CHIẾC Ô ĐI LẺ THE GOING ALONE UMBRELLA Hồ Đăng Thanh Ngọc

Page 1


Chiếc Ô Đi Lẻ • 2


Hồ Đăng Thanh Ngọc

CHIẾC Ô ĐI LẺ THE GOING ALONE UMBRELLA A Bilingual Edition Ấn bản song ngữ Translated by Trần Vũ Liên Tâm

Tan Hinh Thuc Publishing Club


Tan Hinh Thuc Publishing Club P. O. Box 1745 Garden Grove, CA 92842 World Wide Web Site http://www.thotanhinhthuc.org ©2013 by Hồ Đăng Thanh Ngọc All rights reserved Printed in The United States of America The going alone umbrella Chiếc Ô Đi Lẻ Hồ Đăng Thanh Ngọc Library of Congress Control Number: 2013939163 ISBN: 978-0-9885096-2-7


5 • The Going Alone Umbrella

CHIẾC Ô ĐI LẺ THE GOING ALONE UMBRELLA


Chiếc Ô Đi Lẻ • 6

LỜI CẢM TẠ __________

Để có được tập thơ này, tác giả đã nhận được rất nhiều đóng góp của nhiều anh em, thân hữu: – Trước hết, Nhà thơ Trần Vũ Liên Tâm đã bỏ nhiều tâm sức chuyển ngữ các bài thơ sang tiếng Anh, giúp cho tập thơ có thêm đọc giả khác ngôn ngữ và văn hóa. – Nhà tham vấn ngôn ngữ tiếng Anh (English language consultant) Richard H. Sindt đã giúp cho bản dịch thêm phần chính xác. – Các nhà thơ Phạm Tấn Hầu đã viết lời tựa và Khế Iêm đã viết lời bạt cho tập thơ. – Các họa sỹ Đinh Cường, Nguyễn Đại Giang, Lê Thánh Thư, Alden Marin đã cho phép sử dụng tranh ảnh để làm bìa và phụ bản. – Họa sỹ Nhím đã trình bày bìa cho tập thơ. – Nhà thơ Biển Bắc và nhiều anh em văn nghệ sỹ đã động viên trong quá trình tác giả xúc tiến in ấn. Tác giả xin gửi đến quý vị ân nhân lòng biết ơn! Và cũng không quên cảm ơn bạn đọc đã bỏ thời gian đọc tập thơ này. Hồ Đăng Thanh Ngọc


7 • The Going Alone Umbrella

ACKNOWLEDGMENTS _________________

To assemble this poetry collection, the author received many contributions from many dear friends and relatives: – Foremost, poet Trần Vũ Liên Tâm’s dedication in translating the poems to English enables the poetry collection to reach readers of different languages and cultures. – English language consultant Richard H. Sindt’s gracious help ensures the translation is more accurate. – Poet Phạm Tấn Hầu, who wrote the introduction, and Khế Iêm. Who wrote the epilogue for the poetry collection – Artists Đinh Cường, Nguyễn Đại Giang, Lê Thánh Thư, and Alden Marin have given permission to use paintings and drawings for the cover page and the illustrated sections. – Artist Nhím’s design of the cover page for the poetry collection. – Poet Biển Bắc and many dear friends’ encouragements in the process of printing and publishing. I’d like to extend my gratitude to supporters. And I’m also thankful to those readers who will spend time reading this poetry collection. Hồ Đăng Thanh Ngọc


Chiếc Ô Đi Lẻ • 8

CONTENTS _________ MỤC LỤC

Lời Cảm Tạ Acknowledgements Tựa Preface Phạm Tấn Hầu Đi Qua Cánh Rừng Crossing The Woods Vẽ Nỗi Buồn Drawing Gloom Những Cây Gậy The Staffs

6 7 16 17 24 25 28 29 32 33

Nguyễn Đại Giang: “Đàn Bầu” Bí mật Secrets

38 39


9 • The Going Alone Umbrella

Lộn Ngược Upside Down

42 43

Sau Bão After The Storm

44 45

Vỉa Hè The Sidewalk

50 51

Alden Marin: “Rat Boy Counts To ten” Chân Mây Skyline

56 57

Cho Em Ngày Chia Tay For Darling On The Goodbye Day

62 63

Chúng Ta Đã Ở Chung Một Mái Nhà We Lived Together Under The Same Roof

66 67

Hãy Cho Tôi Nhìn Em Let Me Look At You

70 71

Lúc 3 Giờ Sáng At 3 AM

76 77

Lê Thánh Thư: “Đời Sống Trên Sông”


Chiếc Ô Đi Lẻ • 10

Mưa Những Ngày Tôi Yêu Em Rain On The Days I Love You

82 83

Nến Candle

86 87

Gánh Cơm Hến Đi Trong Sương 88 Walking With Mussel-Rice Burden In The Dew 89 Giấc Mưa The Dream of Rain

94 95

Làng Village

98 99

Đinh Cường: “Dưới Gốc Tùng” Ngày Cũ The Old Day

104 105

Đùa Tí Chơi Just Joking

100 101

Ăn Eat

108 109

Bình minh Dawn

114 115


11 • The Going Alone Umbrella

Bão Hurricane

118 119

Alden Marin: “Existential Wall” Bản Tin Buồn The Sad News

124 125

Biệt Cung Isolation Palace

128 129

Cười Mếu Ở A Tiêng Pouting Smile at A Tieng

134 135

Lê Thánh Thư: Phụ Bản Cái Li Giốc Ngược The Upside-Down Glass

142 143

Chiếc Ô Đi Lẻ The Umbrella Going Alone

144 145

Sắp Đặt Placement

146 147

Văn Miếu Temple of Literature

150 151


Chiếc Ô Đi Lẻ • 12

Viết Trên Vọng Hải Đài Written On The Lighthouse

154 155

Nguyễn Đại Giang: “Tắm” Với Đông Ki Sốt With Don Quixote

160 161

Vọng Advent

162 163

Xin Hãy Bắt Đầu Please Begin

166 167

Cây Đa Banyan Tree

170 171

Cuộc đi săn Hunting

174 175

Alden Marin: “The Lovely Couple” Gối Pillow

180 181

Hoàng hôn Sunset

184 185


13 • The Going Alone Umbrella

Hồ Tây West Lake

188 189

Lam Kinh Lam Kinh

194 195

Nằm Lying

198 199

Đinh Cường: “Dáng” Ông Lão Nông Ở Phố The Old Farmer Man In The City

202 203

Trăng Ngoại Diên The Marginal Moon

208 209

Vườn Chuối Banana Garden

212 213

Mất Mùa Lost Season

216 217

Nguyễn Đại Giang: “Cấy Lúa” Ngọn Gió The Wind

222 223


Chiếc Ô Đi Lẻ • 14

Những Con Đom Đóm The Fire-Flies

226 227

Những Mùa Cau Quên Lãng The Forgotten Areca Season

230 231

Những Người Ngồi Trong Chum The People Who Sit In Jars

234 235

Nguyễn Đại Giang: “The Women With Lotus” Những Nốt Sần Trên Cây The Nodules On The Tree

240 241

Bạt: Thời Gian Phần Mảnh Trong Thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc

244

Epilogue: Fractal Time In Hồ Đăng Thanh Ngọc Poetry Khế Iêm

245

Tiểu Sử Biography

272 273

Bìa Cover Art: Alden Marin


15 • The Going Alone Umbrella

CHIẾC Ô ĐI LẺ THE GOING ALONE UMBRELLA


Chiếc Ô Đi Lẻ • 16

TỰA

____ Phạm Tấn Hầu

T

ừ ngọn nguồn là quê xứ của tuổi thơ, thi ca tựa như một dòng thủy tịch mang giấc mơ của người làm cho đến với thế giới, với mong ước được chia sẻ. Thơ Hạ Nguyên (Hồ Đăng Thanh Ngọc) khởi từ nguồn đó. Nếu tập thơ đầu tay “Đi qua cánh rừng” mang nhiều mơ ước không thành của một chú bé trong câu chuyện được kể lại, không có nàng tiên nào, đơn độc trong giá rét với con sói hung dữ trước mặt, thì tập thơ này “Chiếc ô đi lẻ” là tâm trạng lạc lõng trước thay đổi diện mạo của dòng thời gian, trước bao thần thoại biến mất, trước cuộc đời trần trụi không gốc tích, không quê quán... Đi bên cạnh các trào lưu được cho là thời thượng, đương đại, thế giới của Hồ Đăng Thanh Ngọc nhuốm màu cổ điển, có vẻ lặng lẽ hơn, trầm tư hơn. Có lẽ anh đang gánh nặng truyền thống mà anh tin thuộc về ý thức của mình. Nhưng đọc thơ anh, người ta thấy anh cũng giống như cậu bé trong chuyện cổ kia, nhỏ nhoi và yếu đuối, trong khi con sói ngày một hiện đại hơn, đội nhiều lốt hơn. Nó là sản phẩm kép của cơ chế


17 • The Going Alone Umbrella

PREFACE

________ Phạm Tấn Hầu

I

f the origin is the home of childhood, poetry is like the stream of tide carrying the dreams of the poets to the world, with dreams of sharing. The poetry of Hạ Nguyên (Hồ Đăng Thanh Ngọc) begins from that origin. If the first poetry collections “Crossing the forest” (“Đi qua cánh rừng”) carries many unfulfilled dreams of a young boy in the told stories with no fairy and alone in the freezing cold with the fierce fox in front of his face, then the “Alone Umbrella” poetry collection is the feeling of being lost when facing the change in appearance of time, the vanishing of many fairy tales, the barren life with no origin, and no homeland. Walking alongside with the trends which are thought as fashionable [and] current, Hồ Đăng Thanh Ngọc is shaded with classics, quieter, more thoughtful. Perhaps he carries the heavy traditions which he believes belong to his senses. However, in reading his poetry, readers will see that he is like the boy in that old tale – small and helpless – while the fox is


Chiếc Ô Đi Lẻ • 18

thị trường và chủ nghĩa thực dụng. Và như thế, gánh nặng đang mang theo đó bao gồm cả đống đổ nát của những ước mơ, khát vọng không thành, những quá khứ không được trân trọng gìn giữ... Có vẻ như đây là không chỉ cảm xúc được trình bày mà đúng hơn, là dáng vẻ của một chiếc ô đi lẻ như trong bài thơ “Chân mây” mô tả: Chân mây Gần như không còn một doi đất cho cú đáp chân của loài chim di cư Không còn nữa cọng rêu cuối đông khi đường chân trời cứ dài ra mãi Dù vậy cũng nên lên chiếc xuồng sắp chìm Để trở lại con sông neo đậu mảnh hồn làng Để có thể liệm mình vào trong lũy tre Nghe dế giun hát trong cỏ Bài ca vĩnh biệt Về những ngày đã qua Như một kiếp người buồn Kéo dài những muộn phiền hơn niềm vui Vì những lẽ không đáng có Như chong chóng quay theo dáng xoay đồng tiền Giành giựt nhau những cô gái đẹp hay sức mạnh cơ bắp của chàng trai Về những thủ đoạn tươm vấy máu


19 • The Going Alone Umbrella

more modern and wears more guises. He is the dual product of pragmatism and market mechanism. Just like that, the heavy load which he’s carrying also includes the rubbish of broken dreams, failed aspirations, and the past which were not respectfully preserve. It seems like it is not a presentation of feelings but is rather an image of an umbrella walking alone, as the poem ‘Skyline” describes: Skyline It’s almost like there’s no headland for a landing foot of the migrating birds There’s no more moss at the end of winter when the line of the horizon keeps dragging on forever Though [I] still should board the boat that’s soon to sink So that [I] can return back to the river which anchors the soul of [my] village So that [I] shroud myself in bamboo shrub To listen to the crickets and insects sing in the grasses The goodbye song About the passing days Like a sad human life Dragging in sadness more than joy Because of reasons that shouldn’t exit Like the pinwheels whirling with the spins of the coin Fighting and pulling the pretty girls or the muscular strengths of the boys


Chiếc Ô Đi Lẻ • 20

để cướp về cho mình những khoái cảm vật chất dửng dưng và vui mừng trước những thua thiệt của người khác như những chiến công đắc ý trong cõi sinh tồn cần phải có Cuộc đời này mệt mỏi quá Những nỗi mệt nhoài xâm thực các thời khắc bãi hoải Những thân phận nhàu nát xô vào nhau những số phận buồn Vô nghĩa như tài sản là những cục sắt rỉ mang theo Làm rỉ sét cả trái tim Và máu Đang chảy khắp nơi trong các khe máy đếm tiền Buồn nhiều như cỏ Đầy như gió Bao la như chân mây Uh Không có chỗ nào để đáp cả Thôi thì bay vào hư vô May ra chỗ đó không có gì để mình phải ngẫm ngợi May ra còn trong veo


21 • The Going Alone Umbrella

The insidious act smears blood To rob back for oneself the indulgent feeling of materialism Indifferent and joyous in front of other’s suffering and loss Like a self-fulfilled glorious feat of arms that is required in the surviving world This life is very tiring The tiredness trespasses the hours of exhaustion The crumpled and torn [human] roles push the sad destinies between each other Meaningless like properties that are the blocks of rusty iron [which one carries] Corrode even the heart And blood That’s running everywhere in the chink of the money-counting machine Sad as much as grasses Full like wind Limitless like the skyline Uh There’s no place to land So fly to the unknown Maybe [at] that place where there’s nothing


Chiếc Ô Đi Lẻ • 22

Người ta thường nói rằng không Thượng đế thì không có sự cứu chuộc. Đối với người làm thơ, Thượng đế chính là vị thần thi ca. Nhưng không có đức tin thì chẳng có thần thánh, và cũng chẳng có sự cứu chuộc nào. Trong thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc, đức tin ấy chính là nước thánh của tâm hồn. Có thể đấy không phải là điều mới mẻ được nhắc tới. Tuy vậy, nếu được nhúng vào thứ nước ấy, ắt thế giới nhìn thấy sẽ khác đi nhiều... Thơ ca không cải tạo thế giới, nhưng đọc những dòng thơ như vậy trong tập thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc vừa gửi tới hôm nay, chúng ta sẽ cảm nhận còn biết bao nhiều điều cần được khơi dậy, chuyển hóa cho cái thế giới lắm tai ương và bất trắc này... Huế, tháng 9.2011


23 • The Going Alone Umbrella

Maybe [it’s] still pure.

one has to think

People always say that [if] there is no God, there is no redemption. To a poet, God is a poetic muse. However, without faith, there is no god, and there is no redemption. In Hồ Đăng Thanh Ngọc poetry, that faith is the holy water of the soul. Perhaps that is not something new to mention. However, if [the world] were dipped in that water, surely the seeing world would be very different. Poetry cannot renovate the world, but reading poetry lines like that in the Hồ Đăng Thanh Ngọc poetry collection which just sent here today, we will feel so many evoked things, transformed for this world, which is filled with disasters and misfortunes.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 24

ĐI QUA CÁNH RỪNG

Tôi đi qua cánh rừng bằng bước chân trẻ con Và nỗi ám ảnh cổ tích cô bé quàng khăn đỏ Mẹ dặn tôi đưa cháo đến cho bà Tôi sẽ là đứa trẻ ngoan Tôi đã không có một chiếc khăn quàng đỏ nào Chỉ mỏng manh chiếc áo rách rưới và đôi giày bẩn thỉu Tôi bộc lộ ra cái nghèo trong sự im lặng của ngôn từ Mặc gió và lá ồn ào những câu chuyện vô tư của nó Tôi đã không rong chơi với cỏ cây - dẫu tôi thích thế Tôi đã không hái hoa vờn bướm-dẫu tôi thích thế Và cũng đã không nằm dưới bóng cây lắng nghe tiếng chim - dẫu tôi thích thế Tôi đi như chạy vì tôi thật sự thương bà


25 • The Going Alone Umbrella

CROSSING THE WOODS

I walk across the woods with footsteps of a child And the haunting Little Red Riding Hood fairy tale Mom told me to bring rice soup to grandma I will be a good kid I didn’t have any red scarf Only a thin ragged shirt and filthy shoes I expressed poorness within the silence of words Despite the wind and leaves being loud with their senseless stories I didn’t wander with grasses and trees – though I like that I didn’t pick flowers chase butter flies – though I like that And I didn’t lie under the tree shades to listen to the voice of birds – though I like that I walked as if running because I truly love her.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 26

Như trong tiếng hú của định mệnh Những con sói xuất hiện trước mặt tôi trước khi tôi đến được ngôi nhà bà Tôi không kịp bị lũ sói lừa cái tay dài, cái chân đầy lông, cái tai to hơn ngày thường vì lòng thương yêu của bà Tôi bị xé ra từng mảnh và nhai ngấu nghiến bởi cái đói bản năng và sự tham lam tàn ác Và tôi đã không kịp trở thành đứa trẻ ngoan - dẫu tôi tha thiết thế...


27 • The Going Alone Umbrella

Like the howl of pre-destiny The wolves showed in front of my face before I reached her house I haven’t yet been tricked by the wolves with a long arm, hairy leg, the ear bigger than the usual day because of her love I was torn into pieces and devoured by the hungry instinct and the violent greed And I didn’t yet become a good kid – though I earnestly want that


Chiếc Ô Đi Lẻ • 28

VẼ NỖI BUỒN

Có một ngày đem nỗi buồn vẽ chơi Bảng màu buồn phơi đen kịt cái chết của những dòng sông ô nhiễm chảy vào ám ảnh tâm cảm tôi Màu trong vắt của nước mắt mẹ khóc những đứa con không bao giờ về nữa Màu chuột chết của những ngụy tạo ụp lên tôi Màu phôi phai đầy gió của những dối lừa Màu xao xác của ngược xuôi kiếm sống bỏ rơi mệt nhoài hai bên tay áo những ký ức đẹp đẽ ngày xưa Tôi vẽ nỗi buồn của em màu xanh nhiều như những ngôi sao trên trời Ở đó có những lỗ đen như vực thẳm tình yêu Chúng ta đã rơi bằng tốc độ của những tia sáng Xuyên qua những nỗi buồn quanh đây


29 • The Going Alone Umbrella

DRAWING GLOOM

There’s a day I bring gloom to casually draw The sad palette dries to pitch-black the death of polluted rivers [that] flow in [and] haunt my heart. The crystal clear of mother’s eyes crying for the children who no longer come home The rat-death color of bogusness falls on me The color of withering is filled with winds of fools The color of hustling-back-and-forth-to-earn-aliving tiring abandons by the two sleeves the beautiful once-upon-a-day memories I draw your gloom blue as many as the stars in the sky At that place there are dark holes like the gorge of love We had fallen at the speed of light Piercing through the sadness around here


Chiếc Ô Đi Lẻ • 30

Hôm qua tôi đã cố vẽ nỗi buồn như một cái đuôi gà trống Có sợi lông xanh bên này thì phải có chiếc lông xanh bên kia Chợt nhận ra nỗi buồn không phải là cái đuôi gà trống Nó không bao giờ hoàn hảo cho sự phủ dụ những con gà mái Nỗi buồn của tôi Trắng xoá.


31 • The Going Alone Umbrella

Yesterday I tried to draw gloom like the tail of a rooster There’s a blue feather on this side thus must have a blue feather on the other side Suddenly [I] realized gloom is not a rooster tail It would never be perfect for placating the hens The gloom of mine [is] snow white


Chiếc Ô Đi Lẻ • 32

NHỮNG CÂY GẬY

số và số số 0 là không có gì số 1 là có một cái gì đó ví dụ là một cái hiện hữu và một cái nhòe đi mà tạo dựng, treo đứng một thế giới ảo làm thay đổi bộ mặt cuộc sống chúng ta đang sống ví như thế giới nghệ thuật số kỳ vỹ chưa thời đại nào chứng kiến. với những ngón nhị phân sức mạnh toàn trị của nghệ thuật truyền thống đã cáo chung và thơ đã bị treo cổ đầu tiên với những biến đổi từ trong bản chất biến thành một trò chơi nhị phân của bầy thú điện tử nghệ thuật phụ thuộc vào ngôn ngữ nhị phân không thể tách rời


33 • The Going Alone Umbrella

THE STAFFS

numbers and numbers the number 0 is to have nothing the number 1 is to have something the example is an existing thing and an in-a-blurthen-created thing, holds still a world wide web [which] changes the face of the life we’re living in like the wonderful world of digital art [which] no generation has yet to witness. with the binary numbers the strength of totalitarianism of the traditional art has ended and poetry was hung by its neck first with the changes from [its] essences turned into a binary game of the electronic flocks the art depends on the language of binary cannot be separated


Chiếc Ô Đi Lẻ • 34

hoàn toàn mất đi dáng vẻ ban đầu trong chất liệu nghệ thuật không còn sống trong viện bảo tàng bằng tiền bảo trợ của ai đó. và tri thức khởi nguồn từ thân phận của bản coppy, không bản gốc anh và tôi không ai nhòe đi chúng ta đều là hai số 1 nên đời thực không lập trình như thế giới ảo chúng ta là những cây gậy phang vào nhau cho đến chết.


35 • The Going Alone Umbrella

fully lost [its] initial shape from the ingredients the art no longer lives in the museum by the sponsor’s money of that somebody and knowledge starts from the condition of the copy version, not the original one you and I no one blurs away we are two number 1s thus real life doesn’t program like the imaginary world we are the canes throwing at each other to death.



37 • The Going Alone Umbrella

Đàn Bầu Tranh Nguyễn Đại Giang


Chiếc Ô Đi Lẻ • 38

BÍ MẬT

Những đốt tưởng tượng cuối cùng rồi cũng được niêm phong kín mít Em khép chân lại Đóng sầm cánh cửa cuộc tình Bới lại mái tóc hoang dã Cài lên đầu chiếc nơ làn điệu hip hop Và ánh mắt Flamenco Em mím môi lại ranh mãnh một cú mím phù thủy Những gã đàn ông biến thành ruồi Bay trên bờ mật nầng nẫng Có lẽ cần một cái vĩ ruồi Để chấm hết bằng một cú đập thật mạnh Mà có khi chỉ cần một cái bao ni lông đầy nước Treo trong quán bún bò ngoài cửa An Hòa


39 • The Going Alone Umbrella

SECRETS

the last imagination dots already being sealed very tight I [the woman] shut my legs together slam the doors of the love affair Roll the wild hair Fasten on the head a bow with a touch of hip hop And the eyesight of Flamenco I close my lips mischievously, bewitched tightened lips The men turn to flies Fly on the shores of indulgence Perhaps [we] just need a flyswatter To end all with a strong hit And sometimes [we] need only a plastic bag full of water Hanging in the beef noodle shop right outside of An Hoa gate


Chiếc Ô Đi Lẻ • 40

Cuối cùng là Delete Ctrl + A Cho những đường link, những ô cửa sổ, friends list Recycle Bin Em mở trừng mắt Enter Trống rỗng Giờ chỉ còn những bí mật trong em Trong nhà tu kín khổng lồ Những tia máu chảy róc rách trong các bức tường Thầm thì qua những mao mạch đá Nghe vọng hồi chuông kinh cầu Mơ hồ xám hối


41 • The Going Alone Umbrella

Finally is Delete Ctrl + A For the links, the windows, friends list Recycle Bin I open and my eyes glare Enter Emptiness Now [what is] left is only secrets within you In the giant solitude convent The rays of blood babble inside the walls Whispering through the pulse of stone Hearing the prayers’ echoing tolls Equivocally repent.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 42

LỘN NGƯỢC

Nếu có một cú lộn ngược Chúng ta sẽ có bốn con mắt cá chân để nhìn Hai bàn chân để suy nghĩ Hai đầu gối để hôn người yêu (gấp hai lần trước đây) Chúng ta sẽ chẳng cần phải nghe, phải nói, phải thấy theo kiểu truyền thống Và đôi mắt chúng ta sẽ ngủ no nê Tóc của em sẽ thành chiếc đuôi đi thi hoa hậu Đôi tay sẽ dạo chơi trên khắp phố phường, đồng quê, núi non Chúng ta sẽ giàu có hơn khi có một cú lộn ngược Song nếu cái mông và lỗ rún không ôm choàng được Trái đất sẽ không còn nữa những vòng tay ôm


43 • The Going Alone Umbrella

UPSIDE DOWN

If there’s an upside down flip We will have four eyes on the ankles to look Two feet to think Two knees to kiss lover (twice as much as before) We will not have to listen, talk, see like the traditional style and our set of eyes will sleep fully your hair will become a train to compete in the beauty pageant The set of hands will stroll along the town streets, country fields, mountains We will be wealthier when there’s an upside down flip But if the buttock and the belly-button cannot embrace The earth will not existarm embraces


Chiếc Ô Đi Lẻ • 44

SAU BÃO

Em đã cho tất cả xuống biển Biển lại hất tất cả lên bờ Những gì sống nó ngọ nguậy Những gì chết đang tím tái Anh nhìn thấy cái trong veo nằm trên cát Không phải là một con sứa Hay một con nuốt Không phải là một con sao biển Nó trong veo nhìn anh Như mắt em Đã nhìn anh trước bão Qua khung cửa sổ dưới hiên nhà trời mưa Anh đã đi qua đó trong vùng nước ấm Hình như có tiếng chuông nhà thờ đổ hồi Giữa lúc bầy chim rủ nhau trú bão Bay về phương trời xa xôi


45 • The Going Alone Umbrella

AFTER THE STORM

Darling [you] have given all to the sea Yet the sea throws all on the shore Something alive wiggles Something dead is turning purple pale I see the transparency rests on the sands Not a jelly-fish Or a nettle-fish Not a star-fish It innocently looks at me Like your eyes Has looked at me before the storm Through the window frame under the porch during rain I had walked across there in the spot of warm water Sounds like a church bell rings During the time [when] the flock of birds ask each other to flee the storm Fly to the faraway land


Chiếc Ô Đi Lẻ • 46

Đôi giày anh ướt mèm Như đôi môi anh Như nụ hôn chúng mình Đã nhàu nát trên bờ gió yêu Bị bão quần nát từ ngoài khơi Hinh như cái trong veo là nụ hôn rách rưới cả bầu không khí đó Rách đến tận hồn và bật máu Bão đã quần nát và bây giờ nó nghỉ ngơi để chúng ta vá víu lại Cuộc tình như những đám mây Kết đám mây xám với đám mấy trắng và vàng và đỏ Tình yêu như những cơn mưa từ đó Trong veo và rách nát Không có gì Mùa đông Huế mưa rơi trên tán cây sầu đông bên bờ sông Hương Neo cuộc tình vào cọng rong quấn theo bánh lái con thuyền


47 • The Going Alone Umbrella

My shoes are soaking wet Like my lips Like our kisses Already crumpled on the shore of winded love Was beaten up by the storm from the open sea [It] seems like the transparency is the kiss [which] rags that whole atmosphere and Tears the soul and breaks out blood The storm had beaten and now it’s rested So we can patch up The love affair like the clouds Unite the gray clouds with the white clouds and yellow and red Love is like the rain from that time Lucid and ragged There’s nothing [During] Huế winter rain drops on the shade of ‘Sad winter’ trees along the bank of the Perfume River Anchor the love affair to the seaweed which wraps around the steering wheels of the boat


Chiếc Ô Đi Lẻ • 48

Trôi về đâu đó Tự nhiên thèm một dĩa ốc cay trên phố Phan Bội Châu Để nghe em hít hà với cái lưỡi đỏ au màu ớt chín Trong đêm tự tình cơn bão đi qua


49 • The Going Alone Umbrella

Floating back to somewhere Suddenly yearn for a plate of spicy clams on the street of Phan Bội Châu So [I] can hear you sniffing, with the tongue cheerfully red, that ripened hot pepper In the night of love making the storm passes by.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 50

VỈA HÈ

Ngồi xuống chiếc ghế coffee vỉa hè một cú ngồi thật gần mặt đất có giá 3000 đ / ly con chíp mào đang huyên thuyên hôm qua nó uống coffee trên độ cao một trăm năm mươi mét với giá 10 USD / ly cái giá có thể đưa tay ra hái sao thấy mình là sao giữa các vì sao quý tộc giữa bầy quý tộc con chíp mào cười no nê Ngồi xuống chiếc ghế cơm vỉa hè một cú ngồi thắt lưng thắt thời gian có giá 10.000 đ /một đĩa cơm bên kia có người mẹ nghèo nhường cơm cho đứa con háu ăn


51 • The Going Alone Umbrella

THE SIDEWALK

Sitting down on the coffee chair of the sidewalk a seat that’s so close to the ground has the price of 3,000 đ /cup the Red-whiskered Bulbul is chatting yesterday it drank coffee at the height of one hundred fifty meters with the price of 10 USD/cup the price so high that [one] can extend the arm and pick stars see oneself a star among all the stars royal among flock of royals the Red-whiskered Bulbul laughed so hard Sitting down on the meal chair of the sidewalk a seat that tightens the back, tightens the time has the price of 10,000 đ /plate of rice nearby there’s a poor mother who has relinquished rice to her impatiently hungry child


Chiếc Ô Đi Lẻ • 52

quanh đó có những người mẹ ngày kiếm năm ngàn đồng đã là hạnh phúc ngoài kia có kẻ kiếm được 5000 USD một giờ như gió đang phè phỡn trên những thân phận Ngồi xuống cốc rượu vỉa hè một cú ngồi chuyếnh choáng có giá 5000 đ/ xị mùa đông đang về mùa hè cũng đang về say đi chẳng có một cú ngồi nào vĩnh cửu có giá bằng sự lựa chọn cuộc đời Cho mình chính là mình con của mẹ Việt Nam


53 • The Going Alone Umbrella

around there are mothers who earn five thousand VN đồng and are already happy out there there’s one who can find 5,000 USD an hour like wind being satiated on the human condition Sitting down at the wine cup of the sidewalk a seat that tipsily wobbles has the price of 5000 đ/ 300 ml the winter is coming the summer is coming get drunk there’s no seat that forever has a price with the choices of life For oneself mainly is oneself the child of mother Việt Nam _________________ * 3000 VN đ. is roughly equivalent to 0.15 USD.



55 • The Going Alone Umbrella


Chiếc Ô Đi Lẻ • 56

CHÂN MÂY

Gần như không còn một doi đất cho cú đáp chân của loài chim di cư Không còn nữa cọng rêu cuối đông khi đường chân trời cứ dài ra mãi Dù vậy cũng nên lên chiếc xuồng sắp chìm Để trở lại con sông neo đậu mảnh hồn làng Để có thể liệm mình vào trong lũy tre Nghe dế giun hát trong cỏ Bài ca vĩnh biệt Về những ngày đã qua Như một kiếp người buồn Kéo dài những muộn phiền hơn niềm vui Vì những lẽ không đáng có


57 • The Going Alone Umbrella

SKYLINE

It’s almost like there’s no headland for a landing foot of the migrating birds There’s no more moss at the end of winter when the line of the horizon keeps dragging on forever Though [I] still should board the boat that’s soon to sink So that [I] can return back to the river which anchors the soul of [my] village So that [I] shroud myself in bamboo shrub To listen to the crickets and insects sing in the grasses The goodbye song About the passing days Like a sad human life Dragging in sadness more than joy Because of reasons that shouldn’t exit


Chiếc Ô Đi Lẻ • 58

Như chong chóng quay theo dáng xoay đồng tiền Giành giựt nhau những cô gái đẹp hay sức mạnh cơ bắp của chàng trai Về những thủ đoạn tươm vấy máu để cướp về cho mình những khoái cảm vật chất dửng dưng và vui mừng trước những thua thiệt của người khác như những chiến công đắc ý trong cõi sinh tồn cần phải có Cuộc đời này mệt mỏi quá Những nỗi mệt nhoài xâm thực các thời khắc bãi hoải Những thân phận nhàu nát xô vào nhau những số phận buồn Vô nghĩa như tài sản là những cục sắt rỉ mang theo Làm rỉ sét cả trái tim Và máu Đang chảy khắp nơi trong các khe máy đếm tiền Buồn nhiều như cỏ


59 • The Going Alone Umbrella

Like the pinwheels whirling with the spins of the coin Fighting and pulling the pretty girls or the muscular strengths of the boys The insidious act smears blood To rob back for oneself the indulgent feeling of materialism Indifferent and joyous in front of other’s suffering and loss Like a self-fulfilled glorious feat of arms that is required in the surviving world This life is very tiring The tiredness trespasses the hours of exhaustion The crumpled and torn [human] roles push the sad destinies between each other Meaningless like properties that are the blocks of rusty iron [which one carries] Corrode even the heart And blood That’s running everywhere in the chink of the money-counting machine Sad as much as grasses


Chiếc Ô Đi Lẻ • 60

Đầy như gió Bao la như chân mây Uh Không có chỗ nào để đáp cả Thôi thì bay vào hư vô May ra chỗ đó không có gì để mình phải ngẫm ngợi May ra còn trong veo


61 • The Going Alone Umbrella

Full like wind Limitless like the skyline Uh There’s no place to land So fly to the unknown Maybe [at] that place where there’s nothing one has to think Maybe [it’s] still pure.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 62

CHO EM NGÀY CHIA TAY

Rồi có một ngày em khởi hành cho cuộc chia tay Một chuyến tàu muộn, tiếng còi hú muộn trong ánh nắng vàng cũng muộn Chỉ có tiếng lòng bâng khuâng tất cả sao nhanh quá Nắng vẫn rực rỡ thế kia Chùm phượng đỏ trên những dãy phố dài vẫn rực rỡ thế kia... Và bầu trời cao rộng thế kia Như có mọt cái gì trong thân thể vừa tách khỏi tôi để bay đi Và nỗi cô đơn bỗng nhiên tan chảy Như một cơn bão gió ùa qua tôi Rồi tất cả gãy đổ trong im lặng Bay theo chuyến tàu của em Rưng rức tiếng dế tiềm thức


63 • The Going Alone Umbrella

FOR DARLING ON THE GOODBYE DAY

Then there’s a day you start because of a break-up One late train trip, the whistle blows late in the yellow sun-rays that are also late Only the voice of the pondering heart all too fast The sun is still so radiant like that The flamboyant flower bunch along the street is still so radiant like that … And the sky is so tall and wide like that Like there’s something in the body that just split from me and flew away And the loneliness abruptly melted away Like a wind storm rushes pass me And all snaps [and] falls in silence Follow your train trip Whimpering the voice of the cricket in the subconscious


Chiếc Ô Đi Lẻ • 64

Nâu nâu những chú chim sẻ nhỏ Và những mảng màu riêng mang rất trong Tôi nhìn thấy màu cô đơn đầy như màu xanh trên cao Ngọn gió lành nói với tôi đó cũng là màu hy vọng Xanh như một tiếng còi tàu bình minh ngày em Làm sao cho trái đất này đông cứng xanh? 6.2004

trở lại


65 • The Going Alone Umbrella

Brownish are the small sparrows and the unique color palette that’s very pure I see the color of loneliness much as the blue on high The good wind tells me it is a blue of hope* Blue as the whistle blows the train at dawn on the day you’re coming back How can this earth be frozen blue? ___________________ *Blue in Vietnamese means the color of hope


Chiếc Ô Đi Lẻ • 66

CHÚNG TA ĐÃ Ở CHUNG MỘT MÁI NHÀ

Chúng ta đã ở chung một mái nhà Ở đó ta mơ về những bữa ăn sáng yên tĩnh Mơ thây tiếng trẻ thơ cười Lúc còn trẻ chúng ta đi đá bóng hay chạy nhảy bên hồ Vào rừng hái nấm Và khi đã về già, chúng ta ngồi ôn lại những ngày tháng tuổi thơ Chúng ta đã ở chung một ngôi nhà Nhưng rồi chúng ta đã đem bom dội lên mái ngói Chúng ta xông khói cay bên ngoài ô cửa sổ Và chặt những cành cây ô liu bên trái ngôi nhà Chúng ta biến ngôi nhà chúng ta thành một cái hang Chúng ta chui vào đó bằng thang máy với tốc độ ánh sáng Nhưng chúng ta không tìm thấy ánh sáng chói loà nào


67 • The Going Alone Umbrella

WE LIVED IN THE SAME ROOF

We lived under the same roof There we dream about the peaceful breakfast Dream about the innocent children’s laughter When we were young we played soccer or ran and skipped by the lake Went to the wood to pick mushrooms And when we grew old, we sat down and remem bered the days and months of [our] childhood We lived in the same house But then we poured bombs on the roof We dropped tear gas outside the windows And cut the olive branches on the left side of the house We made our house into a cave We crept into it by the elevator with the speed of light


Chiếc Ô Đi Lẻ • 68

Mãi mãi là bóng tối Ám nhờ nhợ khu nhà đã vỡ tan của chúng ta Chúng ta đã làm mất những điều tổ tiên cho ta nhìn thấy Và quay lại trong những videoclip Rồi chiếu lại cho lũ trẻ con Rồi xem đó như là một trò nhân đạo mà chúng ta có thể hài long Và trong giờ lên lớp mỗi sáng Chúng ta dạy con cháu rằng Phía sau chúng, phía trước chúng là nền văn minh đáng sống Phải vậy không? Phải vậy không? Chúng ta đã ở chung một mái nhà? 14/8/2009


69 • The Going Alone Umbrella

But we couldn’t find any bright light Forever darkness Unpleasantly thickened our broken home We lost the vision that our ancestors had And recorded [them] in the video clips Then played for the gang of children Then took that as a human act that we can be pleased And in the lecture hour of every morning We teach our children that Behind them, in front of them is the civilization that’s worth living Is that right? Is that right? We lived in the same home?


Chiếc Ô Đi Lẻ • 70

HÃY CHO TÔI NHÌN EM

Hãy cho tôi nhìn em Ở đó có những cánh chuồn tuổi thơ tôi Rung rinh trên những cọng cỏ Và những cánh chim non yếu ớt Hát ca mừng ngày mới bắt đầu Những cánh diều trong bóng chiều lộng gió Bay như tóc em bay một chiều nào... * Hãy cho tôi nhìn em Để nhớ những ngày xưa rất xanh Tôi hôn lên đôi mắt người con gái Như hôn lên giấc mơ của mình Những giấc mơ về bầu trời cao rộng chầm chậm trôi đi những cánh thiên di Và xao động những dải thiên hà

*


71 • The Going Alone Umbrella

LET ME LOOK AT YOU

Let me look at you there There are the dragonfly wings of my childhood Quivering on grass And wings of the young weak birds Sing and celebrate the start of a new day The kites in the wind-swept evening Fly like your hair flies in that one evening ‌ * Let me look at you To remember the old young days I place a kiss the eyes of the young girl Like kissing my own dream The dreams about the tall and wide sky slowly floats the migratory birds away And rouses the range of galaxies

*


Chiếc Ô Đi Lẻ • 72

Hãy cho tôi nhìn em Để nhớ về những niềm vui của tôi những niềm vui hiếm hoi như sao trời đêm đông những niềm vui nhỏ như cánh én Hãy cho tôi nhìn và em hãy cười đi! Ôi nụ cười rất xinh của em * Hãy cho tôi nhìn em Để nhớ về những nỗi buồn đầy lên trong tim trong những chiều cả gió Đầy như mưa trời đêm qua rơi xuống nụ quỳnh Một ngày xưa đưa giấc mơ xuống thuyền Tôi sang sông lòng không ngoảnh lại * Hãy cho tôi nhìn em Để thêm một lần nhìn thấy khát vọng Chúng đã rất xanh và đã cháy lên nồng nàn trong khuôn ngực


73 • The Going Alone Umbrella

Let me look at you To remember my joys the joys [that] are as rare as a starry sky of a winter night the tiny joy like wings of the martin bird Let me take a look and would you please smile! Oh cute smile of yours * Let me look at you To remember the gloom that fills my heart in the afternoons that fill with wind Full like the rain last night falling on the Night Blooming Cereus bud Yesterday guides the dream down to the boat I cross the river – the heart doesn’t turn around * Let me look at you to [have] another look at the desires they were very young and were intensely burning in the chest


Chiếc Ô Đi Lẻ • 74

Như thanh xuân của em Như ước mơ của em

*

Hãy cho tôi nhìn em Nỗi nhớ của tôi Niềm vui của tôi Nỗi buồn của tôi Khát vọng của tôi Một chiều nào sông Hương đầy mưa Tôi nhìn rất sâu vào đôi mắt nâu Hiển hiện gương mặt thánh thiện Và mái tóc ai dài như sông xanh Tôi cầm tay em như cầm được giấc mơ của mình Những giấc mơ bay lên trong gió ... 2/7/2005


75 • The Going Alone Umbrella

like the youthful spring of yours like the dreams of yours

*

Let me look at you Memories of mine Joys of mine Sadness of mine Aspirations of mine One afternoon the Perfume River pushes rain I look very deeply in the brown eyes Appears the face of holiness And someone’s hairs long like the blue river I hold your hands like I’m holding my dreams The dreams fly up in the wind.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 76

LÚC 3 GIỜ SÁNG

Thức dậy lúc ba giờ sáng Bỗng nhìn thấy một thế giới đang ngủ Đó là một thế giới êm đềm của những hơi thở nhẹ Một vài cái cựa mình êm ái của những gương mặt không còn dã thú Một vài giấc mơ hoảng hốt toát mồ hôi Nhưng đó cũng chỉ là giấc mơ Có nhiều đôi đang làm tình giữa những giấc mơ Và những em bé mỉm cười vô cớ Đêm yên tĩnh vô cùng Chúng ta đã sống bình yên trong một thế giới Khi chúng ta ngủ Tất cả sẽ khác đi khi chúng ta thức dậy Đừng tưởng ánh sáng đã phủ đầy


77 • The Going Alone Umbrella

AT 3 AM

Wake up at 3 o’clock in the morning Suddenly [I] see a world which is sleeping That’s a pleasant world of soft breaths A sweet tossing of the faces that are no longer savage A few dreams panic [and] break sweat But that’s only a dream There are many couples who are making love in the middle of the dreams And the babies smile for no reason Night of utmost silent We have lived peacefully in the universe When we’re sleeping Everything will be different when we wake up Don’t think that the light already fully covers


Chiếc Ô Đi Lẻ • 78

Chúng ta đã để cho bóng tối nuốt mất mặt trời Chúng đến từ cú hét, cú cãi cọ, cú đập bàn, cú lừa đảo ngoạn mục tráo trở lòng tham Bóng tối đã nuốt hết sự nhẹ dạ hồn nhiên chúng đã chết vì chúng ta sợ chúng sống chúng ta không muốn cho sự nhẹ dạ hồn nhiên được sống Chúng chỉ còn một vô thức tồn tại tội nghiệp Lúc ba giờ sáng


79 • The Going Alone Umbrella

We have let the night shadow swallow away the sun They come from the shouts, arguments, poundings on the table, the outstanding deception with devious greed The night shadow had swallowed the naïve innocence they already died because we were afraid they may live We don’t want the naïve innocence to live We have only a subconscious with a pathetic existence At three o’clock in the morning



81 • The Going Alone Umbrella

Đời Sống Trên Sông Tranh Lê Thánh Thư


Chiếc Ô Đi Lẻ • 82

MƯA NHỮNG NGÀY TÔI YÊU EM

Mưa Tôi bắt đầu hành trình lầm lũi trở về những ngày trẻ thơ hồn nhiên tắm mưa Trở về những khu xóm nhỏ luyênh loáng nước cuốn toóc rạ trôi ra đường Những đứa trẻ bụng ỏng cởi truồng no nê tắm như tắm thân phận mình khi lớn chúng không hồn nhiên như thế nữa ... * Mưa Tôi bắt đầu hành trình lướt thướt những ngày yêu em Tình yêu như những sợi mưa xứ Huế đan dệt ngày đêm thành lũ, thành bão, thành cuồng phong...


83 • The Going Alone Umbrella

RAIN ON THE DAYS I LOVE YOU

Rain I begin the treading journey to return to the innocent days to shower in the rain Return to the small neighborhoods [with] dispersing water drifting to the street The kids [with] fat naked bellies – satisfying bathing Like bathing our human condition When growing up they are no longer natural like that … * Rain I presume the trailing journey on the days I love you Love like the thread of Huế rain knitting and weaving days [and] nights becomes flood, hurricane, wind storm


Chiếc Ô Đi Lẻ • 84

để rồi tan như sương khói một ngày nắng sáng bên sông Chỉ để lại những vũng bùn kỷ niệm, những cơn mưa kỷ niệm Róc rách chảy đến bây giờ trong các vỉa tầng ký ức * Mưa Có con chim sẻ trú mưa trong nỗi cô đơn bên hiên nhà Tôi nhìn thấy tôi đang rỉa lông cánh Và kêu lên những lời vô nghĩa Trong ầm ào vô nghĩa mưa và tiếng xe hơi chạy rát mặt đường Tôi như con chim sẻ kia không muốn nói với ai điều gì nữa Ngoài nỗi cô đơn ẩm ướt * May mà nỗi cô đơn vẫn còn ẩm ướt...


85 • The Going Alone Umbrella

then vanishes like the dew and smoke of a day sun shines by the river Only to leave the mud puddle of memories, the rain of memories Burble running until now within the layered floors of memories

*

Rain There’s a sparrow hiding [from] rain alone by the house porch I see myself nibble the wing feathers And cry out nonsense words In the vociferous nonsense rain and the noise of the running car burns on the road I’m like that sparrow who doesn’t want to talk to anyone about anything Besides the wet loneliness

*

Lucky that the loneliness is still wet


Chiếc Ô Đi Lẻ • 86

NẾN

Ngọn nến thắp lên trong đêm Và cháy lên bức tranh tĩnh vật Sự lay động của đốm sáng Và người họa sỹ bắt đầu vẽ Có thể thêm một chiếc sừng trâu của vành trăng khuyết Có thể thêm lời hát thì thầm của rêu Có thể thêm đêm nguyện thề của cỏ Có thể là những ánh mắt sang ngang Có thể... Nhưng dầu sao đi nữa Gió ơi đừng làm tắt nến Bởi tĩnh vật đen là giới hạn cuối cùng.


87 • The Going Alone Umbrella

CANDLE

The candle is lighted in the night And burns up like a still-life painting The movement of the speck of light And the artist begins to draw Maybe to add a buffalo horn of the eclipsed moon Maybe to add a whispering lyric of moss Maybe to add a promised night of grass Maybe it’s the gaze [of] the passing ferry boat May be … But no matter what Please wind don’t blow out the candle Because black still-life is the final limit


Chiếc Ô Đi Lẻ • 88

GÁNH CƠM HẾN ĐI TRONG SƯƠNG

Phá vỡ sự đông đặc trắng lửa hồng gánh cơm hến của em mở lối trong sương thành phố bắt đầu tỉnh giấc Gánh cơm hến của em đi trong sương Tôi nhìn thấy lễ hội của rau cỏ mười ba hay mười bốn những đoàn xiếc xanh và đỏ treo ngược những cay-đắng-ngọt-bùi trộn lẫn những chiêm nghiệm của dòng Hương qua nghìn triệu mắt hến ôi xanh Huế nói gì trên vai em? Nói gì mà chén cơm nguội vẫn bốc khói? Nói gì mà miếng da rán rộn ràng?


89 • The Going Alone Umbrella

WALKING WITH MUSSEL-RICE BURDEN IN THE DEW

Breaking the white density rose-colored fire of your mussel-rice burden Opens the path in the dew The city begins to wake up Walking with Mussel-rice burden in the dew I see the festivity of the greeneries Thirteen or fourteen The green and red circuses hang upside down the bitter sweets mix with the observations of the Perfume* flow through millions of eyes of mussel Oh blue Huáşż says what is on your shoulders? Says what cold rice bowl still steams? Says what piece of fried-rice cracker bustles?


Chiếc Ô Đi Lẻ • 90

Nói gì mà miếng cơm hến thanh ngọt đọng mùi bùn những ngày sông đục Nói gì mà cay? Mỗi sáng người sông Hương điểm tâm bằng triết lý cuộc đời nên mỗi người là một triết nhân, là nghệ sỹ làm nên sự sang trọng của nghèo khó và sự tinh tế của dân dã... từ một chút cơm nguội, chút ruốc, chút muối, chút hến và vô số rau cỏ... và những trái ớt cay-sự lừa dối tự nuôi sống. Rồi em vẫy những chiếc nón chào những người xa lạ đổi sự sống động này lấy sự sống động khác Từ lễ hội của rau cỏ Em làm nên "thành phố của nghệ thuật sống"


91 • The Going Alone Umbrella

Says what piece of sweet mussel rice stagnates in the muddy smell [of] the days [of] the river’s opaqueness Says what stings? Each morning the Perfume river people [have] breakfast with philosophies of life so each person is a philosopher, an artist makes up the luxuries of the difficult poverty and the exquisiteness of the rural people .. from a bit of cold rice, a bit of ruốc paste*, bit of salt, bit of mussel and a myriad of veggies [and] greens … and the hot peppers – the self-supporting deception. Then you wave the conical hats* welcoming strangers and exchange this vigor for another vigor From the festivals of greeneries You make up “an art-of-living city”


Chiếc Ô Đi Lẻ • 92

Vục mặt vào gánh cơm hến bốc khỏi của em lắng nghe sự thủy chung sôi động rồi hít hà thấy mồ hôi mặn của mình nhỏ xuống Ôi thành phố này! Đừng có bốc hơi đi! 2.12.2002


93 • The Going Alone Umbrella

Dropping [my] face to your steaming rice-burden Listening to the liveliness of loyalty Then sniffing and seeing my salty sweat dropping down Oh this city! Don’t vaporize! _________________ *Perfume River * ruốc – salted fermented-shrimp paste * Cone-shaped Vietnamese straw hat * Mussel-rice burden is a Vietnamese idiom referring to the heavy weight of two bundles hanging on both ends of a pole which is carried on one shoulder


Chiếc Ô Đi Lẻ • 94

GIẤC MƯA

Bỗng nhiên giấc mưa gõ vào mòng mơ Cho nỗi khắc khoải trở về như một trò chơi cồn cào trên mái lá Mưa quy đồng mẫu số đẫm ướt Gõ lời vào tháng năm Mưa Giấc buồn cho chiếc lá ngủ ngoan trên đất vô tư Ngọt ngào hơn một lần nhắm mắt Một sáng nào em hứng giọt mưa về rửa mặt Nên trời còn mưa như mưa nhịp điệu ủ hồn nao nao như chờ ngóng ai trong mắt ngọn đèn đường suốt những đêm dài không ngủ


95 • The Going Alone Umbrella

THE DREAM OF RAIN

Suddenly the rain knocks on the wandering dreams Thus anxiety like a game gnaws on the thatched roof The rain [by] the rules of the form soaks wet And keys the lyrics on time Rain The sad dream lets the leaf sleep well on the carefree ground Sweeter than one blink of an eye That one morning you gather a rain drop home to wash [your] face thus it’s still too much rain The soulful melody, is uneasy like waiting, is looking forward for somebody In the eye of the street lights through long nights of sleeplessness


Chiếc Ô Đi Lẻ • 96

Có những bài thơ vô thức Như ánh đèn dọi sáng giọt mưa qua Mưa sau giấc nửa đêm Những nàng tiên giáng trần cùng vũ hội Gọi ai gọi ai trong hư không Gọi ai về với ta trong giấc sống mỗi ngày.


97 • The Going Alone Umbrella

There are unconscious poems Like the lights shining through the raindrops passing by Rain after the midnight dream The fairies descend with the dance festival Calling some, calling some in vain Calling someone to return to me within the dream of living every day


Chiếc Ô Đi Lẻ • 98

LÀNG

Không còn lý tưởng xanh trong những ngôi làng Những con trâu gặm cỏ buồn rầu bên chiếc máy cày rỉ sét Những hàng dây điện cắt phăng luỹ tre Và giọng hát karaoke hổ lốn thay thế giọng hò của mẹ Chúng ta đã mất mát Đã buồn đau Đã chấp nhận Chân lý nằm ngoài cái thế giới sắp đặt bởi duy ý chí mà chúng ta không thấy Cái bồn tắm hiện hữu trong ngôi nhà ống nằm giữa cánh đồng bên dòng sông xanh Và nụ cười ai đó mãn nguyện


99 • The Going Alone Umbrella

VILLAGE

There’s no more young creed within the villages The buffalos chewing grasses are sorrowful next to the rusted tractor The electricity lines cut across the bamboo And the hodgepodge-like karaoke-singing voice replaces the ballad-singing voice of mother We were already lost Were already sorely saddened already accepted The truth lies outside the world [which is] arranged solely by wills, that we don’t see The bathtub is present in a tube house,* [which] lies in the middle of the meadow by the blue river And the smile of someone being content


Chiếc Ô Đi Lẻ • 100

Đã quá xưa rồi hình ảnh một làng quê nghèo bình yên với những ụ rơm, những hàng tre trước ngõ Ngọn lửa gas xanh đang cháy trong bếp lò Nhưng chúng ta đã để biến mất trắng trợn cái màu xanh luỹ tre Khiến những con đường không bóng cây và dòng sông đang ô nhiễm Đó thật sự là một cú điên rồ buồn đau khủng khiếp Nó sẽ giáng vào chính chúng ta trong một ngày đẹp trời nào đó


101 • The Going Alone Umbrella

It’s very ancient [for] the image of one poor countryside village at peace with straw stacks and bamboo rows at the front gates The blue gas fire is burning in the stove But we let [it] blindly vanish in the green of bamboo, Making paths with no tree shade and the river flows are polluted That really is a crazy and foolish shot of extremely painful sadness It will descend upon us in that one beautiful day *Tube house – due to the limited space, many tall houses in big cities are on a small piece land and have many stories



103 • The Going Alone Umbrella

Dưới Gốc Tùng Tranh Đinh Cường


Chiếc Ô Đi Lẻ • 104

NGÀY CŨ

Tờ lịch cuối cùng rơi xuống Bỗng nhiên mưa như trút hết nỗi buồn lên thành cổ Nỗi buồn cong hay thời gian cong? Ngày cũ là những chiếc cầu vồng Có chú bé tặng cho cô bé trong sân trường một con gà đan bằng cỏ Hôm ấy cũng sau cơn mưa, nắng lên và chiếc cầu vồng hiện ra trong mắt trẻ. Bầu trời sao mà trong xanh cao vọi thế! Ôi thời gian cong! Những mùa cỏ gà rồi cũng đi qua Những tờ lịch rơi những mùa mưa rơi, những nỗi buồn rơi cong những cầu vồng và những thời gian cong


105 • The Going Alone Umbrella

THE OLD DAY

The last daily-calendar sheet falls down Suddenly rain pours, draining the sadness in the ancient city Does the sadness bend or time bend? The old days are rainbows With a boy presenting to a girl in the middle of the school yard a chicken weaved with grasses That day after the rain, sunrays rise and a rainbow appears in the youngsters’ eyes Why! the sky is so azure and high. Oh time bends! The seasons of Bermuda grasses have also passed The daily-calendar sheets fall the seasons of raindrops the sadness drops [and] bends the rainbows and the time bend


Chiếc Ô Đi Lẻ • 106

Tôi treo mình trên một chiếc lá nhạc ngựa Nghe tháng ngày lóc cóc nhảy nhót hót chơi Ước gì có đủ sức để uốn thời gian cong vòng lại Để tôi gặp lại ngày cũ Chỉ để nhổ một cọng cỏ gà Tặng cho cô bé hoàng hậu Rồi đi...


107 • The Going Alone Umbrella

I hang on the Swietenia* leaf Listen to the days while skipping and jumping and twittering playfully [I] wish enough strength to bend time back in a curve So I can meet the old days Just to pick one Bermuda grass Present [it] to the queen girl Then leave ‌ ___________________ *is a tree in Asia which bears small brown fruits


Chiếc Ô Đi Lẻ • 108

ĐÙA TÍ CHƠI

Mình dựng lên một bức tường rồi tìm cách chui vào bức tường Bức tường ấy giả quá nên mình không thể chui vào được Giá nó được đóng bằng xi măng C 50 thì khác Nó giả đến mức mình không nhìn thấy bức tường Mình có thể bay lên khỏi mặt đất bằng trí tưởng tượng của mình Nhưng quán tính của mình nặng hơn trái đất Hình như những giấc mơ đã chết Nên mình chỉ có thể bay lên nếu không nhìn thấy châu Phi Nhưng tương lai của mình vẽ ra còn đen hơn thế


109 • The Going Alone Umbrella

JUST JOKING

The body* puts up a wall and then tries to crawl into the wall That wall is fake thus the body cannot crawl in Wish it was made by C50-type cement [then] it would have been different It’s fake to the point where the body cannot see the wall The body can fly up from the earth by its imagination But the body’s inertia is heavier than the earth Maybe the dreams already died Thus the body can only fly up if [it] cannot see the continent of Africa But the future [which] the body draws is blacker than that


Chiếc Ô Đi Lẻ • 110

Thôi thì đừng mơ chui vào bức tường hay bay lên không trung Chiều nay đi uống li rượu Cỏ Cú bên Hộ Thành Hào Có thể trong cơn say mình sẽ chui được vào ống cống Để gặp nàng công chúa ngủ trong bức tường Và có thể bay lên cao hơn con diều trước sân Đại Nội Khi rơi xuống có thể nằm trên cỏ dịu êm Và con châu chấu có thể khen mình yêu thiên nhiên Bravo Cỏ Cú


111 • The Going Alone Umbrella

So don’t dream about crawling into the wall or flying up in the air This afternoon [I] go drink Coco Grass wine along the Hộ Thành Hào* Maybe in the drunk time the body will crawl in the sewage To meet the princess who sleeps in the wall And maybe [I] can fly higher than the kite in the Đại Nội yard When the kite falls down [I] can lie down on the smooth, soft grasses And the grasshopper can complement the body which loves nature Bravo Coco Grass ___________________ *Mình means body, one’s self, or can also be used to refer as the first person “I” *Hộ Thành Hào – the apartments around the Forbidden City *Đại Nội the Hue forbidden city


Chiếc Ô Đi Lẻ • 112

ĂN

Buổi sáng Tôi ngửa bàn tay xem hôm nay mình sẽ ăn gì Buổi trưa Tôi hấp chín bàn tay trái làm mồi cho một cuộc nhậu tùy hứng Buổi tối Tôi nướng bàn tay phải cho cuộc rượu vui vầy khác Ngày mai Tôi trở thành kẻ tàn phế


113 • The Going Alone Umbrella

EAT

Morning I open my hands to see today what will I eat Noon I steam the left hand to bait for drinking and gathering spontaneously Evening I grill the right hand for this-and-that wine party Tomorrow I’ll become a disabled person


Chiếc Ô Đi Lẻ • 114

BÌNH MINH

Trượt trên triền tia sáng vô vàn chiếc kim ngũ sắc vượt ra khỏi biên giới mặt trời và giấc ngủ triền miên Những chiếc kim đâm vào da thịt lá Bốc hơi sương nhện rợn xanh hơi mờ phố xá ban mai Bình minh đi ngược từ mắt đến mặt trời Gã cư sĩ khép hờ giấc nguyện Ngực trên phập phồng em qua khe cửa hẹp Ngái ngủ con mèo dậy muộn cào xước mặt trời


115 • The Going Alone Umbrella

DAWN

Sliding on the slope of light numerous rainbow-colored needles I cross over the borders of the sun And the sleep forever The needles poke into the skin and meat [of] the leaves Evaporate the spider dew shiver with green steamy phase in the city streets in the morning Dawn walks backward from eyes to the sun The hermit slightly closes the prayer dream The upper chest throbs in you through the narrow door chink Yawning, the cat wakes up late scratches the sun


Chiếc Ô Đi Lẻ • 116

Những chiếc kim rồi toé sáng Giác ngộ những lỗ đau vừa đang thức dậy Neo trong tiếng chuông nhà thờ loang trên mặt sông An Cựu Đóng thêm cây đinh trên giấc sống Ngày đang trôi ráo hoảnh


117 • The Going Alone Umbrella

The needles then brighten up Enlighten the pain holes that just woke up Anchor in the sound of the church bell spreading on the An Cáťąu river Pound in another nail on the slumber of life The day is bone-dry drifting


Chiếc Ô Đi Lẻ • 118

BÃO

Đó là cuộc biểu dương lực lượng của các thánh thần Với tiếng gió rú rít làm nhạc đệm Biểu lộ toàn năng đáng sợ của Thượng đế Với những chiếc liềm sắc gắn vào đầu lưỡi gió Như sự thách đố loài người không thể làm được cơn cuồng nộ vĩ đại như Ngài Giảng về sự tự tôn bằng gió giật trên cấp 12 Bằng những lớp sóng thần khủng khiếp Làm cho những ngôi nhà bay lên những nỗ lực cứu vãn thế giới bay lên những mái tranh nghèo xác xơ bay cao nhất những mái nhà ngói xập xệ bên đường


119 • The Going Alone Umbrella

HURRICANE

That is the demonstration of the strength of holy gods With the sound of hissing and with raving winds making instrumental music Expressing the scary almighty God With the iron sickle hook on the tongue of the wind Like a challenge humans cannot make a fervent force as great as His Preaching about the self-respect by gusts above grade 12 By the terrible tsunamis Making the houses fly up the efforts of saving the world flying up the ragged and poorly thatched roof flying the highest the sagging and falling tile house on the side of the roads


Chiếc Ô Đi Lẻ • 120

Đó là bài học của Thượng đế Những người dân quê Sống trong bão giông chết ngập trong cuồng lũ Ngay sau cơn gió vừa ngớt cánh Họ ra đồng bắt những con cá bụng đầy trứng trườn qua những con đường tung toé nước mưa những đứa trẻ sẽ hít hà hấp háy mũi trước bát cháo hành đầy trứng cá rồi ôm nhau ngủ trong tiếng mưa và sóng vỗ và giấc mơ an nhiên nụ cười phơi trên khung nhà vừa bay mái ngói


121 • The Going Alone Umbrella

that is the lesson of God The churls Live in the storm, die drowning in the wild flood Right after the wind just ceases its wing They go to the field catch the fish with bellies full of eggs slither across the streets splash the rain the kids will hiss and wink [their] noses in front of the bowl of onion congee soup filled with fish eggs then hugging each other to sleep in the sound of rain and crashing waves and the dreams of natural peace the smile dries on the house frame which the tiled roof just flew away



123 • The Going Alone Umbrella


Chiếc Ô Đi Lẻ • 124

BẢN TIN BUỒN

“Nghịch tử chặt xác cha nhận án tử hình Mẹ đẻ ném con ba tháng tuổi xuống giếng” Bản tin VNN ngày 20.11.2009 như thế U ám hiến chương Huế mưa lạnh đông Vù vù những sợi buốt quất roi vào khắp chốn Có ông thầy tranh cướp học trò Một cú tình rồi một cú quyền lực Đêm như nối bước chân


125 • The Going Alone Umbrella

THE SAD NEWS

“The defiant child chops [his] father’s body receives the death sentence The mother throws a three-month child to the well” The VNN news on 11.20.2009 [is] like that An overcasting charter Hue rain freezes winter Buzzing buzzing the [rain]threads the branches sharply to all over There’s a teacher who usurps the students A blow of love then a blow of power Night as the footsteps follow closely


Chiếc Ô Đi Lẻ • 126

Đừng buồn khi đọc những bản tin ấy Thế giới vẫn quay tròn không đứng lại Thọc hai tay vào túi cho ấm Tìm một góc cà phê nghe Văn Cao


127 • The Going Alone Umbrella

Don’t be sad when you read that newsletter The world is still spinning not stopping Put hands into the pockets to keep warm Finding a coffee corner* listening to Van Cao** _________________ *Corner of a coffee shop **Van Cao is a Vietnamese Composer in the Pre-war era


Chiếc Ô Đi Lẻ • 128

BIỆT CUNG

Đã khép lại rồi cánh cửa nối về phía Tây (*) Ngoài ấy là dòng Hương thao thiết chảy Ôi bức tường này, bức tường bên kia, bức tường trước mặt Làm sao mà cao vời vợi thế? * Dưới lòng đất bên kia có một người đang yên nghỉ Người đó từng là đấng quyền năng bậc nhất Đã từng cùng một chữ "Khiêm" dạo chơi Từng làm cho gió ở biệt cung này cũng reo lên vì vui sướng Đã từng làm cho muôn loài ngã rạp dưới chân người Và từng đêm, nơi đây rung lên những vũ khúc trình tấu


129 • The Going Alone Umbrella

ISPLATION PALACE

Already close the door panel which connects to the West* Out there is the stream of Hương (Perfume River) earnestly running Oh this wall, that wall on that side, the wall in front How come so unseemly high like that? * Underground on that side there’s a person who’s peacefully resting That person is the most powerful god Who was once with the “humble” word strolling Once made the wind of this isolation palace to cheer because of joy Once made all creatures fall flat under his feet And each night, here vibrates the dance performances


Chiếc Ô Đi Lẻ • 130

Cho người được quên đi những mềm yếu trong đời Sao người không dạo chơi thêm vài mùa xuân nữa Cho em được nở hoa một lần Nở riết róng như loài sen người cho trồng khắp các lạch hồ... * Y, Trì, Tùng, Dụng Khi người đi xa, chỉ còn chúng em với biệt cung vĩnh cửu Khoảng trời của em là những đám mây lang thang qua ô cửa tò vò Kéo theo mùa xuân vô nghĩa của em đi Ôi những bức tường này, bức tường kia, bức tường trước mặt Sao mà ngày một cao lên thế!

*


131 • The Going Alone Umbrella

For him to forget all the weaknesses in life How come he doesn’t stroll several more springs So that I [the lady] can bloom one more time Bloom forever and as much as the lotus that you permitted to grow all over the creek lake … * Y, Trì, Tùng, Dụng When he went away, only we are with the isolation palace permanently My horizon is the clouds roaming through the bee arch window panel Pull my meaningless spring away Oh this wall, that wall on that side, the wall in front How come it’s higher and higher like that?

*


Chiếc Ô Đi Lẻ • 132

Những nhức nhối xuân thì dần tắt lịm Và có một loài trinh nữ hòang cung Từ đó ra đời... 23.11.2005 ___________________ (*) Trong lăng vua Tự Đức có một biệt cung. Nguyên đó là khu Y, Trì, Tùng, Dụng dành cho các cung nữ đi theo hầu vua ở mỗi khi vua lên lăng chơi. Khi vua băng hà, các cung nữ này được đưa lên ở biệt lập tại đây. Người ta xây bít cửa phía Tây lại và xây tường cao lên, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Và những cung nữ đã sống biệt lập tại đây cho đến khi qua đời...


133 • The Going Alone Umbrella

The aching pain[of] the youth age slowly extinguished And there’s a kind of virgin flower in the royal palace Which was born from there … ______________________ (*) The names of the four isolation palaces where the imperial maids live serving the king when he was alive and after he passed away. In Tu Duc shrine there’s an isolation palace. That’s the area for the imperial maids who serve the king whenever he visits the shrine. When the king passed away these imperial maids were placed in isolation at this place. People sealed up the door of the West side and build up high walls, the insiders can’t venture out, and the outsiders cannot come in. And these imperial maids live in isolation in this place until they leave life.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 134

CƯỜI MẾU Ở A TIÊNG

Chuyện vừa xảy ra ở A Tiêng, Tây Giang, Quảng Nam Những đứa trẻ mang tên đầu Cơ tu, đuôi minh tinh Hàn Quốc Pơloong San Ốc, Pơloong San Ân, Pơloong San U... Những cái tên tràn đầy sổ hộ tịch Vọng hoang hoải trên các triền dốc, các cánh rừng và dài theo con suối Tràn nhức buốt vào tim Pơloong San Diu con của Pơloong A Gương Alăng Na Ra, con của Alăng Ân Briu Thị Hy Su, con của Briu Nhỏ Riah Thị Su U, con của Riah Như Blúp thị Na Ru, con của Blúp Né Không nén được cười, cười như là mếu


135 • The Going Alone Umbrella

POUTING SMILE AT A TIÊNG

[It] just happens in A Tieng, Tay Giang, Quang Nam The kids with the the first name Co tu, last [of] Korean stars Poloong San Oc, Poloong San An, Poloong San U1 The names fill the household registrars Echoing desertions and failures along the hills slope, the forest wings and along with the rivers Spill the sharp pains to the heart Poloong San Diu the child of Poloong A Guong2 Alang Na Ra, child of Alang An3 Briu Thi4 Hy su, child of Briu Nho5 Riah Thi Su U, child of Riah Nhu6 Blup Thi Na Ru, child of Blup Ne7 [I] can’t hold the laughter, laughter which twists the face


Chiếc Ô Đi Lẻ • 136

Giang Gun, Zơ Râm Sô Ra, Pơloong Hiên U... Những cái tên mới nghe, cứ tưởng đây là lò đào tạo diễn viên Hàn nhập cảng hoặc phim trường miền núi Việt Những “diễn viên” ở A Tiêng là những đứa bé có quần thì không áo, có áo thì không quần, thậm chí khỏi cả quần cả áo, Đen nhẻm sex, cháy nắng sex lấm lem bùn đất phơi nắng, phơi gió, phơi thiên nhiên Cô gái Việt làm dâu xứ Hàn mơ biết đâu, tổng thống tương lai của Hàn Quốc lại có năm mươi phần trăm dòng máu Việt. Còn những đứa con Cơtu nghèo khó ở rẻo cao A Tiêng mang những cái tên Hàn Cha mẹ chúng mong điều gì nhỉ? Những đứa con lai từ Đài Loan, Hàn Quốc buộc theo mẹ về lại quê ngoại miền Tây Nam Bộ từ cuộc tình môi giới sớm tan


137 • The Going Alone Umbrella

Giang Gun, Zo Ram So Ra, Poloong Hien U … The names [I] just heard, [I] thought this is the school producing imported Korean stars or the movie set of the Vietnamese mountains The “actors” at A Tieng are children with pants but no shirt, with shirts and no pants, even without pants and shirt, Pitch black sex, burning sun sex besmirch dirt and mud sun drying, wind drying, natural drying The Vietnamese girl is a bride of a Korean who dreams [and] knows perhaps, the future president of Korean would have fifty percent Vietnamese blood. And the children of Cotu in poverty on highland mountains A Tieng is carrying the Korean names What do their parents desire? The mixed-blood children from Taiwan and Korea have to come back with mother to maternal land in South Central Coast from the arranged love story [which]


Chiếc Ô Đi Lẻ • 138

đàn xẻ nghé có những cái tên Lee, U, Súc, Na, Ku, Kiu, Kee... Thế cũng đã nghe buồn lắm rồi Huống gì cả một hiện tượng A Tiêng! Những đứa trẻ định danh bằng một cú lai căng từ não trạng Một cú hội nhập gió hoang


139 • The Going Alone Umbrella

quickly rips apart the names Lee, U, Suc, Na, Ku, Kiu, Kee Such already make [me] sad How all of the A Tieng phenomenon! The children identifies with one single blow of hybrid from mental state A single blow of fit-in wild winds ________________ 1. 2. 3. 4. 5. 6.

Korean names Guong means mirror An means gift Thi is a common middle name for Vietnamese woman Nho means tiny Nhu means smiliar



141 • The Going Alone Umbrella

Phụ Bản Tranh Lê Thánh Thư


Chiếc Ô Đi Lẻ • 142

CÁI LI GIỐC NGƯỢC

Không còn gì Cái li đã giốc ngược trôi hết giọt nước cuối cùng Nó không còn gì nữa Nó im lặng Bởi nó không còn dâng hiến Không còn gì Cái li đã giốc ngược không còn một hơi rượu Như tôi đã giốc ngược vào em đêm qua Giốc tận cùng Giờ chỉ còn hơi thở


143 • The Going Alone Umbrella

THE UPSIDE DOWN GLASS

Nothing left The glass had turned upside down, flown away the last drop It has nothing left It’s silent Because it’s no longer offering Nothing left The upside-down glass no longer has a wine breath Like I turned upside down into you last night Down [to] the end Now only a breath


Chiếc Ô Đi Lẻ • 144

CHIẾC Ô ĐI LẺ

Hàng Bè phố cổ Người đi xích lô, đi xe đạp, đi xe máy, đi tắc xi đi... Trôi từ thứ hai đến chủ nhật. Âm em Tây ba lô trôi Những gánh rau quả trôi Những gánh bánh bao trôi Những chiếc rỗ tre bất động Con cá vẫy đuôi trong hẻm Gia Ngư Quẫy mùa yêu trống trải Hàng Bè ngày mưa Chỉ chiếc ô đi lẻ loi Kéo theo bàn tay ướt


145 • The Going Alone Umbrella

THE UMBRELLA GOES ALONE

Hàng Bè* the ancient city People ride pedicab, ride bicycle, ride motorcycle, ride taxi ride .. Flow from Monday to Sunday You Pack-back-westerners flow The vegetable-and-fruit loads flow The steam-bun loads flow The bamboo baskets [are] motionless The fish waves tail in the Gia Ngư alley, Waggles the empty love season Hàng Bè in the rainy days Only an umbrella going alone Pulling a wet hand __________________ *Hàng Bè is the name of a street and district in Ha Noi.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 146

SẮP ĐẶT

Tôi đem nỗi buồn tam giác bỏ vào hình vuông Tôi có nỗi buồn tam giác Tôi đem nỗi buồn hình vuông thả vào hình chữ nhật Tôi có nỗi buồn hình vuông và nỗi buồn hình chữ nhật Tôi đem nỗi buồn hình chữ nhật thả vào hình lục giác Tôi có nỗi buồn hình chữ nhật và những nỗi buồn hình lục giác Tôi đem nỗi buồn hình lục giác thả vào hình tròn Tôi có nỗi buồn hình lục giác và những nỗi buồn cong


147 • The Going Alone Umbrella

PLACEMENT

I take the triangle sadness, place into the square I have a triangle sadness I take the square sadness , drop into the rectangle I have a square sadness and the rectangle sadness I take the rectangle sadness, drop into the hexagon I have a rectangle sadness and the hexagon sadnesses I take the hexagon sadness, drop into the circle I have a hexagon sadness and curvy sadnesses


Chiếc Ô Đi Lẻ • 148

Tôi đem nỗi buồn hình tròn thả vào trăng Tôi có một nỗi buồn luyênh loáng Tôi đem nỗi buồn trăng thả vào tôi Tôi thành bóng tối


149 • The Going Alone Umbrella

I take the circular sadness, drop into the moon I have a sadness expanding vastly I take the moon gloom, drop into me I become darkness shadow


Chiếc Ô Đi Lẻ • 150

VĂN MIẾU

Ngôi đền sống động từ những tấm bia biết im lặng Chỉ để những cái tên lên tiếng Người con Việt đã đi qua đây Như đi qua một cánh rừng biểu tượng Những tấm bia như những chiếc gương soi mà ta chỉ thấy mình trong đó lòng kính trọng hiện lên Những gương mặt hiền nhân ẩn trong đá Đang quan sát ta bằng cặp mắt nhân hậu biết bao Những tri thức thông thái của người Giọt xuống ta như giọt nước ăn mòn cả đá Thấm vào ta qua những cửa ô Khuê Văn Các


151 • The Going Alone Umbrella

TEMPLE OF LITERATURE

The temple lives from the tablets that know only silence Only to leave the names to speak up The Vietnamese had walked through here Like walking through a forest of icons The tablets are like the mirrors in which we see only ourselves with respect which appears The faces of kind sages hide in the rocks Observing us with such kind sets of eyes The wise knowledge of humans Drop on us like water drops which corrode even rocks Permeate into us through the door frames of Khuê Văn Các


Chiếc Ô Đi Lẻ • 152

Rọi vào ta sáng và chiều và sâu những khoắt khuya Gục đầu lên bia đá Nghe máu mình chảy suốt nghìn năm


153 • The Going Alone Umbrella

Beam on us in morning and afternoon and deepen into moments of midnight Drop [our] heads on the stone tablet Hear our blood run For thousand of years.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 154

VIẾT TRÊN VỌNG HẢI ĐÀI

Níu tôi vào đám cỏ mềm xanh Bằng một trận cuồng phong trùng trùng mây gió Mây ùn lên từ vực sâu hình hài con chiến mã Và những bờ lau dựng những chiếc bờm Kéo tôi vào vũ hội trắng xóa rồi đưa đẩy tôi đi Về những miền gió mây vô định Vọng Hải Đài Trời mù sương như một chiếc bánh kem trong đêm ước nguyện Có con ngựa trắng bay lên trời Ngóng lời phán truyền từ những tầng cao Về một tình yêu không sám hối


155 • The Going Alone Umbrella

WRITTEN ON THE LIGHTHOUSE

Pull me into soft green grasses by a hurricane with layer of cloudy wind Clouds jam up from the abyss [which] embodies the war horse And the bank of reeds lift up the mane Pull me to the silvery white ball and then push me To go back to the region of endless clouds and wind Lighthouse The misty sky like an icing cake in the night of wishes Has a white horse flying to heaven Expecting the spoken word from high above About an impenitent love


Chiếc Ô Đi Lẻ • 156

Em hãy cưỡi lên yên ngựa trắng và đi về phía tôi Đừng cố gắng đoán tương lai của những đám mây muôn vạn hình hài Chiếc bánh sương đặc quánh đang chờ Lời phán truyền vô ngôn đang vọng Và rừng hoa Đỗ Quyên đỏ rực như tình yêu của tôi dành cho em Vô nhiễm như không gian Bạch Mã yên bình Vọng Hải Đài Ta chờ em ở đó Mặc cuồng lưu gió mưa mù mịt Tin rằng em sẽ đến Và trời sẽ trong xanh như một chiếc hôn dài Bạch Mã, 30.4.2009


157 • The Going Alone Umbrella

You just ride on the saddle of the white horse and go toward me Don’t try to guess the future of the cloud masses of thousand of shapes The dense dew cake is waiting The unspoken word is echoing And the Đỗ Quyên flowers in the forest brightly redden like my love for you [and] Not polluted like the peacefull atmosphere of Bạch Mã Lighthouse I wait for you there Despite the fanatic blinding wind and rain Believe that you will come and the sky will be clear blue like a long kiss



159 • The Going Alone Umbrella

Tắm Tranh Nguyễn Đại Giang


Chiếc Ô Đi Lẻ • 160

VỚI ĐÔNG KI SỐT

Nếu có một cuộc bầu cử người lập lại thế giới Tôi sẽ bỏ phiếu cho ông Ông chỉ đơn giản hiểu rằng quán trọ là lâu đài chứ lâu đài không là quán trọ Và ông yêu, không đắng cay, và thế Cả cái cối xay gió ngụ ngôn với lòng nhân đạo ngụ ngôn Ông bước ra khỏi trang sách với những bước chân vững chãi Không để đi tìm hoang đảo Mà là trái đất, con người


161 • The Going Alone Umbrella

WITH DON QUIXOTE

If there’s an election for a person who will recreate the world I will cast my vote for him He simply understands that an inn is a castle and a castle is not an inn And he loves, no bitterness, and so on Even the windmill fables and the humanity of fables He walks out of the book page with solid footsteps Not to look for an abandon island But the earth, humans


Chiếc Ô Đi Lẻ • 162

VỌNG

Vọng em từ ban công tầng hai ngôi nhà Qua một cành phượng già Qua một cánh thông già Qua một tán xà cừ già Thấp thoáng mái tóc em bay trong căn phòng nhỏ Mùa thu đang về Trên những chiếc lá vàng rơi cuối sân Trên những bước chân em giữa khu vườn yên tĩnh Trên mái tóc em mượt mà vén lên sau vành tai tần ngần Trắng như nỗi nhớ Vọng em từ thẳm sâu đêm Có con mèo hoang kêu cuối vườn khuya


163 • The Going Alone Umbrella

ADVENT

Await for you from the balcony of the second floor of the house Through a branch of an old phoenix flower Through an old pine Through a pane of old nacre Looming, your hair flies in the small room The Autumn is coming back On the yellow leaves falling at the end of the yard On your footsteps in the middle of the quiet garden On the smooth hair flowing behind the ears, stunned and at a loss White, like when I’m missing you Await for you from the deepest of night There’s a wild cat meowing from garden’s end of midnight


Chiếc Ô Đi Lẻ • 164

Và ánh đèn sáng trắng của người nông dân đi bắt cóc Cái bao của người nông dân đã đầy Còn tôi chỉ vốc được trên tay mình bóng tối Một bụm không khí tối đen đầy nỗi nhớ Ước gì nó bay về bên em Ôm lấy thân thể nồng nàn của em Và hôn giùm tôi lên miền khát vọng Vọng em Tôi chỉ có một thực thể đêm đen quánh đặc như nỗi nhớ


165 • The Going Alone Umbrella

And the white nightlight from the farmer going to catch toads The bag of the farmer is already filled and I am able to scoop only a night shadow on my hands One handful of dark air fills my nostalgia Wishing that it flies back to you and Embraces your passionate body and kisses for me as aspiration Await for you I have only an entity of black night becoming condensed like my nostalgia


Chiếc Ô Đi Lẻ • 166

XIN HÃY BẮT ĐẦU

Xin bắt đầu xanh rồi hãy chết Như đám cỏ bên bờ sông kia Qua mùa lũ này, chúng sẽ chết ngập trong bùn Nhưng xin bắt đầu xanh một chút Để lũ dế có thể ăn sương, lũ kiến có thể núp dưới nắng trưa Và cả lũ rắn độc nữa Và cho bàn chân em dẫm lên cỏ non những bước chân mùa rạo rực Xin bắt đầu vàng rồi hãy chết Như những chòm hoa la ngà kia Xấu xí nở trong bão giông, trong mùa đông lạnh lẽo Không để làm gì, nhưng đó vẫn là sự rút ruột trên thế gian này


167 • The Going Alone Umbrella

PLEASE BEGIN

POUTPlease begin to be green and then die Like the grasses on that river bank Through this flood season, they will be drowned in the mud But please be green a bit So the crickets can eat dew, the ants can hide under the noon sun And even the poisonous snakes too And for your feet to trample on the young grasses the footsteps of the exciting season Please be yellow and then die Like those clusters of ivory flowers Ugly blooming in the thunderstorms, in the cold winter do nothing, but it is still a gutting in this world.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 168

Xin bắt đầu rộn ràng nhịp tim rồi hãy yêu Thân xác này cho anh, cho em Chúng ta đã bày tiệc hoan lạc trong đau buồn trong hoang hoải bởi vì chúng ta chưa biết bắt đầu từ đâu Xin bắt đầu im lặng và đừng nói nữa Chúng ta đã nói quá nhiều với những chiếc lưỡi nhiều màu sắc của con kỳ nhông Ngực em trắng nhói đau tiềm thức mẹ Mẹ không nhiều lời phải ko em?


169 • The Going Alone Umbrella

Please begin to be throbbing heart beats then fall in love With this body for me, for you We already present a joyous party in the suffering in an empty wilderness because we don’t know yet where to begin Please begin to be quiet and no longer speak We have already spoken too much with all the colorful tongues of the iguana Your white chest throbs pain [of] mother’s subconsciousness Mother [didn’t] have many words, right?


Chiếc Ô Đi Lẻ • 170

CÂY ĐA

Cây đa đầu làng rễ chui xuống trầm tích sử màu huyền thoại Tán cây che rộng mười phương ánh mắt Con cháu đi xa còn thấy bóng lá Cây đa nở hoa tháng chạp về làng Cây đa bến nước rễ xoè mùa yêu cầm tay hò hẹn Lá hôn nụ tình xuân biếc xanh xưa Soi gương mặt tình đong đưa lộc nhớ Tổ chim trên cây nhắc chuyến đò đầy


171 • The Going Alone Umbrella

BANYAN TREE

The roots of banyan tree at the head of village get down [to] sediment of the historical legends Its canopy covers widely the ten directions of eyesight The descendants far away still see the shade of the leave Banyan tree blooms the “December flowers coming back to the village” Banyan tree’s roots at riverbank spread the season of “love hands holding dating” The leaves kiss the old bud love of ancient green springs Looking to the mirror face of love, swings the hankering fortune Birds nest on the tree reminds one a full boat trip


Chiếc Ô Đi Lẻ • 172

Cây đa mái đình thình lình tiếng sấm Lý Thông chơi gian phủi cánh bên trời Bọ hung xanh xao chăm nàng công chúa Giấc mộng Thạch Sanh rơi xuống giếng trần Cây đa bến đò người đi kẻ ở Mấy khách nhớ đò chiều sớm sang ngang Rẽ sóng qua sông phân vân tiễn bạn Vọng tiếng kêu chiều cánh hạc vàng phai


173 • The Going Alone Umbrella

Banyan tree, communal house’s roof suddenly have thunder Lý Thông* cheats [in the game] and brushs off the wings, by the sun Pale maybug takes care of the princess The Thạch Sanh dream drops down to a earthy well Banyan tree at river’s bank, people come and go The guests recall the afternoon boat trip Turning waves through river hesitate saying goodbye to friends Echo the calling voice of a golden crane’s wings, [that] are fading. _______________ * Lý Thông is an antagonist in the Thach Sanh Ly Thong folk tale. He lies to take all the credi for Ly Thong’s heroic acts, especially when he took credit of Thach Sanh for saving the princess from a deep well.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 174

CUỘC ĐI SĂN

Cái đẹp như con thỏ ngọc chạy trốn vào rừng sâu Người ta đi săn nó mỗi người mỗi cách Có người đặt sẵn những cái bẫy Có người đuổi theo bằng con ngựa ô Có người đạp theo bằng chiếc xe đạp địa hình Có người đi xe máy yamaha Hay một chiếc mô tô sunfa Có kẻ đi ô tô hiệu camry Có người bay theo dùng cả khinh khí cầu Và tất nhiên, có người dùng cả máy bay quần đảo Cuộc đi săn thật hào hứng Tên đã bắn từ nỏ Đá đã bắn từ ná Đạn đã bắn từ súng ngắn súng dài


175 • The Going Alone Umbrella

HUNTING

Beauty is like a jade bunny, runs in circle into the deep woods People hunt it all differently Someone readily places the traps Someone chases with a black horse Someone rides along by the terrain bike Someone goes with the Yamaha motorcycle Or a Sunfa automobile There’s somebody driving the Camry brand There’s some flying away by the hot air baloom And of course, there’s someone even using the airplane The hunt is so exciting The arrows already shot from the bows Rocks already shot from slingshots Bullets are already shot from shot guns and long guns


Chiếc Ô Đi Lẻ • 176

Hơi cay đã xịt từ trên cao Và cả chất phát quang trơ trụi khu rừng để tìm thấy thỏ ngọc Tôi đi chân trần đâm đầy gai tìm thỏ Thấy nó nằm hấp hối trong khóm hoa chuối rừng Những cái chân chới với giữa thinh không


177 • The Going Alone Umbrella

The gas already sprayed from above And even the luminophore bares the forests to find the jade bunny I walk barefoot [and] ram, full of thorns to find the bunny [to] See it dying in the bush of wild banana flowers All the feet are lost in the middle of silence air



179 • The Going Alone Umbrella


Chiếc Ô Đi Lẻ • 180

GỐI

Em gối đầu lên tay tôi Một cú ngã đầu lên thân phận Làm hõm vào chỗ trống rỗng này và phình lên chỗ mệt nhoài kia Cái phình lên vỡ thành cơn mưa Trút em Ngập vào đại hồng thủy yêu Mưa thân phận rơi Những cô đơn luyênh loáng Chảy tan loãng giữa hai chân Rạn vỡ làn da nồng mộng mị Hút hắt rơi chớp nháy


181 • The Going Alone Umbrella

PILLOW

You lay your head on my arms The fall of a head on [human] status Make a hollow in this emptiness and bulge on the spot of exhaustion there The release breaks into rain Drain you Overflow to cataclysmic flood of love Rain of [human] status drops The loneliness spreads Melts [and] dilutes between two legs Cracking and breaking the skin deep with dreams Flickery smoking dropping in blinks


Chiếc Ô Đi Lẻ • 182

Em trở mình nghiêng trên gối Nhòe những giấc mơ ngày mai Lăn theo những sợi tóc Hát bài ca vô nghĩa Tất cả như không có điều gì xảy ra cả Kể từ khi em gối đầu lên tay tôi


183 • The Going Alone Umbrella

You turn to one side on the pillow Blur the dreams of tomorrow Roll along the hair strands Sing the meaningless song Everything as if nothing had happened From the time you lay your head on my arms


Chiếc Ô Đi Lẻ • 184

HÒANG HÔN

Căn phòng bắt đầu tối Ánh sáng bên ngoài lần lượt tháo chạy chập choạng cánh dơi như lũ tàn quân rủ nhau về cuối chân trời Bám vào chiếc sừng trâu gặm thêm chút cỏ ngọt cuối ngày Trên cánh đồng hoang hoải Bắt đầu mở lời càm ràm ếch nhái Chị ngắt cọng rau chiều Thả vào cơn rười rượi Đun bếp nhen những sợi khói lạc bầy Chuông chùa đổ hồi đầy mâm cô đơn


185 • The Going Alone Umbrella

SUNSET

The room begins to darken The lights from outside take turns to flee bat wings totter like the defeated soldiers who call for each other to the horizon Stick to the buffalo horn [and] chew a bit more of the day’s sweet grasses On the meadow of vast wilderness [and] Begin the open wording of frogs Older sister plucks the afternoon green veggies Drops to deadly sadness Starts the stove fire, kindles the lost smoke strands The temple bell rings to the full tray of loneliness


Chiếc Ô Đi Lẻ • 186

Đã ba mươi năm rồi như thế Chị một mình Nuốt nghẹn hoàng hôn


187 • The Going Alone Umbrella

It has been 30 years like that Older sister alone Swallows and chokes the sunset


Chiếc Ô Đi Lẻ • 188

HỒ TÂY

Mùa này Hồ Tây gió giật ven bờ 13m/giây Ngoài kia là 18m/giây làm mềm đuôi con cá trắm lớn Em ngồi sát vào tôi lùa tóc trong gió bay qua tôi Bầy sâm cầm trở về mang theo cái rét Trời trở lạnh rồi, lá sen đã tàn từ đêm qua trong câu thơ giọt lệ Những ngôi nhà vút lên thinh không một thách thức mới Chim thưa làm tổ, cà cuống đi đâu Nghe trong gió có mùi hoa đào Nhật Tân xưa Tiếng bước chân voi bên vườn Quảng Bá


189 • The Going Alone Umbrella

HỒ TÂY (WEST LAKE)

This season the Hồ Tây wind shocks the coast [at] 13 meters per second 18 meters per second softens the tail of the big carp You sit right next to me sliding hair in the passing wind through me The coot flock returns home bringing the cold It has started to be cold, the lotus leaf has already faded last night in the teary poetry line The houses soar to ether as new challenge The birds are making sparse nest, the belostomatids going somewhere Listening in the wind there’s Nhật Tân* the remembered scent of cherry flowers Sound of the elephant stepping along the Quảng Bá* garden


Chiếc Ô Đi Lẻ • 190

Tiếng giặt lụa khua thầm cung nữ Xóm Cung bên Phủ Tây Hồ Cả tiếng rao kim chỉ bị bùa trong xóm Cột Vôi Tiếng tằm ăn trong sợi dây gai ở phố Nghi Tàm Và con tép nhảy vô hồi dưới chân đê Yên Phụ Nâng chén rượu sen làng Thụy bên dốc Tam Đa Mồng hai tết nhớ đi bắt chạch trong chum và chèo thuyền cạn Lễ hội Hồ Khẩu chờ nhau nơi đền Vệ Quốc Em cùng ta mơ giấc Động Đình xưa Con trâu vàng Tiên Du chốn hồ sâu chiều nay lang thang trong phố Đưa cổ tích dạo chơi trên cái chuông Lục Đầu


191 • The Going Alone Umbrella

Sound of silks washing silently striking the Xóm Cung imperial maids along the Tây Hồ temple Even the street cries of needle and thread are like amulet in the Cột Vôi neighborhood The sounds of silkworm eating in the string of thorn vines from Nghi Tàm quarter And the baby shrimp jumps spontanousely at the base of Yên Phụ dike. Raise the cup of lotus wine [from] Thụy village by the Tam Đa slope Second day of the new year remembering to go and catch loach in the jar and sail boats in shallow Hồ Khẩu festival waits for each other at the Vệ Quốc temple You and I share a Động Đình dream of yesteryears The golden buffalo Tiên Du from a deep lake wanders in the city this afternoon Leading fairy stories strolls on the Lục Đầu bell


Chiếc Ô Đi Lẻ • 192

Cây bồ đề trong chùa Trấn Quốc Gõ hạt lần theo những bóng hoa Câu thơ Nguyễn Du “hoa tặng người mình sợ” Hóa gió bay qua mặt Tây Hồ Thôi em mùa đông đang đi qua bên thềm Ngũ Xã Chốc nữa ta đi ăn ốc nấu giả ba ba...


193 • The Going Alone Umbrella

The Bodhi tree in the Trấn Quốc temple Knocks seeds along with the flowers shade The Nguyễn Du poetry line “give flowers to people you’re afraid of” Blossoms to wind and flies by the Tây Hồ lake Saying goodbye my dear the winter is passing by the Ngũ Xã Steps In a bit we’ll go to eat shellfish pretending to be a turtle [dish] … *Nhat Tan is a famous district in Ha Noi spealizes in cherry flowers Quang Ba is a flowers garden in Ha Noi


Chiếc Ô Đi Lẻ • 194

LAM KINH

Chim đã bay về quây quần thành bầy trên thế núi xoắn ốc Chữ Vương trên đất Lam Kinh hóa thành chiếc nôi vàng Hội thề Lũng Nhai vọng tiếng mười tám vị anh hào sáu trăm năm trước (*) Thanh gươm thần đòi lại giang sơn Lá rau tạc nên hình quốc ấn Cô gái giả hồ li đánh lạc hướng thù Chiến bào Lê Lai quên mình cháy hồi sinh trong lửa Sự tích hóa thân vào huyết mạch sử xanh


195 • The Going Alone Umbrella

LAM KINH

The birds have already gathered together as a flock on the mountain side spiral The word “Vương” on the Lam Kinh land is transformed to a golden cradle Lũng Nhai vow assembly echoes the voices of eighteen heroes of 600 years ago. The holy sword claims the country again The greenery leaf makes the layout of national seal The girl pretends to be gumiho*, distracts the enemies The war coat of Lê Lai, forgetting himself and getting his war coat burned, was reborn in the fire The story transforms into the blood line of history


Chiếc Ô Đi Lẻ • 196

Chảy trong cỏ phế tích một vương triều lừng lẫy Chữ Vì Dân trong tim Ức Trai còn đau đáu Vĩnh Lăng bia Con mắt nhân tình nhìn ra sông Chu, rừng Phú Lâm, núi Chúa Qua bao khói sương, hẹn gặp Tinh Loan Kiều Cỏ rợn ngợp một màu xanh Lam Kinh Xin về cùng em múa Xéc bùa, múa đèn Đông Anh, hát trò Xuân Phả Cùng em nghiêng một hội thề thuỷ chung với cỏ Không có kiệu vàng xin rước em bằng ánh mắt Trên lưng đá rùa neo những trầm tích vỏ sò sống động nghìn năm

(*)Hội thề Lũng Nhai: Một đêm năm Bính Thân (1416) 18 người con của đất nước hừng hực ý chí đứng trước đống lửa ngùn ngụt cháy, thề đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi.


197 • The Going Alone Umbrella

Run in the grasses the ruins of a once celeberated dynasty The letter “For the People” in the heart of Ức Trai is still aching about Vĩnh Lăng tombstone The lover’s eyes looking out to Chu river, Phú Lâm forest, Chúa mountain Through the smokey dew, promise dating to Tinh Loan Kiều Young grasses overflow in the color of Lam King green I’d like to come back with you to dance Xéc bùa, Đông Anh lantern ballet, sing Xuân Phả We are leaning together in a rally of royal swearing with grasses With no golden palanquin asking to carry you by eyesight On the back of a stone-turtle anchor down [to] the sediments of seashells living [through] thousands of years. * Gumiho is a nine-tail fox with magic in legends


Chiếc Ô Đi Lẻ • 198

NẰM

Chiếc áo xanh, cái quần bạc và đôi giày đỏ Em nằm trên cỏ Nhắm mắt lại giữa thế giới Như thể một cú nằm cho có thể bỏ lại phía sau, phía bên ngoài những ràng buộc Bây giờ là một chuyến bay vào những không gian khác Qua những cánh cửa khác Cứ bay đi với bình nhiên liệu chứa đầy cảm xúc Và mặc kệ những rào chắn ước lệ Sẽ bay đến tận cùng Sau cú nhắm mắt Em đã quyết định rồi Em đã nằm và đã nghĩ như thế Trong đêm


199 • The Going Alone Umbrella

LYING

Green shirt, silver pants, and red shoes You lay on grass Closing your eyes in the middle of the world As if the lying can leave all behind, outside of the the bindings Now it’s a flight to another space Through another door Just fly with a fuel tank full of feelings And despite the conventional barriers filled with tears Fly to the end After closing your eyes You already decide You already lay and already thought like that In the night



201 • The Going Alone Umbrella

Dáng Tranh Đinh Cường


Chiếc Ô Đi Lẻ • 202

ÔNG LÃO NÔNG PHỐ

Như thể bị bắt buộc phải sống Một thứ cuộc sống vừa ngon vừa dễ chán Như miếng da bò trong siêu thị đêm qua Những đứa con phố thị xách về cho ông Nếm mùi công nghiệp sáng lóa Ông thèm màu xanh cong cong của lúa non Rợp tràn phóng khoáng mi mắt Xanh của hàng chè tàu hay những cây nhãn góc vườn Hay của tàu lá chuối toe toét vẫn cứ xanh Duỗi rộng màu yên tĩnh Như đám cỏ mềm nằm yên mặc cú đạp chân của con bê con Mọc vời vợi trên nấm mộ của người vợ vừa qua đời mười năm trước... Nhưng tất cả đã ở phía sau


203 • The Going Alone Umbrella

THE OLD FARMER MAN IN THE CITY

As if [he’s] made to live A life which is good and easily bored Like the cow skin in the supermarket last night [that]The city kids brought home for him Taste the smell of shining industrial He’s craving the green of the young curvy rice plant Shake is liberating the eyelids Green of the Chinese tea or the logan trees row in the garden corner Or the banana stem still grinning green Stretched widely the peaceful color Like the soft grasses lying still regardless of the foot step of the young cow Growing on the grave of the wife who’s left life 10 years ago But everything is already behind


Chiếc Ô Đi Lẻ • 204

Ông ngước lên và nhìn sang phải sang trái hay cúi xuống đất Ti vi báo tin giá đất không đổi Nhưng vàng đã lên cao đến con số hai mươi tư Và chỉ số Index rớt thê thảm như con diều gặp trận mưa Rơi nhàu nát cả buổi chiều Khiến niềm hy vọng bật máu Những cái đó không phải là cuộc sống của ông Hình như đã có một cái chăn xám xịt Trải ra và đắp lên ông Từ những khối bê tông nóng bức Và gắn điều hoà nhiệt độ Hình như đã có một cú dối lừa khủng khiếp Đang diễn ra, đua nhau diễn ra, ganh ghét và giẫm đạp lên nhau để diễn ra Để đạt chuẩn văn minh một vợ, hai con, ba tầng, bốn bánh Ti vi nói những quả trứng gà được ngâm thuốc để bán giá hời Trong lúc thành phố không có tiếng gà


205 • The Going Alone Umbrella

He looks up and looks on the right, the left or down to the earth T.V. announces that real estate prices don’t change But gold has already reached 24 And the Index number drops terribly like a kite meeting rain Drop [and] crumble the whole afternoon Making hope bleed All of that is not his life As if there’s a gray comforter Spread out and cover him From the concrete block [which is] hot And mounts the car air conditioning As if there’s a big, terrible deception Stepping on each other to make it happen To perfect the civilized standard one wife, 2 kids, 3 levels, 4 wheels TV says the chicken eggs are being pickled with herbs to be sold at bargain prices When in the city there is no chicken noise


Chiếc Ô Đi Lẻ • 206

Những con gà trong game chạy quanh và kêu lên như tiếng vẹt Hút vào đó mắt, mũi, tai, tay chân của thằng bé đích tôn Ông bắt đầu thấy mình rơi Từ tầng ba chuẩn mực Hình như thế này còn dễ chịu hơn là ngồi trong chuẩn bốn bánh và bị lao thẳng vào cột điện bởi thằng con có hiếu chiều nào cũng say khướt Như thế cũng hay hơn, như thế này thì không có sự lừa dối nào nữa Và ông lão nông mỉm cười Giờ ông đã có thể nói chuyện với chiếc lá non tưởng tượng


207 • The Going Alone Umbrella

The chickens in the game run around and call up like the parrot Glue to it eyes, nose, hands, legs of the oldest grandson He starts to feel he’s falling From the perfect third level It seems like this way is more at ease than sitting on the perfect four wheels and being shot straight to the electric pole by the filial son [who’s] drunk every afternoon Like this is still better, like this there’s no deception anymore And the farmer man smiles Now he can talk to the young leaf of imagination


Chiếc Ô Đi Lẻ • 208

TRĂNG NGỌAI DIÊN

Tôi là quả trứng vịt lộn trước mặt em Cây cải bay về trời rồi Ngọn rau răm cay đắng đã chết Hạt tiêu tháng ba chưa chín Hạt muối mùa đông nước biển không kết Tôi bơ vơ trước mặt em trong một cái đĩa trắng Có thể cái đĩa sẽ trong như pha lê Cũng vậy thôi phải không em? Tôi biết em sẽ không rời bàn ăn có món tôi để đi ra chợ Em sẽ ngồi như thế Và nhìn tôi trong vỏ bọc một quả trứng Trên cái đĩa pha lê trắng


209 • The Going Alone Umbrella

THE MARGINAL MOON

I’m the fertilized duck egg in front of you The mustard plant flies to the sky already The laksa leaves had died bitterly The black pepper of March is not ripe yet The salt of the winter sea is not joining I’m desolate infront of you [I’m] on a white plate Perhaps the plate will be clear as crystal So right babe? I know you will not leave the dining table with my dish of food to go the market You will sit like that And look at me in the shells that holds the eggs On the white crystal plate


Chiếc Ô Đi Lẻ • 210

Để thấy một vầng trăng viên mãn Trắng Trong suốt Tĩnh vật Như tình yêu của tôi...


211 • The Going Alone Umbrella

To see a full happy moon White Clear Still-life Like my love for you


Chiếc Ô Đi Lẻ • 212

VƯỜN CHUỐI

Tôi rủ xuống như tàu lá chuối tiêu mùa thu vàng rách loe toe và nổi xạm những đốm đen phất phơ trước gió mùa xuân đã đi qua mùa hè đã đi qua với những róc rách nhựa sống được dồn vào buồng chuối với những trái quả của hy vọng những căng mọng cuộc tình những tràn chứa của nỗi đau Những con chíp mào đã bắt đầu kêu Lễ hội chuối chín tới với mùi thơm rải trên hàng rào dâm bụt Tôi rách rưới đứng nhìn lũ chim


213 • The Going Alone Umbrella

BANANA GARDEN

I droop like a stem of banana leaf in Autumn yellow, flaring torn, and blackened with specks wavering in the wind spring already passing summer already passing with the babbling of life’s sap and pushed to the bunch of banana with the fruits of hope the excessives of love the over flowing of pain the robins already starting to cheep the riping banana festival is coming with the aroma sprays on the hibiscus fence


Chiếc Ô Đi Lẻ • 214

đậu trên tàu lá tôi, ăn những quả chuối của tôi đang nẫu ra trong bóng chiều thằng bù nhìn góc vườn cũng đứng yên nhìn tôi và lũ chim cuộc chơi này nó không dự phần nó đui và nó điếc Tôi đã mong chờ bàn tay em mà em... Không kịp nữa rồi 6/2011


215 • The Going Alone Umbrella

I’m ragged to stand to look at the birds Standing on my banana leaf, eating my banana Overripe in the evening shadow The puppeteer at the garden corner is still standing and looking at me and the birds In this game he’s not participating He’s blind and deaf I have been waiting for your hand But you … It’s too late now.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 216

MẤT MÙA

Những ruộng bắp bị rối loạn tiền đình những cây cờ rủ gục Những cây lúa mắc nghẹn đòng Những ruộng lúa chuột cắn nham nhở xơ xác trắng thân lúa phơi ra như những khúc xương gãy vụn giữa bãi tha ma Những ruộng khoai vàng ệch như tàu lá chuối bị sùng chui vào tim gan phèo phổi Mất mùa Được mùa cau đau mùa lúa Cái láng mẩy tàu cau không còn chút giá trị đã không cứu được niềm vui đậu đại học của em gái tôi Con trâu cuối cùng trong làng ứa nước mắt vì ngày mai phải bước lên đoạn đầu đài kiếm phần sính lễ học phí


217 • The Going Alone Umbrella

LOST SEASON

The corn fields have a vestibule disorder the drooping down flags The rice plants choke the in ear The ricefields [that] the motley bitten mice reflect whitte raggedness the rice hull drying out like crumbling bones in the middle of the graveyard The sweet potato fields yellowed like a stem of banana leaf [which] a worm crawling to the organs – heart, liver, and lung – Lost the crop season A good areca-nut season, a bad rice* The shiny stem of areca no longer has value, no longer can save the joy of my younger sister’s college acceptance The village’s last buffalo sheds tears because tomorrow [it] must head on to the scaffold


Chiếc Ô Đi Lẻ • 218

Trả Trả Trả Tra Trả Trả Trả Trả

ơn ơn ơn ơn ơn ơn ơn ơn

cho chủ cái cọc cái sợi dây đã quên cái cày lâu lắm rồi cơn gió thổi bờ tre trưa nằm nhai lại cọng cỏ mùa thu ngọt ngào hương đồng nhúm rơm cuối cùng được đốt lên xua bầy muỗi cơn lũ tháng bảy nước nhảy lên bờ cái bàu sình chiều chiều nẹp giấc mộng bùn ao

Mất mùa Làng quê im tiếng Chỉ còn con trâu trả ơn


219 • The Going Alone Umbrella

for the tuition bethoral gift Repay the owner Repay the pile, the rope that have forgotten the plow long ago Repay the wind blowing the noon bamboo hedge that [it] lays and chews again Repay the grasses Repay the sweet scent of autumn field Repay the last handful of straw burning to keep away the mosquitos Repay the July flood – water jumps on shore Repay the sludge gourd every afternoon bracing the dream of mud ponds Lost the crop season The village silent Only the buffalo is repaying * a Vietnamese old saying



221 • The Going Alone Umbrella

Cấy Lúa Tranh Nguyễn Đại Giang


Chiếc Ô Đi Lẻ • 222

NGỌN GIÓ

Vào một ngày không hẹn trước Có ngọn gió thiêng đi qua cánh đồng cỏ khô khát cháy Những cọng cỏ thức dậy Và bắt đầu cuộc vũ hội của cỏ Tôi vùi mặt vào cỏ và thấy tôi trong đó Và gió ru tôi về những miền tôi hằng ước vọng Phóng khoáng và cao vợi như những khoảng không đầy những tinh cầu Chảy đi dải thiên hà xa xôi kia ơi! Vào một ngày không hẹn trước Gió thổi qua mặt sông im lìm Và dòng sông gợn sóng Tôi bắt đầu thả con thuyền giấy tuổi thơ tôi Với một cánh buồm nâu căng nỗi nhớ Gió đưa thuyền về những bến bờ xa lắc


223 • The Going Alone Umbrella

THE WIND

In a day without planning a sacred wind crosses a dry grass field thirsty and burning the grass wakes up and begin a dancing festival of grasses I bury my face in the grass and see myself in there And wind lulls me to the region of my aspiration Liberal and sky high like the space of planets Melting the far-away galaxy! In a day without planning The wind blows across the silent river And the river’s flow crests in waves I begin to drop the paper boat of my childhood innocence With a brown sail stretching the longing The wind brings the boat to the far-away shores


Chiếc Ô Đi Lẻ • 224

Hãy ra biển đi thuyền ơi! Dẫu biển rộng và đầy bão tố Khi rơi từ chân không Tôi đã ôm lấy gió như chạm vào một điệp khúc Câm lặng và bí ẩn Và từ đó tôi đầy gió Hãy bay đi gió ơi! Dẫu bay vào hư vô Có một lúc nào em không tin tôi Em có thể hỏi gió Kể cả khi gió lặng câm Có thể gió đã nói rằng Có một chiếc lá rơi về cội Nằm lên cỏ Nằm trong gió Và trong cả những nghi ngờ ...


225 • The Going Alone Umbrella

Boat, go to the sea! Although the sea is big and full with storms When dropping from emtiness I hug the wind like I’m touching a refrain Of silence and mystery And from then I’m full of wind Dear wind, fly away! Although flying to nothing When there’s a time you don’t believe me You can ask the wind Even when the wind is silent Maybe the wind has already said A leaf already fallen to its roots Lying on the grass Lying in wind And even in doubts ...


Chiếc Ô Đi Lẻ • 226

NHỮNG CON ĐOM ĐÓM

Gõ vào tấm cửa kính tủ sách ẩm mục Bằng những đốm sáng hấp hối Những con đom đóm cầu xin được về quê cũ Thời gian của ngược chiều xưa Khi cậu bé mang giấc mơ trạng nguyên nhốt ánh sáng vào vỏ trứng Để lần giở trang sách Lần giở những chuẩn mực làm người Minh triết ngay từ hơi thở Những con đom đóm cầu xin được trở về nơi chốn của chúng Lập lòe theo dấu ma trơi Rờn rợn trên tóc bay bờ sông Hay trong những nghĩa trang cỏ lau mênh mông Trải mình vào đêm Bằng một thứ mực huyễn hoặc Viết nên khúc du ca gió đen


227 • The Going Alone Umbrella

THE FIRE-FLIES

Knock on the glass door of the wet and rotten book cabinet By the moribund light spots The fire-flies begging to return to [their] home village The time of the opposite way of yesteryears When the boy caries the highest-doctorate dream [and] confines the light into egg shells To turn each page of the book To turn the standard of being a man Pure wisdom from the breath The fire-flies beg to return to their residence Flash along with the prints of ghost Scared on flying hair along the river banks Or in the cemetery [full] of vast reeds Spread themselves into the night With a deluding ink Writing the gypsy song of the black wind


Chiếc Ô Đi Lẻ • 228

Những con đom đóm muốn về đậu trên những chiếc lá tre Lập lòe lay tiếng chó sủa trăng Phập phù chớp trắng Như những ánh chớp phận người Cố mang hình hài đi qua cõi sống Bằng một đôi chân tắt đỏ Và cái bụng rơm rớm trắng Khi những con đường nhựa mở thẳng vào tim Xé làng ra làm đôi Cũ và mới Những con đom đóm không còn chỗ ngủ Chúng muốn tìm về ngụ cư trong từ điển Vĩnh viễn Có lẽ chúng cũng sẽ vĩnh viễn ở đó Với những câu chuyện cũ kỹ của làng Ươm mùi phù sa cơn lũ đi qua Trầm tích những sợi tóc bạc Của người vừa đi mãi hôm qua Theo lối cày của bước chân trâu Khuất dần vào quên lãng 24.10.2009


229 • The Going Alone Umbrella

The fire-flies want to land on the bamboo leaves Brightly evoking a dog’s cry to the moon Half conjure the white blaze Like the flashing light of human condition Determine to bring the body across the realms of life With a pair of legs flashing red And the stomach is teary white When the asphalt road widens straight to the heart Tearing the village apart Old and new The fire-flies no longer have a place to sleep They want to return and reside in the dictionary Forever And perhaps they will live there forever With the old stories of the village Nursing the alluvium smell which the flood left behind Aging the gray hairs Of the person who just left yesterday forever Along the plows of the buffalo foot steps Fading into the forgotten


Chiếc Ô Đi Lẻ • 230

NHỮNG MÙA CAU LÃNG QUÊN

Những hàng cau gieo núm cổ tích đỏ hoe huyền thoại bã trầu cay và sinh sôi những nghĩa tình đôi lứa nắng xiên khoai qua thôn Vỹ họ Hàn Những mùa thơ ấu đi qua những mệ già nhuộm răng nhai trầu dần khuất bóng đem cả màu đen cổ tích đi theo. những vườn xanh thưa dần bóng lá cùng lúc tiếng chim trong vườn chết đi những thân cau chen cứng ăng ten trời


231 • The Going Alone Umbrella

THE FORGOTTEN ARECA SEASON

The rows of areca create legends, Redden the fairy tale of the spicy betel residue And the multitude of couples’ love and committement Sunshine slops like the slices of potatos through the Vy village of the Han family The season of childhood passing by the old women [with] colored teeth chewing betel slowly fade and bring the black color of legends with them. the green gardens slowly become sparse shades of leaves at the same time the bird’s singing in the garden dies the bodies of areca elbow tightly with the high-sky antena


Chiếc Ô Đi Lẻ • 232

Vẫn còn đó những hàng cau chới với sống như vớt vát kỷ niệm và tháng ba hoa cau nở ngọt ngào tỏa làn hương như một lời trăn trối


233 • The Going Alone Umbrella

There are rows of areca reaching tall live to salvage the memories and the March areca flower blooming sweetly exudes the scent waves as the last words


Chiếc Ô Đi Lẻ • 234

NHỮNG NGƯỜI NGỒI TRONG CHUM

Bóc lớp bụi hai ngàn năm trăm năm trên cánh đồng chum La Chữ Những người trong chum đang lặng yên Ngồi như những dáng đời cất giữ im lặng Hiền hòa suy nghĩ cổ xưa Cả thế gian không lớn hơn bầu vú mẹ Họ đã mang trên vai dao và liềm Những cuộc tình dốc đá mã não, khuyên tai và hạt chuỗi Những đĩa đèn đi trong đêm tối Những quai nồi nhớ tiếng cơm sôi Những cái chum hình trụ, hình trứng, hình cầu Chụm vào nhau tam giác, tứ giác, ngũ giác


235 • The Going Alone Umbrella

THE PEOPLE WHO SIT IN JARS

Remove the dust layer of two thousand five hundered years on La Chu, the field of jars The people in jars are silent Sit in the manner of life keeping hush Kind [with] ancient thoughts The whole world it not bigger than a mother’s breast They already carry knife and sickle on shoulders The love story [of] a cliff of agate earrings and pearl strands The light disc walks in dark nights The pot handle misses the boiling rice The cylindrical shaped, egg shaped, globe shaped jars Are brought together [and make] triangles, quadrilaterals, pentagons


Chiếc Ô Đi Lẻ • 236

Những cái chum cô đơn Khuất một mình trong đất Ngồi ôm chân lý độc hành Mấy ngàn năm Và bây giờ họ vẫn ngồi Đàn đúm và cô độc Bất động trong những đốt xương Chợt ánh lên trong hoàng hôn đang bị bóc trần ra khỏi mặt đất


237 • The Going Alone Umbrella

The lonely jars Hide by themself underground Sit [and] hug the lonely philosophy Of several thousand years And they still sit now Both gang up and alone Fixed in the vertebrae Abruptly lighten up in sunset [which] is being peeled naked off the earth’s surface.



239 • The Going Alone Umbrella

The Women With Lotus Tranh Nguyễn Đại Giang


Chiếc Ô Đi Lẻ • 240

NHỮNG NỐT SẦN TRÊN CÂY

những nốt sần trên cây muối đường Lê Lợi những con mắt đa cảm ủ khí hậu Huế đọng lại những khối u thầm nhắc trời hành cơn lụt mỗi năm bão năm Thìn 1964 Đại hồng thủy 1999... những nỗi đau quặn phù sa dưới gốc cây xù xì những con mắt ủ nắng mưa và sương gió ủ những mùa nước rơi thấm tận hồn những mùa nắng nám vỏ thanh trà xứ Nguyệt những mùa sương ướt gánh hàng rong đêm


241 • The Going Alone Umbrella

THE NODULES ON THE TREE

The nodules on sumac tree on Le Loi street The sentimental eyes compose the Hue climate Deposit to a reminding tumor God perturbs the flood each year The storm of the 1964 dragon year The tsunami of 1999 the pain writhes in the alluvium under the shaggy tree the eyes brew sunny, rain, dew and wind brew the season of water dropping soaking through to the soul the seasons of sunburnning the skin of light tea of Nguyet place the seasons of dew-wetting the night street vendors


Chiếc Ô Đi Lẻ • 242

những mùa gió cuốn bạt ngàn bãi bắp Cồn Hến những mùa ơi... những nốt sần ủ lửa cháy nâu mắt nâu chiều sông Hương nhiều khi nỗi nhớ vần vũ về ngóng những nốt sần nhớ Huế chan mưa nắng mù khơi tháng 12/2010


243 • The Going Alone Umbrella

the seasons of wind folding immensely the Con Hen corn field oh seaons the nodules brew fire burn the hazel eyes [in] a Perfume River afternoon often nostalgia threatened and returned to wait for the nodules missing Hue’s rain and sunshine in misty distant


Chiếc Ô Đi Lẻ • 244

THỜI GIAN PHẦN MẢNH TRONG THƠ HỒ ĐĂNGTHANH NGỌC _____________________ Khế Iêm

Gửi những nhà thơ tân hình thức

Nh

ững bài thơ, với những ý tưởng và câu chữ liền lạc cuốn đi như một dòng sông, đối với tôi là một ngạc nhiên. Vì không giống như thơ tự do phương Tây, phủ nhận truyền thống và tính truyện đồng thời phần mảnh ý tưởng và ngôn ngữ, thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc ngược hẳn, mang âm hưởng của cách đọc thơ không vần tiếng Anh, một thể lọai thơ truyền thống. Điều này thúc đẩy tôi tìm lại những bài thơ không vần của William Wordswoth, Robert Frost … để nghe những âm thanh đều đặn, iambic (không nhấn, nhấn) của dòng thơ thể luật này. Mặc dù thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc là thơ tự do, nhưng nếu chúng ta am hiểu rành rẽ mọi thể luật thơ sẽ nhận ra, thực tế có nhiều yếu tố thơ được sử dụng qua lại giữa nhiều thể lọai, như thơ tự do tiếng Anh, nơi những nhà thơ đầu thế kỷ 20, ở nhiều đọan thơ trong bài thơ còn giữ lại những âm thanh của thể luật iambic. Chỉ có điều, thơ tiếng Anh thuộc ngôn ngữ trọng âm, còn thơ Việt thuộc thanh điệu. Sự khác biệt về âm vực làm chúng ta khó có thể nhận ra sự


245 • The Going Alone Umbrella

FRACTAL TIME IN HỒ ĐĂNG THANH NGỌC POETRY ____________________________ Khế Iêm

To New Formalism poets

P

oems, with thoughts and words are seamlessly, sweep away as if the river is flowing - that to me is a surprise. Unlike the free verse in the West, denying the tradition and story-telling elements yet also fragmenting thoughts and words, Hồ Đăng Thanh Ngọc poetry is the opposite, resonanting the method of reading English blank-verse poetry, a traditional form of poetry. This pushes me to find the blank verse poems of William Wordsworth, Robert Frost and others to hear the constant sound, iambic (unstress and stress) of the lines in this poetry form. Even though Hồ Đăng Thanh Ngọc poetry is free verse, if you understand the meter forms well, you’d recognize that, in reality, there are many poetry elements being used among different poetry forms, like English free verse, from the poets at the beginning 20th century, where many poetry lines still holding the sounds of the iambic form. However, English poetry is a strong-stress language, while Vietnamese poetry is tonal. The difference in pitch makes it hard for us recognize


Chiếc Ô Đi Lẻ • 246

tương đồng của hai ngôn ngữ. Một lần tình cờ, tôi được nghe trên Youtube, một bài hát Trung hoa, với những âm thanh đều đều, vô cùng lôi cuốn, tôi mới nhận ra cái hay của lọai âm thanh này, dù rằng không hiểu ý nghĩa của lời ca. Trong thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc, mỗi bài thơ là một hồi ức, mỗi hồi ức là một câu chuyện, mỗi câu chuyện, qua hình ảnh và ý tưởng, mang tính hồi nhớ. Và như thế thơ liên quan tới thời gian. Nhưng thời gian là một khái niệm mù mờ. Chẳng hạn thời gian tâm lý, thời gian thuở ấu thơ lâu hơn tuổi trưởng thành và người lớn. Theo những nhà thần kinh học, trí óc chúng ta không bao giờ nhớ chính xác một biến cố hai lần, mỗi biến cố trong sự nhớ lại là cả hai biến cố mới và biến cố đã nhớ từ trước. Mỗi sự hồi nhớ nối kết với tòan thể cấu trúc của ý thức chúng ta, và “mỗi biến cố, ngay cả mỗi khỏanh khắc là một thế giới vi mô phần mảnh trong tòan thể cuộc đời.” 1 Trong lúc chúng ta lắng nghe một nốt nhạc thì nốt nhạc đã được đánh xong rồi. Có nghĩa là, khi người nhạc sĩ đánh lên, chúng ta nghe nó bây giờ, nhưng nếu một nốt khác được tiếp tục, nó là một cái Bây giờ mới, và cái Bây giờ trước đó đã rơi vào quá khứ. Mỗi âm thanh tự nó có sự kéo dài thời gian.2 Tập thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc được sắp xếp không theo thứ tự thời gian, nhưng khi đọc xong chúng ta hình dung ra được cái tòan nhất, và mỗi bài thơ là một ngã rẽ, như thể chúng ta nghe một bản nhạc quen thuộc từ lâu, chỉ vài nốt đầu tiên, tức thì tòan thể bản nhạc hiện ra. Những những cảm xúc, những cảnh đời từ mỗi bài thơ, gợi tới cái tòan cảnh của một đời người, cứ như thế, những bài thơ xoắn lại với nhau, không thể tách lìa.


247 • The Going Alone Umbrella

the similarity of the two languages. I once stumbled upon a Chinese song on Youtube, with a steady sound so appealing. Then I realized the remarkable sound, even though I didn’t understand the meaning of the lyrics. Hồ Đăng Thanh Ngọc poetry, each poem is a reminisce; each reminisce is a story; each story through images and ideas carries remembrance. And just like that, poetry relates to time. But time is a vague concept. In terms of psychology, childhood time is (or seems) longer than teenager time and adult time. According to neuro-physiologists, our brain never remembers exactly the same incident twice; each event in our memory is dual - a new event and re- remembered event. Each remembrance has been united with the whole structure of our conscience, and “each event, or even each moment, in our life is a fractal microcosm of our entire life” 1 While we’re listening to a musical note, it is already being played. That means, when the musician playing the note, “it begins to sound, I hear it as now; but while it continues to sound it has an ever new now, and the now that immediately precedes it changes into a past. Each tone has a temporal extension itself.” 2 Hồ Đăng Thanh Ngọc poetry collection is not organized by chronological order, but often reading it, you’ll imagine the entirety, and each poem turns, as if we’re listening to a familiar song from long ago, only from the first few notes and the whole song is instantly presented. The feelings and the walks of life from each poem touch the whole scene of a human life and, just like that, the poems intertwine with each other and are no longer separated.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 248

Theo nhà hiện tượng học Đức, Edmund Husserl, ý thức về hiện tại diễn đạt những biến cố tương lai bằng cách tham dự vào chúng và những biến cố quá khứ bằng cách phản ánh chúng, theo cách biến đổi, trong cái Bây giờ (Now).3 Có những bài thơ “Lam Kinh”, “Biệt Cung” đẩy người đọc sống hòan tòan trong khung cảnh quá khứ, có những bài thơ về hiện tại “Vỉa Hè”, “Gánh Cơm Hến Đi Trong Sương” và bài thơ về một tương lai vô định, bài “Sắp Đặt”, Tôi đem nỗi buồn hình chữ nhật thả vào hình lục giác / Tôi có nỗi buồn hình chữ nhật và những nỗi buồn hình tam giác / Tôi đem nỗi buồn hình lục giác thả vào hình tròn / Tôi có nỗi buồn hình lục giác và những nỗi buồn cong. Nhưng dù là quá khứ, hiện tại hay tương lai, thì cũng chỉ là những biến cố hồi nhớ được lồng vào nhau trong cái tổng thể được gọi là “Bây giờ”. Husserl căn cứ trên kiến thức thực nghiệm về sự ghi nhớ (retention) nốt nhạc, ý thức hiện tại (consciousness of the present) và sự tham dự vào nốt kế tiếp (protention), phát sinh một mẫu thời gian được lồng vào bên trong cái Bây giờ. Mỗi thời gian nhận thức được nhận thức như một quá khứ chấm dứt trong hiện tại. Theo quan điểm của nhà triết học Pháp, Henri Bergson, “… hiện tại ám chỉ quá khứ và là, cùng lúc, không thể phân chia.” 4 Như vậy, thời gian trong thơ phải là thứ thời gian phần mảnh (fratal time) kết hợp với cách kể phi tuyến tính để tạo thành


249 • The Going Alone Umbrella

The German phenomenologist Edmund Husserl recognizes that the present expresses future events by anticipating them and past events by reflecting on them, in a modified way, in the Now. 3 There are poems “Lam King” and “Isolation Palace” in which readers live fully in the setting of the past; poems of the present, “The SideWalk, Walking with Mussel-Rice Burden in the Dew”, and poems of the unknown future, “Placement”: I take the rectangle sadness, drop into the hexagon / I have a rectangle sadness and the hexagon sadness / I take the hexagon sadness, drop into the circle / I have a hexagon sadness and curvy sadness. Regardless of past, present or future, they are only events of remembrance nested with each other in the overall called “Now.” Husserl bases his theory on the empirical knowledge about a musical note’s retention, on consciousness of the present and on the participation of protention. He then creates a sample of time, which is nested within the Now. Every perceived time is perceived as the past ends in the present. According to French philosopher, Henri Bergson, “a present which implies the past and is, at the same time, indivisible” 4 Just like that, time in poetry is a type of fractal time combining with nonlinear narrative to create an attraction to pull readers. The mathematician Benoir Madelbrot discovered Fractal Geometry, the main element of which is Self-Similarity. In poetry, Self-Similarity is a style of expressing feelings and ideas, images, and the words associated with another poems. The


Chiếc Ô Đi Lẻ • 250

những hấp lực mới lôi kéo ngừơi đọc. Nhà tóan học Benoit Maldelbrot khám phá ra Hình học Fractal (Fractal Geometry), yếu tố chính là sự Tự Tương-Đồng (Self-Similarity). Trong thơ, yếu tố Tự-Tương-Đồng là phong cách diễn đạt, cảm xúc và ý tưởng, hình ảnh, những câu chữ làm liên tưởng tới những bài thơ khác. Những âm vang của đền đài hoang vắng đâu đây gắn liền với những bài thơ “Văn Miếu”, “Biệt Cung”, Ngôi đền sống động từ những tấm bia biết im lặng / Chỉ để những cái tên lên tiếng Những bài thơ “Hồ Tây”, “Lam King” ghi lại chứng tích và nhân vật lịch sử. Những ý tưởng trong bài “Lộn Ngược”, Hai bàn chân để suy nghĩ / Hai đầu gối để hôn người yêu nhắc tới những câu thơ mang tính kỷ hà trong bài thơ “Những Người Ngồi Trong Chum”, Những cái chum hình trụ, hình trứng, hình cầu / Chụm vào nhau tam giác, tứ giác, ngũ giác và trong bài thơ “Cây Gậy”, và tri thức khởi nguồn từ thân phận của bản coppy, không bản gốc


251 • The Going Alone Umbrella

echoes of the deserted temples around here are associated with such poems as “Isolation Palace” and “Temple of Literature”: The temple lives from the tablets that know only silence / Only to leave the names to speak up. The poems “West Lake” and “Lam King” record remnants and historical characters. The ideas in “Upside down”, Two feet to think / Two knees to kiss lover remind the poetry lines with the geometry in the poem “The people who sits in jars”, The cylindrical shape, egg shape, globe shape jars / Tuft together [and make] triangle, quadrilateral, pentagon The poem “The staffs”, and knowledge starts from the condition of the copy version, not the original one. The poem “Village”,


Chiếc Ô Đi Lẻ • 252

Bài thơ “Làng”, Ngọn lửa gas xanh đang cháy trong bếp lò / Nhưng chúng ta đã để biến mất trắng trợn cái màu xanh luỹ tre / Khiến những con đường không bóng cây và dòng sông đang ô nhiễm Cùng một lúc làm chúng ta nhớ tới bài “Cây Đa”, “Đi Qua Cánh Rừng”, hồi tưởng về một thời thơ ấu, và nhìn thấy những hệ lụy trong sự đổi thay trong bài “Ông Lão Nông Phố”. Bài thơ “Gánh Cơm Hến Đi Trong Sương” làm liên tưởng tới bài “Vỉa Hè”, nói về sinh họat đời sống trong thành phố. Nếu thời gian fractal là sự lặp đi lặp lại theo những mẫu mã (pattern) mang tính chu kỳ, có nhanh, có chậm và có lúc quay trở lại thì trong thơ, thời gian fractal có tính tương đối, chứ không hẳn như, nếu phóng đại một hình ảnh, nó sẽ giống y hình ảnh chưa phóng đại. Truyện kể rằng, có một nhà sư đi kiếm củi trong rừng. Trên đường về, ông dừng lại trong giây lâu, lắng nghe tiếng chim hót thanh thót, líu lo. Khi về tới, ông phát hiện ra ngôi chùa đã hòan tòan đổi khác, những nhà sư chết hết, và một thế kỷ đã trôi qua. Khi hòan tòan nhập vào một khỏanh khắc đơn lẻ của thời gian, nhà sư đã chạm tới cõi vĩnh hằng. Vâng, chúng ta đang sống theo chiều kích mới của thời gian phần mảnh, và với những khái niệm như vậy, chúng ta bước vào tập thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc. Đặc điểm nổi bật trong thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc là tính truyện. Hình ảnh rõ nét nhất của tuổi thơ là cây đa đầu làng, con sông


253 • The Going Alone Umbrella

The blue gas fire is burning in the stove / But we let [it] blindly vanish in the green of bamboo, / Making paths with no tree shade and the river flows are polluted While it also reminds us that “Banyan Tree” and “ Crossing the Woods” are reminiscent of childhood, and of the social ties of changes in the poem “The old farmer man in the city”. The poem “Walking with Mussel-rice burden in the dew” makes us look back to the poem “The Sidewalk” by talking about life style of city. If fractal time is a repetition according to patterns with cycle, speed (fast and slow) and sometimes iteration, then fractal time in poetry is relative, not exactly like magnifying an image; it may be exactly the same at every scale. Consider the story about a monk gathering woods in the forest. On his way home, he stops for a long moment, listening to the birds chirping and twittering like flutes. When he arrives back at the monastery, he discovers that the temple is changed completely; all the monks have long since died, and one century has passed. When he completely entered a single instant of time, the monk touched eternity. Yes, we are living with the new fragmented time and, with such a concept, we are stepping into the poetry collection of Hồ Đăng Thanh Ngọc. The most recognized feature in Hồ Đăng Thanh Ngọc poetry is the narration. The vivid image of childhood is the banyan tree at the head of the village and the river and boat dock in the once peaceful time. Within us, there is surely a time, for recalling memories the old places, the quiet and empty days of childhood, living year round within the embossed-bamboo


Chiếc Ô Đi Lẻ • 254

bến đò của một thời an bình. Trong chúng ta chắc vẫn còn một lúc nào đó, hất ngược trí nhớ về chốn xưa cũ, những ngày thơ ấu lặng lẽ và vắng vẻ, quanh năm sống bao quanh trong lũy tre làng. Cây đa đầu làng rễ chui xuống trầm tích sử màu huyền thoại / Tán cây che rộng mười phương ánh mắt “Cây Đa” Trong không khí quạnh quẽ và đơn sơ ấy, những đứa trẻ sống gắn bó với những liên hệ gia đình, ông bà cha mẹ, và thường là mẹ con, bà cháu, những câu chuyện cổ tích được truyền đạt, và đẩy tâm hồn ngây thơ đó gần gũi hơn với thế giới thần tiên. Tôi đã không rong chơi với cỏ cây-dẫu tôi thích thế / Tôi đã không hái hoa vờn bướm-dẫu tôi thích thế / Và cũng đã không nằm dưới bóng cây lắng nghe tiếng chim-dẫu tôi thích thế / Tôi đi như chạy vì tôi thật sự thương bà “Đi Qua Cánh Rừng” Những con đom đóm lập lòe trong đêm tối, dưới con mắt tuổi thơ là thế giới ma quái, trái ngược với thế giới thần tiên. Nhưng trong hồi ức, vẫn là những hình ảnh đầy màu sắc khi chúng ta nhớ lại những thời đã mất.


255 • The Going Alone Umbrella

rows around the village. The roots of banyan trees at the head of village get down [to] the sediment of the historical legends / Its canopy covers widely the ten directions of eyesight “Banyan Tree”. Within that desolate and simple air, the children live in closeknit, family relationships: grandparents and parents, parent and child, grandparent and grandchild, together with the legends and stories told repeatedly, pushing the innocent soul closer to the fairy world. I didn’t wander with grasses and trees – though I like that / I didn’t pick flowers chase butter flies – though I like that / And I didn’t lie under the shade trees to listen to the voice of birds – though I like that / I walked as if running because I truly love her. “Crossing the Woods” The fireflies flicker in the dark nights; in childhood eyes is the world of wicked ghosts, the opposite of the fairy world. But, in memory, they’re still colorful images when we remember the once lost time.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 256

Những con đom đóm muốn về đậu trên những chiếc lá tre / Lập lòe lay tiếng chó sủa trăng “Những Con Đom Đóm” Rồi đứa bé lớn lên, trở thành chàng trai, luân lạc từ làng thôn tới thị thành. Chàng đã có một mối tình nghèo, và cuộc sống hiện ra trước mắt như một chén cơm nguội, một miếng cá rán, vừa đơn sơ vừa sống động, và tác động mạnh mẽ hơn biết bao lần so với tưởng tưởng và mộng ảo. Nói gì mà chén cơm nguội vẫn bốc khói? / Nói gì mà miếng da rán rộn ràng? / Nói gì mà miếng cơm hến thanh ngọt đọng mùi bùn / những ngày sông đục “Gánh Cơm Hến Đi Trong Sương” Lăn lộn với đời sống nghèo, “Vỉa hè” là mồ hôi nước mắt, hình ảnh trái ngược mà ở thời nào, những kiếp sống lầm than giữa một xã hội đang đổi thay từng giớ từng khắc, những sắc màu lộng lẫy và u ám bao quyện lấy nhau. Ngồi xuống chiếc ghế cơm vỉa hè / một cú ngồi thắt lưng thắt thời gian / có giá 10.000 đ /một đĩa cơm / bên kia có người mẹ nghèo nhường cơm cho đứa con háu ăn / quanh đó có những người mẹ ngày kiếm năm ngàn đồng đã là hạnh phúc


257 • The Going Alone Umbrella

The fireflies want to land on the bamboo leaves Flashy shake the dog’s cry-to-the-moon “The fireflies” Then the child grows up and becomes a young man, wandering from rural village to urban city. He had a poor love, and the life showing in front of his eyes has like a cold rice bowl, a piece of fried fish, so simple and lively, strongly impacting much more than imagination and virtual dreaming. Says what cold rice bowl still steams? / Says what piece of fried-rice cracker bustles? / Says what piece of sweet mussel rice stagnates in the muddy smell [of] / the days [of] the river’s opaqueness “Walking with Mussel-rice burden in the dew” Tossing around in a poor life, “The Sidewalk” is the sweat and tears, the opposite image that, at any time, misery lives in a society which is changing at each hour; the colors of splendid and gloom intertwine with each other: “Sitting down on the dining chair on sidewalk / a seat that tightens the back, tightens the time / has the price of 10,000 đồng per plate of rice/ nearby there’s a poor mother who has relinquished rice / to her impatiently hungry child / around there are mothers who earn five thousand VN đồng and are already happy”.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 258

Và cuộc sống đầy bon chen và thay đổi ấy đang làm mất đi những hình ảnh êm đềm xưa cũ, những phát triển và nhu cầu của đời sống tiền công nghiệp báo hiệu những tổn hại về môi sinh, đâu còn những làng quê xưa, nơi con người và thiên nhiên gắn bó với nhau. Đã quá xưa rồi hình ảnh một làng quê nghèo bình yên với những ụ rơm, những hàng tre trước ngõ “Làng” Nhưng cuộc sống điêu đứng không phải chỉ có những tác hại do con người gây nên, thiên nhiên là một thảm họa khác. Bằng những lớp sóng thần khủng khiếp / Làm cho những ngôi nhà bay lên / những nỗ lực cứu vãn thế giới bay lên / những mái tranh nghèo xác xơ bay cao nhất / những mái nhà ngói xập xệ bên đường “Bão” Rồi cuộc tình cũng bị dập vùi trong cơn phong ba bão táp của cuộc đời.


259 • The Going Alone Umbrella

And the ever-changing and scrambled life is losing the gentle images from the old days; the developments and needs of the pre-industrial lives are signaling the environmental damages; there is no longer the old rural village, where human and nature are attached to each other. It’s very ancient [for] the image of one poor countryside village at peace with straw stacks and bamboo rows at the front gates “Village” But the afflicted life is not only harmful effects by humans, nature is another disaster. By the terrible tsunamis / Making the houses flying up the efforts of saving the world flying up / the ragged and poorly thatched roof flying the highest / the sagging and falling tile house on the side of the road “Hurricane” and the love affair is poorly treated in the stormy billows of life.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 260

Bão đã quần nát và bây giờ nó nghỉ ngơi để chúng ta vá víu lại / Cuộc tình như những đám mây / Kết đám mây xám với đám mấy trắng và vàng và đỏ “Sau Bão” Rồi mất mùa, ôi cuộc đời sao lại khốn cùng vậy? Đó là câu hỏi được lập đi lập lại hết đời này qua đời khác mà chẳng bao giờ có câu trả lời. Trả ơn cái cọc cái sợi dây đã quên cái cày lâu lắm rồi / Trả ơn cơn gió thổi bờ tre trưa nằm nhai lại / Tra ơn cọng cỏ / Trả ơn mùa thu ngọt ngào hương đồng / Trả ơn nhúm rơm cuối cùng được đốt lên xua bầy muỗi / Trả ơn cơn lũ tháng bảy nước nhảy lên bờ / Trả ơn cái bàu sình chiều chiều nẹp giấc mộng bùn ao “Mất Mùa” Cuộc tình cuối cùng rồi cũng chỉ còn là một ảo vọng. Như có một cái gì trong thân thể vừa tách khỏi tôi để bay đi / Và nỗi cô đơn bỗng nhiên tan chảy / Như một cơn bão gió ùa qua tôi / Rồi tất cả gãy đổ trong im lặng “Cho Em Ngày Chia Tay”


261 • The Going Alone Umbrella

“The storm had beaten and now it’s rested / So we can patch up / The love affair like the clouds / Unite the gray clouds with the white clouds and yellow and red” “After the Storm” Then the crop were lost; oh why is life this destitute? That is a question repeated from this life to the next life without an answer. repay the pile, the rope that has forgotten the plow long ago / repay the wind blowing the noon bamboo hedge that [it] lays and chews again / repay the grasses / repay the sweet scent of autumn field / repay the last handful straws burning to keep away the mosquitos / repay the july flood – water jumps on shore / repay the every afternoon sludge bracing the dream of mud pond “Lost Season” The love affair at last is just a false hope: Like there’s something in the body which just split from me and flew away / And the loneliness abruptly melted away / Like a wind storm rushes past me / And everything snaps [and] falls in silence “For darling on the goodbye day”


Chiếc Ô Đi Lẻ • 262

Và những ước mơ không thành. Chúng ta đã ở chung một ngôi nhà / Nhưng rồi chúng ta đã đem bom dội lên mái ngói / Chúng ta xông khói cay bên ngoài ô cửa sổ / Và chặt những cành cây ô liu bên trái ngôi nhà “Chúng Ta đã Ở Chung Một Mái Nhà” Thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc, về ngôn ngữ là ngôn ngữ cụ thể, những đứa trẻ sẽ hít hà hấp háy mũi trước bát cháo hành đầy trứng cá / rồi ôm nhau ngủ trong tiếng mưa và sóng vỗ “Bão” làm chúng ta như đang sống trong thực tại, chứ không phải ngôn ngữ trừu tượng, một thứ ngôn ngữ và ý tưởng ưa dùng của những nhà thơ Việt. Thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc chú trọng vào nghĩa, nên cũng giống như thơ tân hình thức Việt, họ cho rằng, ngôn ngữ được sinh ra và mất đi theo nhu cầu đời sống, nên nhà thơ chỉ cần nắm bắt được ngôn ngữ đời sống là đủ để ngôn ngữ vừa tự nhiên vừa mới lạ. Cuộc bàn luận về thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc đến đây tưởng đã xong, nhưng lại chưa xong, vì tập thơ chợt mở ra một cánh cửa khác. Số là, trong lúc tìm một số bài thơ, sắp xếp để thành một câu truyện cho nhu cầu phê bình, tôi chợt phát hiện một kỹ thuật dựng truyện cho thơ Tân hình thức.


263 • The Going Alone Umbrella

And a unattainable dream: We lived in the same house / But then we poured bombs on the roof / We dropped tear gas outside the windows / And cut the olive branches on the left side of the house “We lived in the same house” The language of Thanh Ngọc poetry is the language of specifics: the kids will hiss and wink [their] noses in front of the bowl of onion congee soup filled with fish eggs / then hugging each other to sleep in the sound of rain and crashing waves “Hurricane” As if we are living in the present, and not the language of the abstract, a language and idea which are often used by Vietnamese poets. Hồ Đăng Thanh Ngọc poetry focuses on the meaning, and, as with Vietnamese New Formalists who think language was born and loss with the needs of life. Poets thus need only to capture the language of life, so that language is natural and new. The debate about Hồ Đăng Thanh Ngọc poetry is thought to be finished here, but is yet undone because the poetry collection just opens up another door. The story is this: While looking for certain poems to organize into a story


Chiếc Ô Đi Lẻ • 264

Thơ cổ điển Việt nam, truyện Kiều chẳng hạn, thường là những truyện dài bằng thơ. Cho đến thơ vần điệu Tiền chiến (prewar) (thập niên 1930), và thơ tự do (thập niên 1960), ảnh hưởng của thơ hiện đại phương Tây (Tượng trưng, Siêu thực), tính truyện bị lọai bỏ, và thơ thừơng sáng tác trên căn bản những cảm hứng tình cờ, ngẫu nhiên. Khi thơ tân hình thức Việt hồi phục lại tính truyện kể, lại không thể kể như thơ cổ điển vì hai cách làm thơ khác nhau, nên vẫn sáng tác theo những cảm xúc nhất thời như vậy. Sự loay hoay đó kéo dài, vì một lý do đơn giản, chúng ta chưa có một kỹ thuật kể, áp dụng vào trong thơ. “Một bài thơ đứng một mình, tự nó là một bài thơ hòan chỉnh, nhưng khi có những tình tiết và ý tưởng liên hệ tới những bài thơ khác, chúng ta có một xâu chuỗi thơ. (Đối với thơ Tân Hình Thức, những bài thơ trong một xâu chuỗi có thể ở bất kỳ thể thơ nào, từ 5, 7, 8 chữ hay lục bát. Và có thể dùng kỹ thuật vắt dòng, nối dòng cuối của bài trứơc và dòng đầu của bài sau, để cho có vẻ liền lạc, nhưng không phải là nguyên tắc bắt buộc.) Vào đầu thế kỷ 20, nhà thơ Ezra pound, khuôn mặt tiền phong của thơ tự do, đã dùng chuỗi nhạc tính (sequence of the musical phrase) để thay thế nhịp điệu thơ truyền thống, thì bây giờ chuỗi những bài thơ chẳng khác nào những chuỗi ý tưởng để tạo dựng cốt truyện. Mỗi bài thơ là một diễn biến trong một câu truyện, và mỗi xâu chuỗi là một câu truyện liền lạc với đầy đủ tình tiết. Một câu truyện có thể cần một hay nhiều xâu chuỗi, và khi tập hợp nhiều câu truyện độc lập với nhau, tập thơ chẳng khác nào một tuyển tập truyện ngắn.


265 • The Going Alone Umbrella

for the need of critique, I then find out that there’s a technique to form a story for Vietnamese New Formalism poetry. The classic poetry of Vietnam, like the Tale of Kieu, normally is long stories through poetry. Then the rhyme Pre-War poetry (1930’s) and the free-verse (1960’s) were influenced by the new poetry forms from the West (symbolism, surrealism), in which the narrative element is denied, and poetry is usually written on the basis of accidental or random inspiration. Vietnamese New Formalism recovers the narrative element and yet cannot speak like classic poetry because both ways are different in crafting poetry. But Vietnamese New Formalists are still writing from the instant and momentary inspiration for one simple reason, we do not have a method of narrating, to apply in poetry. “A poem can stand alone by itself, a complete poem, but the facts and ideas relate to the other poems such that we have a string of poetry. (For New Formalism poetry, poems in a string can be in any poems of 5, 7, 8 or 6-8 words. And it can use its enjambment, where the last line of one poem is the first line of the next, so that it appears seamless, but this is not mandatory.) At the beginning of the 20th century, poet Ezra Pound, a pioneer of free verse poetry, used sequence of the musical phrase to replace the traditional rhythms of poetry. Now, a sequential poem is like a string of ideas which creates the plot. Each poem is an evolution of a story, and, each string is a seamless story with full details. A story may require one or more strings, and as a collection of independent stories,


Chiếc Ô Đi Lẻ • 266

Chúng ta có kỹ thuật xâu chuỗi cho một truyện ngắn bằng thơ. Nhưng xâu chuỗi thơ làm chúng ta liên tưởng tới những mẫu tự, được xếp theo chiều ngang và chiều dọc của một ô chữ (crossword puzzle). Trong một ô chữ, mỗi mẫu tự nối với những mẫu tự khác thành những chữ hoặc nhóm chữ, không khác nào mỗi bài thơ trong xâu chuỗi thơ. Như vậy nếu đặt những xâu chuỗi thơ trong một khung ô chữ, gặp nhau hoặc song song, chúng ta có kỹ thuật ô chữ để tạo bố cục cho một truyện dài bằng thơ. Hai kỹ thuật xâu chuỗi và ô chữ, gọi chung là kỹ thuật ô chữ 4, có khả năng tạo nên những tác phẩm tuyến tính hoặc phi tuyến tính và đa cốt truyện cho thơ Việt. Sự nhạy bén, tinh thần sáng tạo nơi nhà thơ là cần thiết, để khai triển câu truyện vừa đơn giản vừa phức tạp, làm sao người đọc dễ dàng theo dõi, không qua sự diễn giải của phê bình. Điều ghi nhận, hiệu ứng cánh bướm và kỹ thuật ô chữ là những yếu tố ngòai thơ, lần đầu tiên được áp dụng vào thơ, nói lên nỗ lực không ngừng để hòan thiện những đường nét cơ bản của một dòng thơ mới. Nhà thơ Biển Bắc cho rằng, chúng ta có thể nối nhiều bài thơ của nhiều tác giả thành một câu truyện kể, giống hình thức một tuyển tập. Và như thế, thơ Tân Hình Thức Việt, với kỹ thuật ô chữ sẽ trở thành một trò chơi lý thú, thích hợp với thế hệ của thời vi tính.” 5 Tìm kiếm những yếu tố mới và kỹ thuật thơ là ý thức cao độ của những nhà thơ tự do phương Tây để từng bứơc ra khỏi ảnh hưởng của thơ truyền thống. Vì thế, bất cứ sự tìm kiếm hay thay đổi nào đều phải căn cứ trên những hệ mỹ học trước đó. T. S. Eliot, Erza Pound loay hoay tìm kiếm cách tạo nhạc tính để thay thế cách tạo nhịp điệu của thể luật truyền thống.


267 • The Going Alone Umbrella

this kind of poetry is like a collection of short stories. In this way, we can design a string for a short story in verse. we can associate such types of poetry strings with the alphabet, arranged horizontally and vertically in a crossword puzzle. In a crossword, each letter is connected to the other letters into words or groups of words, like each poem is connected in a poetry string. So, if you put the poetry string in a crossword frame, perpendicular or parallel, we have a technical puzzle to create a layout for a long story in poetry. Together, stringing and crosswording is called crossword techniques 4, capable of creating linear or non-linear compositions and multi-plot poetry in English. Acumen and creative spirit in the poet is necessary to develop both simple and complex stories, such that the reader can easily follow, independent of the interpretation of critics. It should also be noted that the butterfly effect and crossword techniques are factors beyond poetry, first applied to poetry as part of efforts to improve the basic structures of a new poetry. The poet Biển Bắc states that we can connect many poems by many authors to be a story in much the same form as an anthology. And so Vietnamese New Formalism, with its crossword technique, becomes an exciting game, suitable for the information generation.” 5 To find new elements and new techniques are the highest sense of free-verse poets from the West. They’re stepping out, step by step, under the influence of the tradition, and any finding or changing must base on the aesthetics in the past. T. S. Eliot and Erza Pound fumbled to find a musical element to take place of the rhythm in the traditional forms. And the avant


Chiếc Ô Đi Lẻ • 268

Và những phong trào tiền phong (avant garde movement) sau nửa thập niên 20, đi xa hơn, thay hẳn nhạc tính bằng nhịp điệu trên trang giấy. Những trường phái hội họa như Ấn Tượng, Trừu Tượng, những phong trào nhạc Jazz, Pop Music, Rap, Hiphop, những phong trào thơ tiền phong Mỹ sau thập niên 1950 như Black Mountain, New York School, Thơ Ngôn Ngữ, Thơ tân Hình Thức … đều là những phong trào mang tính tập thể, và những nghệ sĩ độc sáng là do tài năng vượt trội, qua sáng tác và thực hành, và phong cách riêng của họ nằm trong phong cách chung của tòan thể. Thơ tự do của Hồ Đăng Thanh Ngọc rất gần với thơ tân hình thức Việt vì sự liền lạc ý tưởng và có tính truyện, đáp ứng được nhu cầu cách tân, và cũng giống như thơ tân hình thức Việt, tính cổ điển nằm sâu bên trong phong cách hiện đại, hòa nhịp giữa thơ truyền thống và tự do, giữa cảm xúc và trí tuệ, rất tự nhiên, là một thứ tân kinh điển (new classicism), mà từ văn học, điện ảnh tới hội họa, kiến trúc, đang có khuynh hướng trở về làm mới lại cổ điển hay kết hợp giữa hiện đại và cổ điển. Chú thích 1&4. Seven Life Lessons of Chaos, John Briggs and F. David Peat, Living within time, p. 125, Harper Perennnial, 2000. 2&3. Husserl – On the Phenomenology of the Consciousness of Internal Time September 29, 2011, posted by segovia in Lived Body, Perception, Reading, trackback và Fractal Time, Observer Perspectives and Levels of Description in Nature by Susie Vrobe.


269 • The Going Alone Umbrella

garde movement, after the 1920’s goes further, replacing the musical elements by the rhythm on the paper. The painting schools of Impressionism and Abstractism; the music movements of Jazz, Pop Music, Rap and Hiphop; the pioneers of poetry movements after 1950’s, such as Black Mountain and New York School; Language poetry and New Formalism Poetry are all movements of the collective and certain individuals shine through creativity and practices because of outstanding talents, and their own styles are within the collective style of the whole. Free-verse poetry of Hồ Đăng Thanh Ngọc is very close to Vietnamese New Formalism due to the seamlessness of ideas and narrative element, meeting the need of innovation. As with Vietnamese New Formalism, the classic element dwells deep inside the current style, harmonizing between (the poetry of) classic and free-verse, between feelings and intelligence. It is a type of new classicism which literature, cinema, painting and architecture tend to return and renew the classic and to combine the modern and the classic. Chú thích 1&4. Seven Life Lessons of Chaos, John Briggs and F. David Peat, Living within time, p. 125, Harper Perennnial, 2000. 2&3. Husserl – On the Phenomenology of the Consciousness of Internal Time September 29, 2011, posted by segovia in Lived Body, Perception, Reading, trackback và Fractal Time, Observer Perspec-


Chiếc Ô Đi Lẻ • 270

5. “Stepping Out, Essays On Vietnamese Poetry”, New Eclectic Style, Khế Iêm. - Ô chữ xuất hiện tại Anh vào thế kỷ 19 trong những sách học vỡ long của trẻ em, sắp đặt những mẫu tự thành những chữ giống nhau ở cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Ô chữ được biết đến đầu tiên xuất hiện trên nhật báo New York World, số chủ nhật ngày 21 tháng 12, 1913, do nhà báo Arthur Wynne, người Anh, di cư tới Mỹ năm 19 tuổi, tạo ra. 10 năm sau khi xuất hiện ở Mỹ, ô chữ đã lan sang khắp Âu châu, và trở thành một trò chơi giải trí cho đến bây giờ. - Hình Ô chữ trên Internet https://www.google.com/search?q=crossword+puzzle+samples&hl =en&prmd=imvns&tbm=isch&tbo=u&source=univ&sa=X&ei=0k0P UPCvCuOVjAL58oCoCA&ved=0CFwQsAQ&biw=1005&bih=528


271 • The Going Alone Umbrella

tives and Levels of Description in Nature by Susie Vrobe. 5. “Stepping Out, Essays On Vietnamese Poetry”, New Eclectic Style, Khế Iêm.


Chiếc Ô Đi Lẻ • 272

TIỂU SỬ _______ Hồ Đăng Thanh Ngọc Tên thật của tác giả: Hồ Đăng Thanh Ngọc Bút danh cho một số tác phẩm: Hạ Nguyên Sinh năm 1966 tại Huế. Quê quán: Hương Cần, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Hiện làm việc tại Tạp chí Sông Hương. Tác phẩm: - Chuyện Huế (bút ký), NXB Thuận Hóa 2008 - Đi qua cánh rừng (thơ), NXB Văn Học 2009 - Đôi triêng gióng của Mạ (tùy bút), NXB Văn Học 2011 - Chiếc ô đi lẻ,(thơ, ấn phẩm song ngữ), NXB Văn Học 2013


273 • The Going Alone Umbrella

BIOGRAPHY __________ Hồ Đăng Thanh Ngọc Name: Hồ Đăng Thanh Ngọc. Other Pen Name: Hạ Nguyên. Born 1966 in Huế. Native Place: Hương Cần, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Currently working at Tạp chí Sông Hương. Works: - Chuyện Huế (”Story of Hue”, a memoir), Thuận Hóa Publishing Company, 2008. - Đi qua cánh rừng (“Crossing the forest”, poetry), Văn Học Publishing Company, 2009. - Đôi triêng gióng của Mạ (essay), Văn Học Publishing Company, 2011 - Chiếc ô đi lẻ (bilingual poetry collection) NXB Văn Học 2013


Chiếc Ô Đi Lẻ • 274

Trần Vũ Liên Tâm Tên thật của tác giả: Michelle Tran Bút danh cho một số tác phẩm: Michelle Tran Sinh năm 1981 tại Pleiku, Vietnam Quê quán: Pleiku Tác phẩm: - Tâm (thơ) - 2006


275 • The Going Alone Umbrella

Trần Vũ Liên Tâm Pen name of Michelle Tran, born in Pleiku, Vietnam, in 1981. She came, in 1993, to the US, where she was educated. She obtained her Bachelor of English in 2006, Master of Business Administration in 2009. A working writer in Roanoke, VA. Her writings have appeared in many magazines, including VSA, Lua Viet, and Ket Doan. Her debut “Tam”, a poetry collection, was published in May 2006.


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.