệnh, cắt đặt lại các đạo thành lộ, phủ, châu. Năm 1003, đào sông Đa Cái(26) ở Hoan Châu. Năm 1004, lập Nam Phong vương Lê Long Việt làm thái tử. 2.

17 18 19 20 21

LÊ LONG VIỆT ( 1005 )

Năm 1005, Lê Hoàn mất, vì không có tên thụy nên chỉ gọi là Đại Hành hoàng đế, chôn ở Sơn Lăng Hoa Lư. Anh em nhà Lê tranh giành quyền kế tục nhưng cuối cùng Lê Long Việt dẹp tan và lên ngôi nhưng chỉ được 3 ngày thì bị Lê Long Đỉnh giết chết, cướp ngôi. 3. LÊ LONG ĐỈNH ( 1005 - 1009 )

22 23 24

Sau khi tiếm ngôi của Long Việt, Long Đỉnh tự lập làm vua, lập 4 hoàng hậu, dùng Lý Công Uẩn làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ. VSTK - 206


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

Tự cầm quân đánh dẹp Lê Long Ngạn, chém Lê Long Kính, thu phục Lê Long Đinh, đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình rồi vượt sông Tham sang Ái Châu giẹp yên giặc Cử Long(27). Năm 1006, đặt lại quan chế và triều phục giống như kiểu mẫu của nhà Tống (28). Lập con là Sạ làm Khai Phong vương, con nuôi là Thiệu Lý làm Sở vương. Năm 1007, nhà Tống phong cho Long Đỉnh làm Giao Chỉ Quận vương, kiêm nhiệm chức Tỉnh Hải quân tiết độ sứ. Năm 1009, đào sông từ cửa ải Chi Long(29) qua núi Đính Sơn(30) đến giáp sông Vũ Lũng(31), đắp đường, dựng cột móc biên giới ở Ái Châu. Cuối năm 1009, Lê Long Đỉnh mất, làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi. Lúc sống, Long Đỉnh là người hiếu sát, bạo ngược, tàn ác và dâm ô tột độ, lại mắc thêm bệnh trĩ nặng ngồi không được cho nên mỗi lần thiết triều phải nằm mà coi chầu nên được mệnh danh là vua nằm hay Ngọa Triều. Long Đỉnh mất, tả thân điện tiền chỉ huy sứ(32) Lý Công Uẩn thừa cơ hội tiếm ngôi nhà Tiền Lê qua sự đề xướng của người cận vệ(33) Đào Cam Mộc và sự ám trợ của sư Vạn Hạnh(34). CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Thuộc hạ của Lê Hoàn: là Phạm Cự Lượng, người huyện Chí linh, Hải Dương. (@) Sự hổ trợ của Dương thị: Dương thị lấy áo long cổn khoác lên mình Lê Hoàn và mời Lê Hoàn lên ngôi vua . 2 Thay niên hiệu 3 lần: Thiên Phúc (980-988), Hưng Thống (989993), Ứng Thiên (994-1005). 3 Giả trá thương lượng: sai sứ đem thư sang nhà Tống nói dối là thư của Đinh Toàn xin Tống sắc phong được tiếp nối ngôi vị của Đinh Bộ Lĩnh. 4 Những đòi hỏi của nhà Tống: Tống muốn Đinh Toàn làm thống súy, Lê Hoàn làm phó hoặc Lê Hoàn phải cho mẹ con Đinh Toàn sang Tống làm con tin rồi mới được sắc phong tiết độ sứ. 1

VSTK - 207


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Lập Dương thị làm hoàng hậu: là 1 trong 5 hoàng hậu của Lê Hoàn tức là Đại Thắng Minh Hoàng hậu. Đại Thắng Minh là tên hiệu của Đinh Bộ Lĩnh: Lê Hoàn chiếm luôn vợ của Đinh Bộ Lĩnh. 6 Cướp phá nước Chiêm Thành: sử cũ viết: "Nhà vua tự mình cầm quân đi đánh, chém được tướng Chiêm Bề Mi Thuế, vua Chiêm bỏ chạy, ta bắt được rất nhiều tù binh và hằng trăm cung nữ, lấy được vàng bạc châu báu vô số kể, sang phẳng thành trì, phá hủy hết các nhà thờ tổ tiên vua chúa nước Chiêm; vừa đầy một năm mới về kinh đô". 7 Núi Đồng Cổ: xã Đan Nê, huyện An Định, Thanh Hóa. 8 Sông Bà Hòa: huyện Ngọc Sơn, Thanh Hóa, nay là sông Đồng Hòa. 9 Đúc tiền Thiên Phúc: Thiên Phúc là niên hiệu thứ nhất của Lê Hoàn (980-988). 10 Tráng lệ: lấy vàng bạc để dùng trong việc trang trí và xây cất. 11 Núi Đại Vân: huyện Hoa Lư, Hà Nam Ninh. 12 Chức tiết trấn: tức là chức tiết độ sứ diều khiển bộ đô hộ một thuộc địa. 13 Thống lãnh quân dân sự: sử cũ viết là Tổng quản, tên gọi một chức vụ thời nhà Đường bên Tàu, chuyên giữ việc quân sự. Lê Hoàn phỏng theo chức nầy nhưng có thể ngoài quân đi chính quy còn còn các tổ chức phòng vệ dân sự cho nên mới có chức thống lãnh quân dân sự nầy. Cũng còn có nghĩa là cai trị toàn quân, toàn dân. @ Ruộng tịch điền: ruộng dành riêng để vua chúa đích thân tự cày lấy để thu hoa lợi dùng vào việc cúng tế của họ. Đây chỉ là một việc làm tượng trưng che mắt thế gian chứ lẽ nào vua chúa chịu đem công lao khổ cực của mình cày cấy để thu hoạch cho đủ số chi dùng trong việc cúng tế. Hành động cày ruộng nầy ngoài mục đích tuyên truyền, cũng giống như các người có chức vụ cao ngày nay đi đặt một cách tượng trưng viên đá đầu tiên, hoặc đào cuốc đất đầu tiên cho sự khởi công một công trình xây dựng. Sử cũ muốn quan trọng hóa việc làm của vua chúa nên mới viết lại việc họ tự đi cày bừa như thế. Chẳng những vậy còn vẽ vời thêm để tạo sự thần bí che phủ hành vi đi cày nầy: "Lần đầu nhà vua cày ruộng tịch điền ở núi Đọi được một lọ vàng, sau lại đi cày ở núi Bàn Hải lại được một hủ bạc, do đó đặt tên là ruộng Vàng, ruộng Bạc.." (chữ Hoa gọi là kim ngân điền). (a) Núi Đọi và núi Bàn Hải: Núi Đọi tên chữ Hoa là Đọi Sơn ở xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà. Còn núi Bàn Hải thì không thấy có thư tịch cũ nào cho biết là ở đâu. 14 Đặc Tiến: một chức quan lớn chỉ cấp cho các hàng chư hầu trung thành vớí triều đình nhà Tống. 15 Đằng Châu: nay thuộc huyện Kim Thi, Hải Hưng. 16 Phú Lan: xã Mỹ Vân, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương, nay là tỉnh Hưng Yên. 17 Ngủ Huyện Giang: ở phía Nam huyện Yên Lãng, tỉnh Sơn Tây 5

VSTK - 208


Đỗ Động: xem chú giải trước đây ở phần viết về 12 sứ quân. Mạt Liên: nay là huyện Tiên Lữ, phủ Khoái Châu, Hưng Yên. 20 Vũ Lũng: thuộc tỉnh Thanh Hóa.(KĐVSTGCM/CB.I/27) 21 Cổ Lãm: tức là châu Cổ Pháp thời Lý, nay là huyện Tiên Sơn, Hà Bắc. 22 Phù Đái Vương: KĐVSTGCM ghi chú: không rõ tên thực là gì. 23 Phù Đái: nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. 24 Chư hầu: là nước nhỏ đàn em của một nước lớn. 25 Cử Long: tên gọi một dân tộc Mường; nay thuộc phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 26 Đa Cái: nay là xã Hương Cái, thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. 27 Cửa Thần Đầu: tức cửa Thần Phù huyện Yên Mô, Ninh Bình nay là cửa Chính Đại. 28 Theo kiểu mẫu của nhà Tống: tức là màu sắc của áo quần, cũng như loại mũ nón của quan triều phải tùy theo phẩm trật thấp cao giống như quy định của nhà Tống . 29 Cửa ải Chi Long: theo KĐVSTGCM, là tên cửa khẩu thuộc huyện Chi Nga, nay là huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 30 Núi Đính: sử cũ không ghi chú. 31 Sông Vũ Lũng: xem chú thích ở trên 32 Điện tiền chỉ huy sứ: chức quan chỉ huy binh lính hộ vệ nơi điện vua. 33 Cận vệ Đào Cam Mộc: tức là chức chi hậu, là kẻ hầu hạ vua, có nhiệm vụ truyền lệnh của vua và hướng dẫn người ra vào trong cung vua. 34 Sư Vạn Hạnh: có một lý lịch và hành tung rất đáng dị nghị, là người cố vấn quan trọng và có một ảnh hưởng rất lớn trong việc dàn xếp để Lý Công Uẩn cướp ngôi nhà Tiền Lê.

1

18

2

19

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29

KHẢO LUẬN: 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

Những chuyện thần ma rồng rắn, những điềm dị đoan, những trò chiêm bao báo trước, những lời sấm truyền quái dị đã thấy xuất hiện trong lịch sử từ thời nhà Tiền Lê. Nói về thân thế lai lịch của Lê Hoàn, sử cũ viết: Trước kia, cha vua là Mịch, mẹ là Đặng thị, khi mới có thai thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã kết hạt bèn lấy chia cho mọi người, còn mình thì không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên do thế nào. Khi sinh ra con, thấy con mặt mũi hình dáng khác thường, bảo với mọi người ta rằng:" Thằng bé nầy lớn lên chắc sẽ làm nên sang cả, chỉ sợ tôi không kịp được hưởng lộc của nó thôi! " Được vài năm thì Đặng thị mất, rồi kế đến người cha cũng mất. Một viên quan họ Lê ở Ái Châu

VSTK - 209


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

thấy lạ, nói: "Tướng cách đứa nhỏ nầy thật là khác thường", nên nhận làm con nuôi. Gặp tiết trời lạnh rét, Lê Hoàn nằm cuộn mình trong chiếc cối úp để ngủ, đang đêm có ánh sáng rực nhà, người cha nuôi lấy làm lạ ra xem thì thấy có con rồng vàng che ấp bên trên. . ." (ĐVSKTT/BK.I/13a, 13b), (KĐVSTGCM/CB.I/15.) Chuyện rồng vàng che phủ để bảo vệ sưởi ấm cho Lê Hoàn so với chuyện rồng vàng che phủ để bảo vệ cho Đinh Bộ Lĩnh khi bị sa lầy khỏi bị Thúc Dự giết, hai chuyện đều tương tựa nhau và cả hai hai Đinh, Lê đều là hai kẻ đoạt ngôi vua của người khác. Phải chăng những lý do thần bí siêu hình là những công cụ mà những người viết sử ngày xưa đã dùng để giải thích và khuất lấp những hành vi bất trung, bất nghĩa, man trá, lường gạt của những kẻ đầy tham vọng muốn cầm quyền thiên hạ ? Xét về mặt cá nhân thì Đinh Bộ Lĩnh cướp ngôi nhà Ngô mà còn cướp luôn vợ của Ngô Quyền (Dương thị, con gái Dương Diên Nghệ), lập 5 hoàng hậu; Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, giựt luôn Dương thị rồi cũng lập 5 hoàng hậu. Ở đây có một điểm mờ ám khác nữa: 5 hoàng hậu của họ Đinh thì sử cũ liệt kê bằng tên hiệu như Đan Gia, Trinh Minh, Kiểu Quốc, Cồ Quốc, Ca Ông; đến đời Lê Hoàn cũng liệt kê 5 hoàng hậu nhưng lại bằng tôn hiệu như Đại Thắng Minh hoàng hậu (tức là Dương thị, vợ cũ của Ngô Quyền và Đinh Bộ Lĩnh: Đại thắng Minh là tên hiệu của Đinh Bộ Lĩnh), cùng với 4 hoàng hậu khác là Phụng Càn Chí ly hoàng hậu, Thuận Thánh Minh Đạo hoàng hậu, Trịnh Quốc hoàng hậu và Phạm hoàng hậu. Phải chăng 4 người đàn bà nầy cũng là vợ cũ của Ngô Quyền rồi sang tay Đinh Bộ Lĩnh và nay lại về tay của Lê Hoàn? Chuyện nầy rất có thể xảy ra bởi vì Ngô Quyền không phải chỉ có một mình Dương thị là vợ mà còn có những vợ thứ khác nữa, có thể là 4 người vợ: vào lúc Ngô Quyền vừa mới mất, KĐVSTGCM khi nói về việc Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô có đoạn viết: ". . .Các con vợ thứ của Ngô vương (Ngô Quyền) là Nam Hưng, Kiền Hưng còn nhỏ đều theo Dương hậu ". Còn nữa, hai con của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn đều có xưng vương và như vậy nhất định cũng có phong tôn hiệu hoàng hậu hay hoàng phi cho vợ mình. Chẳng lẽ Đinh Bộ Lĩnh rồi tới Lê Hoàn đã lần lượt thay nhau cướp 3 vợ của Ngô Quyền mà còn cập thêm 2 người vợ của Xương Ngập và Xương Văn để rồi phong cả cho 5 người cùng làm hoàng hậu ngang vai vế với nhau? Một đoạn khác trong KĐVSTGCM viết: " Ngô Nhật Khánh là con cháu của Ngô Quyền ( Khánh có thể là con của Ngô Xương Ngập hoặc của Ngô Xương Văn), trước kia xưng là An Vương, cùng với các sứ quân giữ đất tranh hùng, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp được Nhật

VSTK - 210


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Khánh rồi mới lập mẹ của Nhật Khánh (có thể là vợ của Xương Ngập hoặc Xương Văn) làm hoàng hậu ". Lời bàn của Ngô Thời Sĩ viết: " Đại thắng Minh là tên hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Lê Hoàn lấy hiệu vua cũ đặt cho vợ mình (Dương thị) thì thật không còn kiên nể chút gì hết! Sử sách ghi chép để tiếng cười chê đến ngàn đời sau ". Xét về mặt quốc gia dân tộc, độc lập tự chủ thì Lê Hoàn phải được xếp xuống ngang hàng với con của Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Liễn bởi vì cả hai Đinh Liễn, Lê Hoàn đều quỳ lại vang xin để dâng hiến đất nước và dân tộc cho ngoại bang trong khi Đinh Bộ Lĩnh cứ ngang nhiên xưng đế, độc lập, một mình, không cầu cạnh xin xỏ mà cũng không thèm đếm xỉa gì đến tước phong của phương Bắc. Hơn nữa, Đinh Bộ Lĩnh còn chuẩn bị, tổ chức và huấn luyện 10 đạo quân trong nước sẵn sàng chờ đợi quân Tống gây hấn. Ở đây cần lập lại rằng, hai bộ sử cũ đã viết lách một cách mơ hồ về công tác ngoại giao dưới thời nhà Đinh nhất là vai trò đi sứ của Đinh Liễn. Sử cũ thường viết dưới dạng: " Vua sai sứ sang nhà Tống " hoặc " sai Nam Việt Vương Đinh Liễn sang nhà Tống ". Đinh Bộ Lĩnh sai sứ sang Tống là vì nghi thức ngoại giao giữa hai nước bình đẳng với nhau chứ không giống như việc triều cống của những nước chư hầu hay những nước thuộc địa. Đến lượt Đinh Liễn đi sứ thì bắt đầu có trò ngoại giao đi đêm phản bội: Đinh Liễn đã dâng nạp lãnh thổ Đại Cồ Việt để được trở thành tay sai của ngoại bang. Còn Lê Đại Hành, cũng đã biết bao nhiêu lần cầu cạnh vang xin để được trở thành một chư hầu của người Trung Hoa. Nếu Đinh Liễn là một đứa con bội nghịch phản quốc thì Lê Hoàn cũng là một gian thần vô đạo phản chủ, bán nước cầu vinh. Nói về công lao xứng đáng để được ngôi vị làm vua thì Lê Hoàn còn thua Đinh Liễn vì Đinh Liễn có công trận mạc, theo Đinh Bộ Lĩnh đánh Đông, dẹp Bắc, lại là con trưởng của một dòng vua thì như thế cũng có phần đúng nghĩa và đúng lý để kế ngôi Đinh Bộ Lĩnh. Còn như Lê Hoàn thì núp dưới vạt áo của người đàn bà rồi bày mưu thiết kế gian xảo để cướp vợ đoạt ngôi của người khác thì không còn lý do nào để biện bạch, bào chữa. Trong sử cũ, đoạn viết về việc Đinh Toàn bị trúng tên chết ngoài mặt trận khi đi theo Lê Hoàn đánh giặc Cử Long, vua Tự Đức có lời phê như sau: "Lê Hoàn lợi dụng cơ hội đã cướp lấy nước người ta, lại không khéo đối đãi chúa cũ, đẫy vào chỗ chết, hỏi như vậy thì làm sao mà Đinh Toàn tránh khỏi tử vong? Còn việc Lê Hoàn cất tiếng kêu trời gieo mình xuống đất có vẻ như vì quá thương tiếc Đinh Toàn thì cũng chỉ là một ngón giả trá mà thôi, làm sao qua mắt được công luận nghìn thu." KĐVSTGCM/CB.I/ 34).

VSTK - 211


CHƯƠNG IV

NHÀ LÝ ( 1010 - 1225 ) 1. LÝ CÔNG UẨN ( 1010 - 1028 ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

Người làng Cổ Pháp, Bắc Giang; mẹ họ Phạm không biết ăn nằm với ai có thai, sinh ra Công Uẩn và phải đem cho người sư Lý Khánh Vân làm cha để tránh tiếng con hoang và do đó mới mang họ Lý(1). Lớn lên làm quan nhà Tiền Lê và được Lê Long Đỉnh thăng lên đến chức điện tiền chỉ huy sứ(2). Năm 1009, Lê Long Đỉnh mất. Lý Công Uẩn thừa cơ hội tiếm ngôi nhà Tiền Lê qua sự đề xướng của người cận vệ Đào Cam Mộc(3) và sự ám trợ của sư Vạn Hạnh(4) . Lý Công Uẩn lên ngôi vua tức là Lý Thái Tổ, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, lấy tôn hiệu dài hơn 50 chữ(5), truy tôn cha làm Hiển Khánh vương, mẹ là Phạm thị làm Minh Đức hoàng thái hậu. Lập 6 hoàng hậu và lập con trưởng Lý Phật Mã làm thái tử. Phong Đào Cam Mộc làm Nghĩa tín hầu và gả con gái là công chúa An Quốc cho Cam Mộc cùng ban thưởng cho các hàng tăng sĩ. Năm 1010, sai sứ mang lễ vật sang Trung Hoa triều cống để tỏ ý thần phục nhà Tống, triều thần nhà Tống muốn từ chối nhưng vua Tống cho rằng Lê hay Lý thì cũng một hạng như nhau không có khác(6) gì cho nên chịu nhận lễ vật triều cống. Dời thủ đô từ Hoa Lư đến thành Đại La(7) và đổi tên là thành Thăng Long(8), khởi công xây cất lầu đài cung điện, đặt Hoa Lư làm phủ Trường Yên, Châu Cổ Đức làm phủ Thiên Đức rồi dựng chùa ở đó(9). Đổi mười VSTK - 212


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

đạo trong nước thành 24 lộ; đặt châu Ái, châu Hoan thành trại ở vùng biên giới ngoài xa. Cuối năm 1010 sứ nhà Tống sang sách phong cho Lý Công Uẩn chức Giao Chỉ quận vương kiêm Tỉnh Hải quân tiết độ sứ. Năm 1011, Lý Công Uẩn tự thống suất quân đi đánh giặc Cử Long do châu mục Hà Trắc Tuấn chủ xướng chống triều đình nhà Lý, Trắc Tuấn chạy thoát. Năm 1012, tự cầm quân dẹp loạn ở Diễn Châu; phong cấp cho Phật Mã làm Khai Thiên Vương. Năm 1013, đặt thể lệ thuế khóa(10) trong nước. Phong cho con là Bồ làm Khai Quốc vương. Tự cầm quân dẹp loạn ở Vị Long. Năm 1014, sai Dực Thánh Vương dẹp giặc Mán. Năm 1015, Hà Trắc Tuấn lại nổi lên làm phản nhưng bị bắt đem về kinh đô xử chém bêu đầu ở chợ Đông. Đào Cam Mộc chết, được truy phong thái sư Á vương. Năm 1016, lập 3 hoàng hậu Tá Quốc, Lập Nguyên và Lập Giáo(11). Nhận tước phong Nam Bình vương của nhà Tống. Năm 1018 cử người đi xin kinh Tam tạng. Năm 1019, dựng thái miếu(12) ở Thiên Đức; xuống chiếu khuyến khích(13), trợ giúp người dân trong nước xuất gia đi tu để trở thành tăng sĩ. Cuối năm 1020 sai Phật Mã đi đánh Chiêm Thành, tiến đến núi Long Tỵ (14), tàn sát, tiêu diệt quá nửa dân số Chiêm Thành. Năm 1022, Dực Thánh vương đi đánh tộc Mán Đại Nguyên Lịch(15). Năm 1024, sai Phật Mã đi đánh châu Phong và sai Khai quốc vương Bồ đánh châu Đô Kim(16). Năm 1025, lập trại giam các tù binh Chiêm Thành gọi là trại Định Phiên ở phía Nam châu Hoan. Sư Vạn Hạnh chết. VSTK - 213


1 2 3 4 5 6

Năm 1026, truyền lệnh sửa lại gia phả(17) của họ nhà vua; sai Phật Mã đánh châu Diễn . Năm 1027, sai Phật Mã đánh châu Thất Nguyên(18 và sai Đông Chinh vương Lực đánh châu Văn(19). Năm 1028, Lý Công Uẩn mất, làm vua được 19 năm, thọ 55 tuổi . CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Lý Công Uẩn: sử cũ viết rằng mẹ của Công Uẩn đi chơi chùa Tiêu Sơn (tức là chùa Trường Liêu, xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ) cùng với người thần giao hợp rồi có thai, sinh ra Công Uẩn. Khi lên 3 tuổi được nhà sư Lý Khánh Vân nhận làm con nuôi cho nên mang họ Lý. 2 Điện tiền chỉ huy sứ: chức quan trực ban ở trước điện nhà vua. 3 Cận vệ Đào Cam Mộc: vừa hầu hạ vừa bảo vệ an ninh gần bên vua. 4 Sư Vạn Hạnh: ở chùa Lục Tổ cũng gọi là chùa Cổ Pháp, xã Đình Bản, huyện Tiêu Sơn, tỉnh Hà Bắc, là nơi Công Uẩn được nhà sư nầy dạy dỗ nhận làm học trò. Ở trên, sử viết rằng mẹ Công Uẩn đi chơi chùa Tiêu Sơn mà chùa Tiêu Sơn với chùa Cổ Pháp cũng ở Tiêu Sơn vậy 2 chùa nầy phải chăng là một? Và người thần ăn nằm với mẹ Công Uẩn phải chăng là nhà sư Vạn Hạnh mà sử cũ đã ém nhẹm không nói ra ? 5 Tôn hiệu dài 50 chữ: tôn hiệu nầy như sau: " Phụng thiên chí lý ứng vạn tự tại thánh minh long hiện duệ văn anh vũ sùng nhân quảng hiếu thiên hạ thái bình khâm minh quang trạch chương minh vạn bang hiển ứng phù cảm uy chấn phiên man duệ mưu thần trợ thánh trị tắc thiên đạo chính hoàng đế". Tự Đức có lời phê về việc đặt tên hiệu nầy của Lý Công Uẩn: "Tôn hiệu phiền phức dài dòng quá lắm, rất trái với lẽ thường, cũng rõ cái thói bợ đỡ (của đám nịnh thần) ". Ngô Sĩ Liên cũng có lời bàn về việc nầy: " Vua Nghiêu có tôn hiệu là Phóng Huân, vua Thuấn là Trùng Hoa. Bề tôi đời sau lấy đức hạnh mà tôn xưng vua đến hơn mười chữ đã là nhiều lắm rồi. Nay bầy tôi (của Lý Công Uẩn) dâng tôn hiệu đến 50 chữ, thế là không biết kê cứu cổ học mà chỉ biết nịnh vua. Lý Thái Tổ nhận mà không từ, đó là muốn khoe khoang để cho đời sau không ai hơn được. Thế là sai. Sau, tôn hiệu của Lý Thái Tông cũng gần đến 50 chữ là vì bắt chước ở đây". 6 Cùng một hạng không có gì khác: ý muốn nói rằng họ Lê cướp ngôi vua của nhà Đinh thì bây giờ họ Lý cướp ngôi vua của nhà Lê, hai họ Lê và Lý đều là hạng người cướp giựt ngôi vua của người khác thì cả hai đều giống nhau, công nhận người nầy hay người kia thì 1

VSTK - 214


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

cũng thế thôi, chẳng có gi thay đổi khác lạ. Đây là mộ thái độ khinh rẻ của nhà Tống đối với những loại phản thần cướp ngôi của chủ. 7 Thành Đại La: được xây cất từ thời kinh lược sứ Trương Bá Nghi (năm 767), trùng tu và sửa sang nhiều lần rồi lại đến phiên người Hoa quân phiệt Cao Biền xây cất lại từ thời nhà Đường (năm 866). La thành của Cao Biền đắp có chu vi 1982 trượng và 5 thước (7,000 mét), thân thành cao 2 trượng 6 thước (8.50 mét), chân thành rộng 2 trượng 5 thước (8.20 mét), tường nhỏ xây ghép trên tường lớn bốn mặt cao 5 thước 5 tấc, 55 gát canh, sáu nơi đắp lũy vòng ngoài, ba hào lớn, hơn ba mươi đường thông thương tiếp ứng . Bên ngoài thành đắp con đê vòng quanh chu vi 2,125 trượng 8 thước (7,100 mét), với chiều cao 1 trượng 5 thước (hơn 4 mét), móng đê rộng 2 trượng (hơn 6 mét) và cất hơn 40 vạn gian nhà. (1 trượng=10 thước Tàu, 1 thước Tàu = 0.333 mét Tây, vậy 1 trượng = 3.33 m/Tây). 8 Thành Thăng Long: theo sử cũ thì khi thuyền của Lý Công Uẩn đến bên thành cũ Đại La có rồng hiện ra do đó Lý Công Uẩn đổi gọi là thành Thăng Long (rồng bay lên). 9 Dựng chùa ở phủ Thiên Đức: Lý Công Uẩn phân phát tiền của để lập dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại cho sửa chữa trùng tu tất cả chùa quán bị đổ nát khắp nơi, lại lấy công quỹ giúp đỡ khuyến dụ dân gian quy y, tạo ra vô số tăng sải, sư chùa, tiêu phí sức lực dân công không thể nào kể hết đến độ Lê Văn Hưu phải lên tiếng: "Của không phải từ trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư?" Tự Đức cũng phải tức bực lên tiếng về việc nầy: "Ưu đãi và nịnh bợ Phật quá lắm, gây nên mối tệ về sau, hay là Lý Thái Tổ mê muội tưởng mình là xuất thân từ của Phật chăng? Dù sao cũng không phải là chính đạo". 10 Đặt thể lệ thuế khóa: phân loại, ấn định các loại ngạch thuế như: thuế ao hồ, ruộng đất, thuê các bãi trồng dâu, thuế sản vật khai thác từ vùng rừng núi, thuế quan, thuế sừng tê, ngà voi, hương liệu ở các vùng dân tộc thổ mán, thuế gỗ lâm sản và hoa quả miền núi. Giao cho họ hàng vương tộc quản đốc việc hành thâu các loại thuế nầy. 11 Hoàng hậu Lập Giáo: trước đây sử cũ chép Lý Công Uẩn lập 6 hoàng hậu và Lập Giáo hoàng hậu đứng đầu, đồ mặc, xe kiệu đều khác với các hoàng hậu kia. Ở đây lại chép lập thêm 3 hoàng hậu trong đó lại có một Lập Giáo hoàng hậu, vậy Lập Giáo hoàng hậu (năm 1009) trước kia ở đâu? Rất có thể hoàng hậu Lập Giáo lúc trước (1016) đã bị thất sủng cho nên xuống hàng thứ 3 và bây giờ hoàng hậu Tá Quốc là người đứng đầu. 12 Dựng thái miếu ở Thiên Đức: tức là nơi để thờ phụng tổ tiên dòng họ nhà vua. Sử cũ chép là dựng nhà thái miếu ở lăng Thiên Đức. Quốc sử quán triều Nguyễn cho rằng những sử gia của ĐVSKTT có lẽ đã nhận lầm miếu thờ của họ nhà Lý dùng ở lăng tẩm trong vùng Thiên Đức là nhà thái miếu bởi vì thông thường thì nhà thái miếu phải VSTK - 215


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

được dựng ở kinh đô, tức là ở Thăng Long. Tuy nhiên, trước đó khi Lý Công Uẩn vừa tiếm ngôi nhà tiền Lê thì kinh đô cũ là Hoa Lư, còn phủ Thiên Đức thì trước là châu Cổ Pháp. KĐVSTGCM có đoạn viết: "Tháng 2, mùa xuân năm canh Tuất (1010 TL), xa giá về châu Cổ Pháp, viếng lăng thái hậu, ra lệnh cắt đất đặt làm thành một vùng cấm địa sơn lăng rộng lớn". Như thế tức là lăng tẩm của dòng họ nhà Lý đã được thiết lập ở châu Cổ Pháp trước khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Châu Cổ Pháp được Lý Công Uẩn đổi thành phủ Thiên Đức và bỏ tiền xây rất nhiều chùa chiền trong phủ nầy và như vậy cũng không có gì gọi là lầm lẫn khi Công Uẩn lập nhà thái miếu kề cận với lăng tẩm của dòng họ nhà Lý ở đó. Ngô Thời Sĩ chua rằng các vua triều Lý đều đưa về chôn ở phủ Thiên Đức gọi là Thọ Lăng. 13 Khuyến khích, giúp đỡ người dân trong cả nước xuất gia: sử cũ viết là độ dân trong nước làm sư tăng. Trước đó, chỉ độ dân ở kinh đô, nay lại độ dân trong cả nước, lập đàng giới ở chùa Vạn Thọ, mời các tăng đồ đến thụ giới, phát vàng đúc chuông lớn đặt ở các chùa Hưng Thiên, Đại Giáo và Thắng Ngiêm (KĐVSTGCM/ CB.2/ 21). 14 Núi Long Tỵ: ở địa phận xã Thuần Chất, huyện Bình Chánh, nay là huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. 15 Mán Đại nguyên lịch: một bộ tộc Mán ở vào khoảng giữa trại Như Hồng và Trấn Triều Dương. Trại Như Hồng là lãnh thổ của nhà Tống ở phía tây Khâm Châu, giáp với trấn Như Tích cách châu Vĩnh An của Giao Chỉ khoảng 20 dặm (KĐVSTGCM/ CB.2/ 23). Trấn Triều Dương tức là châu Vĩnh An nay là đất huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng Bình. 16 Đô Kim: nay thuộc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. 17 Gia phả: sử cũ gọi là ngọc điệp, sổ ghi chép về gốc tích dòng dõi của một họ vua. 18 Châu Thất Nguyên: nay là huyện Thất Khê, tỉnh Lạng Sơn. 19 Châu Văn: nay là châu Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn. KHẢO LUẬN :

32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Gốc tích gia phả của Lý Công Uẩn đã được viết lại vào năm 1026 mà sử cũ gọi là ngọc điệp và gia phả nầy đã được đưa vào sử sách một cách chính thức mà không lý gì tới dư luận quần chúng của những thế hệ mai sau. Dù đã được đề cập ở phần khảo luận về gia phả của họ Hồng Bàng trước đây nhưng cũng cần dẫn chiếu lại phần nói về gốc tích, dòng họ của Lý Công Uẩn. (xin đọc lại từ trang 51 hàng 31 đến hết trang 55). ĐVSKTT viết: "Tháng ấy (tháng 10 năm Kỷ Dậu/Cảnh Thụy năm thứ 2 /1009-TL), ngày Quý Sửu, Ly Công Uẩn tự lập làm vua. Trước đây ở hương Diên Uẩn, Châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người VSTK - 216


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: Thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh thanh. . . .". Theo Sư Vạn Hạnh giải thích thì: mấy câu nầy ý nói là vua (Lê Ngọa Triều) thì non yếu, bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình (ĐVSKTT/BK.1/31b). Đoạn kế tiếp viết: Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn rằng: "Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải thân vệ thì còn ai đương nỗi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may mắn nghìn năm có một". Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh đem Vạn Hạnh dấu ở Tiêu Sơn. Song từ đấy cũng lấy thế tự phụ mới nẩy ra lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ.(ĐVSKTT/BK.1/ 32a). Câu cuối cùng của đoạn nầy "Song từ đấy. . . " nhất định phải là bút tích của người chép sử đời sau viết ra để phê phán thái độ ám muội của Lý Công Uẩn. Rồi chuyện bà mẹ đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp mang thai sinh ra Công Uẩn và vì sợ tiếng đời thị phi con mình là con hoang không có họ, không có cha cho nên mới bồng đến cho Lý Khánh Vân nhận làm con để được mang họ Lý. Vậy người cha thật, người cha xác thịt phàm tục của Công Uẩn là ai? Nhất định người nầy phải có nhưng vì một tình lý trắc trở nào đó mà phải lánh mặt dấu tên và trút hết tội lỗi cho một ông thần bá vơ không có tiếng tăm nơi chùa Tiêu Sơn. (ĐVSKTT/BK.2/1a). Rồi đến chuyện con chó sắc trắng có đốm lông đen kết thành hai chữ Thiên tử để ứng điềm Công Uẩn sẽ làm vua (ĐVSKTT/BK.1b,2a). Có hai cách suy đoán về nguồn gốc của tất cả những chuyện quái dị kể trên : 1.- Những chuyện dị đoan đó được tung ra từ lúc Công Uẩn còn nằm trong bụng mẹ hoặc vào lúc mới sinh ra. Như vậy tức là phải có người sắp xếp, đạo diễn tung tin đồn nhảm nhí về việc người giao hợp với thần linh, lại cho ngươi dùng sắt nung đỏ vạch vỏ cây ghi khắc lời sấm rồi phao truyền giải thích lương lẹo nhằm tác động lên tinh thần mê tín mù quáng của người dân chất phác kém chữ ít học; nhuộm lông chó để loan truyền rằng người làm vua của triều đại mới sắp tới không phải là người xuất phát từ đám dân cùng đinh hạ giới; người đó là thiên tử, là con trời bởi vì chỉ có con cháu của ông trời mới được làm vua và cũng chỉ có con cháu của ông trời làm vua thì mới được dư luận thế gian công nhận là chính thống.

VSTK - 217


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Người chủ động làm công tác tuyên truyền đó phải là người mưu lược, có học, nhất là phải có liên hệ mật thiết với Công Uẩn. Ngoại trừ người mẹ thì chỉ có 2 người có liên hệ nhiêu với Công Uẩn: sư Vạn Hạnh và Lý Khánh Vân (theo KĐVSTGCM thì Lý Khánh Vân cũng là một ông sư). Trong hai người, thì sư Vạn Hạnh nổi bật, là quân sư cố vấn của Công Uẩn; chẳng những thế, mối liên hệ giữa nhà sư nầy với Công Uẩn chẳng khác nào như ruột thịt thân thiết, như cha ruột lo cho tương lai của đứa con trai với một hoài bảo là được nhìn thấy đứa con được công thành danh toại trước khi mình nhắm mắt lìa đời. Nhưng làm sao để những chuyện quái dị đó được truyền đi trong dân gian? Chùa chiền lúc đó là nơi dân chúng tụ tập đi lễ và nghe rao giảng kinh kệ, thuyết pháp đồng thời cũng là trung tâm truyền tin và xuất phát những chuyện linh thiên quái dị. Người dân chất phác sùng đạo, kiêng thần, sợ thánh cho nên rất tin tưởng những chuyện do những nhà tu hành đức cao trọng vọng kể lại hoặc chép lên giấy mực rồi đọc cho nghe. 2.- Những chuyện quái đản đó có thể xuất hiện sau khi Lý Công Uẩn đã lên ngôi vua. Như vậy một trong hai trường hợp sau đây có thể xảy ra : Trường hợp thứ nhất: Người viết và loan truyền là một người thân thuộc tín cẩn của Công Uẩn chuyên giữ vai trò tuyên truyền đánh bóng cho chế độ mới, tạo một ánh hào quang lừa đảo bao phủ để che dấu tông tích thật của một bề tôi tiếm nghịch phản chủ đồng thời khoác cho người mới một hình tượng uy linh thần thánh kèm theo một uy lực cai trị trấn áp tối thượng chỉ thua kém ông trời một bậc mà thôi. Công tác tuyên truyền nầy phải được thực hiện và phổ biến ngay trong lúc đó để dập tắt dư luận đàm tiếu trong dân gian và củng cố nền đế chính vừa mới tiếm đoạt được. Trời Phật, tiên thánh, thần ma, quỷ sứ, rùa phượng, hổ rồng, cùng với cả một thế giới huyền hoặc đã được tận dụng để tạo ra những truyện tích dị thường quái đản. Những truyện quái đản đó một mặt được loan truyền ra ngoài dân chúng qua trung gian các chùa chiền, đền miếu và một mặt khác thì được ghi chép vào điển lịch(a) của triều cung để lưu truyền hậu thế. Trong giai đoạn nầy nhất định là những nhà sư và những kẻ quyến thuộc hay nội nhân giữ nhiệm vụ then chốt mà nổi bật hơn cả là sư Vạn Hạnh và người anh của Công Uẩn. Những chữ như Sử Quan, Quốc Sử hay Sử Ký chưa xuất hiện trong giai đoạn nầy. Một điều cần chú ý ở đây là cách viết vả kể lại những câu chuyện: không dùng thể giả định gián tiếp tục truyền(b) nhưng lại dùng thể khẳng định trực tiếp trước đó có nghĩa là người viết hoặc kể chuyện phải sống trong cùng một không gian và thời gian với những nhân vật VSTK - 218


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16

17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

trong truyện. Ngoài ra, trình độ dân trí lúc đó còn thấp, rất ít người biết đọc chữ Hán (chữ Nho) cho nên những chuyện mê tín, dị đoan, quái đản chỉ có thể miệng truyền miệng trong dân gian chứ không thể phổ biến bằng các hình thức sách vở hay tập truyện để cho dân chúng đọc. Sách truyện loại nầy nếu có thì cũng chỉ nhắm vào một thiểu số tầng lớp có học biết đọc, biết viết chữ Nho mà thôi tức là những thành phần quan lại trong triều đình và những nhà sư ở các chùa chiền đã và đang được xây cất rầm rộ khắp nơi lúc đó. Trong trường hợp nầy thì những âm mưu bàn định, những mẫu đối thoại có tính cách xúi giục, những ý đồ thầm kín, những cung cách bợ đỡ của đám phản thần dứt khoát là không được đồn đãi ra ngoài mà cũng không được phép kê khai ghi chép vào điển sách. Trường hợp thứ hai: người chép lại những truyện tích thần ma từ đời Lý Công Uẩn thuộc về một triều đại sau nầy bởi vì nội dung đoạn viết về Lý Công Uẩn ngày nay đọc được gồm có hai lối văn tương nghịch được ghép chung vào: 1/- Vào lúc Lê Ngọa Triều vừa mới chết (1009), ĐVSKTT chép về Lý Công Uẩn như sau: Mùa Đông tháng 10, ngày Tân Hợi, vua băng ở tẩm điện gọi là Ngọa Triều, vì vua mắc bệnh trĩ phải nằm mà coi chầu (Dã sử chép: vua say đắm tửu sắc phát ra bệnh trĩ).Tháng ấy, ngày Quý Sửu, Lý Công Uẩn tự lập làm vua. Trước đây ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: "Thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh thanh, hoa đào mộc lạc, thập bát tử thành, Đông a nhập địa, mộc dị tái sinh, Chấn cung kiến nhật, Đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên hạ thái bình." (Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây hoa đào rụng, mười tám hạt thành, cành Đông xuống đất, cây khác lại sinh, Đông mặt trời mọc, Tây sao che hình, khoảng sáu bảy năm, thiên hạ thái bình). Sư Vạn Hạnh đoán riêng rằng: Hoa, đào, mộc ghép với nhau là chữ Lê, Thập, bát, tử là chữ Lý, Đông A là họ Trần, nhập địa là giặc phương Bắc vào cướp (nghi vấn: lấy chữ nào để dịch ra là giặc phương Bắc? Nhập địa tại sao lại là vào cướp ? tại sao tách rời 2 chữ nhập địa nầy để đoán là giặc phương Bắc vào cướp? Hay là ý muốn nói họ Trần đến từ đất Trung Quốc không phải người của nước ta?), mộc dị tái sinh là họ Lê (mộc dị?) khác lại nổi lên. . . . . . Mấy câu nầy ý nói là vua thì non yếu, bề tôi thì cường thịnh (Lê Ngọa Triều và Lý Công Uẩn) họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình (ĐVSKTT/NK.1/ 30b, 31b). ĐVSKTT ghi: sư Vạn Hạnh tự đoán riêng, rồi KĐVSTGCM cũng ghi sư Vạn Hạnh tán riêng. Có nghĩa là Sư Vạn Hạnh tự viết ra ý kiến của mình rồi lưu giữ ở chùa mà sau nầy người khác mới chép lại những lời đoán đó đem vào sử. Những lời xúi bẩy và tâm sự của sư VSTK - 219


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Vạn Hạnh với Công Uẩn, những cuộc đối thoại và âm mưu đoạt triều giữa Công Uẩn và bọn Đào Cam Mộc không thể nào do sư Vạn Hạnh hay do thân thích của Công Uẩn viết ra một cách tách bạch trên sử sách. Lại nữa, chính ngay cả Lê Ngọa Triều khi ăn quả khế lại thấy hột mận (chữ Lý có nghĩa là cây mận ) cũng có ngẫm nghĩ tới lời sấm do sư Vạn Hạnh diễn giảng cho nên mới ngầm tìm dòng dõi họ Lý mà giết đi nhưng Công Uẩn ở ngay bên mình, thế mà không biết. (ĐVSKTT/NK.1/32a,32b và CM/CB.2/5): âm mưu soán nghịch đã nẩy mầm từ lúc nhà tiền Lê còn nắm giữ quyền cai trị; Lê Ngọa Triều biết được âm mưu đó do sư Vạn Hạnh chủ xướng cho nên sư Vạn Hạnh mới phải chạy trốn (ĐVSKTT/BK.1/32a); người mà Lê Ngọa Triều ngầm tìm để giết là sư Vạn Hạnh chứ không phải là dòng dõi họ Lý. Sau khi việc đoạt ngôi thành công, đoạn viết về Lê Ngọa Triều ăn quả khế mới được sư Vạn Hạnh sáng tác thêm để che lắp m đi hành vi phản nghịch của mình; không lẽ nào Lê Ngọa Triều u mê đến độ không biết Công Uẩn mang họ Lý đang ở ngay bên cạnh mình? 2/- Sau khi chép lại việc Công Uẩn đưa giấu Vạn Hạnh, ĐVSKTT có mộ đoạn văn phê phán như sau: Song từ đây cũng lấy thế tự phụ mới nẩy ra lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ (BK1/32 a). KĐVSTGCM cũng viết tương tựa: Sợ lời đó lộ liễu, Công Uẩn sai người giấu sư Vạn Hạnh đi; nhưng cũng lấy thế làm tự phụ (CBII/5). Lời phê phán nầy không thể nào do sư Vạn Hạnh hay một kẻ nào khác viết ra dưới triều Lý Công Uẩn. Tất cả những luận cứ nêu lên ở phần trên chú trọng vào những điểm chính sau đây : 1. - Những truyện quái đản phản khoa học đã có từ cuối đời tiền Lê rồi đầu đời nhà Lý được tận dụng làm phương tiện tuyên truyền tung ra nhân gian qua môi giới các nhà sư trong những dịp tiếp xúc với dân chúng những khi giảng đạo, niệm kinh đồng thời những truyện đó cũng được ghi chép để phổ biến và lưu giữ ở các chùa chiền khắp nơi.; 2.- Tất cả những những truyện ký đó chỉ nhằm một mục đích tuyên truyền thổi phồng cho một chế độ tùy theo mỗi triều đại vì thế cho nên phải vận dụng tất cả mọi mánh khóe lừa đảo kỳ dị, lấy râu ông nầy cắm sừng bà kia để tạo ra những sự thật giả dối. 3.- Về sau, khi việc ghi chép lịch sử được giao cho người có học đang làm quan tại triều thì những người nầy lại phải viết theo lệnh ý của vua chúa: những gì đã ghi chép từ trước dù quái đản nhưng xét ra có lợi cho tâm tiếng của ông vua thì phải sao chép giữ lại chứ không được tự quyền cắt xén hay xóa bỏ . 4.- Trong bối cảnh đó, những truyện ký thần kỳ quái đản khác như những truyện trong Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam chích quái cũng khởi

VSTK - 220


1 2

3 4 5

đầu được truyền tụng trong dân gian từ thời đại nhà Lý nhất là từ đời Lý Thái Tông cho đến cuối đời Lý Nhân Tông. (1028-1127). (a) Điển lịch: sách ghi chép những công việc cũ theo thời gian của tờ lịch. (b) Tục truyền: Tục có nghĩa là làm theo, bắt chước, nối tiếp, nối đời. . . Tục truyền có nghĩa là nối tiếp kể lại trong dân gian.

2. LÝ THÁI TÔNG ( 1028 - 1054 ) 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Lý Công Uẩn vừa mất, việc tống táng chưa xong thì anh em vương tộc(1) nhà họ Lý đã hiềm khích tranh giành nhau ngôi vua.Võ Đức vương, Dực Thánh vương và Đông Chinh vương đem quân vây phục nội thành để đánh úp Phật Mã nhưng Vũ vệ tướng là Lê Phụng Hiếu đã xong ra đánh dẹp, giết được Võ Đức vương; Dực Thánh vương và Đông Chinh vương chạy thoát. Lý Phật Mã lên ngôi tức là Lý Thái Tông, đổi niên hiệu là Thiên Thành(2), lấy tôn hiệu dài 50 chữ; tha tội và khôi phục vương tước cho Đông Chinh vương và Dực Thánh vương. Đến lượt Khai Quốc Vương Bồ tạo phản bị bắt cũng được tha và cho phục chức như cũ. Vì có những sự tạo phản như thế cho nên sau đó Phật Mã qui tụ quân thần ở miếu Đồng Cổ bắt tuyên thệ trung thành với nhà vua. Đại xá và ban tiền và vải vóc cho dân chúng. Lập Lý Nhật Tôn làm thái tử và lập 7 hoàng hậu. An táng Lý Công Uẩn ở vùng lăng tẩm phủ Thiên Đức, đặt miếu hiệu Công Uẩn là Thái Tổ Ấn định các cấp bậc tăng đạo, tổ chức lại đội quân phòng vệ thành nội ở kinh đô. Năm 1029, để chiêu dụ các tộc trưởng miền thượng du, Lý Phật Mã đem công chúa Bình Dương gả cho châu mục Lạng châu, công chúa Kim Thành VSTK - 221


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

gả cho châu mục Phong châu, và công chúa Trường Ninh gả cho châu mục Thượng Oai. Từ đó những cuộc gả ép các công chúa để dụ dỗ mua chuộc các châu mục trở thành một chính sách của dòng họ nhà Lý. Giặc giã trong nước xảy ra liên miên: Năm 1029, giáp Đãn Nãi(3) ở châu Ái làm phản, Phật Mã tự cầm quân dẹp yên. Năm 1030, dân chúng ở châu Hoan khởi dậy chống đối triều đình; các cuộc nổi dậy ở châu Định Nguyên và châu Trệ Nguyên(4) vào năm 1033; ở Ái Châu năm 1035, ở đạo Lâm Tây(5) năm 1035; ở vùng Thảng Do, Vạn Nhai, Vũ Lặc(6) thuộc châu Quảng Nguyên(7) anh em Nùng Tồn Phúc(8) nổi loạn (1038-1039), tất cả đều bị Lý Phật Tử cầm quân phá tan. Những cuộc nổi loạn khác ở Văn Châu(8), ở Ái Châu (1042-1043) cũng được dẹp yên. Con Nùng Tồn Phúc là Nùng Trí Cao(10) sống sót lại nổi loạn rồi bị bắt nhưng được tha và cho giữ chức châu mục Quảng Nguyên kiêm quản động Lôi Hỏa và châu Tư Lang(11). Tham vọng bành trướng lãnh thổ và chính sách diệt chủng của triều đại nầy cũng được thực hiện qua việc Lý Phật Tử tự mình cầm quân xâm lược nước Chiêm Thành lần thứ nhì vào năm 1044. Trong lần xâm lược nầy, thường dân vô tội của Chiêm Thành bị tàn sát vô số đến mức độ Lý Phật Tử phải ra lệnh chấm dứt việc chém giết bừa bãi. Lý Phật Tử chiếm kinh đô Phật Thệ(12), bắt hết vợ, tỳ thiếp và cung nữ của vua Chiêm mang về nước để hầu hạ phục dịch riêng cho mình trong cung. Lần trước (1020), cũng do Lý Phật Tử chỉ huy, đoàn quân xâm lược đã tiêu diệt quá nửa dân số của Chiêm Thành. Năm 1048, lại sai tướng Phùng Trí Năng xâm lược nước Ai Lao, bắt người, lấy của mang về. VSTK - 222


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Nhiều chuyện dị đoan quái dị loan truyền trong dân chúng như nền điện Kiền Nguyên bỏ hoang nay có rồng hiện ra, trời mưa ra gạo trắng thành đống(8) trước chùa Vạn Tuế, châu mục châu Hoan dâng kỳ lân(14), rồng vàng lại hiện ra ở gác Đoan Minh (1053). Xây cung điện đền đài(15), chùa miếu(16), lập đàn Xã Tắc(17), tô đúc tượng Phật(18), đúc chuông đồng(19); tu sửa pháp chế về thuế khóa(20), ban bố hình luật(21). Năm 1054, Lý Thái Tông mất, ở ngôi được 27 năm, thọ 55 tuổi .

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

Vương tộc; người trong dòng họ vua. Niên hiệu Thiên Thành: là niên hiệu đầu tiên của Lý Thái Tông (1028-1033). (3) Giáp Đãn Nãi: Không rõ ở đâu. (4) Châu Định Nguyên, châu Trệ Nguyên: Không rõ ở đâu. (5) Đạo Lâm Tây: đời Trần gọi là đạo Đà Giang, khi bị thuộc nhà Minh gọi là châu Gia Hưng, nay là đất Sơn La và Lai Châu. (6) Châu Vũ Lặc và Châu Thảng Do: Châu Thảng Do giáp giới với châu Quảng Nguyên. Châu Vạn Nhai: nay là phần đất huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn và một phần thuộc huyện Vũ Nhai, tỉnh Bắc Thái. Châu Vũ Lặc: không rõ ở đâu. Chú giải trong KDVSTGCM dựa vào sách của người Hoa Đường Thư suy đoán rằng châu Thảng Do và châu Vũ Lặc có lẽ ở vào địa hạt hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn ngày nay. (7) Châu Quảng Nguyên: nay là đất thuộc tỉnh Cao Bằng. (8) Anh em Nùng Tồn Phúc: em là Nùng Tồn Lộc, em vợ là Đương Đạo. Sau đó Nùng Tồn Phúc diệt Tồn Lộ và Đương Đạo, chiếm đất của họ rồi tự xưng hoàng đế, phong chức vương cho các con, đổi châu Thảng Do thành nước Trường Sinh không còn thần phục nhà Lý nhưng bị Lý Thái Tông đánh dẹp và giết chết vào năm 1039. (9) Văn Châu, Ái Châu: Văn Châu nay là châu Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn; Ái Châu nay là Thanh Hóa. (10) Nùng Trí Cao: con của Nùng Tồn Phúc. Khi Nùng Tồn Phúc nổi loạn bị giết, Nùng Trí Cao cùng mẹ chạy thoát trốn ở miền núi rồi chiếm giữ châu Thảng Do đổi châu nầy thành nước Đại Lịch nhưng bị

11

(1)

12

(2)

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

VSTK - 223


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

bắt và được tha và cho giữ chức châu mục Quảng Nguyên. Năm 1043, được Lê Thái Tông ban cho chức hàm (chỉ là một danh hiệu, không phải là một chức việc) Thái bảo với ấn triện (giống như con dấu để đống ấn ngày nay). (11) Động Lôi Hỏa: KĐVSTGCM trích dẫn theo sử sách của Trung Hoa thì động nầy ở phía Tây Bắc phủ Lạng Sơn; châu Tư Lang: trước thuộc tỉnh Thái Nguyên rồi thuộc tỉnh Cao Bằng. Nay là huyện Thượng Lang và huyện Hạ Lang. (12) Kinh đô Phật Thệ: theo sách Thanh Nhất Thống Chí/ An Nam Cổ Tích, thành Phật Thệ là kinh đô cũ của nước Chiêm Thành; nay ở về địa phận xã Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. (13) Mưa ra gạo trắng thành đống trước chùa Vạn Tuế: chùa Vạn Tuế ở trong thành Thăng Long. Đây rõ ràng là mộ chuyện mua thần bán thánh: có thể là nhà vua lấy của công lén lút đem dâng tặng cho chùa chiền nhiều quá nên phải mượn chuyện ông trời mưa ra gạo thành đống để lấp liếm chuyện quá lạm. (14) Kỳ lân: mộ trong bốn con thú mà người mê tín cho là linh thiên (tứ linh: long, lân, quy, phụng). (15) Xây cung điện đền đài: năm 1029 dựng điện Thiên An trên nền điện cũ Kiền Nguyên đã bỏ hoang từ lâu nhưng nay vì có rồng hiện ra nên mới xây điện nầy. Về việc rồng hiện ra ở nền điện Kiền Nguyên, vua Tự Đức phê: " Bậy ". Năm 1030 dựng điện Thiên Khánh. (16) Xây chùa miếu: ĐVSKTT viết: "Xuống chiêu phát tiền thuê thợ làm chùa quán ở các hương ấp, tất cả là 150 chỗ ". Nguyên văn chữ nho : ". . .Chiếu phát tiền nhảm công tạo tự quán vu hương ấp, phàm bách ngũ thập sở." KĐVSTGCM phần Cương viết: "Tháng 8, mùa Thu. Các đền, chùa làm xong ". Tiếp theo phần Mục viết: "Trước đó, từ Hoan Châu trở về, nhà vua sai dựng chín trăm năm mươi chỗ (vu hương ấp cửu bách ngũ thập sở). Nay đã làm xong, mở hội khánh thành ." Chữ phàm theo tự điển có nghĩa là gồm tất cả. Chữ phàm và chữ cửu (cửu là 9) dáng chữ viết gần giống nhau dễ đọc lầm và chép lầm. Con số 150 thì hợp lý hơn bởi vì Lý Phật Mã tự cầm quân đi dẹp loạn ở Hoan Châu và trở về vào tháng 2, mùa Xuân năm Tân Mùi (1031). Từ tháng 2 đến tháng 8, trong vòng 6 tháng thì việc xây cất xong 150 chỗ là hợp lý và thực tế hơn so với số 950 chỗ như được chép trong trong KĐVSTGCM. Ngoài ra, Đại Việt Sử Ký Tiền Biên bản in đời Tây Sơn cũng chép là "phàm bách ngủ thập sở" (không phải là Cửu) (ĐVSKTB/BK.2/26.b). Việt Sử Lược cũng chép tương tựa: ". . .tạo tự quán phàm nhất bách ngủ thập xứ"(VSL/Q.2/5). Năm 1049, dựng chùa Diên Hựu, tức chùa một cột ở Hà Nội hiện nay. Sử cũ chép rằng Lý Phật Mã nằm mộng thấy phật Quan Âm ngồi trên tòa sen do đó nhà sư Thiền Tuệ khuyên Phật Mã làm chùa, dựng VSTK - 224


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25

cộ đá, làm toà sen đặt trên cột như đã thấy trong mộng. Còn hồ nước ở dưới đài hoa sen thì được đào vào năm 1105, gọi là hồ Linh Chiểu. Vòng ngoài cũng đào thêm hồ Bích Trì có cầu vồng để đi qua. Trước sân chùa có xây bảo tháp. Diên Hựu có nghĩa là kéo dài tuổi già, sống lâu . (17) Đàn Xã Tắc: tức là nền cao tế thổ thần (thần đất) và thần ngũ cốc (5 loại hạt ăn được). Xã tắc còn có ý nghĩa tượng trưng cho một nước. (18) Tạc tượng phật: năm 1036, mở hội Long Trì khánh thành pho tượng phật Đại nguyên. (19) Đúc chuông đồng: năm 1052, đặt một quả chuông lớn ở sân rồng điện Thiên An cho dân, nếu bị oan ức thi đánh chuông để thấu tai vua. (20) Pháp chế về thuế khóa: Năm 1038, làm ngự khố (kho chứa tài vật của nhà vua). Năm 1042, ấn định mức thu thuế, cấm viên chức của triều đình không được lạm thu (thu dư để ăn riêng). Dân phải đóng 10 phần nộp kho, và một phần thêm nữa gọi là hoành đầu (tiền hoa hồng). Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm. Dân chúng tố giác sự lạm thu thì được thưởng trên tài vật ngang bằng với số lạm thu hoàn trả lại và được miễn phối dịch trong vòng 3 năm (nghĩa vụ đóng thuế). Sự tố cáo không bị giới hạn bởi thời gian: dù việc lạm thu đã xảy ra quá lâu, nhưng nếu bị khám phá hay tố giác bất kỳ lúc nào thì cũng phải tội. Trong niên hiệu Minh Đạo năm thứ 1 (1042), đúc tiền Minh Đạo. (21) Ban bố hình luật: song song với việc ấn định các pháp chế về việc thu thuế, năm 1042, bộ Hình luật nhà Lý được ban hành và được gọi là Hình thư gồm có 3 quyển (nay không còn) chia ra môn, loại, biên chép thành từng điều, khoản. KHẢO LUẬN : n Về việc anh em vương tộc nhà Lý tranh giành ngôi vua:

26 27

28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

Lê Văn Hưu viết: "Nhà Lý các con mẹ đích đều được phong tước vương, các con mẹ thứ đều làm hoàng tử, mà không định rõ ngôi thái tử. Đến lúc vua cha ốm nặng mới chọn một người trong hàng các con cho vào để nối ngôi, truyền dần thành tục, không biết là ý thế nào. Có người nói nhà Lý không đặt thái tử trước là vì muốn cho các con chăm làm điều thiện. Nếu lập ngôi thái tử thì phận vua tôi đã định dù có con hiền như Vi Tử cũng không biết xử trí như thế nào. Đáp rằng: gốc thiên hạ đã định rồi mà còn có cái họa Dương Quảng giả hình đạo đức để cướp ngôi của người kế vị chính danh huống chi ngôi thái tử không lập trước đến khi vội vàng mới chọn lập, không may có việc như ba phu nhân nài xin con khác, Từ Văn Thông cầm bút sửa di chiếu thì dù muốn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . (đọc tiếp nơi trang 226) VSTK - 225


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

không bằng lòng cũng chẳng được nữa . . . Người làm chủ quốc gia cần xem gương đó mà phòng xa" (ĐVSKTT/BK.2/13.a). Về việc nầy vua Tự Đức cũng có lời phê luận: "Lúc nối ngôi vua mà gặp chỗ phải đối xử với anh em ruột thịt khó khăn như thế, thật là phiền nhiễu. Bấy giờ danh vị thái tử đã được ổn định từ lâu mà công lao rõ rệt của Phật Mã trước đây cũng không ai có thể dị nghị, vậy mà còn xảy ra biến loạn như thế huống chi là những trường hợp khác. Lời bình luận của Lê Văn Hưu trong sử cũ quá câu nệ về việc Lý Công Uẩn phong vương cho các con mà không xét kỹ vấn đề Lý Công Uẩn có hay không có lập thái tử nối ngôi về sau".(KĐVSTGCM/CB.2/28). ĐVSKTT/BK.I/34b viết về việc Lý Công Uẩn lên ngôi như sau: "Lập 6 hoàng hậu, sách lập con trưởng là Phật Mã làm hoàng thái tử, các con khác đều phong tước hầu (năm 1008)" KĐVSTGCM/CB.2/7, 8 cũng viết: "Lập con là Phật Mã làm Thái tử. Bãy giờ các con khác đều phong tước hầu, 13 người con gái đều phong công chúa ". Lời bàn của Lê Văn Hưu ở trên rất có thể chỉ liên hệ tới việc về sau nầy khi Lý Thần Tông lúc đau nặng sắp chết (vào năm 1138) đã nghe lời ba người vợ là Cảm Thánh, Nhật Phong, Phụng Thánh phế bỏ Thiên Lộc trước đã được Thần Tông cho làm thái tử chính thức để kế ngôi. Ba bà vợ nầy đã hối lộ cho tham tri chính sự Từ Văn Thông để sửa đổi di chiếu rồi chạy vào quỳ bái khóc lóc với Thần Tông vào giờ chót để thúc hối xin đổi lập Thiên Tộ làm thái tử. Như vậy, có thể hiểu ý của Lê Văn Hưu như sau :

Lý Công Uẩn (1009) đã sắp đặt con cái đâu ra đó: con trưởng làm thái tử, các con khác được phong tước vương. . . vậy mà vẫn còn có sự tranh dành để chiếm đoạt ngôi báu. Nay, Lý Thần Tông (1138), trước lập con thứ là Thiên Lộ làm thái tử, rồi lúc khẩn cấp lại nghe lời xúi bẩy khóc than của 3 người đàn bà mà phế Thiên Lộc để lập con đích là Thiên Tộ (tức là Lý Anh Tông) cho nối ngôi thì đây là một việc làm thiển cận hấp tấp không biết phòng xa, dễ gây ra sự hiềm khích trong vương tộc. Khi muốn tranh đoạt ngôi vị thì thường tìm đủ mọi cớ, lý do để biện bạch cho ý đồ tranh đoạt của mình. Ở đây, ba người vợ của Thần Tông cũng viện dẫn một cách ma mảnh những lý do hợp đạo hợp lý để khuynh đảo ý chí u mê của một người sắp chết chẳng khác gì Dương Quảng(a) làm ra vẻ có đức hạnh để giành giựt ngôi vua. Khi ngôi thái tử đã định lập rồi thì không nên dị nghị gì nữa, ngay cả con hiền như Vi Tử(b) cũng không còn quyền gì để can thiệp vào quyết định của vua cha. Như vậy, đoạn viết của Lê Văn Hưu có thể đã được viết ở phần Lý Thần Tông (1138) nhưng những người nối tiếp Lê Văn Hưu đã dời đổi đem vào phần viết về Lý Công Uẩn (1009). Ngoài ra, ĐVSKTT/BK.3/42a còn viết rằng: "Vua (Lý Thần Tông), vì thế xuống chiếu rằng : Hoàng tử Thiên Tộ tuy tuổi còn thơ ấu, VSTK - 226


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

23 24

nhưng là con đích, thiên hạ đều biết, nên cho nối nghiệp vua, còn Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo Vương." Không biết đây có phải là di chiếu đích thực của Lý Thần Tông đang lúc thần trí u mê hay chỉ là một tờ di chiếu giả do Từ Văn Thông ăn hối lộ thảo ra như thế rồi cầm tay người sắp chết ký tên vào? Sự nghi ngờ không phải là vô căn cứ: ở triều đại nhà Lý, những hành vi tranh ngôi đoạt vị lúc nào cũng được che đậy bưng bít dưới đủ mọi hình thức ngay từ thời Lý Công Uẩn kể cả việc mua thần bán thánh. Một lần bất tín, vạn lần khác cũng khó mà tin được. Người viết về việc lập di chiếu có thể là một sử quan dưới thời của Lý Anh Tông bi bắt buộc phải viết lái đi là di chiếu do chính tay Lý Thần Tông ban xuống để che dấu âm mưu soán nghịch đoạt quyền kế vị của thái tử Thiên Lộc để đưa Lý Anh Tông lên ngôi vua. Nhìn lại một cách khách quan thì rõ ràng là Lý Anh Tông đã cướp ngôi của thái tử Thiên Lộc. (a) Dương Quảng: là con thứ của Tùy Văn Đế ở Trung Hoa, đáng lý ra không được lập làm thái tử, nhưng vì thái tử chính thức là Dương Dũng tính nết cao ngạo kiêu kỳ nên Tùy Văn Đế rất ghét. Dương Quảng biết được cho nên làm bộ ra vẻ là con người khiêm tốn đức hạnh để chiếm lòng tin yêu của Tùy Văn Đế và vì thế được lập làm thái tử. (b) Vi Tử: là anh của vua Trụ đời nhà Thương ở Trung Hoa . Vua Trụ rất ác độc và dâm loạn, Vi Tử khuyên can nhiều lần cho nên bị Trụ đuổi đi.

* o Việc quy tụ bầy tôi ở miếu thần Đồng Cổ để bắt uống máu ăn thề trung thành với nhà vua

27

Đây là một hành vi dựa vào uy lực quỷ thần để ngăn chặn nội loạn. Tự Đức đã phê phán hành vi nầy: "Việc lập miếu thờ thần đã là bậy rồi, đến việc hội hợp thề nguyền lại càng bậy hơn nữa"

28

(KĐVSTGCM/CB.2/30).

25 26

* p Việc Xây dựng quá nhiều chùa chiền & khuyến dụ người dân cả nước đi tu

29 30

31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Ngày trước, Lý Công Uẩn đã xây dựng rất nhiều chùa miếu và khuyến dụ người dân cả nước trở thành sư sải, tăng ni, tốn hao nhân lực và tiền của quá nhiều. Nay đến phiên Lý Phật Mã cũng noi gương bắt chước tiêu phí của cải sức lực để xây tháp cao, dựng chùa một cột, điện, đền lộng lẫy không khác gì cung vua, xây cất thêm hơn trăm chùa mới khiến trong nước chỗ nào cũng có chùa, am, trợ cấp bổng lộc, vải vóc, gạo thóc (trời mưa ra gạo thành đống trước sân chùa) cho những người ăn không ở rỗi giả hình dưới lớp áo nhà tu. Lê Văn Hưu nói: "Lý Công Uẩn lên ngôi mới có 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà đã lo dựng trước 8 chùa ở phủ Thiên Đức, trùng tu chùa đình ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn VSTK - 227


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

24

người ở kinh sư, tiêu phí của cải sức lực vô số kể vào việc dựng cộ đắp nền. Của cải đâu phải từ trời rơi xuống như gạo rơi ở trước sân chùa, sức lực đâu phải do quỷ thần biến hóa; của cải, công sức là mồ hôi, là nước mắt, là máu mỡ của người dân cùng khổ. Thu vét của cải, công lực của người dân bằng sưu cao, thuế nặng để tiêu xài hoang phí vào những chuyện xây cất như vậy mà lại gọi là làm việc phúc đức sao? Là người sáng nghiệp thì tự mình phải cần kiệm, làm gương cho con cháu không nên xa xỉ lười biếng ăn ở không nhưng, vậy mà Lý Công Uẩn lại đầu nêu như thế, chả trách đời sau (chỉ Lý Phật Mã) xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ phật tráng lệ lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có người hủy bỏ thân thể (chỉ việc hai nhà sư Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm làm lễ tự thiêu: lấy tro xương gọi là thất bảo đem thờ ở chùa Trường Thánh. Tự Đức phê phán việc nầy là "lầm lỗi quá lắm"), đổi cách ăn mặc, bỏ sản nghiệp thân thích không lo làm ăn, dân chúng quá nửa làm sư sải, tăng ni, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền. Như vậy nguồn gốc há chẳng phải từ đó sao?"(CM/CB.2/39 và ĐVSKTT/BK.2/3b). Năm 1041, khánh thành tượng phật vừa được đúc xong. Trước đó Lý Phật Mã đã sai tạc hơn một ngàn pho tượng phật, vẽ hơn một ngàn bức tranh phật và may thêu hằng chục ngàn cờ phướng để treo ở các chùa. (ĐVSKTT/BK.2II/29b và CM/CB.3/1). Với số tượng, hình và cờ nhiều như thế thì người ta có thể hình dung được con số hàng ngàn, hàng vạn ngôi chùa ở vào thời đó. * q Về việc đặt tôn hiệu của nhà họ Lý

35

Lý Phật Mã còn làm hơn Lý Công Uẩn nữa. Tôn hiệu đầu tiên của Phật Mã đã dài lê thê rồi, không thua gì tôn hiệu của Lý Công Uẩn, vậy mà năm 1039 lại tăng thêm 8 chữ Kim Dũng Ngân Sinh, Nùng Bình Phiên Phục (Vàng nổi, bạc sinh, dẹp họ Nùng, hàng phục nước lân cận [phiên] là nước Chiêm Thành). Lê Văn Hưu nói: "Vua chúa thích khoe khoan mới có tôn hiệu đến hơn vài chục chữ và dù vậy, thường thì cũng chỉ dựa vào công đức mà xưng tụng chứ chưa từng thấy có vua nào lấy đồ vật như vàng bạc và tên man di xen chắp vào. Phật Mã chịu nhận cho bầy tôi nịnh bợ luồng cuối dâng thêm 8 chữ Kim Dũng Ngân Sinh, Nùng bình Phiên Phục làm tôn hiệu thì trong việc khoe khoang lại thô bỉ nữa."

36

(ĐVSKTT/BK.2/28a)

25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

* 37 38

39 40

r Về nền luật pháp thời Lý Phật Mã người ta thấy gì? Trước khi ban hành bộ luật Hình thư thì mọi việc kiện tụng, xử án được Lý Phật Mã giao toàn quyền cho thái tử Lý Nhật Tôn và lấy điện VSTK - 228


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20

Quảng Vũ làm nơi xử kiện. Đây là một việc làm độc đoán, thất cách, gia đình trị, và dĩ nhiên là không dân chủ. Mặc dù ý niệm dân chủ chưa được truyền bá rộng rãi trong thời phong kiến nhưng Ngô Sĩ Liên cũng phải cảm thấy khó chịu về việc nầy: "Chức việc của thái tử, ngoài việc thăm hỏi hầu cơm cho vua cha thì khi tại triều gọi là giám quốc, khi đem quân đánh trận thì gọi là phủ quân chỉ có như thế thôi chứ chưa bao giờ nghe thấy được trao cho nhiệm vụ xử kiện kiểu đó. Phàm việc xử kiện được giao cho hữu ty. Thái Tông sai Khai Hoàng vương làm việc đó không phải là nhiệm vụ của một thái tử đã thế còn dùng điện Quảng Vũ làm nơi xử kiện thì lại là một việc làm thất cách không đúng chỗ." (ĐVSKTT/ BK.2 / 29a) ĐVSKTT(BK/II/31a) viết: "Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, chuộng xử nghiêm khắc, sai trái và lạm quyền, người dân thường phải chịu oan ức, Thái Tông lấy làm thương xót mới sai Trung thư(a) sửa định luật lệnh bằng cách tham bác và thêm bớt cho thích hợp với thời thế, chia ra môn loại, chép rõ điều mục, làm thành bộ Hình thư của một triều đại để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong có chiếu ban hành, tiện lợi cho dân chúng. Kể từ đó phép xử án mới được rõ ràng."

21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

KĐVSTGCM/CB.3/4 cũng viết giống như thế. Theo các đoạn đoạn viết vừa kể trên, thì từ các triều đại trước, tức là từ đời nhà Đinh, nhà Lê và đời Lý Công Uẩn đã có luật, lệnh thành văn nhưng chỉ là những sự qui định hổ lốn bác tạp và tản mác rất khó cho người giữ nhiệm vụ xử án áp dụng.

Có thể nhận định rằng: tất cả các luật lệnh qua các đời đều được chế tài bằng hình sự và khi được san định thành sách thì gọi là Hình luật hay Hình thư, trong đó bất cứ mộ điều lệnh hay một điều luật nào cũng có kèm theo một hình phạt. Đây là một sự hỗn đồng giữa luật pháp và hình pháp. Sự hỗn đồng nầy là do hậu quả của sự bắt chước chạy theo quan niệm về luật pháp của Trung Hoa. Ở thời cổ, người Trung Hoa quan niệm rằng luật đặt ra là chỉ nhằm mục đích áp dụng cho các dân tộc man di chưa được khai hóa ở các nước bị người Trung Hoa xăm chiếm bằng binh lực và đã biến các nước bị chiếm trở thành các thuộc địa của họ. Theo người Trung Hoa thời đó, đối với người dân của các bộ tộc man di nầy thì không thể khai hóa được bằng lễ nhạc mà phải dùng những hình phạt thật khe khắc, tàn độc để trừng phạt . Đem áp dụng quan niệm nầy, vào thời đại nhà Đinh, Đinh Tiên Hoàng (968-979) đã dùng uy lực khe khắc, tàn độc đó để cai trị người dân cho nên ra lệnh rằng: "Kẻ nào phạm tội thì bỏ vào nấu trong vạc dầu đun sôi hoặc bỏ vào chuồng cho hổ báo ăn thịt ". VSTK - 229


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Thời Tiền Lê, Lê Long Đỉnh (1005-1009) dùng nhiều hình phạt bạo ngược để giết người như lấy rơm tẩm dầu quấn tròn tội nhân rồi châm lửa đốt sống; bắt tù nhân trèo lên ngọn cây rồi ở dưới chặt cây cho tù nhân ngã chết; dùng dao cùn lóc thịt tội phạm từng mảnh một để‹ không thể chết ngay được mà phải đau đớn kêu la thảm thiết; nhốt tù binh vào chuồng rồi quăng xuống sông cho chết ngộp. Tất cả những loại hình pháp từ các đời Đinh và Tiền Lê đã được nhà Lý tiếp tục áp dụng cho đến lúc Lý Nhật Tôn được Lý Thái Tông giao cho nhiệm vụ "quan tòa" xử á tội phạm hình sự các vụ kiện tụng dân sự (1040/ thời Lý Phật Mã). Trong thời gian nầy, nhân khi khánh thành các tượng phật vừa mới tạc xong, Lý Thái Tông đã đại xá tha cho những người phạm tội đồ lưu, điều nầy có thể suy diễn rằng các triều đại trước đây có áp dụng hình phạt đồ lưu. Tiếp theo năm 1042, trước khi có bộ Hình Thư, Lý Thái Tông ra điều lệ cấm quan lại thu thuế phù lạm và bị xử hình phạt áp dụng cho tội ăn trộm. Quản giáp, chủ đô và người thu thuế nếu thu quá lệ đều bị xử phạt như tội ăn trộm. Khố ty thu thuế lụa, nếu ăn lễ lấy lụa của người ta thì cứ mỗi thước lụa phạt 100 trượng; mỗi tấm lụa phạt phối dịch một năm. Còn trên số đó thì cứ chiếu theo số tấm lụa đã lấy mà tăng thêm số năm phối dịch (KĐVSTGCM /CB.3/6). ĐVSKTT cũng chép như KĐVSTGCM nhưng lại có thêm lệnh phạt về tội đào ngũ (bỏ hàng ngũ quân đội đi trốn đi): "Xuống chiếu rằng các quan chức đô (quan chỉ huy binh đi) ai bỏ trốn thì phạt 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ và xử ti đồ. Quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm thì bi xử 100 trượng, thích mặt 50 chữ, chưa đến mộ năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử 100 trượng và bị thích mặt 10 chữ (ĐVSKTT/BK.2/ 33b). Các quân sĩ trước bị tội đồ nếu chạy trốn vào núi rừng đồng nội rồi lại đi ăn cướp của người thì xử 100 trượng, thích vào mặt 30 chữ. Người coi trấn mà bỏ trốn thì cũng phải tội như thế. Kẻ nào ăn trộm trâu của công thì xử 100 trượng, 1 con phạt thành 2 con. Phạt đánh 50 trượng những người vắng mặt trong buổi hội thề trung thành với nhà vua. Kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm với vợ người ta (vợ cả hay vợ lẽ) người chồng bắt gặp đánh chết ngay tại trận thì người chồng không phải tội." (ĐVSKTT/BK.2/ 30 a,b) Trong các lệnh xử phạt vừa kể trên, việc người chồng đánh chết kẻ gian dâm tại trận mà không bị xử phạt là một sự quy định khá đặc biệt vì nó tương tựa như trường hợp động "lực chính đáng" trong các nền luật pháp hiện đại tức là ở vào thời của Lý Phật Mã, luật pháp đã có chú trọng đến động lực của tội phạm đánh chết người. Bộ Hình Luật vào thời Lê Thánh Tông, thường được gọi là bộ luật Hồng Đức, sau nầy cũng có quy định tương tựa: "Chủ nhà đánh chết một người vô cớ đột nhập gia cư ban đêm thì không phải tội" (điều VSTK - 230


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

450 Luật Hồng Đức). Sự quy định nầy trong luật H.Đ còn khe khắc hơn: chi cần một người ban đêm vô cớ xâm nhập gia cư chứ không cần phải có thêm một hành động phạm pháp nào khác của kẻ xâm nhập. Ngoài ra còn có những điều lệnh cấm khác như: không được mua bán con trai dưới 18 tuổi (hoàng nam) để làm nô bộc tư gia. Kẻ trộm dùng sức đánh người để lấy của thì phải phạt 100 trượng, nếu chưa lấy được của mà làm người ta bị thương thì phải tội lưu. Luật đời nhà Lý cũng có định rõ thể lệ cho chuộc tội bằng tiền. Những người phạm vào tội thập ác (10 tội ác) thì không được tha, không cho dùng tiền để chuộc tội và gồm có: những người trong hạng tuổi 70-80 (nghĩa là dưới 70 thì không được áp dụng cho chuộc tội bằng tiền còn trên 80 tuổi thì sao?) và trong hạng tuổi 10-15 (dưới 10 tuổi thì sao?), những người có nhược tật (bệnh hao mòn, thân thể gầy yếu đi đứng không vững), những người thuộc họ nhà vua từ bậc đại công trở lên (anh em con chú con bác tức là hạng tang phục thứ 3 phải để tang 9 tháng). Sự quy định nầy chứng tỏ rằng trong Hình Thư (nay không còn) của nhà Lý có quy định 10 tội ác. Theo điều 2 của luật Hồng Đức/Lê Thánh Tông sao chép lại điều 2 của luật nhà Đường và luật Gia Long/nhà Nguyễn, sao chép lại điều 2 của luật nhà Thanh bên , thì 10 tội ác là : 1. Âm mưu phản quốc: mưu làm nghiêng đổ xã tắc và trong thời phong kiến có nghĩa là mưu hại nhà vua ; 2. Mưu đại nghịch: giết vua kể cả âm mưu phá hủy tôn miếu, sơn lăng, đền đài, cung điện, tức là mưu hại tổ tiên của nhà vua; mưu giết cha ; 3. Phản bội: theo giặc ; 4. Hung ác bạo nghịch: đánh đập hay âm mưu giết ông bà, cha mẹ, bác, chú, thím, cô, anh chị em, ông bà cha mẹ bên chồng ; 5. Bất đạo: vô cớ giết ba người trong gia đình mình, hủy hoại thân xác, bỏ thuốc độc, bùa mê để hại người ; 6. Đại bất kính: ăn trộm đồ thờ trong lăng miếu hoặc đồ ngự dụng (vật dụng của nhà vua), làm giả ấn tín của vua, pha chế thuốc cho nhà vua không đúng cách, nấu nướng các món ăn cho nhà vua không đúng tiêu chuẩn cấm đoán, không giữ gìn tu bổ thuyền của nhà vua, chỉ trích vua và không giữ lễ với sứ giả thay mặt nhà vua. 7. Bất hiếu: tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, không theo lời dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn ông bà cha mẹ; cưới hỏi, vui chơi, ăn diện, tiệc tùng trong lúc có tang cha mẹ; dấu tang ông bà cha mẹ để khỏi phải tỏ rõ sự tiếc thương; nói dối rằng mình đang chịu tang ông bà cha mẹ. 8. Bất mục: giết hay bán những người trong họ từ hàng để tang 3 tháng trở lên (từ hàng ty ma trở lên); đánh đập và tố cáo chồng và những người trong họ từ hàng tang tiểu công trở lên đến hàng đại VSTK - 231


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

công (tiểu công : họ hàng phải để tang 5 tháng, áo may bằng vải thô; đại công: để tang 9 tháng, áo may bằng vải thô). 9. Bất nghĩa: giết quan cai trị đang tại chức trong địa hạt; giết thầy dạy học của mình; được tin tang chồng mà không thương xót lại cứ vui chơi ăn mặc như bình thường cùng là lấy chồng khác. 10. Nội loạn: gian dâm với người trong họ từ hàng tang tiểu công trở lên hay với nàng hầu của cha ông. Các tội trong thập ác bị coi như là những tội quá độc ác vì vậy những trường hợp miễn giảm, khoan hồng, bát nghị (tức là 8 trường hợp nghị xét để giảm hình phạt), chuộc tội bằng tiền được dự liệu trong bộ luật đều không được phép áp dụng cho thập ác tội, dù phạm nhân đã quá 70 tuổi hay dưới 15 tuổi hoặc bị phế tật. Luật Hồng Đức cũng như luật Gia Long đã dành ưu đãi cho 8 hạng tội nhân do địa vị của họ trong xã hội và gọi là bát nghị, tức là 8 trường hợp được quan xử án cứu xét về địa vị, công trạng, tài năng của họ trong phiên xử. Tám trường hợp xét nghị nầy đều thấy trong cổ luật nhà Đường và nhà Thanh bên Tàu. Chiếu lệnh đời nhà Lý đã đề cập tới trường hợp thập ác, do đó có thể suy diễn rằng trong bộ Hình thư của nhà Lý chắc chắn phải có quy định trường hợp bát nghị chép lại từ luật của nhà Đường. Trong luật Hồng Đức, chương Danh lệ, điều 3 quy định 8 trường hợp nghị xét như sau: 1. Nghị thân: là họ tôn thất từ hàng đản miên (họ hàng nhà vua trong vòng 5 thế hệ) trở lên; họ hàng của hoàng thái hậu từ hàng phải để tang ty ma (3 tháng); họ hàng của hoàng hậu từ tiểu công (5 tháng) trở lên. Nguyên văn: "Nhứt viết nghị thân, vị hoàng đản miên dĩ thượng, thân hoàng thái hậu ty ma dĩ thượng, thân hoàng hậu tiểu công dĩ thượng thân". 2. Nghị cố: là những người cũ có công giúp triều đình lâu năm hoặc những quan lại từ các triều trước: "Nhị viết nghị cố, vị cố cựu". 3. Nghị hiền: người có đức độ lớn: "Tam viết nghị hiền, vị hữu đại đức hạnh". 4. Nghị năng: người có tài, có sự nghiệp lớn, có năng lực trong quân đội hoặc trong việc hành chánh cai trị: "Tứ viết nghị năng, vị hữu đại tài nghiệp". 5. Nghị công: những người có công trạng lớn trong việc quân: "Ngũ viết nghị công, vị hữu đại công quân". 6. Nghị quý: những quan chức sự từ tam phẩm trở lên, những tản quan (chức quan ít việc như quan dạy học, quan hàn lâm) hay quan lại từ nhị phẩm trở lên: "Lục viết nghị quý, vị cơ sự quan tam phẩm dĩ thượng, tản quan cập tước nhị phẩm dĩ thượng giã". 7. Nghị cần: những người siêng năng cần cù, chịu khó chăm chỉ: "Thất viết nghị cần, vị hữu đại cần lao". VSTK - 232


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

8. Nghị tân: những con cháu nối tiếp từ các triều trước, được coi là tân khách của triều sau: "Bát viết nghị tân, vị thừa tiên đại chi hậu vi quốc tân giả". Những ưu đãi trong trường hợp bát nghị như sau: Điều 4 luật Hồng Đức định rằng: Những ai thuộc 8 trường hợp vừa nói, nếu phạm tử tội, lúc xét án cho mỗi trường hợp thì trước hết phải tấu trình lên vua để vua xét định. Quan nghị án xét tình lý nghị tội theo như luật pháp quy định nhưng không được quyết định. Ai mắc tội lưu trở xuống thì giảm một bậc. Kẻ nào phạm tội thập ác thì không được cho áp dụng điều luật nầy. (Chư bát nghị giả phạm tử tội giai điều sở tọa, cập ứng nghị chi trạng, tiền tấu thỉnh nghị, định tấu tài [nghị giả nguyên tình nghị tội xứng định hình chi luật, chi chánh bất quyết chi]. Lưu tội dĩ hạ giảm nhất đẳng. Kỳ phạm thập ác giả, bất dụng thứ luật.) Điều 5 luật Hồng Đức cũng nới rộng sự biệt đãi để áp dụng cho các bà vợ của Hoàng Thái Tử (là người con được chỉ định để nối ngôi của vua cha) từ hàng đại công (để tang 9 tháng) trở lên. Nếu những người nầy phạm tội chết (tử hình) thì quan án cũng phải tâu lên vua xét định. Nếu đáng xử tội lưu (đài đi xa khỏi nơi đang ăn ở sinh sống) trở xuống, thì xử giảm đi một bậc. Phạm tội thập ác, giết người, gian dâm trong cung cấm, ăn trộm đồ đạt trong cung điện, ăn của hối lộ đút lót trái phép thì không áp dụng điều luật nầy. Điều 6 luật Hồng Đức định rằng: Họ hàng của vua, của hoàng thái hậu thuộc nghị thân thì được miễn tội đánh bằng roi, trượng, thích chữ mực lên mặt. Nếu là thân thuộc của hoàng hậu thì cho chuộc tội bằng tiền. (Chư nghị thân giả phạm tội, kỳ hoàng đế thân, hoàng thái hậu thân, xuy trượng thích mặc tịnh miễn. Hoàng hậu thân thính thục.) Đàn bà nhờ có chồng làm quan có phẩm trật nếu phạm tội thì được nghị giảm tùy theo phẩm trật của chồng. Tuy nhiên nếu phạm tội với ông bà cha mẹ chồng hay những người thân thích để tang từ bậc đại công trở lên thì không được hưởng sự áp dụng của điều luật đó. (Đ.7 Luật H.Đ) Luật Gia Long sao chép lại từ luật của đời nhà Thanh cũng quy định tương tựa như luật Hồng Đức đã sao chép lại từ luật của đời nhà Đường ở Trung Hoa. Như thế, bộ Hình Thư của nhà Lý, trong đó có 10 tội "thập ác" thì dĩ nhiên phải có bát nghị và 8 điều bát nghị nầy tất cũng chỉ là những sự sao chép lại từ luật lệ của Trung Hoa đã có từ trước cho đến đời nhà Đường. Trong phần Hình Luật Chí /LTHCLC, Phan Huy Chú có nhận xét: "Lệ bát nghị bắt đầu ở chương Thu quan (tên gọi một chức quan vào đời nhà Chu ở Trung Hoa) trong sách Chu Lễ (sách chép về chế độ quan quyền dưới đời nhà Chu), cốt để châm chước tình nghĩa, thẩm lượng công trạng, tài năng, là cách cân nhắc trong việc dụng hình và việc giáo hoá nhân luân, cho nên hình pháp ở các đời tiếp theo sau VSTK - 233


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

đều lấy tám điều ấy làm chuẩn để theo đó mà phán xét cũng như đối xử với những người có công lao danh vọng khi phạm tội ". Ở một nhận xét khác, Phan Huy Chú cũng viết: "Mục Tư khấu trong sách Chu lễ chép: phàm là người cùng họ với vua mà có tội thì không được xử tội ở chợ; phàm là mệnh phu mệnh phụ (quan ở cấp bậc cao như khanh, đại phu và sĩ; hoặc đàn bà có tước phẩm) thì không phải bị giam giữ ở ngục, vì lẽ yêu người thân, quý người sang để phân biệt với người thường. Đó là một chính sách lành mạnh phong tục, tạo đức liêm sĩ cho mọi người.. Luật văn đời sau đại khái cũng rập theo hướng ấy, cho nên những điều xét nghị áp dụng cho người thân người hiền đều có châm chước cả". (Phan Huy Chú/ LTHCLC/ Danh Lệ/ Hình Luật Chí). Ở phần viết về thập ác cũng có nhận xét: "Danh hiệu thập ác không phải từ xưa đã có, mà được đặt ra (ở Trung Hoa ) từ đời nhà Tề (479-502 TCN) và được kê rõ từ đời nhà Tùy. Nhà Đường noi theo, đặt làm luật lệnh, rồi các đời sau theo mãi ". Dư luận về sau đã đỗ xô khen tụng luật Hồng Đức của triều đại Lê Thánh Tông là tân kỳ, sáng tạo và chê bỏ bộ luật của Gia Long, cho rằng Gia Long đã sao chép lại luật lệ của người Mãn Thanh ở Trung Hoa không có gì mới mẻ, không có sự sáng tạo. Dư luận nầy là một dư luận thiên lệch có tính cách "bên thương bên ghét" bởi vì nếu xét cho tới tận cùng thì các nền luật pháp của các triều đại phong kiến ở Việt Nam từ thời cổ xưa cho đến đời Lê Thánh Tông, qua đầu đời các chúa Nguyễn rồi đến triều đại Gia Long đều lấy các nền luật pháp tàn độc của đám phong kiến phương Bắc để đặt lên đầu lên cổ của người dân Việt Nam chứ không riêng gì bộ luật Gia Long. *

27 28

29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

s

Các loại hình phạt dưới triều đại nhà Lý là những hình phạt nào ?

Như đã khảo luận ở phần trên, luật đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý cũng giống như luật lệ các triều đại nhà Hậu Lê/ Luật Hồng Đức, nhà Nguyễn/Luật Gia Long, gọi chung là cổ luật Việt Nam đã bắt chước những loại hình phạt trong cổ luật Trung Hoa gọi chung là ngũ hình (5 hình phạt). Năm hình phạt nầy đã có ở nước Trung Hoa từ đời thượng cổ và đã biến chuyển theo thời gian và lịch sử cho đến đời nhà Đường với bộ Đường Luật Sớ Nghị, gồm 30 quyển, 500 điều. Trong thời thượng cổ, người Trung Hoa đặt ra các hình phạt là chỉ để áp dụng riêng cho các dân tộc "man di, mọi rợ" trong các vùng lãnh thổ thuộc địa của nước Trung Hoa mà thôi còn người Hoa thì đã "văn minh tiến bộ rồi" cho nên không cần có những hình phạt đó. Lúc đó hình phạt cũng chia làm 5 loại rất khốc liệt : VSTK - 234


1 2 3 4 5 6 7

8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

1. Đại hình thi hành trong quân đội, áp dụng cho tội tử hình; 2. Xử chém bằng lưỡi búa (phủ việt); 3. Cắt bỏ một bộ phận của cơ thể của phạm nhân bằng lưỡi dao hay lưỡi cưa (đao cứ) ; 4. Chạm, đục lên mặt bằng đục hay bằng lưỡi khoan (toản lạc); 5. Đánh bằng roi da hoặc bằng gậy (tiên phốc). Thời Hoàng Đế (hay Huỳnh Đế, vua đầu tiên của người Trung Hoa) dựng nước (2700-2600 TCN) thì bỏ năm loại hình phạt cũ và lấy năm loại hình phạt của bộ tộc người Miêu để cai trị và áp dụng cho bộ tộc nầy. Năm hình phạt nầy cũng tàn độc không kém gì năm loại hình phạt đã có từ trước và gồm có : 1. Thích chữ vào mặt (Mặc) ; 2. Xèo mũi (Tỵ) ; 3. Chặt chân (Phi) ; 4. Cắt bỏ bộ sinh dục (Cung) ; 5. Tử hình (Đại tịch). Năm hình phạt nầy vẫn được tiếp tục áp dụng dưới các đời nhà Hạ, Thương. Dưới đời nhà Chu (khoảng năm 1050 TCN), bộ luật hình viết đầu tiên của Trung Hoa được ban bố. Đến đời nhà Tần, ngoài những hình phạt của người Miêu lại còn bày thêm nhiều hình phạt mới khốc liệt hơn như xử chém 3 họ (tru di tam tộc), phanh thây xé xát (thể giải). Các hình thức ác độc tương tựa như vừa kể đã được nhà Tiền Lê (Lê Long Đỉnh) đem ra áp dụng. Nhà Hán, ban hành bộ Cửu Chương Luật, bãi bỏ những hình phạt quá ác độc như chạm khắc lên mặt, xẻo mũi, chặt chân, thiến bỏ bộ sinh dục. Đến đời Võ Hậu lại bãi bỏ hình phạt chém 3 họ. Dưới thời nhà Ngụy, nhà Tùy các hình phạt của người Miêu chỉ còn được giữ lại ba hình phạt: roi da, gậy và tử hình . Đến đời nhà Đường, hình luật của người Trung Hoa mới phát triển các loại hình phạt đầy đủ và rõ ràng. Đây cũng là một bộ luật nền tảng mà các triều đại sau như Tống, Nguyên, Minh và Mãn Thanh bên Trung Hoa đã dùng để lập định các bộ luật của họ. Bộ Luật đời nhà Đường đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với cổ luật Việt Nam kể từ thời đại tự chủ.

*

VSTK - 235


3. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

LÝ THÁNH TÔNG ( 1054 - 1072 )

Tên húy là Nhật Tôn(1), mẹ họ Mai. Nhật Tôn lên ngôi tức là Lý Thánh Tông, đổi quốc hiệu là Đại Việt(2), tôn mẹ làm Kim Thiên hoàng thái hậu, đổi niên hiệu là Long Thụy Thái Bình. Cấp quan tước cho những cựu thần phục vụ ở đông cung(3) tùy theo thứ bậc; ban cho Bùi Văn Hựu làm Văn minh điện đại học sĩ(4) . Năm 1055, cải thiện chế độ nhà tù. Nước Chiêm Thành sang triều cống. Sứ nhà Tống sang giao hữu và tước phong cho Lý Thánh Tông làm Giao Chỉ quận vương. Năm 1056, nước Chân Lập sang triều cống; xuống chiếu tăng gia sản xuất nông nghiệp. Dựng chùa Sùng Khánh với tháp cao 12 tầng ở phường Bảo Thiên(5), trích trong kho một vạn hai nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Nhà vua tự làm bài minh(6) để ghi khắc vào chuông.. Năm 1057, sai sứ sang Trung Hoa giao hữu đáp lễ nhà Tống, đồng thời đem theo thú lạ(7) để làm quà biếu, Tống triều không nhận. Năm 1059, xảy ra những vụ tranh chấp và động binh ở các vùng phía Bắc giáp giới với Trung Hoa (8). Đặt kiểu mẫu triều phục, quy định quân hiệu(9). Năm 1060, lại tranh chấp, động binh ở biên giới phía Bắc(10). Xây cung điện ở cạnh hồ Dâm Đàm(11) để dùng làm nơi thưởng ngoạn, vui chơi. Năm 1061, tuyển chọn con gái từ ngoài dân gian, bắt 12 người để sung vào hậu cung. Năm 1064, cử sứ thần sang Trung Hoa mừng vua nhà Tống lên ngôi (Tống Anh Tông). VSTK - 236


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26

Năm 1065, lập con là Kiền Đức làm thái tử(12), phong cho mẹ của Kiền Đức là Ỷ Lan phu Nhân(13) làm thần phi nhưng lại thường hay gọi là nguyên phi(14). Năm 1066 thương gia ngoại quốc từ Gia Va (quần đảo Nam Dương) tới buôn bán(15). Năm 1067, bộ tộc Ngưu Hống(16) và nước Ai Lao mang vàng, bạc, trầm hương, sừng tê, ngà voi sang tiến cống. Sứ nhà Tống sang để tước phong Lý Thánh Tông chức Nam Bình Vương. Cũng trong năm nầy bổ nhiệm và cấp lương bổng cho những quan lại giữ việc hình ngục(17). Năm 1069, Lý Thánh Tông đích thân cầm quân sang xăm lăng nước Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ(18) và dân chúng đem về. Chế Củ phải chịu mất ba châu Địa Lý(19), Ma Linh(20), Bố Chính(21) để được tha cho trở về nước. Cuối năm 1070, lập Văn Miếu(22), tạc tượng Chu Công, Khổng Tử(23), cùng với Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử(24) cùng vẽ hình 72 người học trò giỏi của của Khổng Tử(25) và cho hoàng thái tử Kiền Đức đến nơi đó để học tập. Năm 1071, sứ Chiêm Thành sang dâng lễ cống. Cùng năm đó, quy định lễ nộp tiền chuộc tội theo thứ bậc khác nhau(26). Năm 1072, Lý Thánh Tông mất ở điện Hội Tiên, miếu hiệu là Thánh Tông, ở ngôi 17 năm, thọ 50 tuổi. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN

27 28 29 30 31 32 33

Lý Nhật Tôn: là Khai Hoàng vương, con trưởng của Lý Thái Tông. (2) Đại Việt: trước kia nhà Đinh thống nhất lãnh thổ đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt và các triều đại sau đều vẫn giữ nguyên quốc hiệu đó cho đến đời Lý Thánh Tông mới đổi là Đại Việt. (3) Đông Cung: là chỗ ở của một người con vua được lập làm thái tử để kế ngôi vua cha. Sách kể chuyện thần thoại Thần dị kinh viết rằng: (1)

VSTK - 237


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

ở ngoài khơi biển Đông có một hòn đảo lớn gọi là Đông Minh, trên hòn đảo đó có lầu đài cung điện xây bằng đá xanh và treo một bản hiệu viết hàng chữ "Thiên địa trưởng nam chi cung" có nghĩa là cung điện dành cho con trai trưởng của trời đất. Vì thế mới gọi thái tử là Đông cung hoàng tử. (4) Văn minh điện đại học sĩ: một chức quan văn do Lý Thái Tông đặt ra. Sử cũ không thấy nói rõ về chức chế của ngạch quan nầy. LTHCLC/Quan Chức Chí / Phan Huy Chú cho biết: Quan chế triều Lý đại lược văn võ đều có 9 phẩm trật. . .Phía quan văn có bộ thượng thư, tả hữu tham tri. . .bộ thị lang, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sứ, điện học sĩ, hàn lâm học sĩ. . .Các chức kể trên đều là những chức quan trọng làm việc ở trong triều. (5) Tháp Bảo Thiên: ở thôn Tiên Thị, huyện Thọ Xương, Hà Nội; ngày nay dấu vết vẫn còn. (6) Bài minh: bài văn khắc trên các đồ kim loại như lư đồng, chuông đồng hoặc trên các bia bằng đá. (7) Thú lạ: ĐVSKTT viết: "Sai sứ đem con thú lạ sang biếu nhà Tống và nói là con lân. Tư Mã Quang nói: nếu là con lân thực mà xuất hiện không đúng thời thì cũng chẳng lấy gì làm điềm tốt, nếu không phải lân, thì làm cho người phương xa chê cười". KĐVSTGCM cũng viết: "Đem con thú lạ sang biếu nhà Tống nhưng nói gạt đó là con lân." (8) Tranh chấp và động binh: ĐVSKTT viết: Mùa Xuân, tháng 3 (năm Kỷ Hợi/1059) đánh Khâm Châu của nhà Tống, đe dọa khiêu khích, diễn võ dương uy rồi về vì ghét nhà Tống phản phúc tráo trở. KĐVSTGCM cũng viết như thế. Lý do động binh là vì ghét nhà Tống phản phúc tráo trở nhưng không cho biết nhà Tống tráo trở về chuyện gì. (9) Đặt kiểu mẫu triều phục và quy định quân hiệu: *Kiểu mẫu triều phục: quy định kiểu mũ nón phải đội và giày hia phải mang cho các quan khi vào chầu vua, rập theo kiểu của người Tàu đời nhà Đường gọi là mũ phốc đầu còn gọi là mũ cánh chuồn. *Quy định quân hiệu: tức là đặt tên hiệu quân binh tùy theo từng loại, ngành và gồm có: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Phụng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiệp, chia thành tả quân, hữu quân, trên trán quân sĩ đều thích chữ "Thiên tử quân ". Sách Vân Đài Loại Ngữ Lê Quý Đôn trích dẫn truyện Thái Diên Khánh như sau: "Diên Khánh từng bắt chước theo cách tổ chức và phép dùng binh của An Nam: bộ đội chia ra cho 9 tướng chỉ huy trong đó gồm có nhiều binh chủng như chính binh (quân chính quy), cung nỏ (chuyên môn bắn cung tên), kỵ binh (quân cưỡi ngựa). Tướng chỉ huy từ quân bộ đến quân kỵ khí giới đều giống nhau, gộp lại thành 100 đội chia thành tả (cánh trái), hữu (cánh phải), tiền (đi đầu), hậu (phía sau). Mỗi đội đều có quân trú chiếm (chiếm đóng và giữ) và VSTK - 238


20

quân tác chiến (tấn công). Còn người và ngựa của quân Phiên thì chia riêng làm đội khác nhau không cho lẫn lộn với quân khác để phòng sự biến loạn, gần đâu thì cho lệ thuộc vào đó. Quân già yếu thì đóng giữ thành trại. Diên Khánh đem binh pháp ấy trình bày tường tận với vua nhà Tống, vua Tống (Tống Thần Tông/1068-1085) khen là hay. Binh pháp của triều Lý được Trung Quốc bắt chước theo như thế". Vua Tự Đức /KĐVSTGCM phê rằng truyện Diên Khánh là viết láo, không thực. (10) Tranh chấp, động binh ở vùng biên giới phía Bắc giáp ranh nước Tàu: ĐVSKTT viết: "Mùa Xuân, năm Canh Tý (1060), châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đi bắt những binh lính bỏ trốn vào đất Tống, bắt được chỉ huy sứ của Tống là Dương Bảo Tài với binh lính và trâu ngựa đem về. Mùa Thu, tháng 7, quân Tống sang xăm lấn, không được phải cử sứ giả đến Ung Châu đàm phán yêu cầu nhà Lý trả lại chỉ huy sứ Bảo Tài nhưng Lý Thánh Tông không thuận nghe theo" (BK/3I/ 2b). Chuyện nầy vua Tự Đức cũng cho là sử cũ viết láo, không thể tin được (KĐVSTGCM/CB.3/24) (11) Hồ Dâm Đàm: đời Lê đổi gọi là Tây Hồ tức là Hồ Tây tỉnh Hà Nội ngày nay. (12) Kiền Đức: tức là Lý Nhân Tông.

21

(13)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19

36

Ỷ Lan phu nhân: ĐVSKTT viết: "Tục truyền rằng vua nhân đi chơi các nơi chùa quán cúng khấn cầu tự nhưng chưa thấy hiệu nghiệm. Vua đi tới nơi nào thì trai gái đều đổ xô đến xem nườm nượp, duy chỉ có một người con gái hái dâu cứ đứng nép mình trốn trong bụi cỏ lan. Vua thấy thế mới gọi đưa vào cung, được vua yêu thương đặc biệt và phong làm Ỷ Lan phu nhân. Bấy giờ vua (Lý Thánh Tông) đã lớn tuổi nhưng chưa có con trai nối dõi, sai chi hậu nội nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan phu nhân có mang sinh hoàng tử Càn Đức tức Lý Nhân Tông. ( tục truyền vua muốn có con trai, sai Nguyễn Bông đem hương cầu đảo ở chùa Thánh Chúa. Nhà sư hướng dẫn bày cho Nguyễn Bông cách làm cho người thụ thai, Nguyễn Bông áp dụng theo sự bày vẽ của nhà sư, việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa.. Người đời sau gọi chỗ ấy là Đồng Bông. Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm (nay thuộc Hà Nội), Đồng Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay hãy còn" (BK.3/3a).

37

(14)

22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

38 39 40 41

Thần phi, nguyên phi: thần phi là người phi được vua yêu chuộng, nguyên phi là người phi đứng đầu các hàng phu nhân. Dưới chế độ phong kiến, những người vợ của vua có nhiều cấp bậc khác nhau: vợ cả gọi là hoàng hậu, dưới hoàng hậu có ba người vợ nữa gọi là phi hoặc phu nhân.

VSTK - 239


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Buôn bán: ĐVSKTT viết: "lái buôn người Trão Oa (phiên âm tên quần đảo Java, Nam Dương) dâng ngọc châu dạ quang, trả tiền giá một vạn quan." (16) Bộ tộc Ngưu Hống: một bộ tộc người Thái ở vùng Sơn La. Trong tộc ngữ Thái có chữ Ngù Háu có nghĩa là con rắn hổ mang. Ngưu Hống ngày nay là Yên Châu, tỉnh Hưng Hóa. (17) Cấp lương bổng cho các quan coi việc hình ngục: LTHCLC/Quan chức chí/Lệ cấp bổng lộc/ Phan Huy Chú viết: "Lý Thánh Tông, năm Long Chương thứ 2 (1067), cấp bổng lộc cho các quan Đô hộ phủ sĩ sứ mỗi người mỗi năm 50 quan tiền, 100 bó lúa và cá muối mọi thức; cho ngục lại mỗi người 20 quan tiền, 100 bó lúa để cho họ giữ gìn đức liêm khiết ". Ngô Thời Sĩ nói:" Thời Lý các quan trong ngoài đều không có lương bổng. Quan trong thì bất chừng vua thưởng cho, quan ngoài thì giao cho dân ngoài một vùng để thu thuế ruộng đất, hồ ao để hưởng lợi. Đến đây các hình ngục quan mới được cấp bổng hằng năm ". (18) Chế Củ: tức vua Chiêm Thành Rudravarman thứ IV. (19) Châu Địa Lý: xưa là đất Việt Thường; đời nhà Tống là châu Địa Lý của Chiêm Thành; nhà Lý đổi là Lâm Bình; nhà Trần là Tân Bình; thời thuộc Minh vẫn là châu Tân Bình; nhà Lê đổi là Tiên Bình; nay là huyện Lệ Ninh thuộc tỉnh Quảng Bình. (20) Châu Ma Linh: nay là huyện Bến Hải, tỉnh Quảng Trị. (21) Châu Bố Chính: nay là đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. (22) Lập Văn Miếu: ở về phía Nam Thăng Long thành, nay là Văn Miếu Hà Nội. (23) Khổng Tử: (551-479 TCN), tên là Khưu, người nước Lỗ ( nay thuộc tỉnh Sơn Đông bên Trung Hoa, làm quan Đại tư khấu coi việc hình sự thăng lên đến hàng nhiếp tướng nhưng sau bị vua Lỗ không trọng dùng nên phải bỏ đi và lân la trong gần 15 năm sang các nước chư hầu tìm đường làm quan nhưng cũng chẳng được nơi nào trọng dụng. Khổng Tử quay trở về nước Lỗ thu dụng và dạy học trò, chép Kinh Thi và viết sách Xuân Thu. Khổng Tử không phải là người sáng lập ra Nho giáo nhưng chỉ viết lại, tăng bổ và sắp đặt thành hệ thống những lời dạy bảo của những người có đạo đức từ đời thượng cổ để truyền dạy cho những người học trò riêng của mình. Về sau, người ta vẫn coi Khổng Tử như là sư tổ của Nho giáo. (24) Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử: là 4 người học trò lớn của Khổng Tử cũng được thờ phụng ở Văn Miếu cùng với Khổng Tử. *Tăng Tử tên là Sâm tự Tử Dư, viết sách Hiếu Kinh chép những lời dạy của Khổng Tử về đạo hiếu. Trong 4 người nầy, Mạnh Tử là người nổi bật. *Mạnh Tử (372-289 TCN) tên là Kha, người đất Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) vào thời Chiến quốc, học trò của Tử Tư (cháu đích (15)

VSTK - 240


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

tôn của Khổng Tử ), chép sách Trung Dung một bộ sách trong Tứ Thư. (Tứ Thư gồm có: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử ). Mạnh Tử thấu hiểu đạo lý của Khổng Tử, có tài hùng biện, thường đi khắp các nước chư hầu để truyền bá các tư tưởng cứu đời của người xưa nhưng cũng giống như thân phận của Khổng Tử, Mạnh Tử chẳng được nước nào trọng dụng. Lúc về già, Mạnh Tử thấy rằng các tư tưởng cứu đời trong đạo đó khó có thể thực hành được trên thực tế cho nên lại quay trở về nước mình dạy học và viết ra sách Mạnh Tử. (25) 72 học trò giỏi của Khổng Tử: sử sách cũ gọi là Thất thập nhị hiền, bảy mươi hai người hiền triết. (26) Lệ nộp tiền để chuộc tội: cuối năm 1042 triều Lý Thái Tông đã định rõ thể lệ cho chuộc tiền như sau: " Phàm dân chúng, người nào từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người có tật nguyền và người có họ hàng thân thuộc với nhà vua mà phải để tang từ hạng đại công trở lên (để tang 9 tháng), nếu phạm tội thì cho chuộc tội nhưng nếu phạm một trong thập ác tội thì không được theo lệ nầy ". (xem lại Lý Thái Tông, trang 281/ chú thích 21 và phần khảo luận số 5, trang 286 về nền luật pháp thời Lý Phật Tử). Nay dưới triều Lý Thánh Tông lại định thêm: người được cho phép chuộc tội phải tuỳ theo thứ bậc tội nặng nhẹ mà phải nộp tiền nhiều hay ít. KHẢO LUẬN:

21 22

23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

n Về việc tranh chấp và động binh ở vùng giáp giới với nước Trung Hoa trong những năm 1059, 1060 Ngô Thời Sĩ trong Việt Sử Tiêu Án đã suy diễn việc động binh đó như sau: "Trong khoảng thời gian đó nhà Tống sai sứ sang tước phong (1055) rồi Lý Thánh Tông lại cho người sang Tống để đáp lễ (1057), chưa thấy có chuyện gì gọi là phản phúc tráo trở; hay có thể là việc xuất quân sang Khâm Châu là ý định của Lý Thái Tông từ trước nay Lý Thánh Tông muốn thực hiện ý định của cha mình, muốn thử sức về mặt quân sự với Tống nhưng chưa làm được đấy thôi ". Có thể Ngô Thời Sĩ đã tham chiếu việc Nùng Trí Cao làm phản (1052) từ thời Lý Thái Tông để suy diễn như thế. Về việc phản loạn của Nùng Trí Cao ĐVSKTT viết như sau: "Nhâm Thìn (1052). Mùa hạ, tháng 4, Nùng Trí Cao làm phản, tự xưng là Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam, tràn sang đất Tống cướp phá trại Hoành Sơn (nay là huyện Hoành, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc), vây hãm các châu Ung, Hoành, Quý, Đằng, Ngô, Khang, Đoan, Củng, Tầm (tất cả châu nầy nay đều thuộc tỉnh Quảng Tây) "(BK.2/ 38a). "Vua nhà Tống lo sợ. Vua (Lý Thái Tông) xin đem quân đánh giúp, vua Tống chấp thuận nhưng sau đó tướng nhà Tống là Địch Thanh đã phân tích lợi hại về nguy cơ quân nước ngoài lấy cớ VSTK - 241


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

38 39

đem quân vào giúp rồi nhân cơ hội đó mà dấy loạn. Lời cố vấn của Địch Thanh khiến cho vua Tống thay đổi ý kiến và xuống chiếu hủy bỏ cuộc viện binh của vua (Lý Thái Tông) và giao cho Địch Thanh đem quân đánh dẹp khiến cho Nùng Trí Cao phải đốt thành trốn chạy."(BK.2/ 39a)."Mùa Đông, tháng 10, năm Quý Tỵ (1053), Nùng Trí Cao sai người đến vua Lý Thái Tông cầu quân để chống với quân của Địch Thanh. Vua xuống chiếu cho chỉ huy sứ Vũ Nhị đem quân cứu viện. Địch Thanh lại đánh tan quân của Nùng Trí Cao. Trí Cao chạy sang nước Đại Lý; người nước Đại Lý bắt và chém đầu Trí Cao nạp cho vua Tống . . . Mẹ , em và con của Trí Cao đều bị giết. Họ Nùng bị diệt từ đấy"(ĐVSKTT/BK.2/ 38b và KĐVSTG CM/ CB.3/ 16). * Khách quan mà xét thì vua nhà Tống là người rất khôn ngoan sáng suốt, đã biết nghe theo lời cố vấn can ngăn của bề tôi, còn Địch Thanh là một tướng giỏi có mưu lược và biết phòng xa. Việc vua Tống hủy bỏ sự cứu viện quân sự của ngoại bang là một hành động chính đáng và kịp thời không có gì gọi là tráo trở phản phúc như sử cũ (ĐVSKTT) đã viết để che dấu hành động chiến tranh gây hấn ở biên giới của Lý Thánh Tông vào năm 1059 với lý do là lỗi ở nhà Tống trước đây (1052) đã tráo trở phản phúc với cha mình (Lý Thái Tông). Xét cho cùng, chính Lý Thái Tông mới là kẻ tráo trở phản phúc: lúc đầu thì tình nguyện đem viện binh sang giúp vua Tống để đánh dẹp Nùng Trí Cao nhưng khi vua Tống bãi bỏ việc viện binh thì lại hùa theo và giúp quân cho Nùng Trí Cao đánh với quân nhà Tống. Tại sao lại có sự thay lòng đổi dạ, sớm đầu tối đánh như thế ? Bởi vì dưới chiêu bài cứu viện, Lý Thái Tông nhất định đã có một ý đồ đen tối khác: nhân cơ hội để tiến chiếm lãnh thổ của nhà Tống. Ý đồ “làm loạn” nầy của Lý Thái Tông có lẽ bị Địch Thanh khám phá ra cho nên vua Tống đã nghe theo lời cố vấn của Địch Thanh mà bãi bỏ không nhận sự cứu viện và không cho đoàn quân của Lý Thái Tông tràn qua lãnh thổ của mình. Bị lộ chân tướng phản phúc tráo trở, năm 1053 Lý Thái Tông đã về hùa với Nùng Trí Cao để đánh Tống. Quân của Lý Thái Tông do tướng Vũ Nhị chỉ huy hợp với tàn quân của Nùng Trí Cao đã bị tướng Địch Thanh nhà Tống chận đánh tan vỡ. Trí Cao phải chạy trốn qua nước Đại Lý và chết ở đó còn thân thuộc thì bị người của vua Tống truy lùng bắt trọn hết ngay trên lãnh thổ của nước Đại Ly. Sử cũ không thấy đá động gì tới việc bại trận nhục nhã đầy tai tiếng của Lý Thái Tông mà chỉ viết ra sự thua chạy của Nùng Trí Cao. * o Một nghi vấn về việc Nùng Trí Cao làm phản rồi dấy động xâm chiếm đất của nhà Tống:

VSTK - 242


1 2 3

4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Nùng Trí Cao có làm phản thực sự hay chỉ là một trò mưu mẹo sắp xếp giả trá của triều đình nhà Lý để bành trướng lãnh thổ sang đất Tống? ĐVSKTT viết: "Năm ấy (1042), Nùng Trí Cao cùng với mẹ là A Nùng từ động Lôi Hỏa lại về chiếm cứ châu Thảng Do, đổi châu ấy làm nước Đại Lịch. Vua sai tướng đi đánh, bắt sống được Trí Cao đem về kinh sư. Vua thương tình vì cha là Tồn Phúc và anh là Trí Thông đều đã bị xử tội chết nên tha tội, lại cho giữ châu Quảng Nguyên như cũ, lại phụ thêm cho 4 động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và châu Tư Lang nữa " (ĐVSKTT\ BK.2/30a). Ngoài ra Lý Thái Tông còn ban cho Trí Cao ấn tín, phong cho làm Thái Bảo và cuối năm 1044, Thái Bảo Nùng Trí Cao vẫn còn về chầu vua. Rồi không hiểu vì lý do gì, năm 1048 Trí Cao lại làm phản chiếm giữ động Vật Ác rồi lại đầu hàng nhưng không thấy ĐVSKTT nói gì tới việc xử phạt hay tha tội việc làm phản lần nầy. KĐVSTGCM thì viết rằng Trí Cao giữ động Vật Ác, làm phản, tiếm xưng là nước Đại Nam, Lý Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh không được, phải rút về và Trí Cao xin phụ theo nhà Tống nhưng vua Tống không nhận. Trí Cao bèn cùng đồ đảng định mưu lấn cướp lãnh thổ của nhà Tống, đánh hãm được Ung Châu (KĐVSTGCM/CB.3/13). Đoạn nầy KĐVSTGCM viết ở thời điểm năm 1048 trong khi việc Trí Cao lấn chiếm đất Tống được ĐVSKTT viết ở thời điểm năm 1052. Như vậy, nếu theo KDVSTGCM thì Trí Cao chưa bị Lý Thái Tông khuất phục và đầu hàng trong lần tạo phản năm 1048 hay nói khác đi, lần nầy đoàn quân bình định dẹp loạn của Lý Thái Tông đã bại trận và sử cũ đã ém nhẹm việc thất bại rồi viết ngược lại bằng cách dùng các hiện tượng thần ma quỷ quái để phù trợ cho đoàn quân của Quách Thịnh Dật: "Nùng Trí Cao làm phản, chiếm giữ động Vật Ác. Sai thái úy Quách Thịnh Dật đi đánh. Vừa mới giao chiến thì trời đất bỗng tối tăm, rồi có sấm sét nổi lên đánh vào trong động, thân thể các tù trưởng động ấy bị xé tan, cả động kinh hãi. Trí Cao phải hàng"(ĐVSKTT/BK.2/37a). Nếu Trí Cao đã xin hàng nhà Lý thì lý do gì mà sau đó lại xin hàng nhà Tống ? Có thể suy diễn về việc làm phản và đánh Tống của Nùng Trí Cao như sau : Suy diễn 1: Động Vật Ác cũng nằm trong tỉnh Cao Bằng với những châu, động mà Lý Thái Tông ban cho Nùng Trí Cao cai quản. Trí Cao muốn bành trướng vùng lãnh thổ cai quản của mình cho nên mới lấn chiếm động Vật Ác có thể là do một động trưởng khác do Lý Thái Tông giao cho trách nhiệm cai quản. Hành động của Trí Cao bị coi như là một sự phản nghịch cho nên năm 1048 Lý Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh nhưng bị quân của Trí Nông đánh bại, phải VSTK - 243


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42

rút về. Đến năm 1052 Trí Cao tràn sang đánh chiếm Ung Châu và Quế Châu của Nhà Tống rồi tung quân đi cướp bóc khắp nơi. Như thế, trong 4 năm khoảng từ 1048 đến 1052, Nùng Trí Cao đã tách rời khỏi triều đình nhà Lý, chiếm thêm đất nhà Tống rồi lập ra nước Đại Nam tự lên ngôi hoàng đế và đưa thư xin thần phục nhà Tống để được làm tiết độ sứ cai quản Ung Châu và Quế Châu. Vua Tống đã muốn nhận cho Trí Cao đầu hàng nhưng tướng Địch Thanh đã ngăn và xin cầm quân đánh dẹp. Trí Cao bị Địch Thanh đánh thua phải chạy sang nước Đại Lý (nay là tỉnh Vân Nam) nhưng bị người của nhà Tống truy tìm và tiêu diệt hết dòng họ Nùng. Suy diễn 2: Có thể khi Trí Cao bị Địch Thanh đánh bại đã chạy sang trốn tránh ở nước Đại Lý và nhờ nước Đại Lý giúp để đánh lại quân Tống nhưng không được, lại bị người của Đại Lý bắt giết và giao nạp cho nhà Tống: có thể những nhà viết sử về đời nhà Lý đã viết lệch lạc đi: thay vì viết Nùng Trí Cao nhờ nước Đại Lý viện binh, thì lại viết Trí Cao xin nhà Lý (lúc đó là Lý Thái Tông) giúp quân với mục đích che đậy hành động thừa cơ hội Trí Cao trốn chạy để đem quân tràn sang đánh chiếm Ung Châu và Quế Châu nhưng lại bị Địch Thanh đánh bại và lần bại trận nầy của Lý Thái Tông sử cũ đã dấu nhẹm đi không nói tới. Sử Cương Mục Tục Biên của Trung Hoa viết về Nùng Trí Cao như sau: "Trí Cao đánh phá Ung Châu, chiếm được châu lỵ và tự xưng là Nhân Huệ hoàng đế, đổi niên hiệu là Khải Lịch rồi tiếp tục quấy phá cướp bóc nhiều châu huyện khác khiến dân chúng phải khiếp sợ bỏ chạy. Các châu Hoàng, Quý, Đăng, Ngô, Khang, Đoan, Cung, Tầm đều bị chiếm cứ rồi đến Quảng Châu cũng bị vây hãm nhưng không thể hạ nổi nên Trí Cao rút về trú giữ Ung Châu. Vua Tống hay tin liền cử Dư Tỉnh, Dương Điền, Tôn Miện tìm cách dẹp loạn nhưng không thể nào đánh bại Trí Cao. Trí Cao đưa thư xin làm tiết độ sứ ở Ung Châu và Quế Châu, vua Tống đã toan nhận nhưng Địch Thanh ngăn lại và xin cầm quân đánh dẹp Trí Cao. Trí Cao thua chạy sang nước Đại Lý. Hai năm sau Dư Tỉnh lùng bắt được mẹ, em và con của Trí Cao rồi cho người sang tận nước Đại Lý truy nã Trí Cao nhưng bấy giờ Trí Cao đã chết. Người Tống lấy đầu Trí Cao mang về Kinh đô rồi tru diệt hết gia đình họ hàng họ Nùng. Họ Nùng bị diệt từ đấy". Không thấy sách nầy nói việc Trí Cao xin viện binh với Lý Thái Tông mà cũng không thấy đề cập tới việc quân Tống và quân nhà Lý đánh nhau trong vụ Nùng Trí Cao. Lời cẩn án trong KĐVSTGCM viết: "Nếu đích thật nhà Lý đã đem quân ra ngoài biên giới đánh nhau với Tống thì việc biên cương là trọng đại, nhà Tống có lẽ nào lại dìm đi được hay sao? Đoạn nầy sử cũ ghi chép mờ ám, cứ để đó, sẽ khảo sau." (KĐVSTGCM/CB.3/18). * VSTK - 244


p Về việc Ỷ Lan phu nhân có thai sau khi Lý Thánh Tông sai chi hậu nội nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Đây là một sự thai nghén sinh đẻ mờ ám khác trong vương tộc nhà Lý. Việc sinh đẻ lần nầy cũng lại do các nhà sư nhúng tay vào để làm cho làm Ỷ Lan phu nhân mang thai và sinh ra Càn Đức (Lý Nhân Tông). Thật là lạ lùng và quái dị khi một ông sư ở chùa Thánh Chúa lại dạy cho Nguyễn Bông cách thức làm cho một người đàn bà có thai gọi là đầu thai thác hóa và sau đó không biết Nguyễn Bông áp dụng như thế nào mà lại khiến cho Ỷ Lan phu nhân mang thai. Sử cũ viết rằng sau đó việc bị phát giác, Nguyễn Bông bị Lý Thánh Tông xử chém ngay ở trước cửa chùa. Nguyễn Bông đã làm chuyện xằng bậy gì mà phải bị tội chém đầu ? Phải chăng các ông sư ở chùa Thánh Chúa đã dàn xếp để cho Nguyễn Bông ăn nằm với Ỷ Lan phu nhân mà sử cũ gọi là đầu thai thác hóa (ủy thác cho người khác không phải là chồng mình làm cho thụ thai). Như vậy có phải người cha sinh lý của Càn Đức là Nguyễn Bông? Chuyện sinh đẻ lần nầy so với chuyện sinh đẻ ra ông tổ vương tộc nhà họ Lý (Lý Công Uẩn) thì cũng không khác xa nhau nhiều. Đến năm 1068, đến lược hoàng tử Minh Nhân sinh ra thì sử cũ lại chú rằng "không rõ tên" và "đó là người em cùng mẹ với Càn Đức" (ĐVSKTT/BK.3/4b); như thế tức là mẹ của Minh Nhân là Ỷ Lan, nhưng cha của người con đó có phải là Lý Thánh Tông không? Nếu không phải, mà Nguyễn Bông cũng không còn, vậy thì người cha sinh lý của Minh Nhân là ai? Không lý Ỷ Lan cũng ăn nằm với thần nhân để sinh ra Minh Nhân giống như mẹ của Lý Công Uẩn ngày trước?

4. 25 26 27 28 29 30 31

LÝ NHÂN TÔNG ( 1072 - 1127 )

Hoàng thái tử Càn Đức mới được 7 tuổi lên ngôi trước linh cửu tức là Lý Nhân Tông, đổi niên hiệu mới là Thái Ninh năm thứ 1, tôn vợ cả của Lý Thánh Tông là Dương thị làm hoàng thái hậu và tôn mẹ đẻ là Ỷ Lan làm hoàng thái phi. Lý Nhân Tông còn nhỏ, thái hậu họ Dương cầm quyền nhiếp chính với thái sư Lý Đạo Thành(1) làm phụ chính. VSTK - 245


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Năm 1073, Ỷ Lan ganh ghét gièm pha xúi giục Lý Nhân Tông bắt giam, rồi bức chết hoàng thái hậu họ Dương rồi đưa Ỷ Lan lên thay thế gọi là Linh nhân hoàng thái hậu(2). Sứ nhà Tống sang sách phong Lý Nhân Tông làm Giao Chỉ quận vương. Giáng chức Lý Đạo Thành xuống làm Tả gián nghị đại phu rồi đưa xuống làm tri châu Nghệ An(3). Năm 1074, lại dùng Lý Đạo Thành làm Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự(a) . Năm 1075, tuyển lấy những người minh kinh bác học(b) và mở kỳ thi nho học tam trường(4), Lê Văn Thịnh đỗ đầu, được lựa chọn vào hầu để trông lo việc giáo dục của vua. Tháng 8, mùa Thu năm Ất Mão (1075), sai Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành nhưng không đánh thắng mà chỉ vẽ được bản đồ 3 châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh rồi rút quân về. Sau đó Ly Nhân Tông đổi Địa Lý làm châu Lâm Bình, Ma Linh làm châu Minh Linh rồi chiêu mộ di dân đến các nơi đó ở. Phong cho Lý Thường Kiệt chức Thái úy. Tháng 11, mùa Đông năm Ất Mão (1075), sai Lý Thường Kiệt, Tôn Đản đem quân sang đánh nhà Tống, phá được Khâm Châu, Liêm Châu; Tôn Đản vây hãm Ung Châu. Đô giám tỉnh Quảng Tây là Trương Thủ Tiết đem quân đến giải cứu Ung Châu nhưng bị Lý Thường Kiệt chận đánh ở cửa ải Côn Luân, chém chết Trương Thủ Tiết tại trận. Ung Châu bị quân nhà Lý chiếm đóng vào tháng Giêng mùa Xuân năm Bính Thìn (1076), tàn sát hết dân chúng trong thành. Lý Thường Kiệt cùng với Tôn Đản bắt sống người ở 3 châu ấy làm tù binh rồi kéo quân về. Lý do của cuộc chiến nầy là vì nhà Tống, thừa cơ hội quân nhà Lý bị suy yếu mỏi mệt sau khi đánh dẹp Chiêm Thành ở 3 châu Ma Linh, Bố Chính, Địa Lý, muốn đưa quân sang VSTK - 246


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

xâm lăng nhưng Lý Nhân Tông biết được mưu đồ đó cho nên mới ra tay trước, sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản thống lĩnh hơn trăm ngàn quân binh sang đánh các châu Khâm, Liêm, Ung của nhà Tống. Tháng 4, mùa Hạ năm Bính Thìn (1076), lập Quốc Tử Giám và tuyển bổ những quan văn có học vào đó đồng thời cũng lựa chọn nhân sĩ trong nước để cai quản quân và dân. Tháng 12, mùa Đông, năm Bính Thìn (1076), quân nhà Tống dùng Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó sứ cùng với 9 tướng khác liên minh với nước Chiêm Thành và nước Chân Lập sang lấn cướp và xăm nhập nhưng bị quân của Lý Thường Kiệt đánh tan ở sông Như Nguyệt(5), phải lui quân. Tháng 3 năm Đinh Tỵ (1077), quân Tống lại tràn sang phía Tây, đánh chiếm các châu Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô Châu, Mậu Châu và huyện Quang Lang, tiến quân đến sông Phú Lương(6) đánh nhau dằn co với quân nhà Lý. Quân nhà Lý bị thiệt hại nhiều trong trận chiến cho nên sai sứ đến doanh trại quân Tống cầu hòa, xin ngưng đánh nhau. Tháng 12, mùa Đông năm Đinh Tỵ (1077), quân Tống vì không hạp phong thổ địa phương, vừa chết bệnh và chết trận quá nhiều mà cũng không thể tiến quân thêm được nữa cho nên thỏa thuận ngưng chiến. Tháng Giêng, năm Mậu Ngọ (1078), tu sửa lại thành Đại La(7). Sai sứ sang Tống điều đình việc trao trả lại những châu huyện và tù binh do Tống đánh chiếm được trong trận chiến năm Đinh Tỵ (1077) nhưng Tống đòi trả lại những tù binh người Tống bị bắt ở các trận đánh tại các châu Khâm, Liêm, Ung ngày trước(8). Mùa Xuân năm Kỷ Mùi (1079), sau khi đã trả một số tù binh cho nhà Tống bị bắt mang về từ các châu Khâm, Liêm, Ung, nhà Tống mới chịu trả lại cho nhà VSTK - 247


1 2 3 4 5 6

Lý châu Quảng Nguyên (nhà Tống đã đổi tên là Thuận Châu(9)). Năm 1081, thái phó Ly Đạo Thành mất. Mùa hè năm Giáp Tý (1084), sai binh bộ thị lang Lê Văn Thịnh sang Tống bàn định việc cương giới. Nhà Tống trả lại cho nhà Lý thêm 6 huyện và 3 động(10).

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: Lý Đạo Thành: người huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Linh Nhân hoàng thái hậu: ĐVSKTT viết:<<Linh Nhân (Ỷ Lan) có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự mới kêu với vua rằng: "Mẹ đây khó nhọc cho con mới có được ngày nay, bây giờ để cho người khác ngồi hưởng phú quý, còn mẹ đây thì bỏ vào đâu?". Vua còn nhỏ, không biết phân biệt phải trái liền giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương rồi bắt ép phải chết để chôn theo ở nơi chôn Thánh Tông>>(BK3.7a). KĐVSTGCM có lời phê như sau: "Từ chuyện nầy thì biết được rằng trước đây sử cũ nói nguyên phi giúp việc nội trị (khi Lý Thánh Tông vắng mặt ở triều đình để cầm quân đi đánh Chiêm Thành), rõ không phải là Ỷ Lan. Còn Dương thị dưới thời Lý Thánh Tông cũng chưa nghe nói được lập làm hoàng hậu, như thế phải chăng sử cũ đã ghi chép thiếu sót?" (3) Giáng truất thái sư Lý Đạo Thành: cả hai bộ sử cũ đều không nêu rõ lý do vì sao Lý Đạo Thành bị giáng chức. (4) Thi Tam trường: ba đợt thi; không thấy sử sách cũ nói về thể thức loại thi cử nầy như thế nào. Trong LTHCLC/ Khoa Mục Chí, Phan Huy Chu xét: " Từ Lý Nhân Tông đến Lý Anh Tông (10751152), phép thi bấy giờ chưa có cách thức nhất định. Thảng hoặc có chiếu của vua cho được cử học trò vào thi, nhà vua tự làm giám khảo ở điện đình. Sử chép không rõ, nên không khảo được".

7

(1)

8

(2)

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

30

(a) Bình Chương quân quốc trọng sự: là chức tể tướng bên hàng quan võ nhưng ở cấp cao hơn chức tể tướng thường. (b) Minh kinh bác học: giỏi về kinh sử.

31

(5)

28 29

32 33

Sông Như Nguyệt: ở về phía Đông Bắc huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, sát gần với xã Như Nguyệt. Chú thích trong ĐVSKTT là sông Cầu.

VSTK - 248


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Sông Phú Lương: đầu sông liền với sông Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây, cuối sông thông với sông Đại Hoàng tỉnh Nam Định tuông ra biển. Nay là sông Nhị Hà thuộc Hà Nội. (7) Thành Đại La: là tên cũ từ thời Cao Biền. Lý Công Uẩn đã đổi gọi là Thăng Long nhưng ĐVSKTT vẫn dùng tên cũ Đại La. (8) Trả lại đất và trao đổi tù binh: về việc nầy ĐVSKTT viết: "Mậu Ngọ, năm thứ 3 (1078), sai sứ sang Tống biếu 5 con voi đã được huấn luyện thuần thục để xin trả lại những châu Quảng Nguyên, Tô Mậu và tù binh bị quân Tống bắt đi". Tiếp theo, năm Kỷ Mùi (1079), ĐVSKTT viết: "Nhà Tống đem Thuận Châu trả cho ta" (tức là châu Quảng Nguyên, nhà Tống đổi làm Thuận Châu), rồi đến năm Tân Dậu (1081) thì viết: "Trả lại cho nhà Tống dân và lính bị bắt ở ba châu Ung, Khâm, Liêm vì nhà Tống đã trả lại cho ta các châu Quảng Nguyên". Như thế, theo ĐVSKTT thì nhà Lý chỉ trả lại những tù binh người Tống sau khi nhà Tống đã trả lại châu Quảng Nguyên và tù binh người của nhà Lý. Kiểu cách viết như thế ngầm có ý rằng nhà Lý có ưu thế hơn nhà Tống trong vấn đề thương lượng trao trả đất đai và tù binh giữa hai bên: có ý muốn nói rằng nhà Tống phải thi hành trước những đòi hỏi của nhà Lý đưa ra rồi sau đó nhà Lý mới cứu xét những yêu cầu của nhà Tống. Tuy nhiên, Sử Cương Mục Tục Biên của Trung Hoa thì chép ngược lại: Tháng 9, mùa thu, Mậu Ngọ (1078), năm Nguyên Phong thứ 1 triều Tống, Giao Chỉ dâng biểu xin lại những đất đã mất, nhà Tống không ưng thuận. Sau đó ít lâu, Kiền Đức (Lý Nhân Tông) trả lại những dân và tù binh bị bắt từ ngày trước cho nên Tống mới cho lại Thuận Châu. Như vậy từ mùa Thu năm Mậu Ngọ (1078) cho tới "sau đó ít lâu" có nghĩa là cuối năm Mậu Ngọ (1078) hoặc đầu năm Kỷ Mùi (1079) thì nhà Lý phải thi hành việc trao trả tù binh trước để được nhà Tống bằng lòng trả lại Thuận Châu (tức là châu Quảng Nguyên) chứ không phải là đợi đến năm Tân Dậu (1081) mới trả lại người và tù binh cho nhà Tống như ĐVSKTT đã chép. Vì thế, những tác giả KĐVSTGCM cho rằng ĐVSKTT là ghi chép không đúng sự thực. Thực ra, đây chỉ là vấn đề sĩ diện và tự ái cho nên phía nào cũng muốn tỏ ra cho hậu thế biết là phía bên mình ở trong thế mạnh trong khi thương lượng ngoại giao. Dù sao, khi KĐVSTGCM đã dựa vào sách sử của Trung Hoa (Sử Cương Mục Tục Biên) để phê phán thì cũng không chắc đã chính xác trung thực. Người ta chỉ có thể suy luận như sau: cuối năm 1078, sứ Nhà Lý sang để đàm phán thương lượng với nhà Tống; nội dung cuộc đàm phán là việc trao trả đất đai và tù binh giữa 2 nước. Nhà Lý yêu cầu trả lại các châu Quảng Nguyên, châu Tô Mậu cùng tù binh bị bắt từ các châu đó; nhà Tống yêu cầu trả hết những thường dân và tù binh mà nhà Lý đã bắt ở 3 châu Ung, Khâm, Liêm (6)

VSTK - 249


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

(KĐVS chép rằng nhà Tống yêu cầu giao trả hơn 1,000 người bị bắt từ các châu Ung, Khâm Liêm). Hai bên có thể đã thỏa thuận ký kết như thế và mãi đến năm 1079 mới thi hành. Tuy nhiên, trong đợt nầy nhà Lý chỉ mới giao trả cho nhà Tống hơn 200 người và vì thế nhà Tống cũng chỉ trao trả cho nhà Lý một phần lãnh thổ của châu Quảng Nguyên (Tống đã đổi tên thành Thuận châu). Những châu khác như Tư Lang, Tô châu, Mậu châu và huyện Quang Lang cũng do quân Tống chiếm cùng mộ lúc với châu Quảng Nguyên thì Nhà Tống vẫn còn chiếm giữ. Trong đợt trao đổi lần thứ nhì vào năm 1081, sau khi nhà Lý chịu trả hết số tù binh bắt được ở Khâm, Liêm, Ung thì lúc đó nhà Tống mới chịu trả cho nhà Lý thêm 4 châu và một huyện (phần còn lại của châu Quảng Nguyên, châu Tư Lang, Tô châu, Mậu châu và huyện Quang Lang mà ĐVSKTT chép gộp chung là "các châu ở Quảng Nguyên" ). (9) Thuận Châu: ĐVSKTT chú rằng: "tức là châu Quảng Nguyên, nhà Tống đổi làm Thuận Châu". Còn KĐVSTGCM viết: "Trước đây, bọn Quách Quỳ sang xăm lấn các châu Quảng Nguyên đều mất về tay nhà Tống, Tống đổi Quảng Nguyên làm Thuận Châu...". Lối viết như thế của 2 b sử cũ khiến cho người đọc bị lạc hướng: tại sao lại là các châu Quảng Nguyên? Phải chăng nhà Tống đã gộp chung các châu đã chiếm được để lập thành một châu duy nhất là Thuận Châu mà trong đó châu Quảng Nguyên cũ của nhà Lý chỉ là một vùng trong Thuận Châu của nhà Tống? Chính những điểm mù mờ nầy càng khiến cho người đọc thắc mắc hơn khi nhà Lý lại sai Lê Văn Thịnh sang Tống bàn về việc biên cương vào năm Giáp Tý (1084). (10) Nhà Tống trả lại cho nhà Lý 6 huyện, 3 động: ĐVSKTT chép: Giáp Tý, Anh Vũ Chiêu Thắng, năm thứ 9 (1084), mùa hạ, tháng 6, sai thị lang bộ binh Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình nghị bàn với người nhà Tống về vấn đề cương giới giữa hai nước....Định biên giới. Nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện và 3 động. Người Tống có thơ rằng:"Nhân tham Giao Chỉ tượng, khướt thất Quảng Nguyên kim" (tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên). KĐVSTGCM thì trích dẫn hai câu thơ vừa kể ở đoạn chép nhà Tống trả lại cho nhà Lý châu Quảng Nguyên vào năm 1079 rồi sau mới chép việc nhà Tống trao trả 6 huyện 3 động sau nầy vào năm 1084. Như vậy, theo ĐVSKTT và căn cứ vào 2 câu thơ trên thì 6 huyện 3 động hoặc nằm chung trong châu Quảng Nguyên cũ của nhà Lý nhưng nhà Tống đã cắt xén phân chia lại để làm thành Thuận Châu với 6 huyện 3 động và một châu Quảng Nguyên mới bị thu hẹp. Hoặc giả 6 huyện 3 động là tổng số đất đay của các châu Tư Lang, Tô Châu, Mậu Châu và huyện Quang Lang bị quân Tống chiếm được cùng một lúc với châu Quảng Nguyên và đến nay (1084) nhà Tống mới chịu trả lại cho nhà Lý; bởi lẽ trước 1084, ĐVSKTT không đề cập đến việc nhà Tống có hay không có trả lại các châu huyện đó VSTK - 250


38

cùng một lúc với châu Quảng Nguyên (đã bị nhà Tông thu hẹp) vào năm 1081. KĐVSTGCM trích dẫn 2 câu thơ kể trên đặt ở năm 1079 là năm nhà Tống trả lại châu Quảng Nguyên cho nhà Lý có nghĩa là 6 huyện 3 động được trả lại vào năm 1084 không có dính líu gì đến châu Quảng Nguyên nhưng lại là những phần đất khác cũng bị nhà Tống đánh chiếm. Lời cẩn án trong KĐVSTGCM trích dẫn: "Theo sách Danh tiết lục của Trần Kế Đằng, Lê Văn Thịnh sang Quảng Tây hội nghị với tuần kiểm ti nhà Tống là Thanh Trác; vua Tống hạ chiếu trả lại cho ta 6 huyện ở Bảo Lạc và 6 động ở Túc Tang " (CB.3/ 44). Tiếp theo, KĐVSTGCM viết trong lời cẩn án như sau: "Theo sử Cương Mục Tục Biên (Trung quốc) và sách Giao Chỉ di biên, quân Tống sang xăm lược, chiếm lấy các châu Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô Châu, Mậu Châu và huyện Quang Lang (4 châu, 1 huyện). Nhà Tống đổi Quảng Nguyên làm Thuận Châu. Nay xét: về châu Tư Lang và huyện Quang Lang không thấy các sách nói đến việc trả lại, hay là khi nhà Tống đổi Quảng Nguyên làm Thuận Châu thì cũng gộp cả Châu Tư Lang và huyện Quang Lang mà chia đặt làm huyện và động; vậy 6 huyện và 3 động có phải là đất ấy chăng? Còn 6 huyện Bảo Lạc và 6 động Túc Tang trong Danh Ký Lục thì không nghe nói nhà Tống xăm chiếm bao giờ, thì làm gì có việc trả lại? " LTHCLC của Phan Huy Chú chép: "Năm thứ 6 (1081), nhà Tống đem 4 Châu 1 huyện trả lại cho ta . Trước kia, khi Quách Quỳ xăm lược nước ta thì các châu huyện đó mất vào nhà Tống, nhà Tống đổi châu Quảng Nguyên làm Thuận Châu, sai cáp môn sứ Đào Bật làm tri châu, còn các châu khác đều để tên cũ. Đến khi được trả lại tù binh ở các châu Ung, Khâm, Liêm thì nhà Tống mới chịu trả tất cả đất đã chiếm. Năm thứ 9 (1084), mùa hạ tháng 6, sai binh bộ thị lang là Lê Văn Thịnh sang Tống bàn về việc biên cương, tuần kiểm hữu giang của Tống là Thành Trác đến hội ở Quảng Tây, bàn về việc cương giới các châu Thuận An, Quy Hoá; vua Tống đem 6 huyện Bảo Lạc, 6 động Túc Tang là đất ngoài cửa ải trả lại cho nước ta." (LTHCLC/ Bang Giao Chí/Việc Biên Cương). Như thế, theo Phan Huy Chú thì việc Lê Văn Thịnh sang Tống năm 1084 bàn về vấn đề biên cương giữa hai nước là mộ công tác ngoại giao khác với công tác năm 1078 của Đào Tông Nguyên đem cống vua Tống năm con voi để xin trả lại các châu, huyện và những dân ở các nơi đó bị bắt .

39

Có những nghi vấn sau đây :

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

40 41 42 43

Những phần đất 6 huyện 3 động nằm ở đâu và bị nhà Tống chiếm giữ từ bao giờ ? Có phải là 6 huyện thuộc Bảo Lộc và 6 động thuộc Túc Tang? Bảo Lộc và Túc Tang là châu hay huyện dưới thời nhà Lý ?

VSTK - 251


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25

Việc bàn định cương giới ở các châu Thuận An, Quy Hóa được viết lại trong LTHCLC của Phan Huy Chú nhưng không thấy 2 châu nầy được đề cập tới trong 2 bộ sử cũ, tại sao? Theo lời chua trong KĐVSTGCM thì Bảo Lạc thuộc tỉnh Tuyên Quang, còn Túc Tang thì không rõ là ở đâu. Như vậy không thể cho rằng 6 huyện Bảo Lộc và 6 động Túc Tang là những phần đất thuộc châu Tư Lang và huyện Quang Lang như sự suy đoán viết trong lời cẩn án vì châu Tư Lang thuộc tỉnh Thái Nguyên còn huyện Quang Lang thì thuộc tỉnh Lạng Sơn. Do đó có thể suy luận rằng: trong cuộc chiến biên giới năm 1075 và 1076, Nhà Lý chỉ đánh phá các châu Ung, Khâm, Liêm và bắt người đem về, còn nhà Tống thì đem quân sang đánh trả đũa rồi chiếm giữ nhiều châu, huyện và động ở các tỉnh biên giới của nhà Lý ở các vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hoá. Sau đó, nhà Tống trả lại những châu động qua hai lần thương lượng với sứ của nhà Lý : Lần thứ nhứt: do Đào Tông Nguyên đại diện sang Tống năm 1078, nhưng mãi đến 1081 nhà Tống mới chịu trả cho nhà Lý 4 châu 1 huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn gồm có châu Quảng Nguyên (Cao Bằng), Tô Châu, Mậu Châu (Cao Bằng-Lạng Sơn), Tư Lang (Thái Nguyên-Cao Bằng) và huyện Quang Lang (Lạng Sơn). Lần thứ nhì: lần nầy nhà Lý do binh bộ thị Lang Lê Văn Thịnh đại diện năm 1084 và nhà Tống trả lại cho nhà Lý 6 huyện ở châu Bảo Lạc (Tuyên Quang), 6 động ở Túc Tang (không khảo được) và những phần đất khác ở các châu Thuận An, Quy Hóa ( Hưng Hóa).

KHẢO LUẬN : 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

Đời nhà Lý nổi bật một tướng tài giỏi hiếm có là Lý Thường Kiệt: đánh Tống chiếm các châu Khâm, Liêm, Ung, chém tướng của Tống là Trương Thủ Tiết ở cửa Côn Lôn, đánh tan quân Tống ở sông Như Nguyệt, chận đường tiến quân của địch ở sông Phú Lương. Sau những trận đánh ở biên giới với quân nhà Lý do Lý Thường Kiệt thống lãnh, nhà Tống dù không bị thua hẳn nhưng thanh thế quân sự của nhà Lý cũng làm cho nhà Tống kiên nể và vì thế cho nên đã chịu ngồi xuống bàn hội nghị để cùng nhà Lý bàn bạc thương lượng, giải quyết vấn đề biên cương lãnh thổ giữa 2 nước. Ngô Sĩ Liên nói: "Nước ta với Trung Quốc nhiều lần đánh nhau. Từ Lý Nam Đế trở về trước, khi được khi thua bất chừng, sự tích đã xa xưa. Về sau Ngô Quyền thắng trận ở Bạch Đằng, Lê Đại Hành thắng trận ở Lạng Sơn, Trần Nhân Tông đánh bại Toa Đô, bắt sống Ô Mã Nhi, đuổi chạy Thoát Hoan, đều là đánh tan giặc mạnh đương trên thế hoành hành; tỏ rằng thế nước của ta không ai có thể xăm VSTK - 252


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

phạm và những chiến tích đó đã để lại tiếng hay nhưng đều là xảy ra khi giặc chủ động đến xăm lấn mà ta bất đắc dĩ phải đối phó. Còn như bày trận ngang nhiên tỏ rõ, điều động hơn mười vạn quân đi sâu vào đất người, đánh tan ba châu như bẻ cành cây khô, kẻ địch không dám đối đầu chống cự hoặc đuổi theo thì tài dùng binh như thế thật là hiếm có ở nước ta. Cũng vì thế, nước ta thường coi chiến dịch Ung Liêm như là một thành tích quân sự hạng nhất xưa nay" (LTHCLC/ Bang Giao Chí/ Việc Biên Cương/ Phan Huy Chú). Phan Huy Chú cũng có những lời nhận xét như sau: "Việc biên giới ở đời Lý, được nhà Tống trả lại đất đai rất nhiều. Trước hết là nhờ có uy thắng trận, người trung châu hoảng sợ khiến cho nhà Tống khâm phục, sau nữa lại có sứ thần khéo léo trong việc ngoại giao bàn bạc cho nên yêu cầu gì cũng đạt được, khiến cho Trung Quốc không còn tranh cải mà phải chịu phục, thế lực Nam Giao được mạnh. Căn cứ vào đó thì biết được thế cường thịnh thời bấy giờ" (LTHCLC/ đã dẫn chiếu ở trên).

LÝ NHÂN TÔNG (tiếp theo) 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Năm 1085, cho Lê Văn Thịnh làm Thái Sư. Năm 1086 tuyển người có văn học để sung vào làm quan ở Hàn Lâm Viện. Mạc Hiển Tích đỗ đầu được bổ làm Hàn Lâm viện học sĩ. Năm 1087, dựng bí thư các. Sứ nhà Tống sang phong cho Lý Nhân Tông chức Nam Bình vương. Năm 1088, ban tước hiệu Quốc sư cho nhà sư Khô Đầu(1) để làm cố vấn cho vua bàn định việc cai trị nước. Năm 1089, quy định các chức quan(2) văn võ, quan hầu vua và các chức tạp lưu. Đào sông Lãnh Kinh(3). Nhà Tống xâm phạm vào châu Thạch Tê(4). Năm 1092, ấn định rõ thể lệ về việc thu tô, cứ mỗi mẫu ruộng thu 3 thăng(5) lúa dùng để nuôi quân.

VSTK - 253


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Năm 1094, sai Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang Chiêm Thành đòi lễ triều cống vì Chiêm Thành chậm trễ. Năm 1095, đại hạn, giảm thuế tô; thả tù phạm. Năm 1096, thái sư Lê Văn Thịnh mưu phản(6), bị bắt đưa đi an trí ở Thao Giang(7). Năm 1097, ra lệnh kiểm điểm và quy định lại những thể lệ vệ điện chương(8) cũ. Năm 1101, dùng Lý Thường Kiệt(9) kiêm chức nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự. Sửa chùa Diên Hựu; sai hoàng hậu cùng các phi tần lập đàn trai giới ăn chay để cầu tự(10). Năm 1103, Lý Giác làm phản ở Diễn Châu, Lý Nhân Tông lại cử Lý Thường Kiệt đi dẹp. Lý Giác thua phải chạy sang Chiêm Thành và xúi giục vua Chiêm là Chế Ma Na đem quân đánh phá biên giới, lấy lại 3 châu mà ngày trước vua Chiêm là Chế Củ đã dâng dưới thời Lý Thánh Tông. Năm 1104, Lý Thường Kiệt lại đem quân dẹp tan quân Chiêm Thành, Chế Ma Na phải hoàn trả ba châu đã chiếm. Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất. Năm 1108, đắp đê ngăn nước sông ở phường Cơ Xá(11). Năm 1117, hoàng thái hậu Linh Nhân Ỷ Lan mất. Khi làm lễ hỏa táng, bắt 3 người hầu gái phải chịu thiêu sống theo tục tuận táng(12). Lập con của Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoán(13) làm hoàng thái tử. Năm 1119, Lý Nhân Tông tự cầm quân đánh động Ma Sa và bắt sống được động trưởng Ngụy Bàng vì Ngụy Bàng không giữ lễ cống. Năm 1125, đầu lĩnh châu Quảng Nguyên là Mạc Hiền phạm tội bỏ trốn cùng gia quyến và đồ đảng chạy sang động Cống thuộc Ung Châu của Nhà Tống. VSTK - 254


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

Người của nhà Tống bắt được giải giao trở về cho nhà Lý, Lý Nhân Tông phạt Mạc Hiền tội lưu, đày đi châu Nghệ An, còn vợ con thì bắt làm nô dịch trong các nhà quan. Xuống chiếu quy định hình phạt về việc đánh chết người: đánh 100 trượng và phải tội đồ. Năm 1127, Lý Nhân Tông mất. Di lệnh chỉ cho phép để tang 3 ngày mà thôi và không được xây lăng tẩm(14) riêng. Thái tử Lý Dương Hoán lên ngôi tức là Lý Thần Tông. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Quốc sư Khô Đầu: KĐVSTGCM chua: "Không rõ là tên hay hiệu của ông sư nầy. Phần mục viết: Nhà vua sùng đạo Phật, tôn thầy chùa làm quốc sư, thường bàn hỏi về việc nước. Cũng giống như Lê Đại Hành đối với nhà sư Ngô Khuông Việt". (2) Định các chức quan: dưới thời Lý Nhân Tông, năm 1087 đặt Hàn Lâm viện; năm 1088 đặt mười hỏa thư gia như: nội hoả thư gia, ngự khố thư gia, chi hầu thư gia, nội thư gia, lệnh thư gia (duyên cách cách và nhiệm vụ các chức thư gia nầy sử sách cũ không thấy giải thích rõ ràng). Theo Phan Huy Chú/LTHCLC, năm 1089 quy định các chức quan như tụng quan (quan hầu cận vua), tạp lưu (tức là chức quan không phải là quan văn hay quan võ, chẳng hạn như các chức quan ban cấp cho các đạo sĩ, sư tăng). Năm 1101, chức quan Nội thi phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự ban cấp cho Lý Thường Kiệt: theo sách Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn chỉ giải thích sơ lược chức Hành điện nội ngoại là một chức quan trong ban cấp cho người có vai vế lớn thân thích của vua, còn phán thủ đô áp nha thì chức chế ra sao chưa rõ. Năm 1105, khi Lý Thường Kiệt chết thì được truy tặng chức Kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự mà theo Phan Huy Chú thì chức nầy chỉ phong cho những quan viên quan trọng và có danh giá. Cũng theo Phan Huy Chú: Quan chế triều Lý đại lược như sau: phẩm trật các hàng quan văn, quan võ đều có 9 phẩm. Ba chức thái là (1)

VSTK - 255


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

thái sư, thái phó, thái bảo; ba chức thiếu là thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo cùng với các chức thái úy, thiếu úy và nội ngoại hành điện đô tri sự, kiểm hiệu bình chương sự đều là những chức trọng yếu của văn võ đại thần. Ban văn có bộ thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị và trung thư thị lang, bộ thị lang, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sứ, điện học sĩ, hàn lâm họ sĩ, vệ đại phu, thư gia các hỏa, thừa trực lang, thừa tín lang đề là các chức quan trong tức là làm việc tại triều. Các chức làm việc bên ngoài triều thì có tri phủ, phán phủ và tri châu. Phía hàng quan võ thì có đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng, tướng quân các vệ (có các hiệu Uy vệ, Kiêu vệ, Định thắng), chỉ huy sứ, vũ vệ hỏa đầu, các binh tào Vũ Tiệp và Vũ Lâm; những hàng quan võ nầy làm việc tại triều. Lại có các quan binh và trấn thủ các lộ, các trấn, các trại là những chức quan ngoài nhưng phẩm trật và cấp bậc thì không khảo được (THCLC/Quan chức chí triều Lý). (3) Sông Lãnh Kinh: theo Dư địa chí/ Nguyễn Trãi thì sông nầy thuộc tỉnh Thái Nguyên nhưng không biết đích xác ở chỗ nào. (4) Châu Thạch Tê: Không rõ ở đâu. Có ý kiến đoán chừng là miền Thạch Lam cũ của tỉnh Cao Bằng. (5) Thăng: đơn vị đo lường các loại lúa, gạo, nếp ngày xưa. (6) Lê Văn Thịnh mưu phản: chuyện rất hoang đường và quái dị. ĐVSKTT viết: "Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng ghe chèo tới, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo phóng ra. Giây lát sau, mây mù tan thì thấy trong ghe có con hổ, ai nấy đề sợ hãi kêu nguy. Người đánh cá tên Mục Thận liền quăng lưới trùm lên con hổ, nhưng lại ra là thái sư Lê Văn Thịnh. Ngày trước Lê Văn Thịnh có gia nô người gốc nước Đại Lý có pháp thuật kỳ lạ đã truyền pháp thuật đó cho Lê Văn Thịnh mưu chuyện phản nghịch." (7) Thao giang: nay là huyện Tam Thanh, Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú. (8) Điển chương: là những thể lệ cách thức về chính sự của một triều đại. (9) Lý Thường Kiệt: ĐVSKTT và KĐVSTGCM và LTHCLC đề viết giống nhau về Lý Thường Kiệt nhưng không nói rõ lý lịch và chỉ có LTHCLC viết rõ Lý Thường Kiệt tự thiến (cắt bỏ bộ phận sinh dục) để thành hoạn quan Hoàng môn chi hậu cận kề bên vua. Các sách đó cho biết ông là người phường Thái Hoà (ở huyện Thọ Xương, phía Tây thành Thăng Long, nay là phía Nam đê Bách Thảo ở Hà Nội), lập được nhiều công trạng được Lý Thánh Tông nhận làm anh em kết nghĩa, làm quan qua 3 triều đại nhà Lý được thăng chức nhiều lần lên đế chức Thái Úy rồi chế.

VSTK - 256


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Mộ chí của Đỗ Anh Vũ ở làng Yên Lạc, phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên cho biết rằng: thân sinh của Thường Kiệt họ Quách, quê ở huyện Câu Lậu, thuộc Tế Giang, làm thái Úy đời Lý Thái Tông, được vua ban quốc tính, tức là được bỏ họ Quách để mang họ Lý của vua. Khảo xét thời Lý Thái Tông, năm mậu Tý (1048), mùa Thu tháng 9, Nùng Trí Cao làm phản chiếm giữ động Vật Ác, Lý Thái Tông sai thái úy Quách Thịnh Dật đi đánh. Như vậy, có thể suy đoán khá vững rằng Quách Thịnh Dật hay Lý Thịnh Dật là thân sinh của Quách Thường Kiệt hay Lý Thường Kiệt tức là vào khoảng năm 1048-1054 đời Lý Thái Tông, Lý Thường Kiệt đương thời là một thanh niên bảnh bao trong lứa tuổi từ 12 đến 18 tuổi (Lý Thường Kiệt sinh năm 1036 và mất năm 1105/ theo VNVHSY/ Dương Quảng Hàm) và được xem như là nghĩa tử của Lý Thái Tông vì cha của Kiệt đã thành anh em kết nghĩa của Lý Thái Tông rồi. Đến trào của Lý Thánh Tông 1054-1072, thì trên danh nghĩa Lý Thường Kiệt được tập ấm danh vị nghĩa đệ của thiên tử, tức là em nuôi của Lý Thánh Tông (sinh năm 1023, lớn hơn Lý Thường Kiệt 13 tuổi). Do đó, danh vị thiên tử nghĩa đệ trong sử cũ phải được hiểu Lý Thường Kiệt là nghĩa đệ của vua Lý Thánh Tông hay nói khác đi Kiệt được xem như là nghĩa nam/ con nuôi của vua Lý Thái Tông. (10) Cầu tự: khấn vái thần linh, tiên, phật cho được sinh con nối dõi dòng họ. (11) Đê Cơ Xá: đoạn đê sông Hồng ở phường Cơ Xá, huyện Thọ Xương, nay ở vào khoảng gần cầu Long Biên (bãi Cơ Xá) thuộc Hà Nội. (12) Tuận táng: chôn sống hoặc thiêu sống cho chết theo một người khác. Đây là một tục lệ dã man rừng rú, đem đồ vật hoặc người thật còn sống để chôn theo kẻ chết. ĐVSKTT viết: "Mùa thu tháng 7, ngày 25, Ỷ Lan hoàng thái hậu băng, làm lễ hỏa táng đồng thời bắt 3 người hầu gái chôn sống theo." (13) Sùng Hiền hầu và Lý Dương Hoán: ĐVSKTT viết: "Bấy giờ vua (Lý Nhân Tông) tuổi đã nhiều mà chưa có con trai nối dõi, xuống chiếu chọn con trai của những người trong tôn thất (con trai của các hầu tước Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng) để lập làm con nối ngôi. (thái tử). Bấy giờ con trai của Sùng Hiền Hầu là Dương Hoán mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh lợi, vua rất yêu cho nên được lập làm hoàng thái tử vào năm 1117. Trước đó, em vua là Sùng Hiền hầu (không rõ tên) cũng chưa có con trai, gặp lúc nhà sư núi Thạch Thất(a) là Từ Đạo Hạnh tới chơi nhà, bèn nói với nhà sư về việc cầu tự. Đạo Hạnh dặn rằng bao giờ vợ của Sùng Hiền sắp đến ngày sinh thì báo cho nhà sư biết trước để nhà sư cầu khẩn với sơn thần. Sau đó vợ Sùng Hiền có thai, trở dạ mãi không đẻ được. Sùng Hiền nhớ lại lời Đạo Hạnh dặn từ trước cho nên sai người tới núi Thạch Thất để báo với nhà sư. Đạo Hạnh lập tức thay VSTK - 257


1 2 3 4 5

áo tắm rửa, vào hang núi trút xác mà qua đời . Sau đó vợ của Sùng Hiền sinh được con trai tức là Dương Hoán. Người làng cho là việc lạ giữ xác Đạo Hạnh trong lõm đá để thờ. Nay núi Phật Tích là chỗ ấy. (ĐVSKTT/BK.3/16a, 17b và 18b). (14) Lăng tẩm: nơi chôn cất vua chúa thời phong kiến. KHẢO LUẬN : n

6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

Ỷ Lan thái hậu:

Lý lịch của người đàn bà nầy từ trước đã rất là mù mờ mà việc sinh nở ra Lý Nhân Tông còn kỳ dị và mờ ám hơn. Khi Lý Thánh Tông cầm quân đánh Chiêm Thành, sử cũ chép rằng nguyên phi của vua thay mặt tạm thời coi việc nội trị. Nguyên phi là người vợ thứ đứng đầu các hàng vợ thứ khác của vua, còn vợ cả của vua gọi là hoàng hậu, dưới hoàng hậu còn có 3 người vợ thứ gọi là phi hoặc phu nhân. Còn gọi là thần phi tức là người vợ thứ được vua yêu quý đặc biệt chứ không phải là nguyên phi. Không thấy sử cũ nói gi tới việc Lý Thánh Tông có hay không có lập hoàng hậu. Như vậy nguyên phi thay mặt vua tạm thời coi việc nội trị lúc Lý Thánh Tông vắng mặt nhất định không phải là Ỷ Lan vì Ỷ Lan lúc đó (năm Kỷ Dậu/ 1069) chỉ là một thần phi và nguyên phi lúc đó là Dương phi mà sau nầy (năm 1072) được Lý Nhân Tông tôn làm Dương thái hậu và Ỷ Lan, mẹ đẻ của Lý Nhân Tông được tôn làm hoàng thái phi tức là Ỷ Lan vẫn còn tiếp tục ở dưới quyền của Dương thái hậu. Chính vì thế mà Ỷ Lan đã suy bì ganh tị, xúi bẩy Lý Nhân Tông giam giữ Dương Thái hậu rồi bức phải chết (năm 1073).

23

o Thái tử Lý Dương Hoán và sư Đạo Hạnh: 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

Lại thêm một trò thụ thai sinh đẻ do một ông sư xếp đặt. Vương tộc nhà Lý đời nào cũng có những chuyện huyền hoặc quái dị, từ ông tổ Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) có bà mẹ ăn nằm lang chạ ở nơi chùa chiền rồi trút hết tội lỗi cho một ông thần bá vơ, rồi đến phiên Phật Mã (Lý Thái Tông) có 7 nốt ruồi sau gáy như chòm sao Bắc đẩu, áo bào của Phật Mã ban cho người khác có rồng vàng hiện ra ở mắc áo, dấu người thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm, rồng hiện lên ở điện Càn Nguyên, mưa gạo trắng thành đống trước bậc thềm chùa Vạn Tuế . Nhật Tôn (Lý Thánh Tông) có bà mẹ nằm chiêm bao thấy mặt trăng rơi vào bụng mà có mang rồi đẻ ra Nhật Tôn. Chuyện thai nghén của Ỷ Lan đẻ ra Càn Đức (Lý Nhân Tông) là một trò sắp xếp dâm dật bẩn thiểu làm nhơ nhuốc nơi thờ phượng tôn nghiêm được che đậy lấp liếm dưới mỹ từ thụ thai thác hóa. Nay lại đến lượt ông

VSTK - 258


1 2

sư Đạo Hạnh dùng pháp thuật trúc xác chui vào bụng bà vợ của Sùng Hiền hầu đầu thai đẻ ra Dương Hoán (Lý Thần Tông). p Về thành tích cai trị và xây dựng đất nước của Lý Nhân Tông:

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Lý Nhân Tông là một ông vua giỏi của triều đại nhà Lý. Mặc dù phải bận bịu nhiều về mặt quân sự nhưng cũng không bỏ qua những việc trong nước: đắp đê Cơ xá, thường xuyên theo dõi việc nông nghiệp, gặt hái, cấm giết trâu làm thịt và ấn định hình phạt về tội ăn trộm trâu, di dân đến các vùng đất mới chiếm ở phía Nam. Nhiều năm được mùa to, không nghe nói dân chúng bị nạn đói. Năm 1075, khởi đầu chế độ thi cử để chọn người tài ra làm quan và lập quốc tử giám để dạy học và Hàn Lâm viện để trông nôm lãnh vực văn học và phong hóa. Về mặt biên cương lãnh thổ thì bành trướng và củng cố các vùng đất chiếm được ở phía Nam bằng cách vẽ bản đồ nhập vào lãnh thổ của nhà Lý các châu Ma Linh, Bố Chính, Địa Lý đã chiếm được của Chiêm Thành. Ở phía Bắc thì Nhà Tống của nước Tàu phải kiên sợ mà trả lại cho nhà Lý nhiều vùng lãnh thổ ở vùng biên giới giữa 2 nước. Về mặt quân sự thì có những tướng tài giỏi như Lý Thường Kiệt, Tôn Đản. Về mặt ngoại giao thì có sứ thần tài giỏi khôn khéo như Lê Văn Thịnh; trong việc nội trị thì có người phụ tá nhiều kinh nghiệm và trung thành làm cố vấn như Lý Đạo Thành . Những điểm yếu kém của Lý Nhân Tông là sùng đạo đến mức trở thành cuồng tín, theo vết cũ của cha ông tiếp tục giữ thói mê tín dị đoan, thích điềm lành, bắt chước áp dụng những lễ tục vô nhân của ngoại bang trong việc tế táng tiên nhân.

5. LÝ THẦN TÔNG ( 1128 - 1138 ) 25 26 27 28 29 30

Tên húy là Dương Hoán, cháu gọi Lý Thánh Tông bằng ông, gọi Lý Nhân Tông bằng bác, con của Sùng Hiền hầu; mẹ đẻ của Dương Hoán họ Đỗ. Khi vừa được 2 tuổi, Lý Nhân Tông đem vào nuôi trong cung nội và lập làm hoàng thái tử. Nối ngôi vua tức là Lý Thần Tông, đổi niên hiệu là Thiên Thuận (1128-1132), VSTK - 259


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31

đại xá tù phạm, trả lại ruộng đất của dân bị xung công từ trước. Áp dụng trở lại chính sách quân binh thay phiên nhau sản xuất nông phẩm theo chế độ đã có qua các đời nhà Lý. Giặc Chân Lập quấy nhiễu ở bến Ba Đầu nhưng bị tướng Lý Công Bình đánh tan, rồi lại tiếp tục gây rối ở hương Đỗ Giang nhưng cũng bị đánh dẹp. Năm 1129, tôn Sùng Hiền hầu làm thái thượng hoàng và mẹ ruột là Đỗ thị làm hoàng thái hậu. Năm 1130, sứ nhà Tống sang sách phong cho Lý Thần Tông làm Giao Chỉ Quận Vương. Năm 1132, Chân Lạp và Chiêm Thành lại cướp phá quấy nhiễu nhưng bị phá tan. Hoàng tử Thiên Lộc sinh. Sứ Tống lại sang tăng phong tước Nam Bình Vương(1) cho Lý Thần Tông. Năm 1133, đổi niên hiệu là Thiên Chương Bảo Tự. Năm 1135, hai nước Chân Lạp và Chiêm Thành sang cống. Năm 1136, nhà sư Minh Không(2) chữa khỏi bệnh cho Lý Thần Tông được phong làm quốc sư. Phu nhân Cảm Thánh(3) vợ thứ của Lý Thần Tông, sinh con trai tên đặt tên là Thiên Tộ. Năm 1138, Lý Thần Tông trở bệnh nặng. Trong lúc Thần Tông thần trí không còn sáng suốt đã lập Thiên Tộ làm thái tử do âm mưu(4) sắp xếp của Cảm Thánh cùng với 2 bà vợ thứ khác nữa là Nhật Phụng và Phụng Thánh, giáng phong thái tử cũ Thiên Lộc làm Minh Đạo vương. Ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), Lý Thần Tông mất. Thái tử Thiên Tộ lên ngôi tức là Lý Anh Tông. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

VSTK - 260


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Phong tước Nam Bình Vương: năm 1130, nhà Tống đã sắc phong cho Lý Thần Tông tước Giao Chỉ quận Vương. Lần nầy, năm 1132 lại cho sứ sang sắc phong tước Nam Bình Vương nhưng trong ĐVSKTT chép sai là sắc phong tước Giao Chỉ quận vương. (2) Sư Minh Không: ĐVSKTT viết: "tục truyền khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác đem thuốc làm phù phép rồi giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không và dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc nầy" (ĐVSKTT/BK.3/39b). KĐVSTGCM cũng viết: "Nhà vua có tật, không có thuốc chữa nhưng Minh Không chữa khỏi cho nên được vua ban hiệu quốc sư. Lại miễn tô dịch cho vài trăm họ để cho Minh Không được quyền xử dụng" (KĐVSTGCM/CB.4/31). Minh Không người huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, làm sư chùa Giao Thủy (huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định). Cũng cần lặp lại rằng, nếu tin theo sử cũ ghi chép một cách nhảm nhí thì Lý Thần Tông là hóa thân của nhà sư Đạo Hạnh còn nhà sư Minh Không là học trò của Đạo Hạnh. Sách Lĩnh Nam chích quái viết về mối liên hệ giữa Đạo Hạnh và Minh Không như sau: "Xưa ở làng Đàm Xá, huyện Đại Hoàng (còn gọi là Gia Viễn) đất Trường An có người tên là Nguyễn Chí Thành ở chùa Quốc Thanh, hiệu là Minh Không quốc sư, lúc ít tuổi đi học hỏi đó đây gặp được Đạo Hạnh truyền dạy cho đạo giáo hơn hai mươi năm. Đạo Hạnh thấy người tiết tháo bèn truyền cho tâm ấn lại đặt tên cho. Kịp tới lúc Đạo Hạnh sắp tạ thế nên mới bảo Minh Không rằng: .....Ta nay xuất thế ở địa vị làm thầy người ta, bệnh trái kiếp sau ắt là khó thể tránh phải mang vào thân. Ta với ngươi có duyên, nên sau nầy hãy cứu trợ cho nhau. Đạo hạnh đã hóa kiếp (hoá kiếp thành Lý Thần Tông), Minh Không trở về chùa cày ruộng hơn hai mươi năm ẩn hơi ngậm tiếng. Khi đó Lý Thần Tông bỗng mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, kêu la gầm thét ghê rợn. Những thầy thuốc giỏi trong dân gian được lênh gọi tới rất nhiều, hết người nầy tới người khác nhưng tất cả đều chịu bó tay. Khi ấy có đứa trẻ hát rao rằng: Dục trị thiên tử bệnh, tu đắc Nguyễn Minh Không nghĩa là muốn chữa bệnh cho vua thì phải tìm cho được ông sư Nguyễn Minh Không. Triều đình bèn cho sứ đi tìm được Minh Không. . . . Khi gặp Lý Thần Tông, Minh Không hét lớn: Kẻ đại trượng phu đã được tôn lên ngôi thiên tử, giàu sang lẫy lừng khắp bốn bể cớ sao còn phát bệnh cuồng loạn như thế? Vua nghe hét rất run sợ. Minh Không bèn lấy một cái vạt dầu lớn đun sôi sùng sục, dùng tay khuấy vào dầu mấy lần rồi vẩy lên khắp thân thể của vua, bệnh tức thì lành mạnh. Vua bèn phong cho Minh Không làm quốc sư, ban lộc mấy trăm hộ để thưởng công" (LNCQ/Vũ Quỳnh-Kiều Phú). (3) Cảm Thánh phu nhân: được nói tới 2 lần trong ĐVSKTT; lần đầu là lúc người đàn bà nầy âm mưu cùng với hai người đàn bà khác lật đổ ngôi thái tử của Thiên Lộc để đưa Thiên Tộ lên thay thế; trong (1)

VSTK - 261


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

lần nầy, Cảm Thánh được gọi là phu nhân nghĩa là không được Lý Thần Tông lập làm hoàng hậu. Tên của Cảm Thánh được đề cập tới lần thứ nhì khi Thiên Tộ lên ngôi vua vào lúc 3 tuổi: tôn mẹ là Cảm Thánh phu nhân họ Lê (Lê Thị) làm hoàng thái hậu. KĐVSTGCM cũng chép giống như thế. Tại sao lại gọi Cảm Thánh phu nhân mà cò kèm thêm họ Lê trong ĐVSKTT và Lê thị trong KĐVSTGCM? Lê Thị nầy là ai? Vào lúc Lý Thần Tông mới lên ngôi (năm 1128), ĐVSKTT có đoạn viết như sau: Lập Lý thị làm hoàng hậu. Trước đó, vua sai vợ chồng viên ngoại lang Lý Khánh Thần đi đón con gái của điện tiền chỉ huy sứ Lý Sơn, và vợ chồng viên ngoại lang Trần Ngọc Độ đi đón con gái của Lê Xương là cháu chú bác của thái úy Lê Bá Ngọc. Sách lập con gái của Lý Sơn làm Lệ Thiên hoàng hậu, con gái của Lê Xương làm Minh Bảo phu nhân (ĐVSKTT/BK.3/30a,b). Như vậy phải chăng Cảm Thánh phu nhân họ Lê chính là Minh Bảo phu nhân, con gái của Lê Xương? Còn thân phận của Lệ Thiên hoàng hậu họ Lý ra sao mà không thấy nhắc tới vào lúc Lý Anh Tông (tức Thiên Tộ) lên ngôi vua? ĐVSKTT có đoạn viết: Hoàng hậu Lệ Thiên và phu nhân Minh Bảo về thăm nhà rồi không thấy nói có trở lại cung nội hay không và từ đó không thấy nhắc nhở gì thêm đến tên của 2 người nầy nữa. Vào năm 1132, ĐVSKTT có một đoạn ngắn viết như sau: Thượng thư Lý Nguyên bị tội, chết ở trong ngục vì con gái của Nguyên là thứ phi (vợ thứ) Chương Anh có tội(BK.III/37b). KĐVSTGCM cũng viết giống như thế. Thứ Phi Chương Anh nầy là ai? Xét thấy cùng một thời gian trong năm 1132, một trong những người vợ của Lý Thần Tông sinh ra Thiên Lộc là đứa con trai đầu tiên của Lý Thần Tông. Người vợ nầy nếu theo như sử cũ thì là một người vợ thứ bởi vì sử cũ gọi Thiên Lộc là hoàng thứ trưởng tử Thiên Lộc sinh, sau phong làm Minh Đạo vương (hoàng tử là con vua, thứ là do một thứ phi hay vợ thứ sinh ra, trưởng có nghĩa là đứa con trai đầu lòng và được xem là con trai trưởng nếu những bà vợ chính mà sử cũ gọi là vợ đích của Lý Thần Tông không có hoặc chưa có con trai. Như vậy, thứ phi Chương Anh phải chăng là mẹ đẻ ra Thiên Lộc ? Những kiểu viết lách hổ lốn, không đầu không đuôi giống như trên trong hai bộ sử cũ có thể tìm thấy nhan nhản khắp nơi khiến cho người đọc phải lắc đầu bực bội khi muốn tìm hiểu sự thật về những trò ghen tương, những âm mưu hại nhau để tranh ngôi đoạt vị giữa những người đàn bà vợ lớn, vợ nhỏ, nàng hầu bên trong cung vua. Những điều xấu xa nhơ nhớp như thế lúc nào cũng được những nhà viết sử thời phong kiến, mà đa số phải theo lệnh của vua, tìm cách che đậy bằng cách viết lách qua loa, lộn xộn, bóp méo sự thật.

VSTK - 262


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

Âm mưu phế lập của Cảm Thánh: Ngô Sĩ Liên nói: "Lý Thần Tông nối nghiệp lớn của vua trước, làm vua vào lúc đất nước thái bình, bỏ con đích còn bú mớm, muốn lập con thứ đã trưởng thành vì không muốn lầm lỗi như ngày trước vì non dạ, nhưng rốt cuộc chí ấy không thành. Từ Văn Thông ăn hối lộ thì rõ thật rành rành không thể chối cải. Những bọn bề tôi gian xảo cấu kết với hạng người trong cung đình làm hỏng dự định của người khác thì từ trước tới nay triều nào cũng có". (ĐVSKTT/BK.3/42 a,b). Lời cẩn án trong KĐVSTGCM viết: "Sử cũ chép: trước kia đã lập Thiên Lộc làm con kế tự rồi dưới lại chép phong cho thái tử Thiên Lộc làm Minh Đạo vương. Như vậy, Thiên Lộc đã chính thức được lựa chọn làm đông cung từ lâu rồi nhưng chẳng ai biết được lập từ bao giờ vì sử cũ bỏ sót không chép. Còn Thiên Tộ là con của phu nhân họ Lê nhưng trong tờ di chiếu ở đây lại viết là con vợ đích, thế là sử cũ chép không rõ; như vậy hẳn cứ để lại, người sau sẽ sưu khảo"(KĐVSTGCM/CB.4/34). (4)

KHẢO LUẬN : 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Ở triều đại của Lý Thần Tông người ta lại thấy những âm mưu xảo trá, những sự ghen tuông nhớp nhơ của những người đàn bà vương tộc. Ở đây nổi bật một người đàn bà dâm ô nham hiểm khác nữa của thời đại phong kiến: đó là Cảm Thánh, mẹ ruột của Thiên Tộ tức là mẹ của Lý Anh Tông. Qua những chú giải và khảo xét ở phần trên, người ta có thể suy diễn như sau : ² Dưới đời Lý Thần Tông, vợ cả chính thức của Thần Tông là Lệ Thiên hoàng hậu họ Lý, con gái của Lý Sơn. ² Lý Sơn và thượng thư Lý Đông có thể là anh em hoặc cùng dòng họ với nhau. Do đó con gái Lý Đông là Chương Anh cùng Lệ Thiên hoàng hậu cũng là chị em và 2 người đàn bà nầy về cùng một bè với nhau . ² Chương Anh được Thần Tông đem vào cung cho làm tỳ thiếp hầu hạ gần gũi bên cạnh và có con với nhau là Thiên Lộc. Trong khi Lệ Thiên hoàng hậu cùng những bà vợ đích khác như Minh Bảo phu nhân, Nhật phụng phu nhân, Phụng Thánh phu nhân chưa ai sinh được con trai, cho nên con trai của Chương Anh là Thiên Lộ được sử cũ xem như là hoàng thái tử sẽ nối ngôi vua của Lý Thần Tông . ² Minh Bảo, Nhật Phụng và Phụng Thánh về hùa với nhau thành mộ cánh ngầm chống đối Chương Anh và Lệ Thiên. Hai nhóm đàn bà nầy ghen tuông với nhau đến mức trầm trọng làm liên lụy đến cha của Chương Anh là thượng thư Lý Đông bị giam vào ngục và chết trong đó. Lý Thần Tông tức giận giáng chức rồi đuổi cả Lệ Thiên hoàng hậu và Minh Bảo phu nhân đi mà sử cũ viết là hai người về n

VSTK - 263


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

thăm nhà. Tên tuổi của Minh Bảo phu nhân từ đó được những người viết sử quên đi và về sau này sẽ tái xuất hiện và được thay thế bằng một tên hiệu khác do Lý Anh Tông (Thiên Tộ) ban cho Minh Bảo vào lúc lên ngôi vua để xóa lắp đi những hành động ghen tương xấu xa của người đàn bà nầy. Như vậy, Minh Bảo phu nhân có thể là Cảm Thánh phu nhân mà cũng là Cảm Thánh hoàng thái hậu họ Lê, là mẹ đẻ Thiên Tộ Lý Anh Tông: Minh Bảo phu nhân, Cảm Thánh phu nhân, Cảm Thánh hoàng thái hậu họ Lê trước sau rất có thể chỉ là mộ người, một người đàn bà chọc trời khuấy nước và dâm loạn trải qua 2 triều Lý Thần Tông và Lý Anh Tông. ² Còn một chi tiết mờ ám khác cũng gây nghi ngờ không kém: ĐVSKTT viết lướt qua rất nhanh về việc sinh ra của Thiên Tộ: Hoàng trưởng tử Thiên Tộ sinh. Các quan dâng vàng bạc tiền lụa và biếu mừng nhưng không nói là do ai sinh ra Thiên Tộ. Như trên đã khảo xét, Minh Bảo tức là Cảm Thánh bị Lý Thần Tông đuổi đi về thăm nhà dài hạn từ năm 1128 mà không nghe sử cũ nói tới ngày, tháng, hay năm trở lại hoàng cung của người đàn bà nầy. Làm sao Cảm Thánh có thai được với Lý Thần Tông trong mộ khoảng thời gian 8 năm dài cách biệt từ năm 1128 cho tới lúc sinh ra Thiên Tộ là năm 1136 ? Như vậy rất có thể Thiên Tộ không phải là máu mủ của Lý Thần Tông mà lại là con cái của ai đó đã tư tình với Cảm Thánh .

o Mỗi ông vua nhà Lý đều có một tông tích nếu không kỳ dị, quái đản thì cũng mơ hồ, ám muội đáng dị nghị. ĐVSK TT viết về Lý Thần Tông như sau: "Khi mới lên ngôi hãy còn trẻ dại, đến khi lớn lên tư chất thông minh, độ lượng cho nên việc sửa sang chính sự, cách dùng người hiền đức có tài, thủy chung nghiêm chính, ngay thẳng kỹ càng. Dù bị ác tật nhưng cũng có số trời giúp nên được chữa lành. Tuy nhiên lại ưu chung điềm lành, quá tôn sùng đạo Phật cho nên chẳng đáng quý gì." (ĐVSKTT/BK.3/ 28a,b). LTHCLC/Phan Huy Chú viết: "Khi ông lên ngôi, năm đầu còn có tính trẻ. Đến lúc trưởng thành sửa sang việc nước, biết cách dùng người tài giỏi. Nhưng vua chuộng đạo Phật, thích điềm lành, bị mê hoặc nhiều quá cho nên đánh thắng được giặc mà lại quy công cho Phật, kẻ dâng hưu mà cho quan tước. Nói tới chuyện nầy người người đều chê bai." (LTHCLC/Nhân Vật Chí/Phan Huy Chú). (Hồi đó, có Lý An Dậu dâng hưu trắng, Lý Thần Tông ban cho chức đại liêu ban, và Lý Lộ làm kẻ dẫn đường chỉ chỗ để bắt hưu trắng cũng được ban chức đại liêu ban). Trong mỗi đời của các vua nhà Lý thì lúc nào cũng có rồng vàng, rùa trắng, hưu trắng, chim sẻ trắng, ngựa trắng bờm đen có cựa, tất cả đều được coi là những con thú linh thiêng mà các vua nhà Lý ưa thích. Ngoài ra một ông sư chỉ nhờ có chuyện chữa bệnh mà được Lý Thần Tông phong cho làm quốc sư thì thật là quá đáng. VSTK - 264


6. LÝ ANH TÔNG ( 1138 - 1175 ) Niên hiệu: Thiệu Minh (1138-1139) Đại Định (1140-1162) Chính Long Bảo Ứng (1163-1173) Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25

Năm Mậu Ngọ, tháng 10 mùa Đông (1138), Thiên Tộ mới được 3 tuổi lên ngôi tức là Lý Anh Tông, đổi niên hiệu mới là Thiệu Minh năm thứ 1. Đại xá thiên hạ. Tôn mẹ đẻ là Cảm Thánh phu nhân họ Lê làm hoàng thái hậu(1); thái hậu thay vua cầm quyền việc cai trị. Hội hợp quan quân ở điện Thiên An bắt tuyên thệ trung thành với vua. Sai sứ sang nhà Tống để báo tang Lý Thần Tông và việc Thiên Tộ mới lên nối ngôi vua. Năm Kỷ Mùi, Thiệu minh năm thứ 2 (1139), sứ nhà Tống sang sách phong cho Lý Anh Tông làm Giao Chỉ quận vương. Năm Canh Thân, tháng 2 (1140), đổi niên hiệu là Đại Định năm thứ 1. Tháng ba, mùa Xuân, Cảm Thánh hoàng thái hậu họ Lê vì có tình ý(2) riêng cho nên dùng Đỗ Anh Vũ làm Cung điện lệnh cai quản các việc trong ngoài cung vua và cung hoàng thái hậu. Đỗ Anh Vũ(3) là em ruột của Đỗ thái hậu(4) . Cuối năm Canh Thân (1140), Thân Lợi(5) đánh chiếm các châu, động vùng biên giới Thái Nguyên, Tây Nông, Lục Lệnh, Thượng Nguyên, Hạ Nông rồi tự xưng vương, lập đế hiệu là Bình vương, sắc phong cho vợ làm hoàng hậu, cho con làm vương hầu, xếp đặt quan tước thành một triều đình riêng biệt (1141). Tháng 2, năm Tân Dậu (1141), Lý Anh Tông sai 2 tướng Lư Vũ Nhĩ và Hứa Viêm đem quân tiến hai mặt VSTK - 265


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

thủy bộ đánh dẹp. Thân Lợi giết được tướng của nhà Lý là Tô Tiệm ở sông Bắc Đà(6) nhưng phải rút về châu Thượng Nguyên cố thủ. Vũ Nhĩ chỉ mới chiếm lại được châu Tây Nông và hạ được ải Bác Nhự(7) nhưng thủy binh lại thua to ở Bồ Đình(8) cho nên Vũ Nhĩ phải rút về. Thân Lợi chiếm lại châu Tây Nông, rồi đánh lấy Phú Lương(9) vây hãm kinh đô. Lý Anh Tông sai Đỗ Anh Vũ đem quân đón đánh quân Thân Lợi ở Quảng Dịch(10). Quân Thân Lợi thua nặng. Thân Lợi thoát thân một mình chạy về châu Lục Lệnh, bị Anh Vũ truy lùng phải chạy sang châu Lạng nhưng sau đó cùng với nhiều đồ đảng bị thái phó Tô Hiến Thành bắt được giải về kinh chịu án xử chém. Lư Vũ Nhĩ hối lộ(11) cho vua để chạy tội thua trận bằng cách dâng hưu trắng và ngọc quý. Tháng 12, năm Nhâm Tuất (1142), quy định thể lệ cầm thế, mua bán ruộng đất. Quý Hợi (1143), tổ chức ba nhà thành một bảo để kiểm soát nhau về việc thi hành lệnh cấm tự tiện mổ trâu bò làm thịt trong các dịp hội hè cúng tế. Cử Dương Tử Minh cai quản việc hành chính các động dọc theo vùng biên giới; Năm Giáp Tý (1144), gả công chúa Thiều Dung cho Dương Tử Minh và phong cho chức phò mã lang. Ất Sửu, tháng 8 (1145), một người thổ bên đất Tống là Đàm Hữu Lượng trốn sang châu Tư Lang rồi cướp phá Quảng Nguyên. Chính quyền của nhà Tống ở Quảng Tây viết thư yêu cầu nhà Lý cho quân đi bắt. Lý Anh Tông sai phò mã Dương Tự Minh đánh dẹp, bắt được nhiều đồ đảng của Hữu Lượng. Hữu Lượng chạy thoát nhưng sau đó bị người của nhà Tống ở Ung Châu dụ cho ra hàng rồi bắt giết đi. Đinh Mão, tháng 11 (1147), bà nội của Lý Anh Tông là hoàng thái hậu họ Đỗ mất được đặt tên thụy là Chiêu Hiếu. VSTK - 266


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Kỷ Tỵ, mùa Xuân (1149), thuyền buôn ngoại quốc từ các nước Trão Oa(12) và Tiêm La(13) vào Hải Đông xin phép ở lại buôn bán. Nhà Lý bèn lập trang trại trên một cù lao để cho họ ở gọi là trang Vân Đồn. Canh Ngọ, tháng 9 (1150), người nước Chân Lập vào cướp Nghệ An nhưng không chịu nổi khí hậu chướng độc, bị chết quá nhiều nên tự tan rã. Năm Tân Mùi, tháng 11 (1151), sinh trưởng hoàng tử Lý Long Xưởng(14). Triều thần do điện tiền đô chỉ huy sứ Vũ Đái chủ xướng, mưu định diệt trừ Đỗ Anh Vũ vì Anh Vũ dựa thế Cảm Thánh thái hậu họ Lê để lộng hành, kiêu căng và vượt quyền nhà vua. Anh Vũ bị bắt giam ngục nhưng Cảm Thánh thái hậu đã đem vàng đút lót cho Vũ Đái để Anh Vũ khỏi bị giết mà chỉ bị tội đày đi làm ruộng(15) rồi sau đó Cảm Thánh lại cố tình mở nhiều dịp ân xá tha tù phạm để Anh Vũ cũng được tha tội, phục hồi chức vụ thái úy phụ chính, được Cảm Thánh yêu dùng hơn, lại càng phóng túng lộng quyền hơn trước. Anh Vũ tổ chức riêng đội phụng quốc vệ riêng của mình chuyên đi bắt người để giam nhốt rồi tấu trình láo lên Lý Anh Tông để bắt giết Vũ Đái, cho đi đày, giáng chức những người theo hùa với Vũ Đái chống lại Anh Vũ ngày trước . Nhâm Thân, tháng 10 (1152), Lý Anh Tông muốn nước Chiêm Thành trở thành chư hầu của mình cho nên sai thượng chế Lý Mông đem quân ở Thanh Hóa, Nghệ An yểm trợ cho người Chiêm Thành là Ung Minh Điệp(16) trở về xứ lật đổ vua nước Chiêm hiện tại là Bì La Bút(17). Việc lật đổ thất bại, Lý Mông và Ung Minh Điệp bị vua nước Chiêm giết chết. Giáp Tuất, tháng 10 (1154), vua nước Chiêm chịu thần phục và sang triều cống nhà Lý. Đinh Sửu (1157), xuống chiếu quy định luật lệnh(18). Mậu Dần, tháng 8 (1158), Đỗ Anh Vũ chết. VSTK - 267


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29

Kỷ Mão, tháng 5 (1159), Tô Hiến Thành đánh dẹp giặc Ngưu Hống và Ai Lao sang cướp phá và được Lý Anh Tông phong chức thái úy. Giáp Thân, tháng 7 (1164), nhà Tống thăng phong cho Lý Anh Tông làm An Nam Quốc Vương, đổi Giao Chỉ làm An Nam quốc(19). Mậu Tý, tháng 8 (1168), sứ nhà Tống và sứ nước Kim cùng sang một lúc. Lý Anh Tông đón tiếp hai sứ thần cùng mộ nghi thức ngoại giao nhưng riêng rẽ, không để cho họ gặp nhau. Quý Tý, tháng 5 (1173), Lý Long Trát(20) sinh. Giáp Ngọ, tháng 2 (1174), đổi niên hiệu là Thiên Cảm Chi Bảo năm thứ 1; truất phế thái tử Lý Long Xưởng làm thứ dân và giam ngục vì Long Xưởng thông dâm với một người phi của Lý Anh Tông. Ất Mùi, tháng Giêng (1175), lập Lý Long Trát làm đông cung hoàng thái tử; phong cho Tô Hiến Thành làm tể tướng kèm thêm tước vương để phò giúp thái tử Long Trát coi giữ chính sự về sau. Tháng 4, vua đau nặng; hoàng hậu Đỗ Thụy Châu đã nhiều lần xin hồi phục chức hoàng thái tử cho Long Xưởng, nay thừa dịp nầy lại xin nữa nhưng Lý Anh Tông không nghe theo . Tháng 7 năm Ất Mùi (1175), Lý Anh Tông mất, di chiếu cho Tô Hiến Thành làm phụ chính. Bây giờ đến lượt Cảm Thánh hoàng thái hậu họ Lê mưu toan làm việc phế lập bằng cách hối lộ đút lót cho vợ của Tô Hiến Thành để dụ Hiến Thành nghe theo nhưng bị quyết liệt cự tuyệt, âm mưu phế lập thất bại.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: 30 31 32

Cảm Thánh phu nhân hoàng thái hậu: là phu nhân của Lý Thần Tông, mẹ đẻ của Thiên Tộ tức Lý Anh Tông. Cảm Thánh chưa bao giờ được Lý Thần Tông ban chức hoàng hậu. Sau khi Lý Anh (1)

VSTK - 268


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28

29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Tông lên ngôi Cảm Thánh mới được tôn làm hoàng thái hậu nhưng không thấy sử cũ viết một cách rõ ràng tôn hiệu của Cảm Thánh khi dược tôn lên làm hoàng thái hậu mà chỉ gọi là hoàng thái hậu họ Lê tức là bà nội của Lý Cao Tông sau nầy. Cảm Thánh hoàng thái hậu họ Lê dưới triều Lý Cao Tông được sử cũ gọi là Chiêu Linh hoàng thái hậu. Như vậy dưới triều Lý Cao Tông có 2 hoàng thái hậu: một là hoàng thái hậu Chiêu Thiên Chí Ly Đỗ Thụy Châu, mẹ ruột của Lý Cao Tông; hai là Chiêu Linh hoàng thái hậu bà nội của Lý Cao Tông tức là hoàng thái hậu họ Lê hay Cảm Thánh phu nhân họ Lê cũng là một. (2) Tình ý riêng của hoàng thái hậu họ Lê (Cảm Thánh): CM ghi rõ Đỗ Anh Vũ là em của Đỗ thái hậu (Đỗ thái hậu nầy có thể là Đỗ Thụy Châu = vợ Lý Anh Tông). Đỗ thái hậu là mẹ của Lý Thần Tông, tức là mẹ chồng của Lê thái hậu. (KĐVSTGCM/CB.4/35). Theo bản dịch ĐVSKTB/Bản Kỷ/Q.4 đời Tây Sơn, nơi trang 278 của nhà xuất bản KHXH Hà Nội thì Đỗ Anh Vũ là con trai của Đỗ thái hậu. Có thể bản dịch nầy không đúng bởi vì không lý Anh Vũ lấy họ mẹ là họ Đỗ? Có thể suy diễn như sau: có 2 thái hậu họ Đỗ: *Một bà họ Đỗ chết vào năm Đinh Mão (1147), là vợ của Sùng Hiền Hầu, mẹ sinh của Thiên Tộ (Lý Thần Tông). Bà nầy có hai người em: 1/-em gái Đỗ Thụy Châu (sau nầy là vợ của Lý Anh Tông, tức là mẹ của Lý Cao Tông được Cao tông tôn là Chiêu Thiên Chí Lý hoàng thái hậu); 2/- em trai Đỗ Anh Vũ, kẻ thông dâm với Lê thị Chiêu Linh hoàng thái hậu vợ của Lý Thần Tông . *Bà họ Đỗ thứ 2 tức là Đỗ Thụy Châu, chị của Đỗ Anh Vũ như vừa kể trên. VSTA của Ngô Thời Sĩ có ghi chú về Lê thái hậu như sau: "Anh Vũ người đẹp, khéo múa hát, đời vua Lý Thần Tông được vào hầu gần vua, bà Thái hậu họ Lê yêu tiếng hát và sắc đẹp cho nên muồn tư thông với y đã lâu, nay sửa lại cung Quảng Từ rất là xa xỉ đẹp đẽ, ngày đêm ăn nằm với Anh Vũ mà vua không biết". (VSTY/ Ngô Thời Sĩ/ bản dịch của Hội Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu/ Sài Gòn/1960/ trang 148). (3) Đỗ Anh Vũ: xem chú thích(2) trên. (4) Đỗ thái hậu: chị của Đỗ Anh Vũ, vợ của Sùng Hiền hầu, mẹ của Lý Thần Tông; Lý Nhân Tông không có con trai cho nên lập con của vợ chồng Sùng Hiền hầu lên làm thái tử, sau lên ngôi tức Lý Thần Tông. Thái hậu họ Đỗ nầy mất vào năm Đinh Mão, tháng 11 (1147). Như vậy vợ của Lý Anh Tông (Đỗ Thụy Châu) nếu thực sự là em gái của Đỗ thái hậu thì vai vế của Đỗ Thụy Châu đối với Lý Anh Tông sẽ là bà Dì (nếu là em gái của Đỗ thái hậu) thì cuộc hôn nhân giữa Đỗ Thụy Châu và Lý Anh Tông là một sự phối hợp loạn luân. VSTK - 269


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Có thể vì muốn ém nhẹm sự xấu xa nầy mà những người ghi chép lịch sử của triều đại nhà Lý đã ỡm ờ lướt nhanh không viết ra tên thật của Đỗ Thụy Châu, người vợ loạn luân của Lý Anh Tông. (5) Giặc Thân Lợi: Lời bàn Ngô Thời Sĩ viết trong ĐVSKTB như sau: Năm Thiệu Hưng thứ 9 (1139) nhà Tống, Quảng Tây súy ty nói rằng: "Thời Lý Nhân Tông có người cung thiếp sinh được con trai nhưng không được Lý Nhân Tông thừa nhận. Khi Lý Thần Tông lên ngôi, đứa con ấy chạy sang nước Đại Lý đổi họ tên là Triệu Trí Chi, tự xưng là Nam Bình Vương. Khi Lý Thần Tông mất, Trí Chi bèn trở về nước tranh ngôi vua với Lý Anh Tông. Anh Tông đem quân chống lại, Trí Chi cầu viện với quân Tống. Súy Ty đem việc xin quân viện của Trí Chi tâu lên nhưng vua Tống xuống chiếu từ chối. Vậy có lẽ Trí Chi và Thân Lợi chỉ là một người vì khi trần tình để xin viện binh của nhà Tống thì nói láo là con vợ lẻ của Lý Nhân Tông để lừa gạt nhà Tống mà thôi. Còn như xưng hiệu Nam Bình Vương cũng là chứng cớ hợp với sử chép Thân Lợi tiếm hiệu là Bình Vương nhưng không biết rõ được gốc ngọn của Thân Lợi ra sao ". VSTGCM cũng có trích dẫn lời bàn nầy của Ngô Thời Sỹ. (CM/4/37). Không biết Ngô Thời Sĩ đã căn cứ vào đâu để trích dẫn lời nói của người Tống rồi đoán chừng là Trí Chi và Thân Lợi là một người. Trong ĐVSKTT, có mộ đoạn viết sơ lược về việc Lý Nhân Tông tìm con trai trong họ tôn thất để lập làm thái tử: "Xuống chiếu rằng: Trẫm cai trị muôn dân mà đến nay chưa có con nối, ngôi báu của thiên hạ không biết truyền cho ai? Vậy nên trẫm nuôi con trai các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người nào giỏi thì lập làm thái tử . Bấy giờ con Sùng Hiền Hầu là Dương Hoán (tức là Lý Thần Tông sau nầy) mới lên 2 tuổi mà đã thông minh lanh lợi, cho nên vua rất yêu bèn lập làm hoàng thái tử." (ĐVSKTT/BK.3/18 a,b). Một đoạn khác viết lướt nhanh như sau: Năm Giáp Thìn, tháng 9 (1124), Thành Khánh hầu (không rõ tên) chết. Tháng 12, phu nhân của Thành Khánh Hầu là Hà thị uống thuốc độc chết theo chồng. (BK.3/23a). Có các điểm sau đây rất đáng được chú ý: a. Con trai của Thành Khánh hầu cũng được Lý Nhân Tông tuyển chọn làm con nuôi để dự tranh ngôi vị hoàng tử nối ngôi vua. ĐVSKTT không nói rõ lý do vì sao mà Thành Khánh hầu chết. b. Tại sao vợ của Thành Khánh hầu là Hà thị phải uống thuốc độc tự tử chết theo chồng ? Từ những điểm vừa nêu trên, tông tích của Thân Lợi có thể suy diễn như sau: con trai của Thành Khánh hầu có tên là Thân Lợi không được Lý Nhân Tông chọn làm hoàng tử cho nên Thành Khánh hầu bất mãn làm điều sằng bậy, bị Lý Nhân Tông xử tội chết, vợ là Hà thị cũng bị liên lụy bắt phải tự xử bằng thuốc độc. Còn con trai Thành Khánh Hầu là Thân Lợi chạy thoát đến chiếm giữ các châu dọc VSTK - 270


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

biên giới như Thái Nguyên, Tây Nông, Thượng Nguyên và Hạ Nông, thu nạp những kẻ trốn tránh, tuyển mộ thổ binh rồi năm 1141 tự xưng là Bình Vương, lập thành một triều đình riêng biệt. Các động và châu ở vùng biên giới theo về với Thân Lợi rất nhiều. Lý Anh Tông cử người đánh dẹp Thân Lợi nhưng thất bại. Thân Lợi đánh chiếm gần hết những vùng ở tỉnh Bắc Thái (tức Thái Nguyên) ngày nay, chiếm đóng phủ Phú Lương và chuẩn bị tiến đánh Thăng Long nhưng bị Đỗ Anh Vũ chận đánh rồi kế tiếp bị Tô Hiến Thành truy bắt giải về kinh đô xử chém. (6) Sông Bác Đà: chú thích trong sử cũ đoán chừng là một đoạn sông Cầu trong vùng đất huyện Phú Lương, Bạch Thông ngày nay. Theo Dư địa chí của Phan Huy Chú thì huyện Bạch Thông có một con sông lớn (Phan Huy Chú gọi là nguồn nước) bắt nguồn từ Trung Quốc chảy ngang qua phủ Cao Bằng đến châu Bạch Thông rồi phân thành ba nhánh chảy vào 2 cái hồ lớn (Phan Huy Chú gọi là biển) trong địa phận của 2 xã Tiên Man và Nam Mẫu . Như thế, sông Bác Đà có thể là con sông nầy. (7) Ải Bác Nhự: không khảo được là ở chỗ nào. Có thể là một cửa ải nhỏ nào đó ở Cao Bằng. (8) Bồ Đình: không khảo được ở đâu. (9) Phù Luơng: nay là huyện Phú Lương, tỉnh Bắc Thái. (10) Quảng Dịch: không khảo được. (11) Lư Vũ Nhĩ hối lộ: dâng hươu trắng và ngọc quý để che đậy việc thua trận của mình. (12) Trão Oa: tức là Java, Nam Dương bây giờ. Theo sử đời nhà Minh ở Trung Hoa thì nước Trão Oa hay Qua Oa ở về phía Tây Nam nước Chiêm Thành còn có tên khác là Hạ Cảng hoặc Thuận Tháp. Người nước nầy bẩm tính hung tợn, lớn bé đều cầm đeo dao mác, hể trái ý là đâm chém nhau ngay. Theo sách Việt Chí thì Quỷ quốc trong kinh Phật là nước nầy. (13) Tiêm La: ĐVSKTT dùng danh từ Xiêm La từ năm 1149 nhưng mãi tới cuối thế kỷ thứ 13 mới thấy thư tịch của Trung Hoa đề cập tới nước nầy nhưng trong thời nhà Nguyên chỉ gọi là nước Xiêm chứ không phải là Xiêm La (Minh sử/Xiêm quốc truyện). Đời nhà Minh, khoảng năm 1371, tên Xiêm La mới thấy xuất hiện. Minh Nhất Thống Chí viết: Vào khoảng niên hiệu Chí Chính (1341-1368), nước Xiêm bị nước La Học xăm chiếm và hợp nhất thành một nước Xiêm La Học". Như vậy chữ Tiêm La trong ĐVSKTT đặt vào năm 1149 có thể không phải là tên đã gọi mà người viết sử của nhà Lý đã dùng bởi vì vào năm 1149 chưa có nước Tiêm La hay Xiêm La nhưng lại có 2 nước riêng rẽ sát kề nhau là nước Xiêm và nước La Học. Như vậy, từ năm 1149 trở về trước thì viết là nước Xiêm rồi về sau có thể là bắt đầu là do từ Ngô Sĩ Liên hoặc do các sử gia nối tiếp dưới triều đại nhà Lê đã sửa lại thành Tiêm La. VSTK - 271


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Theo Thanh Nhất Thống Chí thì Tiêm La vào đời Tùy, Đường gọi là nước Xích Thổ ở về phía Tây Nam nước Chiêm Thành, rồi chia thành hai nước: nước Tiêm và nước La Học. Đời nhà Nguyên, trong khoảng những năm 1295-1296, hai nước nầy có đến chầu và triều cống. Về sau, nước La Học thôn tính và sáp nhập nước Tiêm để lập ra nước Tiêm La Học, vào thời nhà Minh khoảng 1368-1398, Tiêm La Học sang chầu vua nhà Minh và được nhà Minh ban cho ấn tước Tiêm La quốc vương. Từ đó mới gọi là nước Tiêm La. (14) Lý Long Xưởng: sinh vào năm Tân Mùi, tháng 11 (1151). Năm 1174 bị truất ngôi thái tử vì thông dâm với vợ của cha mình. (15) Đày đi làm ruộng: sử cũ ĐVSKTT viết là bắt Đỗ Anh Vũ chịu tội đồ làm cảo điền nhi tức là những người có tội bắt phải làm ruộng cho chính quyền. Chữ cảo ở đây có thể là hiểu là cỏ và cảo điền nhi có thể là người lao công tạp dịch, nhổ cỏ ngoài đồng ruộng chứ không phải là người làm nghề nông cày cấy ruộng đất để trồng lúa gạo. Chữ Cảo trong ĐVSKTT cũng có thể là Cảo xã (BK.5/6.a) hoặc Cảo động (BK.10/ 28.a) mà KĐVSTG gọi là Tảo xã (nay là xã Nhật Tảo, huyện Từ Liêm, Hà Nội) (CB.6/9). Như vậy, Cảo điền nhi có thể là những người bị tội đày phải cày ruộng cho nhà nước ở 1 vùng gọi là Cảo xã (hay Tảo xã). KĐVSTGCM viết: Nhà vua xét Án Đỗ Anh Vũ bắt chịu tội đồ làm điền nhi, không có chữ cảo như ở ĐVSKTT. Cũng theo KĐVSTGCM trích dẫn lời chua của Ngô Thời Sĩ thì điền nhi và lộ ông đều là những tội đồ dịch (CB.4/19). (16) Ung Minh Điệp: ĐVSKTT và KĐVSTGCM chép là Ung Minh Tá Điệp, người nước Chiêm Thành nhưng không nói rõ lý lịch.. (17) Chế Bì La Bút: vua nước Chiêm Thành (1145-1170). Có sách nói chính Ung Minh Điệp là Vansaraja, và Chế Bì La Bút là vua Chiêm Jaya Harivarman I. (18) Quy định luật lệnh vào năm 1157: các bộ sử cũ đều không có chi tiết về lần quy định luật lệnh nầy; năm 1162 mới thấy xuống chiếu định rằng kẻ nào tự động cắt bỏ bộ phận sinh dục (tự hoạn) thì xử 80 trượng, thích 23 chữ lên cánh tay. (LTHCLC/Hình Luật Chí/Phan Huy Chú) (19) An Nam quốc: ngày xưa người Trung Hoa gọi là Giao Chỉ; vua Cao Tông nhà Đường đặt làm An Nam Đô hộ phủ, tên gọi An Nam bắt đầu có từ đó. Vua Hiếu Tông nhà Tống tước phong cho Lý Anh Tông tước An Nam Quốc vương thay thế tước Giao Chỉ quận vương đã được dùng qua nhiều triều đại của các vua Trung Hoa trước đây. Đối với người Trung Hoa, sở dĩ có sự thay đổi tước hiệu và quốc hiệu từ Giao Chỉ quận vương thành An Nam quốc vương là vì lãnh thổ Việt Nam dưới triều đại Lý Anh Tông đã bành trướng dài thêm xuống phía Nam chứ không phải chỉ còn lẩn quẩn ở quận Giao Chỉ nữa. Đây chỉ là một thủ tục ngoại giao nhằm công nhận và hợp thức hoá những vùng lãnh thổ mà các triều đại của nhà Lý đã xáp nhập vào lãnh thổ VSTK - 272


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

Giao Chỉ bằng chính sách bành trướng. Trên thực tế, nếu người Trung Hoa thực tình thì sự công nhận nầy đã phải làm từ trước lâu lắm rồi chứ không phải đợi cho đến lúc nhà Tống yếu thế muốn có đồng minh để nhờ cậy về sau cho nên mới có sự thay đổi phong tước hiệu cho Lý Anh Tông là An Nam Quốc vương. (nhà Tống lúc nầy gọi là Nam Tống bởi vì Trung Hoa bắt đầu có loạn, nhà Nguyên nổi lên ở Mông Cổ, người Kim vào chiếm Biện Kinh là kinh đô cũ của nhà Tống ở phía Bắc vì thế nhà Tống suy yếu phải bỏ chạy xuống Lâm An ở về phía Nam nước Trung Hoa). (20) Lý Long Trát: sinh vào ngày 25 tháng 5 năm Quý Tỵ (1173), con thứ 6 của Lý Anh Tông, mẹ là Đỗ Thụy Châu. KHẢO LUẬN :

12 13

14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25

26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

n Những điều dối trá trong sử cũ khi viết về những người đàn bà trong cung đình thời nhà Lý

Dưới triều Lý Anh Tông, sử cũ khi đề cập tới những người đàn bà có liên hệ máu mủ với ông vua nầy đã viết rất lộn xộn, mơ hồ, không đầu đuôi khiến cho người đọc phải chán nản lắc đầu khó chịu. Đây là mt sự cố tình trơ trẽn vô liêm sĩ của những người viết sử thuê dưới các thời đại vua chúa phong kiến nhằm che lấp đi những trò dâm loạn nhơ nhớp, những âm mưu tranh quyền đoạt vị xấu xa xảy ra bên trong nội vi gia đình vương tộc. Những người đàn bà được sử cũ gọi là Minh Bảo phu nhân họ Lê, Cảm Thánh phu nhân họ Lê, hoàng hậu họ Lê, hoàng thái hậu họ Lê, rồi Chiêu Linh hoàng thái hậu hoặc có tới hai hoàng thái hậu họ Đỗ, tất cả đã bị trộn lẫn đứt đoạn từng hồi khiến cho tông tích của họ không còn có thể truy cứu một các dễ dàng. 1/ Triều đại: Lý Công Uẩn Cha: Vô danh Mẹ: Họ Phạm Vợ: Họ Lê Con nối ngôi: Lý Phật Mã/ Con đích 2/ Triều đại: Lý Thái Tông Cha: Lý Công Uẩn Mẹ: Họ Lê Vợ: Họ Mai Con nối ngôi: Lý Nhật Tôn/ Con đích 3/ Triều đại: Lý Thánh Tông Cha: Lý Thái Tông Mẹ: Họ Mai/ Kim Thiên Thái hậu Vợ: Họ Dương/nguyên phi & Ỷ Lan thần phi Con nối ngôi: ?

VSTK - 273


1 2 3 4 5

4/ Triều đại: Lý Nhân Tông Cha: Có thể không phải là con của Lý Thánh Tông Mẹ: Ỷ Lan phu nhân/ Ỷ Lan thái phi rồi Linh nhân thái hậu Vợ: Lan Anh, Khâm Thiên, Chấn Bảo và phu nhân Trần Anh Con nối ngôi: không có con. Nuôi con trai của Sùng Hiền hầu: Dương Hoán

13

5/ Triều đại: Lý Thần Tông Cha: em trai của Lý Nhân Tông: Sùng Hiền Hầu Mẹ: Họ Đỗ, mẹ đẻ và Trần Anh phu nhân là mẹ nuôi dưỡng Vợ: Họ Lý hoàng hậu; Minh Bảo họ Lê (Cảm Thánh phu nhân họ Lê), Nhật Phụng, Phụng Thánh, Chương Anh họ Lý (có thể là chị em họ với hoàng hậu họ Lý). Con nối ngôi: 1/ Thiên Lộc (con trai đầu lòng/có thể mẹ đẻ là Chương Anh). 2/ Thiên Tộ (con trai thứ nhì sinh ra sau Thiên Lộc, mẹ là Cảm Thánh Phu nhân họ Lê.)

14

6/ Triều đại: Lý Anh Tông (Thiên Tộ)

6 7 8 9 10 11 12

15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

Cha: Lý Thần Tông Mẹ: Cảm Thánh phu nhân họ Lê/ Cảm Thánh hoàng thái hậu Vợ: Hoàng hậu họ Đỗ (Có sách viết là Đỗ Thụy Châu) Con nối ngôi: 1/- Long Xưởng/con trưởng: bị truất phế vì loạn luân với vợ của vua cha Lý Thần Tông. 2/- Long Trác: con trai thứ 6 của Lý Anh Tông và hoàng hậu họ Đỗ. 7/ Triều đại: Lý Cao Tông (Long Trác) Cha: Lý Anh Tông Mẹ: Hoàng thái hậu họ Đỗ (Đỗ Thụy Châu: Vợ: An Toàn hoàng hậu họ Đàm Con nối ngôi: tên là Sảm, sinh năm 1194, hoàng thái tử năm 1208. 8/ Triều đại: Lý Huệ Tông Cha: Lý Cao Tông Mẹ: An Toàn Hoàng thái hậu họ Đàm Vợ: Thuận Trinh Phu nhân Trần thị (Dung)/ hoàng hậu Trần thị (sau lấy Trần Thủ Độ trở thành Thiên Cực công chúa). Con nối ngôi: Lý Chiêu Thánh, sinh năm 1218, con gái thứ, được lập thái tử năm 1224. 9/ Triều đại: Lý Chiêu Hoàng Cha: Lý Huệ Tông Mẹ: Hoàng hậu Trần thị (Dung) Chồng: 1/- Trần Cảnh (Trần Thái Tông); 2/- Lê Phụ Trần (ngự sử đại phu đời Trần Thái Tông) Con nối ngôi: không có con, bị Trần Thủ Độ và Trần thị Dung phế xuống hàng công chúa rồi gả cho Lê Phụ Trần.

7. LÝ CAO TÔNG ( 1176 - 1210 ) Niên hiệu: Trinh Phù (1176-1185) Thiên Tư Gia Thụy (1186-1201) Thiên Gia Bảo Hữu (1202-1204) Trị Bình Long Ứng (1205-1210) VSTK - 274


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34

Thái tử Lý Long Trát mới được 3 tuổi, lên ngôi trước linh cửu tức là Lý Cao Tông, tôn mẹ Đỗ Thụy Châu làm Chiêu Thiên Chí Lý hoàng thái hậu; phong cho em trai của mẹ là Đỗ An Di chức Thái sư đổng bình chương sự(1), tiếp tục dùng Tô Hiến Thành giữ chức Thái Úy(2) . Hi hợp quan quân ở điện Thiên An bắt phải tuyên thệ trung thành với vua mới. Năm Mậu Tuất (1178), sau khi cả nước vừa xong hạn chịu tang Lý Anh Tông, Chiêu Linh (Cảm Thánh) hoàng thái hậu liền bày tiệc cho các quan triều ở cung điện riêng của mình để xúi giục truất phế Long Trát và đưa Long Xưởng trở lại thay thế ngôi vua nhưng các quan vì sợ uy danh của Tô Hiến Thành nên không ai chịu nghe theo Chiêu Linh. Khi Tô Hiến Thành nằm bệnh, Chiêu Linh giả trá vào thăm để dò xét tình ý về việc cắt đặt người cầm đầu quân đội trong tương lai. Tô Hiến Thành đề cử gián nghị đại phu Trần Trung Tá(3), Chiêu Linh giả dối khen ngợi Tô Hiến Thành là trung thần nhưng rồi về sau không thèm nghe theo sự để cử đó. Năm Kỷ Hợi, tháng 6 (1179), thái úy Tô Hiến Thành mất. Trong dịp tang chế nầy, vua bớt ăn ba ngày, nghỉ lễ thiết triều 6 ngày rồi sau đó dùng cậu là Đỗ An Di giữ nhiệm vụ phụ chính. Năm Canh Tý (1180), lũ lụt và động đất . Năm Tân Sửu (1181) có nạn đói. Năm Nhâm Dần, tháng Giêng (1182), ban chức hiệu "thầy của vua"(4) cho Lý Kính Tu. Chiêu Linh vì sợ uy danh của Kính Tu cho nên từ đây về sau không còn dám manh tâm tính chuyện phế lập nữa. Năm Bính Ngọ, tháng Giêng (1186), sứ nhà Tống sang sách phong ngay cho Lý Cao Tông tước An Nam Quốc Vương, xem như Lý Cao Tông được theo lệ cha truyền con nối, nay chỉ cần vua Tống hợp thức công VSTK - 275


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

nhận, không còn phải qua giai đoạn tước phong Nam Bình vương như ngày trước nữa; đây là một biệt lệ vua Tống ban cho Lý Cao Tông. Tháng 3, đặt Đàm thị An Toàn làm nguyên phi. Năm Mậu Thân (1188), hạn hán, động đất, bão lụt. Năm tiếp theo (Kỷ Dậu/1189) lại có động đất. Năm Canh Tuất, tháng Giêng (1190), hoàng thái hậu Đỗ Thụy Châu(5) mất. Năm Nhâm Tý (1192), đào vét, khơi sâu sông Tô Lịch(6). Năm Giáp Dần, tháng 7 (1194), nguyên phi họ Đàm sinh con trai là Sảm, được Lý Cao Tông nâng lên chức hoàng hậu. Năm Ất Mão, tháng 2 (1195), thi tam giáo, lấy Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo để thi, ai đỗ thì được bổ dụng làm quan. Năm Mậu Ngọ, tháng Giêng (1198), loại ra khỏi triều chính những người đi tu đang giữ quan chức. Tháng 7, lũ lụt. Loạn Cao Xá nổi lên ở Diễn Châu và loạn ở châu Đại Hoàng nhưng đều bị đánh dẹp. Năm Kỷ Mùi, tháng 7 (1199), lũ lụt, mùa màng bị thiệt hại, dân chúng bị nạn đói trầm trọng. Năm Canh Thân, tháng Giêng (1200), phải lấy gạo thóc từ kho chứa của triều đình phát chẩn cho dân đói. Tháng 7, mùa thu (1200), Chiêu Linh thái hậu mất. Năm Quý Hợi (1202), tiêu phí tiền của, bắt dân lao dịch để thực hiện những công trình xây cất lầu đài nầy, cung điện kia, nhân dân khổ sở. Tháng 7 mùa Thu, quân Chiêm Thành đến cửa biển Cơ La(13) giả trá cầu viện rồi đánh úp, giết chết quan quân của Lý Cao Tông, cướp bóc, sát hại vô số dân chúng ở Nghệ An rồi rút đi.

VSTK - 276


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Tháng 8, con trai thứ của Lý Cao Tông tên là Thầm sinh. Tháng 9 năm Quý Hợi, Phí Lang và Bảo Lương cùng nổi loạn ở châu Đại Hoàng. Triều đình đưa quân bình định nhưng thua, hai tướng chỉ huy của triều đình bị giết. Năm Giáp Tý, tháng Giêng (1024), lại sai Đỗ Kính Tu đi bình định châu Đại Hoàng nhưng thất bại. Năm Ất Sửu, tháng 3 (1205), dân quân bộ tộc thiểu số trong lãnh thổ nhà Tống tràn sang cướp phá vùng biên giới, dân chúng khổ sở lầm than chạy giặc cướp nhưng vua quan nhà Lý giả điếc làm ngơ, vua trên tiếp tục ham mê xây dựng lâu đài nguy nga, vui chơi phung phí với vợ cùng và bọn nịnh thần, còn quan quân dưới thì mặc tình vơ vét tham nhũng mua quan bán chức. Giặc cướp nổi lên khắp nơi không còn cách nào để trấn áp được nữa. Năm Bính Dần, tháng 2 (1206), dùng kẻ tham ô Đàm Dĩ Mông(15) làm thái bảo. Vua vẫn tiếp tục vui chơi hoang đàng vô độ, không còn để ý tới tình hình rối ren đang xảy ra trong khắp cả nước. Năm Đinh Mão, tháng Giêng (1207), bắt trai tráng phải thi hành bổn phận đi lính(16) để tăng cường và dùng vào việc đánh dẹp giặc loạn và giặc cướp. Tháng 10, bộ tộc người Man vùng núi Tản Viên ở Châu Quốc Oai(17) quấy nhiễu cướp phá, triều đình không thể dẹp được. Năm Mậu Thìn, tháng Giêng (1208), lập con trai Sảm làm hoàng tử. Nạn đói lớn, dân chúng chết đói xác nằm la liệt chồng chất khắp nơi. Chỉ huy quân sự(18) ở Nghệ An là Phạm Du làm loạn, vua sai quan hoạn(19) phụng ngự Phạm Bỉnh Di đem quân từ châu Đằng và châu Khoái đi đánh dẹp. Phạm VSTK - 277


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25

Du thua chạy sang Hồng châu. Bỉnh Di tịch thu và đốt hết gia sản của Phạm Du. Phạm Du hối lộ cho người trong triều khai xấu Phạm Bỉnh Di và xin được về kinh đô để trình bày ủy khúc(20). Lý Cao Tông nghe lời Phạm Du(21), lệnh gọi Bỉnh Di về rồi bắt giam luôn với con trai là Phụ(22). Bộ hạ của Bỉnh Di là bọn Quách Bốc đem quân xong vào thành để giải cứu nhưng đã muộn, cha con Bỉnh Di đều bị giết trước khi Lý Cao Tông cùng thái tử Sảm bị truy đuổi chạy trốn ra bến Đông Bộ Đầu(23). Quách Bốc liền lập con trai thứ của Lý Cao Tông là Thầm lên ngôi vua; Đàm Dĩ Mông chịu thần phục và hợp tác với đám chính quyền mới do Quách Bốc đưa lên. Lý Cao Tông chạy lánh sang vùng Quy Hoá giang(24) còn thái tử Sảm thì chạy đến trú ẩn ở thôn Lưu Gia(25) ở Hải Ấp(26) rồi lấy con gái của Trần Lý làm vợ. Sảm phong tước cho anh em Trần Lý để sau đó anh em Trần Lý(27) chiêu tập dân địa phương dấy loạn, lấy danh nghĩa giúp Lý Cao Tông diệt trừ bọn Quách Bốc, khôi phục ngôi vua. Lý Cao Tông được đưa trở về ngôi cũ, xử tội Quách Bốc cùng đồng bọn rồi cho người đến thôn Lưu Gia đón một mình(28) thái tử Sảm về kinh đô. Năm Canh Ngọ, tháng 7 (1210), Lý Cao Tông mất, ở ngôi 35 năm thọ 38 tuổi. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

26 27 28 29

(1) Đổng

bình chương sự: chức quan tương đương với chức tể tướng, cùng một nhiệm vụ giống nhau. (2) Thái úy: chức quan võ đứng đầu quân đội, nay thường gọi Tổng tư lệnh quân đi. VSTK - 278


23

Trung Tá: giữ chức Gián nghị đại phu, một chức quan đứng hàng thứ hai trong một cơ quan gọi là Ngự sử đài, có nhiệm vụ bàn luận, cố vấn cho nhà vua. Khi Tô Hiến Thành đau nặng, Tham tri chính sự (một chức quan đứng hàng thứ 2 sau tể tướng) Vũ Tán Đường ngày đêm săn sóc ở bên còn Trần Trung Tá thì không có mặt ở đấy vì mắc bận việc khác. Chiêu Linh giả trá đến thăm để dọ hỏi dự định của Tô Hiến Thành về việc cắt cử người phụ chính sau nầy. Tô Hiến Thành đề nghị Trần Trung Tá. Chiêu Linh bèn hỏi tại sao Vũ Tán Đường đêm ngày hầu hạ thuốc thang cho nhưng không được đề đạt? Tô Hiến Thành đáp rằng Vũ Tán Đường chỉ giỏi việc coi sóc người bệnh, còn người thay thế cho Tô Hiến Thành phải là Trần Trung Tá. (4) Thầy của vua: sử cũ gọi là đế sư . (5) Hoàng thái hậu Đỗ Thụy Châu: ĐVSKTT và CM chỉ gọi là Đỗ thị. Đại Việt Sử Lược chép hoàng hậu họ Đỗ nầy tên là Thụy Châu (ĐVSL.3/8). (6) Sông Tô Lịch: một nhánh của sông Nhị Hà. Theo sách Thanh Nhất Thống Chí thì sông nầy bắt đầu từ phía Đông thành phủ Giao Châu chuyển hướng Tây chảy thẳng ra sông Nhuệ; có người tên là Tô Lịch ở vùng đó nên gọi là sông Tô Lịch. Đầu niên hiệu Vĩnh Lạc (14031424) thời nhà Minh, Hoàng Phúc đào sâu thêm và đổi thành sông Lai Tô. Nay về phía Đông Hà Nội, huyện Thọ Xương có cửa sông Tô Lịch, là chỗ phân lưu của sông Nhị Hà.

24

(7) Thi

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22

(3) Trần

32

tam giáo: tức là tuyển lựa những người hiểu biết uyên bác về đạo giáo thực sự để cho làm quan. Những người tu hành trước đây đa số là những kẻ ít học lại được các triều đại trước cấp phong quan tước bừa bãi, có lẽ vì thế mới có việc mở khoa thi tam giáo nầy và tiếp liền sau đó (năm 1198) sa thải rất nhiều những người tu hành không có công trạng gì nhưng lại đang giữ nhiều chức vụ cao trong triều đình theo lời tấu của Đàm Dĩ Mông. KĐVSTGCM viết: "Mậu Ngọ, tháng giêng, mùa Xuân (1198), xuống chiếu sa thải các thầy chùa theo lời tấu của Đàm Dĩ Mông (CB.5/26). ĐVSKTT: xuống chiếu sa thải các tăng đồ....(BK.4/ 22a,b).

33

(8)

34

(9)

25 26 27 28 29 30 31

35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45

Sa thải, loại bỏ... : xem chú giải (7) ở trên. Cao Xá: nay là Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Sử cũ viết: Ngô Công Lý người làng Cao Xá thuộc Diễn Châu, tập hợp bè đảng rồi cùng với đám Đinh Khả, Bùi Đô ở châu Đại Hoàng cùng mộ lúc nổi lên chống đối triều đình. Đinh Khả tự xưng mình là con cháu Đinh Tiên Hoàng, phô trương thế lực, dụ dỗ quần chúng đi theo. Lý Cao Tông sai quân đi đánh dẹp (ĐVSKTT/BK.4/22b và KĐVSTGCM/ CB.V/27). (10) Châu Đại Hoàng: thuộc huyện Gia Viễn, nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Hai bộ sử cũ viết rằng: Phi Lang và Bảo Lương ở châu Đại Hoàng vì tố cáo Đàm Dĩ Mông tham nhũng cho nên bị Dĩ Mông bắt và đánh bằng roi để trả thù vì thế bọn Phí Lang căm tức mà nổi loạn "(như trên BK/ 24a và CB.5/29). VSTK - 279


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Chiêu Linh hoàng thái hậu mất: người đàn bà họ Lê dâm đảng nầy liên tục quậy phá từ đầu đời Lý Thần Tông (năm 1128), kéo qua hết đời Lý Anh Tông (1138-1175), rồi đến đời Lý Cao Tông vẫn tiếp tục dấy động chuyện phế lập mãi cho đến năm 1200 mới chịu nhắm mắt nằm xuống. (12) Quân Chiêm Thành: hai bộ sử cũ viết rằng người Chiêm tên Bố Trì(a) bị người chú Bố Điền(b) đuổi đi, vì thế phải cùng gia đình vượt biển bằng thuyền đến cửa biển Cơ La xin cầu viện để trở về lấy lại ngôi vua. Quan quân triều đình ở châu Nghệ An nghi ngờ có sự man trá cho nên đem quân đánh úp nhưng thất bại, bị Bố Trì giết chết. Dân chúng ở Nghệ An kinh sợ chạy tán loạn và bị tàn sát vô số kể. Bố Trì mặc sức cướp bóc rồi rút đi. (a) (b) Bố Trì, Bố Điền: có sách viết Bố Trì chính là vua Chàm Suryavarmadeva và Bố Điền là Ong Dhanapatigrama. (13) Cửa biển Cơ La: đời nhà Trần là Kỳ La, nay là cửa Nhượng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tỉnh. (14) Giả trá cầu viện: xem chú thích (12) ở trên. (15) Đàm Dĩ Mông tham nhũng: xem chú thích (10) ở trên. (16) Bắt quân dịch: ĐVSKTT viết :. . .giặc cướp nổi như ong. Xuống chiếu chọn các đinh nam, người nào khỏe mạnh thì bắt sung vào quân ngũ, sai các quan thống quản để đi đánh giặc loạn và giặc cướp (BK/4/24b,25a). KĐVSTGCM cũng viết giống như thế. (17) Châu Quốc Oai: gồm có một phần đất huyện Ba Vì ngày nay và các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ, Thạch Thất và huyện Quốc Oai bây giờ. (18) Chỉ huy quân sự ở châu Nghệ An: KĐVSTGCM gọi là tri Nghệ An quân. (19) Quan hoạn: tức là loại quan không còn bộ phận sinh dục hầu hạ cận kề bên vua và hoàng hậu. Bộ sinh dục phải cắt bỏ đi nhằm phòng ngừa việc chung chạ bậy bạ giữa các loại quan nầy với hoàng hậu và các cung nữ riêng của nhà vua. Các loại hoạn quan nầy thường có chức tước và uy quyền rất lớn trong triều đình vì nhờ thường trực ton hót, bợ đỡ vua hoặc hoàng hậu và cũng thường lạm quyền tự tung, tự tác. (20) Tường trình ủy khúc: tức là trình bày tất cả mọi việc xảy ra cho cấp trên được biết. KĐVSTGCM viết: Phạm Du ngầm sai người đến kinh đô đem vàng bạc hối lộ đút lót cho bọn nội nhân để tâu vua rằng Bĩnh Di tàn ác chém giết bừa bãi người vô tội và xin cho Phạm Du được về để bày tỏ tình trạng oan ức của mình (CB.5/ 33). (21) Phạm Du: chỉ huy quân sự ở châu Nghệ An. (22) Con trai của Phạm Bỉnh Di tên là Phụ: Phạm Bỉnh Di là một hoạn quan, vậy đứa con trai nầy có thể là con nuôi hoặc là con của Bỉnh Di trước khi bị cắt bỏ bộ sinh dục để được trở thành hoạn quan. (11)

VSTK - 280


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17

(23) Bến

Đông Bộ Đầu: ở phía Đông thành Thăng Long, bên sông Hồng, nay ở vào khoảng gần cầu Long Biên và dốc Hàng Than bây giờ. (24) Quy Hóa giang: hay sông Thao, nay là đoạn sông Hồng từ Việt Trì trở lên. Vùng Quy Hoá giang tức là những miền núi Vĩnh Phú và Yên Bái. (25) Lưu Gia thôn: nay là Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Còn Hải Ấp thì không rõ là nơi nào ở Lư Xá. (26) Hải Ấp: không truy cứu được. (27) Trần Lý: làm nghề đánh bắt cá. Lúc đã phát đạt giàu có, được nhiều người theo, tụ tập thành đội ngũ rồi cũng nổi lên làm loạn. (28) Đón một mình thái tử Sảm về: sử cũ không nói rõ vì sao chỉ đón có một mình thái tử Sảm về triều còn vợ của Sảm là Trần thị lại phải ở lại nhà bố của mình là Trần Lý ở Lưu Gia thôn. Đây cũng lại là sự rối ren thốc mách do một người đàn bà gây ra. Người đó chính là mẹ của thái tử Sảm, Đàm thị hoàng hậu. (Sau nầy trở thành An Toàn hoàng thái hậu dưới triều của Lý Huệ Tông). KHẢO LUẬN : n

18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39

Về thành tích cai trị của Lý Cao Tông

ĐVSKTT viết về Lý Cao Tông như sau: Vua chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, lụt lội, động đất đói kém liêm miên hết năm nầy tới năm khác, cơ nghiệp nhà Lý bắt đầu suy từ đây . Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Cao Tông tuổi bé nối ngôi, Chiêu Linh thái hậu rắp lòng phế lập, thân vua suýt nữa bị nguy. Nhờ có Tô Hiến Thành vốn có quyền vị, nhận ký thác con côi, hết lòng phù trợ, ngôi báu không lay, thiên hạ quy phục tức là phải có những lời cố vấn, dẫn dắt tài giỏi cho vua. Đến khi Hiến Thành chết, Đỗ Kính Tu hầu hạ nơi màn trướng, giúp vua sửa đức, đâu phải là không có người? Thế mà vua miệt mài rong chơi, say đắm thanh sắc, ham tiền của, thích xây dựng, làm gương tham nhũng biếng nhác, gây oán hận trong dân chúng khiến cho cơ đồ nhà Lý phải suy sụp đi lần đến chỗ mất ngôi về họ khác. Kinh thư có câu: ở trong mê sắc đẹp, ra ngoài ham săn bắn, say sưa rượu chè, tuồng nhạc, thích phô trương hoa hòe xây dựng nhà cao cửa đẹp, chỉ cần phạm một trong những điều ấy cũng đủ bại vong. Vua phạm đủ các điều ấy, còn nói gì được nữa." (ĐVSKTT/BK.4/27a). Phan Huy Chú viết: Năm vua mới lên ngôi, nhờ người hiền tài phụ giúp cho nên chính sự còn khả quan. Nhưng về sau ăn chơi quá độ, bày nhiều việc thổ mộc, trộm giặc nổi lên như ong. Cơ nghiệp nhà Lý từ đấy mới suy. (LTHCLC/Nhân Vật Chí) VSTK - 281


1 2 3 4 5 6 7

VNSL/Trần Trọng Kim viết: Đến khi Cao Tông lớn lên cầm quyền trị nước thì cứ hay đi săn bắn chơi bời, làm cung xây điện, bắt trăm họ phải phục dịch khổ sở. Ngoài biên thì quân mường thổ ở bên Tàu sang quấy nhiễu ở phía Bắc, người Chiêm Thành sang đánh ở phía Nam; trong nước thì trộm cướp nổi lên như ong dấy. Vua tôi không ai lo nghĩ gì đến việc chính trị, chỉ là những việc nhũng lạm, mua quan bán chức, hà hiếp nhân dân, lấy tiền để làm những việc xa xỉ. o Về người dàn bà họ Đàm dưới triều đại của

8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40

ĐVSKTT chép: tháng 3, năm Bính Ngọ (1186), Lý Cao Tông sách phong Đàm thị làm An Toàn nguyên phi (Đàm thị là con gái của tướng quân Đàm Thì Phụng). Lời chua trong KĐVSTGCM viết: Đàm thị: con gái tướng quân Đàm Phụng, năm Trinh Phù thứ 11 (1186) được sách lập làm nguyên phi. Vào năm 1186, Lý Cao Tông chỉ mới có 13 tuổi (sinh năm 1173). Sử sách cũ không nói gì tới hoàng hậu vợ đích của Lý Cao Tông lúc Cao Tông ở lứa tuổi 13 nhưng ông vua trẻ nít nầy chắc là phải có hoàng hậu từ trước năm 1186, bởi vì nếu chưa có hoàng hậu thì Đàm thị phải là người vợ đầu tiên của Lý Cao Tông nhưng tại sao chỉ được sắc phong là nguyên phi mà không là hoàng hậu? Vậy trước Đàm thị nguyên phi, ai là hoàng hậu của Lý Cao Tông? Đây có thể là một nghi án xấu xa khác của vương tộc nhà Lý bị ém nhẹm không được viết ra trong sử cũ. Năm 1194, Đàm thị sinh được thái tử Sảm nên được Lý Cao Tông nâng lên chức hoàng hậu, tức An Toàn hoàng hậu. Một chi tiết khác cũng khá ly kỳ: phải đợi cho Lý Cao Tông đúng 16 tuổi thì Đàm thị nguyên phi mới sinh được thái tử Sảm. Theo tục lệ xấu và kinh nghiệm chậm tiến ngày xưa thì: nữ thập tam, nam thập lục (con gái mười ba tuổi, con trai 16 tuổi). Đây là hai phái tuổi có thể dựng vợ gả chồng để sinh con đẻ cái gọi là tuổi dậy thì; thành hôn dưới hai lứa tuổi nầy về mặt phong hoá là điều cấm kỵ còn về mặt sinh lý thì trai gái dưới lứa tuổi 13-16 không có khả năng tạo thai. Vậy, có thể suy diễn như sau: Đàm thị đã là vợ của Lý Cao Tông từ trước (từ lúc mới lên ngôi vua khi vừa được 3 tuổi) nhưng vì vào lúc đó Lý Cao Tông còn chỉ là một đứa con nít quá non sữa chưa biết gì về chuyện vợ chồng, chưa thể có con cho nên Đàm thị chỉ được ở hàng nguyên phi. Chuyện nầy người chép sử dưới triều Lý không được phép viết ra vì trái với phong hoá, phản tự nhiên và có hại cho gia thế của vương tộc nhà Lý; phải đợi cho hai người đúng tuổi mới được viết chuyện Đàm thị sinh ra thái tử Sảm và được tước phong làm An Toàn Hoàng hậu vào năm 1194 mà thôi. p Về Đàm thị An Toàn hoàng hậu và Đàm Dĩ Mông VSTK - 282


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30

Hai người nầy cùng một họ Đàm, cùng được thăng quan tiến chức dưới triều Lý Cao Tông gần như song song cùng một lúc. Phải chăng hai người có bà con họ hàng với nhau ? Năm 1186, sử cũ nhắc tới việc Đàm thị được sách phong làm nguyên phi thì Đàm Dĩ Mông được Lý Cao Tông phong chức Thái phó. Rồi kể từ sau khi Đàm thị được nâng lên chức hoàng hậu, (năm 1194), Lý Cao Tông bắt đầu tin dùng và nghe theo Đàm Dĩ Mông: năm 1198 sa thải các tăng đồ theo lời tâu của Đàm Dĩ Mông; năm 1203 giao trọn quyền cho Dĩ Mông đi giải quyết việc dẹp giặc Chiêm Thành đến cửa biển Cơ La đánh phá; năm 1206 Dĩ Mông được phong chức Thái Bảo. Năm 1209, Quách Bốc làm loạn, Lý Cao Tông và hoàng tử Sảm phải trốn chạy, Quách Bốc lập con trai thứ nhì của Lý Cao Tông là Thầm lên ngôi và Đàm Dĩ Mông chịu thần phục vua mới và hợp tác với bọn Quách Bốc. Sau khi Lý Cao Tông đã lấy lại ngôi vua, phản thần Đàm Dĩ Mông không bị tội chết mà vẫn còn được Lý Cao Tông ưu ái và trọng dụng. Sau nầy, khi Đàm thị đã trở thành Hoàng thái hậu (mẹ đẻ vua Lý Huệ Tông), Đàm Dĩ Mông được giữ chức Thái Úy trọn quyền cùng với hoàng thái hậu họ Đàm trông coi việc nước. Cả hai bộ sử cũ đều viết rằng Đàm Dĩ Mông là người không có học thức, ngu đần, nhu nhược, lừng khừng vì thế chính sự mới ngày một đổ nát, đói kém, giặc giã, cướp trộm xảy ra khắp nơi. Như vậy, Đàm thị An Toàn hoàng hậu và Đàm Dĩ Mông có thể là anh chị em ruột hoặc có họ hàng với nhau. Sử cũ cho biết rằng Đàm thị là con gái của tướng quân Đàm Thì Phụng. Lịch sử cho thấy, chỉ có anh em dòng họ của vợ hoặc của mẹ vua, dù ngu si đần độn bất tài nhưng lúc nào cũng được vua tin dùng đặt vào những chức vụ tột đỉnh của triều đình. Đám người gia đình trị nầy thường là nguồn gốc của những trò dâm loạn bưng bít, những âm mưu thô bỉ thay ngôi đổi chủ trong các triều đại vua chúa thời phong kiến.

8. LÝ HUỆ TÔNG ( 1211 - 1225 ) Niên hiệu : Kiến Gia (1221-1224) 31 32 33 34

Mùa Đông tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), thái tử Sảm lên ngôi trước linh cửu tức là Lý Huệ Tông, bấy giờ mới được 16 tuổi, tôn mẹ là là Đàm thị làm hoàng thái hậu cùng nắm giữ chính sự. VSTK - 283


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

Năm Tân Mùi, tháng Giêng (1211), đổi niên hiệu là Kiến Gia năm thứ 1. Sai Phạm Bố đi đón Trần thị vào cung lập làm nguyên phi(1). Tiếp tục dùng Đàm Dĩ Mông giữ chức Thái Úy cùng Đàm thái hậu trông coi việc nước; phong cho cậu của Trần thị là Tô Trung Từ chức thái úy phụ chính kiêm tước Thuận lưu bá; phong cho anh của Trần thị là Trần Tự Khánh làm chương thành hầu. Năm Nhâm Thân, tháng 2 (1212), sai Đoàn Thượng(2) đi châu Hồng dẹp giặc cướp. Đoàn Thượng nhân cơ hội nầy làm phản tự xưng vương. Năm Quý Dậu (1213), Đàm thị hoàng thái hậu và nguyên phi Trần thị không thuận hòa với nhau, Trần Tự Khánh biết được liền tự tiện đem quân về kinh đô lấy tiếng là để xin rước vua và em gái đi nơi khác. Lý Huệ Tông nghi Khánh làm phản và nghe theo Đàm thái hậu cho nên giáng Trần thị xuống hàng nô dịch(3) và sai quân đuổi bắt Trần Tự Khánh. Tự Khánh nghe tin ấy liền đích thân đi đến cửa cung vua lấy cớ là để giải bày về việc không có lệnh vua tự tiện mang quân về thủ đô. Lý Huệ Tông càng nghi thêm bèn cùng Đàm thái hậu lánh trốn lên Lạng châu dẫn theo Trần thị để làm con tin. Tự Khánh lại dẫn quân đuổi theo, lại lấy cớ là để xin đón về như trước, Lý Huệ Tông vẫn không tin cho nên lại chạy trốn sang huyện Bình Hợp(4) . Mùa Hạ tháng 5, năm Quý Dậu (1213), Trần Tự Khánh đem quân đánh dẹp tan bọn Đinh Khả và Bùi Đô(5) ở châu Diễn và châu Đại Hoàng. Năm Bính Tý, mùa Xuân (1216), Lý Huệ Tông sau khi trở lại hoàng cung, phong cho Trần thị làm Thuận Trinh phu nhân, trái ý với thái hậu vì thái hậu rất ghét Trần thị, coi Trần thị cùng với Trần Tự Khánh là một bè đảng phản loạn, rồi tìm cách đầu độc nhưng nhờ có Huệ Tông che chở cho nên Trần thị không bị hại; thái VSTK - 284


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

hậu lại sai người đến ra lệnh cho Trần thị phải tự sát nhưng Huệ Tông lại kịp thời ngăn chặn; sau đó Huệ Tông cùng Trần thị bỏ hoàng cung đi trốn ở châu Cửu Liên(6) rồi báo tin cho Trần Tự Khánh đến đón. Mùa Hạ tháng 6, năm Bính Tý (1216), Trần thị sinh con gái đầu lòng là công chúa Thuận Thiên ở châu Cửu Liên. Tháng 12 cùng năm, Trần Tự Khánh đưa quân đến đón rồi hộ tống đưa vua và Trần thị trở về triều cung. Trần thị được phong làm hoàng hậu, Tự Khánh được chức Thái úy phụ chính, anh của Tự Khánh là Trần Thừa được làm Nội thị. Trần Tự Khánh và thượng tướng Phan Lân sửa sang quân ngũ, chế tạo binh khí, thao luyện binh sĩ, thế quân bắt đầu lớn mạnh. Năm Mậu Dần, tháng 9 (1218), Trần thị hoàng hậu sinh con gái thứ nhì là Chiêu Thánh; con gái lớn sinh ở châu Cửu Liên ngày trước tên là Thuận Thiên nay đã là vợ(7) của Trần Liễu. Trần Liễu là con trưởng của Trần Thừa. Lý Huệ Tông mắc bệnh tâm thần(8), rượu chè say sưa không còn biết gì tới việc triều đình, lại chưa có thái tử, nhà vua chỉ sinh được 2 công chúa cho nên phải giao hết cả chính sự cho Trần Tự Khánh. Quyền bính trong nước từ nay về cả trong tay gia đình nhà họ Trần. Năm Quý Mùi, tháng 12 (1223),Trần Tự Khánh chết. Anh của Trần thị hoàng hậu là nội thị Trần Thừa được đưa lên nắm giữ chức phụ quốc thái úy. Năm Giáp Thân, mùa Đông (1224), lập Chiêu Thánh công chúa làm Phật Kim thái tử. Dùng em của hoàng hậu là Trần Thủ Độ làm điện tiền chỉ huy sứ. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Thánh rồi ra ở chùa Chân Giáo(9). Lý Huệ Tông ở ngôi được 14 năm. VSTK - 285


CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Nguyên phi: vợ thứ của vua, nhỏ hơn hoàng hậu. (2) Đoàn Thượng: ĐVSKTT chép là sai người cùng một vú nuôi là Đoàn Thượng tức là mẹ của Đoàn Thượng cũng là mẹ nuôi dưỡng Huệ Tông hay nói khác đi Đoàn Thượng là anh em nuôi của Huệ Tông. (3) Nô dịch: sử cũ viết là ngự nữ, hay là tôi tớ phục dịch cho vua. (4) Bình Hợp: không khảo được. (5) Đinh Khả và Bùi Đô: năm Mậu Ngọ, tháng 7 (1198), người hương Cao Xá ở châu Diễn là Ngô Công Lý chiêu tập những dân sống ngoài vòng luật pháp hợp cùng với Đinh Khả tự xưng là thuộc dòng họ Đinh Tiên Hoàng hợp và Bùi Đô cùng một lúc nổi dậy chống lại triều đình. Theo ĐVSKTT thì các cuộc nổi dậy nầy đều dẹp yên được. Còn KĐVSTGCM chỉ viết rằng nhà vua xuống chiếu xuất quân đi đánh nhưng không nói là có dẹp yên được hay không. Nay, ở năm Quý Dậu (1213) ĐVSKTT lại viết rằng Trần Tự Khánh phá tan nhóm chống đối Đinh Khả và Bùi Đô ở châu Diễn và châu Đại Hoàng trong khi KĐVSTG không đề cập việc nầy ở thời điểm năm 1231. Như vậy có thể suy đoán như sau: những cuộc nổi loạn của Đinh Khả và Bùi Đô dù có bị quân của Lý Cao Tông đón và đánh dẹp nhưng chưa bị tan rã hoàn toàn và sau đó Trần Tự Khánh mới tiêu diệt được hết. (6) Châu Cửu Liên: có thể là ở về phía tả ngạn sông Hồng gần cửa Cửu Cao, trong vùng đất huyện Văn Giang ngày trước, nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng. (1)

9. LÝ CHIÊU HOÀNG ( 1225 ) Niên hiệu :Thiên Chương Hữu Đạo (1224-1225) 25 26 27 28 29 30 31 32

Chiêu Thánh còn gọi là Phật Kim mới được 7 tuổi, lên ngôi vua vào năm Giáp Thân, tháng 10 (1224) tức Lý Chiêu Hoàng, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1. Năm Ất Dậu, tháng 10 (1225), thái hậu Trần thị cùng với em họ là Trần Thủ Độ mưu tính với nhau, xuống chiếu tuyển chọn con em của các quan trong ngoài để đưa vào cung hầu hạ riêng cho vua; thừa dịp VSTK - 286


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

nầy, Trần Thủ Độ và Trần thị đã đưa những cháu chú, cháu bác là Trần Bất Cập(1) làm Cận thị thư lục cục(2) Chi hậu cục, Trần Thiêm(3) làm Chi hậu cục(4) và Trần Cảnh(5) làm chính thủ(6). Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh vì gần gũi nhau cho nên phải lòng nhau, ngày đêm làm chuyện trai gái phòng the. Tất cả những liên hệ giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng thì Trần Cảnh phải báo trình(7) cho Trần Thủ Độ và Trần thị được rõ. Ngày 21 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Trần Thủ Độ tuyên bố một cách bất ngờ với quần thần rằng Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh đã trở thành vợ chồng. Mọi người đều sợ hãi, chỉ biết cúi đầu nghe theo. Quan quân phải vào triều chúc mừng rồi nghe đọc chiếu của Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi vua cho Trần Cảnh. Cùng trong năm Ất Dậu nầy, mẹ đẻ của Trần Cảnh là Lê thị lại sinh con trai tên là Nhật Hiệu(8). Thời đại họ nhà Lý kéo dài từ Lý Công Uẩn năm 1010 đến Lý Chiêu Hoàng năm 1225, tất cả là 218 năm thì mất về tay họ nhà Trần. CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35

(1) Trần

Bất Cập: không rõ là con của ai. Có thể là con riêng của Thủ Độ và Trần thị nhưng che lắp đi mà viết là cháu gọi Thủ Độ bằng chú. Cũng có thể là con vợ cả của Trần Thừa hoặc là con của Trần Tự Khánh . (2) Cận thị thư lục cục: chức của người hầu cận trong cung vua làm những việc vặt vãnh như bưng nước rửa mặt, têm trầu, bưng nước... cho vua. (3) Trần Thiêm: không rõ là con của ai. (Có thể giống như ở chú giải(1) ở trên. (4) Chi hậu cục: như chú giải(2) trên. (5) Trần Cảnh: con của Trần Thừa và mẹ là Lê thị, vợ thứ của Trần Thừa. (6) Chính thủ: như chú giải(2) trên. (7) Báo trình: sử cũ viết: Trần Cảnh lên 8 tuổi đến phiên vào hầu, Chiêu Hoàng thấy Cảnh liền đem lòng ưa thích cho nên đêm đến VSTK - 287


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

thường gọi vào hầu để phục vụ và bỡn cợt. Trần Cảnh đem việc đó mách lại Thủ Độ. Thủ Độ nói: "nếu quả thật như vậy thì họ ta một là làm vua hoặc hai là sẽ bị giết sạch". Một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn đậy mâm trầu cau ném cho Trần Cảnh. Trần Cảnh nhận lấy, rồi mách với Thủ Độ. Thủ Độ bèn đem gia thuộc họ hàng vào trong cung cấm, sai đóng kín các cửa thành. Trăm quan tiến triều không vào được. Thủ Độ nhân thế loan báo cho mọi người: bệ hạ đã có chồng rồi. Các quan đều phải tuân theo và xin chọn ngày vào chầu làm lễ yết kiến. Ngày 21 tháng 12, bầy tôi tiến triều, lạy mừng. Nhà vua xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh (KĐVSTGCM/ CB.4/ 43). (8) Nhật Hiệu: em cùng mẹ của Trần Cảnh. KHẢO LUẬN: n

12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37

Nhóm người họ Trần âm mưu đoạt ngôi nhà họ Lý

KĐVSTGCM viết: Tổ phụ Trần Thừa là Kính người làng Tức Mặc, sinh con tên là Hấp, Hấp sinh con là Lý, Lý sinh ra Thừa, Thừa lấy vợ Lê thị sinh ra nhà vua (tức Trần Cảnh). Ở một lời chua trước lại ghi rằng: Trần Cảnh là con thứ của Trần Thừa và là cháu họ của Trần Thủ Độ. Một lời chua khác cũng viết: Trần Liễu là con cả của Trần Thừa. Con cả, con thứ phải chăng có ý nói là con vợ cả, con vợ thứ hay là con cùng một mẹ nhưng con đầu tiên thì gọi là con cả còn những con sau đó đều gọi là con thứ ? Dù sao đi chăng nữa thì rõ ràng Trần Liễu là anh cùng một cha với Trần Cảnh vì năm Mậu Tý tháng 8 (1228), KĐVSTGCM viết: Vua (tức Trần Cảnh) phong cho anh là Liễu làm Thái Úy. Tiếp Liền ngay sau đó lại viết: Liễu đối với nhà vua, là hàng anh cả. Dưới triều nhà Lý, Liễu lấy công chúa (tức Lý Thuận Thiên chị của vua Lý Chiêu Hoàng) được phong phụng Kiều vương, nay phong là thái úy. Đó lá nhánh thư nhất của dòng họ Trần Lý. Nhánh thứ nhì là Trần Tự Khánh, con thứ (thứ nhì?) của Trần Lý. Khánh đã đóng vai trò đi trước mở đường cho cả họ nhà Trần. Nhánh thứ ba là Trần thị (có sách viết là Trần thị Dung), một người đàn bà đẹp nhưng vô luân, dâm đảng, mưu mẹo, tàn nhẫn, một người người vợ, một người mẹ vô trách nhiệm, một con cờ thí của họ Trần dùng làm gián điệp bên trong cung đình họ nhà Lý. Nhánh đặc biệt của dòng họ nhà Trần là nhánh Trần Thủ Độ. Vai vế Trần Thủ Độ có thể là nhỏ hơn hết đối với các nhánh kia nhưng lại là kẻ lãnh đạo quan trọng nhất trong một chuỗi dài âm mưu, sắp xếp để đoạt ngôi và tận diệt dòng họ nhà Lý. Sử sách không thấy viết rõ ràng lai lịch và chi nhánh gia tộc của Trần Thủ Độ mà chỉ viết một VSTK - 288


1 2 3 4 5 6 7 8

cách gián tiếp Trần Thủ Độ là em họ của Trần thị tức là chú bác họ của đám hậu sinh Trần Bất Cập, Trần Thiêm và Trần Cảnh. Tông tích của Trần Thủ Độ được dấu kín thật kỹ khiến cho người đời sau có quyền suy diễn rằng: Trần Thủ Độ là em ruột của Trần thị (Dung) và nếu sự suy diễn nầy đúng thì Trần Thủ Độ phải được xem là một loài cầm thú không có lương tri, "nết xấu như chó lợn, dạ độc như hùm beo" theo như lời phê bình của vua Tự Đức trong KĐVSTGCM. TRẦN KÍNH

Trần Hấp

Trần Lý

(Vô Danh)

Trần Thừa Trần Tự Khánh Trần Liễu Trần Cảnh Nhật Hiệu

Trần thị (Dung)

Trần Thủ Độ

Lý Thuận Thiên Lý Chiêu Hoàng

* o

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21

về cuộc kháng chiến chống giặc Tống xâm lược (1075 - 1077)

Nhà Tống bên Trung Hoa từ khi Vương An Thạch cầm quyền tể tướng đã có ý đồ xăm lăng nước Đại Việt (đây là quốc hiệu của Việt Nam có từ năm 1054 thời Lý Thánh Tông) nhất là ở các vùng biên cương giữa hai nước nhằm mục đích gây thanh thế với các nước Liêu, nước Hạ lúc đó đang uy hiếp vùng biên thùy phía Bắc và Tây Bắc của nước Trung Hoa. Theo mưu tính của Vương An Thạch được ghi lại trong Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào thì: "Khi mà quân ta (tức quân Tống) diệt được Giao Chỉ (tức nước Đại Việt), thì uy thế của ta sẽ vang vội khắp nơi. Lúc đó ta báo tin cho Thiểm Tây biết, quân dân Thiểm Tây sẽ lên tinh thần và chí khí. Với chí khí ấy, ta sẽ tiêu diệt dễ dàng nước Hạ và khi đã diệt được nước Hạ rồi thì còn ai dám quấy nhiễu Trung quốc nữa." VSTK - 289


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44

Do đó nước Đại Việt trở thành mục tiêu xâm lược của quân Tống. Quân Tống chuẩn bị việc xâm lược rất thận trọng và chu đáo. Thành Ung Châu (nay là Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây) và các vùng ven biển như Khâm Châu, Liêm Châu (tỉnh Quảng Đông) cùng một lúc với các vùng biên giới vùng Đông Bắc giữa hai nước được quân Tống tổ chức thành những cứ điểm quân sự và hậu trạm để làm những điểm xuất quân cho các đạo quân xâm lược. Ngoài ra quân Tống còn dùng chính sách dụ dỗ mua chuộc các tộc trưởng dân tộc thiểu số vùng biên giới phía Bắc cũng như xúi giục Chiêm Thành quấy rối mặt phía Nam Đại Việt. Biết được âm mưu và giả tâm của quân Tống, triều đình nhà Lý và tể tướng Lý Thường Kiệt đã dùng chiến sách ra tay trước, không bị động ngồi chờ giặc tới: trước hết, nhà Lý chiêu hồi và đoàn kết được các dân tộc vùng núi phía Bắc và Đông Bắc, tổ chức tăng cường phòng thủ thật chặt chẽ vùng biên cương giữa hai nước. Ở mặt biên giới phía Nam, cử tướng Lý Thường Kiệt mang quân đánh Chiêm Thành để phá hủy âm mưu liên minh giữa giặc Chiêm và giặc Tống, đồng thời để củng cố các vùng đất Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị ngày nay) mà vua Chiêm Chế Củ đã dâng cho nhà Lý từ năm Kỷ Dậu (1069). Với chủ trương muốn tự vệ thì phải tấn công trước và để đưa quân địch vào thế bị động, Lý Thường Kiệt tổ chức một cuộc hành quân quy mô đánh thẳng và bất ngờ vào lòng đất của nhà Tống rồi nhanh chóng rút quân về để bố trí phóng thủ trong nước. Mục tiêu tấn kích là các trại biên giới của nhà Tống trên đất Trung Hoa, cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu và chủ yếu là thành Ung Châu. Năm Ất Mão tháng 11 ( tức tháng 10 năm 1075 dương lịch) hơn một trăm ngàn quân thủy, bộ của Đại Việt được điều động trong chiến dịch tấn kích nầy. Quân đoàn bộ binh do tướng Tôn Đản và các lãnh tụ các dân tộc thiểu số Lư Kỹ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An bất ngờ tấn công các trại của quân Tống dọc theo vùng biên giới phía Đông Bắc. Đoàn quân chủ lực của Lý Thường Kiệt chỉ huy, xuất phát từ châu Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) dùng đường biển đổ quân vào chiếm Khâm Châu, Liêm Châu. Song song với cuộc tấn kích nầy, chiến dịch tuyên truyền chiêu hồi và giải thích về mục đích tự vệ qua cuộc tiến đánh của quân Đại Việt vào lãnh thổ của Trung Hoa. Hai đoàn quân thủy bộ sau đó từ hai hướng cùng tiến vây hãm thành Ung Châu. Mùa Xuân, tháng Giêng năm Bính Thìn (tháng 3 năm 1076 dương lịch) quân Đại Việt chiếm được thành Ung Châu. Lý Thường Kiệt ra lệnh phá hoại thành trì, thiêu hủy các kho tàng lương thực, chém giết quân Tống vô số, bắt rất nhiều tù binh và thường dân của nhà Tống trong thành Ung Châu rồi nhanh chóng rút quân trở về Đại Việt. VSTK - 290


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43

Biết trước nhà Tống thế nào cũng sẽ đưa quân sang và liên kết với Chiêm Thành để đánh trả thù, Lý Thường Kiệt một mặt đưa quân Đại Việt bình định Chiêm Thành và kinh lý, vẽ bản đồ các vùng Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh đồng thời tổ chức công cuộc bố phòng để ngăn chặn sự tấn công của Chiêm Thành. Theo sách Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào thì quân Tống điều động hơn 100 ngàn bộ binh, 10 ngàn kỵ binh, 200 ngàn dân quân và một đạo thủy quân để tiến đánh trả thù và xâm lăng Đại Việt từ các hướng Bắc và Đông Bắc (quanh vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh). Trên các hướng nầy, Lý Thường Kiệt chỉ bố trí các lực lượng du kích để kìm hãm và tiêu hao một phần lực lượng của quân Tống. Phòng tuyến chiến lược trọng yếu của Lý Thường Kiệt là các đường bộ từ Đông Bắc mà quân địch sẽ phải qua để tiến về thủ đô Thăng Long, quan trọng nhất là vùng sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu). Vì thế trên bờ phía Nam của con sông nầy, từ cuối chân sườn núi Tam Đảo đến sông Lục Nam (còn gọi là sông Lục Đầu), Lý Thường Kiệt đã xây dựng một chiến lũy kiên cố. Cuối năm 1076, quân Tống tiến binh như vũ bảo vào đất Đại Việt và nhanh chóng tràn xuống bờ phía Bắc sông Như Nguyệt đối đầu với chiến lũy của Lý Thường Kiệt, trên một trận tuyến dài mấy mươi cây số từ bến đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền. Quân địch không thể phá vỡ chiến lũy Như Nguyệt, trong khi quân Đại Việt bắt đầu bước sang giai đoạn phản công khiến quân Tống bị bao vây và tổn thất nặng nề phải rút chạy về phía bờ Bắc sông Như Nguyệt. Tuy nhiên quân Tống tổ chức lại hàng ngũ và thay đổi chiến thuật để phản công và tiến quân sát xuống sông Phú Lương (nay là sông Nhị Hà) khiến cho quân Đại Việt cũng bị thiệt hại khá nhiều. Dù vậy, quân Tống cũng không thể tiến quân và lực lượng của họ càng lúc càng bị tiêu hao bởi sức chiến đấu kiên cường của quân dân Đại Việt. Sau mấy tháng đánh vào sâu nước Đại Việt, quân binh và dân binh của nhà Tống đã bị tiêu hao hơn quá nửa, số còn lại thì đau ốm bệnh tật vì không hạp với phong thổ khí hậu. Chủ trương không làm mệt sức và hao tổn xương máu của quân dân Đại Việt, Lý Thường Kiệt chủ động điều đình cầu hòa với quân Tống mặc dù đang thắng thế. Quân Tống vội vàng nhận lời lui về nhưng vẫn đặt quân ở lại giữ các vùng châu Quảng Nguyên, Tư Lãng (nay là 2 huyện Thượng Lang và Hạ Lang tỉnh Cao Bằng), Tô Mậu (nay là đất biên giới tỉnh Quảng Yên và các đất Như Tích, Thiếp Lãng, Tư Lẫm thuộc châu Khâm của Trung Quốc), châu Môn (có thể là ở Cao Lạng), Quang Lang (ngày nay ở Châu Ôn tỉnh Lạng Sơn có thôn Quang Lang), những vùng đất mà quân Tống đã chiếm cứ từ lúc khởi đầu cuộc xâm lăng Đại Việt.

VSTK - 291


BẢN ĐỒ NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI ĐẠI LÝ - TRẦN

VSTK - 292


VSTK - 293


viŒt sº tân khäo phÀn 2 : chú giäi & khäo luÆn

quy‹n 1

VSTK - 294


VSTK - 295


LỜI GIỚI THIỆU Chúng tôi trân trọng chào đón quý đọc giả đã chiếu cố đến với Việt Sử Tân Khảo. Sách nầy đến tay đọc giả là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm chỉnh, cật lực kéo dài qua nhiều năm, tháng, ngày, đêm không ngơi nghỉ, kể từ lúc ý định " Viết Sử " manh nha trổi dậy trong đầu óc cho đến lúc tạm gọi là viết xong giai đoạn một. Có người sẽ nói rằng hiện tình sách sử Việt Nam ở trong nước cũng như ở ngoài nước đã có nhiều rồi, tại sao lại còn đèo bòng múa rìu qua mắt thợ? Rất nhiều lý do thúc đẩy chúng tôi biên soạn sử cũ. Lý do 1: thuộc về thực tế từ trước tới nay người Việt Nam chúng ta rất ít người chịu đọc sách sử cũ Việt Nam vì chúng quá rườm rà, nhiêu khê, mờ mịt. Lý do 2: các sách sử xưa không có tính cách phổ cập. Lý do 3: và quan trọng hơn hết là vì sử sách cũ bao che, không trung thực. Theo thứ tự thời gian xuất hiện, các loại sách sử cổ xưa mà ngày nay chúng ta biết đến gồm có: - Đại Việt Sử Lược (không biết tác giả) - An Nam Chí Lược của Lê Trắc - Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu - Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên và tiếp nối bởi các sử quan của triều đại nhà Hậu Lê - Đại Việt Sử Ký Tiền Biên dưới triều đại Tây Sơn ngắn ngủi - Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ - Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục do quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn và ấn hành. Ngoài ra, chúng ta còn có những công trình viết sử của Phan Phu Tiên, Hồ Tông Thốc, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Đặng Xuân Bảng. Tất cả các sách vừa kể đều được viết bằng chữ Hán thường được người xưa của nước ta tránh né gọi là chữ Nho tức là một loại chữ viết và đọc được dùng cho các học sinh Việt Nam học chữ Tàu gọi là Nho sinh và cũng được xem như là một loại chữ viết chính thức trong các triều đình phong kiến Việt Nam. Nhà Nho, hoặc Nho quan là những người có học, thấu hiểu kinh sách của Tàu, đọc thông, viết thạo chữ Hán. Chữ Nho là loại chữ của một tầng lớp xã hội đặc biệt, của tầng lớp vua chúa, quan lưu, phong kiến. Loại chữ viết và đọc nầy không phổ cập trong đại đa số quần chúng cùng khổ Việt Nam. Các loại sử sách, thư tịch cổ viết bằng chữ Nho không có một tác dụng thiết thực nào VSTK - 296


ii

cho dân chúng nghèo đói thời đó vì họ không thể đọc và hiểu được những loại sách như vậy. Chúng chỉ là những sản phẩm độc quyền của nhóm người phong kiến cao ngạo, phô trương, dùng sách vở, truyện ký để tuyên truyền, đánh bóng cho chế độ. Các thế hệ theo sau, nếu có cơ may đọc được những loại thư tịch, sử sách đó thì cũng khó tìm thấy được điều hữu ích của dĩ vãng để đem áp dụng cho tương lai. Từ sau năm 1945, chữ Nho hay Hán văn vẫn còn được tiếp tục dạy trong các trường trung học ở miền Nam Việt Nam nhưng cách dạy của các bậc thầy Hán văn- thầy dạy chữ Nho- vào thời buổi nầy chỉ là để lãnh lương, kiếm cơm vì thế rất khó có những học sinh đọc thông, viết thạo chữ Nho khi tốt nghiệp trung học. Những nhà Nho của cựu trào chỉ còn lại một số rất ít và đa số không còn đất dung thân với mớ gia tài chữ Nho của mình vì sự có mặt của chữ quốc ngữ, một loại chữ viết và đọc tiếng Việt Nam theo mẫu tự La Tinh có bỏ thêm dấu. Mãi đến năm 1960, tại miền Nam mới thấy xuất hiện bản phiên dịch và chú giải một phần quyển cổ sử Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (quyển đầu và các quyển 1,2,3,4). Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, bộ sử KĐVSTGCM chưa được dịch ra quốc ngữ trong khi đó thì bộ sử nầy lại được người Pháp Abel des Michels dịch ra tiếng Pháp dưới nhan đề Annales Impériales de l' Annam, xuất bản ở Versailles năm 1892. Một người Pháp khác là Maurice Durand cũng đã bắt đầu dịch ra tiếng Pháp bộ sử nầy, quyển thứ 1 dưới nhan đề là Texte et Commentaires du Miroir complet de l' Histoire du Viêt và cùng với quyển thứ 2 ấn hành vào năm 1955. Năm 1960 sách Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ được dịch và ấn hành ở Sài Gòn trong khi đó thì tại miền Bắc Việt Nam sách KĐVSTGCM được khảo đính, phiên dịch, chú thích toàn bộ và xuất bản. Cũng trong năm 1960, sách Đại Việt Sử Lược cũng được dịch và xuất bản ở Hà Nội. Năm 1967, ĐVSKTT được hiệu đính và dịch ra quốc ngữ và xuất bản ở miền Bắc. Tất cả công trình dịch thuật từ miền Bắc chẳng bao giờ tới tay người dân miền Nam cho mãi đến sau năm 1975. Từ trước năm 1945, người dân miền Nam bình thường chỉ biết được những quyển sử ký do Trương Vĩnh Ký viết bằng tiếng Pháp, quyển Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca viết theo thể văn vần và sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Ba quyển sách nầy chỉ là loại sách phổ thông, không có tính cách khoa học: chỉ kể lại các sinh hoạt của nhóm vua chúa, quan quyền thời phong kiến bằng cách tóm tắt các việc thay ngôi đổi chủ hoặc các việc lớn xảy ra trong nước Việt Nam rút từ các bộ sử lớn như ĐVSKTT, Lê Sử Tục Biên hoặc Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục từ thời cổ đến cuối đời triều đại nhà Nguyễn. Hoàn VSTK - 297


iii

cảnh sống của người dân Việt Nam ngày trước đã không được nói tới một cách rõ ràng đầy đủ: sử cũ Việt Nam không phải là sử nói về con người Việt Nam và đất nước Việt Nam. Sử cũ của nước Việt Nam thời cổ chỉ là một công cụ dùng để kể công và bôi vẽ cho chế độ phong kiến thối nát, và do đó mỗi triều đại phong kiến đều phải viết đi, sửa lại, cắt bỏ, tiêu hủy những sử cố có thật nhưng lại có hại cho triều đại phong kiến đang nắm quyền làm chủ người dân và đất nước Việt Nam vào thời đó. Hậu quả là nước Việt Nam chỉ có một loại sử gọi là Chính Sử không ngay thẳng, không trung thực, những loại sách sử do chính quyền phong kiến ra lệnh viết và do chính quyền phong kiến phát hành. Đọc sử cũ từ bản chữ Nho hay bằng bản dịch ra chữ quốc ngữ thì cũng giống nhau, cùng một kiểu mà thôi; những điều dối trá, những trò dâm bôn tồi tệ, những mưu mô ác độc, những sự bóc lột cùng tột, những tham vọng vô bờ bến, những chủ trương diệt chủng tàn khốc, những chính sách xâm lăng bành trướng lãnh thổ của nhóm vua chúa thời phong kiến vẫn cứ tiếp tục bị ém nhẹm, luồn lách để qua mặt hậu thế. Những công trình viết sử riêng rẽ của những nhà Nho chân chính thường bị các chính quyền phong kiến dìm ém đi hoặc tiêu hủy rồi giả trá hô lên rằng những tác phẩm đó bị thất lạc: các công trình viết sử của Lê Văn Hưu, Hồ Tông Thốc, của Phan Phu Tiên đã bị " thất lạc " hoặc " bị quân giặc nhà Minh chiếm đoạt ", và có lẽ còn rất nhiều công trình biên soạn âm thầm của nhiều sử gia khác nữa đã không bao giờ được nhóm vua chúa phong kiến đưa ra ánh sáng. Năm 1497, khi Ngô Sĩ Liên - người bị Lê Thánh Tông lên án là "kẻ gian thần bán nước"- run rẩy tuân lệnh Lê Thánh Tông để soạn bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu vẫn còn vì Ngô Sĩ Liên đã " lấy hai bộ sách tiên hiền ra, hiệu chính biên soạn lại ": hai bộ sách tiên hiền ở đây tức là hai bộ sử của Lê Văn Hưu và của Phan Phu Tiên. Sau đó, bộ sử của Lê Văn Hưu, bộ sử viết đầu tiên của người Việt Nam, bị biến mất và thất truyền một cách kỳ lạ. Còn bộ sử do Phan Phu Tiên biên soạn vào thời Lê Thánh Tông đã bị chính Lê Thánh Thông vứt vào một xó không thèm ngó tới vì đối với Lê Thánh Tông, Phan Phu Tiên là một kẻ luồn lọt, xu thời qua nhiều triều đại, một người thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều về tình trạng xấu xa hư đồi của nhóm vua chúa phong kiến lúc đó. Ngay cả cái chết của Phan Phu Tiên cũng chẳng được nhắc tới trong chính sử phong kiến. Trong tựa sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên có đoạn viết: " Khoảng năm Quang Thuận (1460-1469), ra lệnh xuống chiếu tìm kiếm dã sử và các truyện ký xưa nay do các tư nhân cất giữ, đều ra lệnh dâng cả lên để sẵn tham khảo. Lại sai nho thần thảo luận, biên xếp. Thần (Ngô Sĩ Liên) lúc trước ở Sử viện đã được VSTK - 298


iv

dự vào các việc ấy. Đến khi thần trở lại Sử viện thì sách ấy đã dâng lên chứa ở Đông Các, không còn được trông thấy nữa" (Quyển Thủ, tờ 2a. Tựa của Ngô Sĩ Liên). Trong nhóm nho thần thảo luận, biên xếp chắc là phải có Phan Phu Tiên và trong những năm đầu của triều đại Lê Thánh Tông, các Nho thần cũ, mới, trong đó có Phan Phu Tiên, đã được lệnh hợp nhau lại để biên soạn một bộ sử mới dựa trên căn bản của bộ sử do Phan Phu Tiên đã biên soạn từ thời gian của những triều vua trước đó. Trong giai đoạn đầu, Ngô Sĩ Liên có tham gia công trình biên soạn nầy nhưng nửa chừng phải rút lui vì bận bịu việc gia đình tang chế. Bộ sử nầy có thể là do Phan Phu Tiên chủ trì một cách mặc nhiên vì vai vế tuổi tác, kinh nghiệm, kiến thức và sở học của lão nho Phan Phu Tiên. Bộ sử nầy đã bị Lê Thánh Tông vứt xó không công nhận như một bộ quốc sử và cũng không cho ban hành có thể là vì viết không đúng y của Lê Thánh Tông hoặc là trong bộ sử đó có những sự thật có hại cho dòng họ nhà Hậu Lê nói chung và cho cá nhân của Lê Thánh Tông nói riêng. Ngày nay, bộ sử đó không để lại một dấu vết nào trong số sử sách cổ của Việt Nam. Bộ Việt Sử Cương Mục của Hồ Tông Thốc vẫn còn hiện hữu vào thời điểm Ngô Sĩ Liên biên soạn ĐVSKTT, rồi cũng bị biến mất " vì nạn binh lửa ". Đây là một bộ sử do một cá nhân biên soạn riêng biệt, có thể khi viết đã không chịu đặt mình dưới ảnh hưởng của quyền lực đương thời và nhất định là phải có những sự thật làm phật lòng nhóm vua chúa thời đại Hậu Lê, đặc biệt là với Lê Thánh Tông. Hồ Tông Thốc cũng là tác giả của sách Việt nam Thế Chí soạn viết từ đời Trần trong đó quyển 1 chép thế phả của họ Hồng Bàng, quyển 2 chép thế phả của Triệu Đà tức là những điều kỳ dị viết về họ Hồng Bàng và họ Triệu đã được Hồ Tông Thốc viết riêng ra mà không đưa và bộ Việt Sử Cương Mục của ông. Đây là một điểm khác biệt quan trọng so với bộ ĐVSKTT do Ngô Sĩ Liên viết theo lệnh của Lê Thánh Tông. Sự khác biệt nầy rất dễ hiểu: theo lệnh của Lê Thánh Tông Ngô Sĩ Liên phải đè nén sĩ diện của một nhà Nho chân chính mà đưa kỷ Hồng Bàng kỳ dị quái gở vào ĐVSKTT để thần thánh hóa giai cấp vua chúa phong kiến nói chung và dòng họ nhà Hậu Lê nói riêng, rất phù hợp với bản chất cao ngạo hợm mình của Lê Thánh Tông. Hồ Tông Thốc không công nhận dứt khoát thế phá của họ Hồng Bàng như là một sự thật lịch sử và như thế đã đi ngược lại bản chất cao ngạo hợm mình của Lê Thánh Tông. Trong bài tựa VNTC, Hồ Tông Thốc viết rằng: "Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều là lượm lặt ở tiếng vang chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ phả ký của từng đời mà thôi, còn những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó xét, tạm giữ đó để chờ các bực quân tử sau nầy, dám đâu xuyên tạc ra lời quái VSTK - 299


v

dị để mê hoặc người đời. Đọc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy nghiệm thì ngọc và đá đều sẽ rõ ràng, những hình tiếng bóng vang của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ. Tôi quên mình hẹp hòi quê hủ, chép sơ lược những chuyện ngụ ngôn, những điều truyền thuyết, muốn đợi những bực cao minh học rộng tiến bộ sau nầy, nhận rõ xét kỹ, mới có thể biết được trước sau mà không tự lầm lẫn. Nếu có ai sửa lại cho được đúng, cho lời chép được hay, đẽo gọt kỹ càng, rồi đem in ra để mọi người thấy rõ việc xưa nay và hiểu thấu lẽ huyền vi, thì đó cũng là một bộ sử ký trong chuyện ký chăng! " (LTHCLC/Phan Huy Chú/Văn tịch chí/Việt Nam Thế Chí/ bản dịch năm 1992/ trang 163, 164). Lê Thánh Tông dư biết rõ những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó truy xét đó nhưng vẫn ra lệnh cho Ngô Sĩ Liên đưa vào ĐVSKTT và lại còn có hằng khối điều mơ hồ trí trá khác, theo lệnh của ông vua cao ngạo Lê Thánh Tông, nhồi nhét vào bộ sử ĐVSKTT rồi kể từ đó tình trạng mơ hồ trí trá nầy được chép đi chép lại vào những bộ sử kế tiếp, kéo dài qua nhiều thế kỷ về sau. Ảnh hưởng của những sự dối trá đó tiếp tục mãi cho đến thời buổi hiện đại ngày nay khiến cho nhiều người Việt Nam vẫn còn tự nhận mình là con cháu, hậu duệ của nòi rồng rắn phối chủng với các bậc tiên thánh siêu thực. Chúng tôi không viết lại lịch sử của thời Việt Nam ở quá khứ. Chúng tôi chỉ muốn góp phần tìm những sự thật, những điều dối trá được chép đi chép lại trong sử sách Việt Nam. Đây là một công trình lặp lại những gì tiền nhân đã thực hiện trong quá khứ nhưng chúng tôi đứng trên vị thế của một người được hoàn toàn tự do, hoàn toàn độc lập, hoàn toàn khách quan không bị một quyền lực chính trị nào lèo lái, khác với thân phận của các sử thần trong những triều đại phong kiến hoặc thân phận của những người viết sử bị gò bó dưới những quyền lực chính trị trong thời biểu văn minh hiện đại. Những quan điểm của chúng tôi trong các phần khảo luận và chú giải là những quan điểm cá nhân, có thể đi ngược lại suy nghĩ của đọc giả và chúng tôi thành khẩn tiếp nhận những phê phán đúng mức, khách quan, có căn cứ và không bị thành kiến hoặc tình cảm chi phối. Khi đi vào công trình biên soạn lớn lao nầy, chúng tôi là một kẻ thám hiểm cô đơn và thiếu thốn đủ mọi mặt. Cô đơn vì không tìm được một bạn đồng hành nào có cùng một hoài bảo để gánh vác chia xẻ bớt gánh nặng. Chẳng những thế, có người lại cho rằng chúng tôi là hạng người điên khùng, dở hơi, đi ngược trở lại làm một việc đã được thực hiện từ hơn mấy ngàn năm qua. Trước chúng tôi không xa lắm đã có người làm được việc nầy rồi nhưng rất tiếc, kết quả cũng vẫn chỉ là sao đi chép lại những gì đã được viết ra từ các bộ cổ sử hoặc cũng đã có người dựa vào cổ sử viết lại sử nhằm mục đích đưa VSTK - 300


vi

đẩy hướng dẫn quần chúng đi theo các xu hướng chính trị mới. Về vật chất, chúng tôi thiếu thốn phương tiện và tài chánh trong công tác thu thập tài liệu, trong công tác viết lách, in ấn. Các tài liệu được kê khai trong phần Thư Mục là những tài liệu có thật đã được lục lạo, sưu tầm, mua lại, sao chép với số tiền dành dụm của một người nghèo sống tha phương ở đất khách quê người và dù đã cố gắng hết sức, số tài liệu tham khảo vẫn còn thiếu sót. Nhưng bù lại, chúng tôi đã tham khảo một cách nghiêm chỉnh và cẩn trọng tất cả các loại sách vở, báo chí, tài liệu có liên hệ đến lịch sử Việt Nam, không kỳ thị, không phân biệt nguồn gốc, xuất xứ, tư cách chính trị, tên tuổi tác giả. Chúng tôi cũng đã trở về quê hương và tìm cách đi tới thăm viếng những địa danh, những di tích lịch sử đồng thời sưu tầm thêm tài liệu cho công trình biên khảo nầy. Sau giai đoạn thu thập tài liệu là đến giai đoạn đọc, phân tích và đánh giá tài liệu. Đây là một giai đoạn đau đầu vì phải đọc mt số lượng sách khá lớn, vừa đọc vừa đánh dấu, ghi chép sơ khởi những trọng điểm trong mỗi cuốn sách. Nếu cùng một trọng điểm mà lại xuất hiện trong nhiều quyển sách khác nhau thì lại phải so chiếu để ghi ra những điểm dị đồng rồi rút ra một kết luận hoặc một suy luận tương đối về trọng điểm đó. Và còn nhiều thứ nhức óc khác trong công tác đọc và đánh giá nầy. Công tác viết lách sơ khởi bằng tay là một công tác nhọc nhằn và mệt mỏi, không giống như cách viết lách của những người nhà giàu chỉ cần đọc ra những gì mình muốn viết rồi người khác sẽ ghi chép lên giấy mực. Bản nháp sửa đi sửa lại liên miên nhiều lần mới được chép lại bằng máy vi tính và chúng tôi cũng kiêm nhiệm luôn cả phần đánh máy nầy. Bản thảo viết xong, đưa tới nhà xuất bản, bị lắc đầu: người Tây, họ không đọc được chữ Việt Nam cho nên chẳng thèm quan tâm, không nhận xuất bản. Đưa tới bạn bè có máu mặt để nghị đứng ra bảo trợ xuất bản thì bạn bè trề môi: thời nay ai mà chịu đọc ba cái thứ sử ký lẩm cẩm nầy, nếu là một quyển tiểu thuyết khiêu dâm thì may ra còn có người đọc. Kết quả là người viết phải tự gánh gồng việc in ấn, xuất bản. Đây là công trình sưu khảo chỉ do một người thực hiện liên tục trong nhiều năm, một công trình chưa hoàn hảo và nhất định phải có rất nhiều sai sót nghiêm trọng mặc dù chúng tôi đã xem đi, xem lại, sửa sai, hiệu đính hằng trăm lần, thiêu đốt hằng chục ngàn sắp giấy đã in xong và đang đợi đóng bìa thành sách. Mối lo âu lớn lao nhất của chúng tôi là vấn đề tham khảo các bản dịch các quyển cổ sử và các loại thư tịch từ chữ Nho ra chữ quốc ngữ: đa số chỉ được dịch thẳng VSTK - 301


vii và in ra bằng quốc ngữ còn hình dạng của bản chữ Nho ra thế nào thì rất hiếm được trông thấy. Thảng hoặc được trông thấy bản viết bằng chữ Nho nhưng không có phần phiên âm thì chúng tôi cũng chỉ biết ngơ ngẩn thở dài chứ không biết phải làm sao hơn. Trong các trường hợp có hoặc không có bản gốc bằng chữ Nho với phần phiên âm kèm theo thì chúng tôi chỉ còn có một con đường duy nhất là đặt trọn niềm tin của mình vào tư cách đạo đức, danh dự, trách nhiệm, khả năng và sĩ khí của các dịch giả thông bác chữ Nho - những nhà Nho chân chính trong thời buổi nhiễu nhương hiện tại. Tìm được một bản dịch có kèm theo bản gốc chữ Nho với phần phiên âm để đọc không khác gì việc mò kim trong sa mạc. Chúng tôi không biết viết, không biết đọc chữ Nho. Tuy nhiên nếu phần chữ Nho có phiên âm thì chúng tôi có thể truy tìm được ý nghĩa chính xác của chữ đó qua kinh nghiệm hoặc qua tự điển Hán-Việt. Đối với những tài liệu bằng tiếng Pháp hoặc bằng tiếng Anh thì chúng tôi dễ thở hơn trong công tác đọc, hiểu và đánh giá. Tuy nhiên những loại tài liệu nầy không được chúng tôi tin dùng bởi vì đa số họ là những người ngoại quốc có nhiều thành kiến hẹp hòi, méo mó, và thiên vị khi viết sử Việt Nam bằng tiếng mẫu quốc của họ. Một ưu tư khác cũng luôn luôn ám ảnh chúng tôi: lỗi chính tả và bỏ dấu trong khi viết. Mặc dù đã xem đi xét lại nhiều lần nhưng chắc chắn lầm lỗi nầy vẫn còn tồn tại rất nhiều. Và đây là cái ngu khó sửa đổi của người viết, mong đọc giả thông cảm và tha thứ. Sau cùng là kỹ thuật in ấn để xuất bản. Việt Sử Tân Khảo là một bộ sách được hoàn thành trong hoàn cảnh tự lực cánh sinh cho nên về mặt hình thức, trình bày, Việt Sử Tân Khảo sẽ không thể nào sánh vai với những loại sách do các công ty nhà nghề chuyên môn in ấn, phát hành, xuất bản sách báo. Chúng tôi không nhắm về lợi lộc vật chất khi thực hiện công trình biên khảo nầy. Mục tiêu của chúng tôi khi viết Việt Sử Tân Khảo không phải là thương mại hay phần lợi lộc vật chất sẽ mang về cho người viết nhưng chính là phần thưởng tinh thần mà chúng tôi mong muốn sẽ được đọc giả ban tặng cho bằng cách thẳng thắn phê bình xây dựng, bổ khuyết, sửa chữa những sai lầm và nhất là hỗ trợ cho một bước tiến tới trong việc tìm hiểu sự thật lịch sử của quê hương đất nước Việt Nam. Mùa Đông, ngày 1 tháng 9 dương lịch năm 2001 Soạn giả Nguyễn Công Tánh

NCT

VSTK - 302


© 2003 Nguyễn Công Tánh Soạn giả tự phát hành năm 2003 từ Tây Úc (Western Australia) Đăng Ký (Legal Deposit): 27 October 2003 (Receipt No 1637) Battye Library State Library of Western Australia Alexander Library Building Perth Cultural Centre PERTH WA 6000 Telephone: + 61 (0)8 9427 3107 Facsimile: + 61 (0)8 94273276 email: battref@mail.liswa.wa.gov.au Title: VIỆT SỬ TÂN KHẢO + ĐỊA DƯ CHÍ TÂN KHẢO CHÚ GIẢI VÀ ISBN 0 - 9 7 5 1 6 5 0 - 0 - 3

VSTK - 303


U T H Ư

M Ụ C

NHỮNG TÀI LIỆU & THƯ SÁCH THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt: Đại Việt Sử Lược. Bản dịch năm 1972 của Nguyễn Gia Tường, do Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính năm 1993. LÊ TRẮC - An Nam Chí Lược. Bản dịch, Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, Viện Đại Học Huế, 1961. LÝ TẾ XUYÊN - Việt Điện U Linh. Bản dịch của Lê Hữu Mục, Sài Gòn, 1961. NGÔ SĨ LIÊN & CÁC SỬ QUAN TRIỀU ĐẠI NHÀ HẬU LÊ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Bản dịch từ ấn bản chữ Hán của đời nhà Lê do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1998. VŨ QUỲNH - KIỀU PHÚ - Lĩnh Nam Chích Quái. Bản chữ Việt do Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San biên khảo năm 1986, Nhà xuất bản văn học, Hà Nội 1990. LÊ QUÝ ĐÔN - Đại Việt Thông Sử. Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1978. LÊ QUÝ ĐÔN - Kiến Văn Tiểu Lục. Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1977. LÊ QUÝ ĐÔN - Phủ Biên Tạp Lục. Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1977. NGÔ THỜI SỸ - Việt Sử Tiêu Án. Bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn 1960. NGÔ THỜI SỸ - Đại Việt Sử Ký Tiền Biên (khắc in trong thời Đại Tây Sơn). Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1997. NGÔ GIA VĂN PHÁI - Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Bản dịch, Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1970. VSTK - 304


ii Lê Triều Hình Luật - Bản dịch. Viện sử học Việt Nam, Hà Nội 1995 và Nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội 1998. PHAN HUY CHÚ - Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí. Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1992. LÊ NGÔ CÁT, PHẠM ĐÌNH TOÁI - Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca. Bản dịch từ bản chữ Nôm, Nhà xuất bản Trường Thi, Sài Gòn 1956. QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN do PHAN THANH GIẢN tổng tài - Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Bản phiên âm và dịch, Viện Khảo Cổ, Sài Gòn 1960, 1965, 1967,1974. QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN do PHAN THANH GIẢN tổng tài - Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Bản dịch, Viện Sử Học, Hà Nội 1960 và 1998. QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 30. Bản phiên âm và dịch, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn 1970. TRỊNH HOÀI ĐỨC – Gia Định Thành Thông Chí. Bản dịch của Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh, Đào Duy Anh, 1964. QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Đại Nam Thực Lục Tiền Biên. Bản dịch, Viện Sử Học xuất bản; Hà Nội – 1962.

QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Đại Nam Thực Lục Chính Biên. Bản dịch, Viện Sử Học xuất bản; Hà Nội – từ năm 1963 đến năm 1978. QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Đại Nam Nhất Thống Chí. Bản dịch, Văn Hóa Tùng Thư, Nha Văn Hóa Bộ Quốc Gia Giáo Dục Sài Gòn xuất bản, Sài Gòn, từ năm 1959. TU THƯ CỤC QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN - Sử Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu. Ấn bản tiếng Việt, năm Khải Định thứ 9, 1925. NỘI CÁC TRIỀU NGUYỄN - Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ/ Nhu Viễn. Bản dịch, bộ Văn Hóa Giáo Dục, Sài Gòn 1966. NGUYỄN VĂN SIÊU – Phương Đình Địa Dư Chí . Bản dịch của Ngô Mạnh Nghinh, Nhà xuất bản Tự Do, Sài Gòn – 1958. VSTK - 305


iii ĐẶNG XUÂN BẢNG - Sử Học Bị Khảo. Bản dịch, Viện sử học, Hà Nội 1997. ĐẶNG XUÂN BẢNG -Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu. Bản dịch, Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 2000. VIỆN KHẢO CỔ - Hồng Đức Bản Đồ, bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài Gòn 1962. TRẦN TRỌNG KIM - Một Cơn Gió Bụi - Hồi Ký (1943-1949), Nam Vang, 1949. TRẦN TRỌNG KIM - Việt Nam Sử Lược, bộ Giáo Dục, Sài Gòn 1971. ĐÀO DUY ANH - Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, Sài Gòn 1951. PHẠM VĂN SƠN - Việt Sử Toàn Thư. Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn 1960.

LÊ VĂN SIÊU - Việt Nam Văn Minh Sử. Bộ Giáo Dục, Sài Gòn, 1972. BỬU CẦM - Quốc Hiệu Nước Ta từ An Nam đến Đại Nam. Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1969. DƯƠNG QUẢNG HÀM - Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Hà Nội, 1941. VŨ NGỌC PHAN - Tục Ngữ Ca Dao Dân Ca Việt Nam. Hà Nội, 1956. NGUYỄN VĂN HUYÊN - La Civilisation annamite trong Những Công Trình Nghiên Cứu của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên. Bản dịch, Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1996. VƯƠNG HỒNG SỂN – Sài Gòn Năm Xưa, Nhà Xuất bản Tự Do, Sài Gòn, 1960. PHAN KHOANG - Việt Nam Pháp Thuộc Sử, xuất bản năm 1961. TRƯƠNG BÁ CẦN - Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Cảo, xuất bản năm 1988. VSTK - 306


iv TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG - Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, ấn bản năm 1969. NGUYỄN CÔNG TÁNH - Việt Sử Tân Khảo, Phần 1: Đại Cương, quyển I & quyển II, ấn bản Úc Châu 2003 & 2005. NGUYỄN CÔNG TÁNH - Việt Sử Tân Khảo, Phần 2: Chú Giải & Khảo Luận, quyển I, II, III, IV, V, VI, VII, ấn bản Úc Châu 2003, 2004, 2005. D.G.E.HALL, NGUYỄN PHÚC TÁN - Đông Nam Á Sử Lược. Bản dịch, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1968. NGUYỄN PHƯƠNG - Phương Pháp Sử học. Hội sử học Việt Nam. Nhà xuất bản Sao Mai, Sài Gòn, 1974. VŨ VĂN MẪU - Cổ Luật Việt Nam. Sài Gòn, 1975. TRẦN VĂN GIÁP - Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm, Tập 1&2. Nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội, 1984, 1990. BÌNH NGUYÊN LỘC - Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Sài Gòn, 1971. NGUYỄN KHẮC NGỮ - Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam. Montreal, Canada, 1985. THIỀU CHỬU - Hán Việt Tự Điển, ấn bản năm 1990. TỪ ĐIỂN YẾU TỐ HÁN VIỆT THÔNG DỤNG - Hà Nội, 1991. TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT - Hà Nội-Đà Nẵng, 1995. LÊ HUY TRÂN - Nhạc Khí Dân Tộc Việt Nam. Hà Nội, 1984. HÀ HỮU NGA - Hạ Long Lịch Sử. Quảng Ninh, 2000. HÀ HỮU NGA, NGUYỄN VĂN HẢO - Hạ Long Thời Tiền Sử. Quảng Ninh, 1999.

VSTK - 307


v Tài liệu tiếng Pháp: L.CADIÈRE – Anthropologie Populaire Annamite, BEFEO 1915, Volo.15, no 1, từ trang 1 đến trang 102. L.CADIÈRE – Documents relatifs à l’époque de Gia Long, BEFEO 1912,Vol.12, no.1, từ trang 1 đến trang 82. MADELEINE COLANI – Recherches sur le Préhistorique Idochinois, BEFEO 1930, Tome 30, từ trang 299 đến trang 422. VICTOR GOLOUBEV – L’Age du Bronze au Tonkin et dans le Nord Ananam, BEFEO 1929, Vol.29, no.29,từ trang 1 đến trang 46. VICTOR GOLOUBEV – Le Tambour Métallique de Hoàng Hạ, BEFEO, 1940, Tome 40, no.2, từ trang 383 đến trang 409. L.DE GRAMMONT – Onze Mois de Sous-Pré fecture en BaseCochinchine, Paris 1863. W.J.M BUCH – La Compagnie des Indes néerlandaises et L’Indochine, BEFEO, Vol.37, no.1, 1937, từ trang 121 đến trang 237. JOHN BARROW - Voyage à La Cochinchine, Bản dịch & chú thích bằng Pháp ngữ của ển I & II, nhà sách François Buisson ấn hành, Paris, 1807. JOHN BARROW - A Voyage To Cochinchina in the years of 1792 & 1793, bản gốc Anh ngữ, quyển I & II, nhà xuất bản T.Cadell & W.Davies in The Strand, London, 1806. FRANCIS GARNIER - La Cochinchine Française en 1864, nhà xuất bản E. Dentu & Challamel Ainé, Paris 1864, 1865. FRANCIS GARNIER - De la Colonisation DE LA COCHINCHINE, nhà xuất bản E. Dentu & Challamel Ainé, Paris 1864, 1865. JEAN DUPUIS - La Conquête du Tonkin - par 27 Français, do tác giả Jules GROS trích đăng và đề tựa từ Nhựt Ký của J.Dupuis, nhà xuất bản Maurice Dreyfour, Paris, 1880. TRƯƠNG VĨNH KÝ - Souvenirs Historiques sur Saigon et ses environs, Imprimerie coloniale, Saigon, 1885.

VSTK - 308


vi PAUL BONNETAIN - Au Tonkin, nhà xuất bản Victor Havard, Paris 1885. H.FABRE DE NAVACELLE - Précis des Guerres de la France de 1848 à 1885/ Cochinchine,trang 321-345 và Tonkin, trang 347-384, nhà xuất bản E.Plon, Nourrit & Cie, Paris, 1890. PAULIN VIAL - Nos Premières Années au Tonkin, nhà xuất bản Voiron/Baratier & Molaret, 1889. A.LAUNAY - Histoire ancienne et moderne de l' Annam, Paris, 1889. A.LAUNAY- Histoire générale de la Société des Missions étrangères, Paris 1894. A.SCHREINER - Abrégé de l' Histoire d' Annam, Saigon 1906. JEAN BOUCHOT - SAIGON, sous la domination Cambodgienne et Annanite, bài thuyết trình của tác giả trong một kỳ hội thảo tại Sài Gòn vào ngày 9 tháng 5 dl năm 1926. P. DEVILLERS - Histoire du Viêt Nam, Paris 1952 L'ŒUVRE des MISSIONAIRES ET DES MILITAIRES FRANÇAIS - Petite Histoire de l' INDOCHINE- Trois siècles de présence Française 1624-1956. Tài liệu lấy xuống từ mạng lưới Internet. P.NEIS - Sur Les Frontièrs du Tonkin. Đăng trên mạng lưới Internet , 2003. Tài liệu tiếng Anh: RONG SYAMANANDA - A History of ThaiLand, fourth edition, Bangkok 1981. Tạp chí: - Bulletins de l' Ecole française d'Extrême-Orient (B.E.F.E.O) - Bulletins de la Société Géographique (B.S.G) - Bulletins de la Société des Etudes Indochinoises (B.S.E.I) - Bulletins des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H) - La Nouvelle Revue 1884, 1886, 1890, 1901 - Le Tour du Monde1878, 1891,1894,1911 - L' Ami de la Religion, Journal et Revue Ecclésiastique, Politique et Littéraire, tập thứ 182. VSTK - 309


- Revue Maritime & Coloniale 1861, 1862,1863, 1866, 1867, 1869, 1872, 1873, 1876, 1878, 1883, 1885, 1886, 1888 -Quê Hương.

Bảng Viết Tắt và Các Dấu Hiệu Trước Công Nguyên

TCN

Việt Sử Lược

VSL

Việt Điện U Linh

VĐUL

Lĩnh Nam Chích Quái

LNCQ

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư

ĐVSKTT

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục

KĐVSTGCM

Chính biên

CB

Tiền biên

TB

Quyển

q.

Tờ

t.

Lịch Triều Hiến Chương Loại Chi

LTHCLC

Sách đã dẫn

sđd.

Cước chú của soạn giả

(. . . .)

Chú giải và Khảo Luận (phần viết dưới lằn gạch ngang với nét chữ nhỏ cỡ số 9 hay 11). . . .

A, B, a, b

Phần viết chính với nét chữ cỡ số 12 hay 13

A, B, c, d

Trích dẫn lời người khác viết bằng chữ nghiêng trong dấu ngoặc kép. . .

"Abcd. . . ."

Trích dẫn từ sách khác cũng viết bằng chữ nghiêng . . .

Abcd *

VSTK - 310


NGUYỄN CÔNG TÁNH CAO HỌC LUẬT KHOA (D.E.S) Viện Đại Học Sài Gòn D.E.S Université de Saigon Faculté de Droit

VSTK - 311


VSTK - 312


NGUYỄN CÔNG TÁNH

viŒt sº tân khäo phÀn 2 : chú giäi & khäo luÆn

Bän ÇÒ nܧc ViŒt Nam th©i c°

quy‹n 1

VSTK - 313


Mục - Lục VIỆT SỬ TÂN KHẢO

Phần 2 : Chú Giải & Khảo Luận Quyển I

Thời Đại Cổ Sử Trang Chương I

Nước Văn Lang và các vua Hùng

2 - 125

Chương II

Thục Phán

126 - 128

Chương III

Triệu Đà

129 - 136

Tổng Luận Tập một

136 - 145

THỜI ĐẠI THUỘC ĐỊA & CÁC PHONG TRÀO NỔI DẬY

Chương I

Thuộc Tây Hán

146 - 153

Chương II

Hai Bà Trưng

154 - 160

Chương III

Bắc Thuộc lần thứ 2

161 - 172

Chương IV

Bắc Thuộc lần thứ 3

173 - 190

THỜI ĐẠI TỰ CHỦ

Chương I

Nhà Ngô

191 - 193

Chương II

Nhà Đinh

194 - 203

Chương III

Nhà Tiền Lê

204 - 211

Nhà Lý

212 - 292

Chương IV

VSTK - 314


VSTK - 315


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.