CÁI CHẾT CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI VÀ XA HƠN Alan Kirby
Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009. Trước mặt tôi là bản mô tả một đơn vị giáo trình tải từ trang web của phân khoa tiếng Anh thuộc một trường đại học của nước Anh. Nó bao gồm những chi tiết về những bài vở phải làm và một danh mục sách đọc hàng tuần dành cho đơn vị giáo trình tùy chọn “Tiểu thuyết Hư cấu Hậu hiện đại", và nếu danh xưng của trường đại học không được nêu tên ở đây, thì không phải vì đơn vị giáo trình này là đáng xấu hổ, mà vì nó tiện dụng để tiêu biểu cho những đơn vị giáo trình khác hoặc những phần của giáo trình sẽ được giảng dạy trong hầu hết các phân khoa tiếng Anh trong năm học tới trên khắp nước Anh. Nó mặc định rằng chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn còn sống, vẫn đang phát triển và hoạt động tích cực: nó cho biết sẽ giới thiệu “những chủ đề chung của ‘chủ nghĩa hậu hiện đại’ và của ‘tính hậu hiện đại’, bằng cách khảo sát mối liên hệ giữa chúng với văn phong đương đại của tiểu thuyết hư cấu”. Điều này có thể có ý ám chỉ rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là đương đại, nhưng thực ra sự so sánh lại cho thấy chủ nghĩa đó đã chết và đã được chôn. Triết học hậu hiện đại nhấn mạnh vào tính khó nắm bắt của ý nghĩa và kiến thức. Điều này thường được biểu thị trong nghệ thuật hậu hiện đại như mối quan tâm về sự miêu tả và sự tự thức có tính châm biếm. Và luận cứ rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là cái đã qua rồi, luận cứ đó đã được thực hiện một cách triết lí. Có người đã khẳng định về cơ bản rằng có một khoảng thời gian chúng ta đã tin vào những ý tưởng hậu hiện đại, nhưng nay không còn tin nữa, và từ nay trở đi chúng ta sẽ tin vào chủ nghĩa hiện thực phê phán. Sự yếu kém trong phân tích này là nó tập trung vào học viện, vào thực tiễn và giả định của các triết gia hoặc có thể hoặc không thể hoặc sắp sửa chuyển đổi lập trường – và nhiều học giả chỉ đơn giản là quyết định rằng, cuối cùng, họ thích tiếp tục nghe theo Foucault [một nhà hậu hiện đại thuộc loại chủ chốt] hơn là chuyển sang bất cứ điều gì khác. Tuy nhiên, có một luận cứ thuyết phục hơn nhiều buộc người ta phải chấp nhận rằng chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết: chỉ cần nhìn ra ngoài học viện để nhìn vào những sản phẩm văn hóa hiện hành. Hầu hết các sinh viên [hệ cử nhân] theo lớp ‘Tiểu thuyết Hư cấu Hậu hiện đại' năm nay, đều sinh ra vào năm 1985 hoặc sau đó, và hầu hết những văn bản chính ghi trong đơn vị giáo trình đều được viết ra trước khi những sinh viên đó ra đời. Không hề là ‘đương đại’ chút nào, những văn bản này đã được xuất bản trong một thế giới khác, trước khi các sinh viên đó chào đời: The French Lieutenant’s Woman, Nights at the Circus, If on a Winter’s Night a Traveller, Do Androids Dream of Electric Sheep? (and Blade Runner), White Noise: đây là văn hóa của Mẹ và Cha. Một số văn bản (‘The Library of Babel’) thậm chí còn được viết ra trước khi cha mẹ của họ chào đời. Thay thế kho văn bản này bằng những văn bản ưa thích của những người ủng hộ trung thành của chủ nghĩa hậu hiện đại – Beloved, Flaubert’s Parrot, Waterland, The Crying of Lot 49, Pale Fire, Slaughterhouse 5, Lanark, Neuromancer, cũng như bất kì tác phẩm nào của B.S. Johnson – và sự thể diễn ra vẫn hệt như vậy. Nghĩa là cũng đương đại như The Smiths [ban nhạc rock Anh, 1982], cũng hợp thời trang như những miếng độn vai áo [những năm 1930’s], cũng đang xảy ra như máy ghi hình Betamax [1975]. Đó là những văn bản nhằm đáp trả sự thách đố của nhạc rock và truyền hình; trong hầu hết những văn bản đó thậm chí không có nổi cái mơ ước về tính khả hữu của nền công nghệ và các phương tiện truyền thông đại 1