3 minute read
2.1.1. Kịch nói ra đời đáp ứng nhu cầu diễn tả những yếu tố mới
from KỊCH NÓI VIỆT NAM
tiến trình phát triển của Kịch nói Việt Nam với mong muốn tìm được những bài học từ cha ông để thế hệ hậu sinh có thể kế thừa, làm giàu thêm vốn cho bản thân, sáng tạo nên những tác phẩm Kịch có giá trị, thu hút được khán giả, mang đến đời sống sôi động cho Kịch nói Việt Nam.
Chương 2 KỊCH NÓI VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC BIỆN PHÁP MỸ HỌC TRONG THI PHÁP KỊCH NÓI VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ 20
Advertisement
2.1. Kịch nói Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử
Năm 1921, Kịch nói Việt Nam chính thức ra đời. Sự kiện mang tính lịch sử này đã đánh dấu một mốc son cho tiến trình phát triển của văn học Việt Nam. Kể từ đây, văn học Việt Nam có thêm một thể loại mới: Kịch nói. Ra đời cùng thời với Tiểu thuyết hiện đại và Thơ mới, Kịch nói đã góp phần làm phong phú đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, đồng thời mang đến cho khán giả lúc bấy giờ một món ăn tinh thần mới, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật của một bộ phận không nhỏ người dân đương thời. Kịch nói lúc đầu chỉ là thú chơi của các tài tử, giai nhân, của những trí thức Tây học. Dần dần, với các biện pháp mỹ học, Kịch nói đã chinh phục được nhiều chủ thể sáng tạo cũng như người tiếp nhận. Kịch nói đã trở thành món ăn tinh thần của quần chúng nhân dân. Sáng tạo và tiếp nhận Kịch nói trở thành một trào lưu trong văn học nghệ thuật cũng như trong xã hội Việt Nam.
Không ít nhà nghiên cứu khi truy tìm nguyên nhân ra đời của Kịch nói Việt Nam đều có chung quan điểm về sự ảnh hưởng của kịch Pháp như các ý kiến của: Giáo sư Đình Quang, Phó giáo sư Phan Trọng Thưởng, nhà viết kịch Trần Vượng… Giáo sư Đình Quang trong Hội thảo “Ảnh hưởng của sân khấu Pháp với sân khấu Việt Nam” đã từng khẳng định: “Kịch nói Việt Nam hình thành do ảnh hưởng của sân khấu Pháp”, “nguyên mẫu Kịch
nói Pháp mà Việt Nam đã tiếp thụ ở đây là Kịch nói cổ điển Pháp”. [89. Tr.197] Theo nghiên cứu của chúng tôi, Kịch nói Việt Nam ra đời không đơn thuần là sự ngẫu nhiên hay tất nhiên, mà là tổng hòa của các mối quan hệ, là kết quả của sự tác động đồng thời các yếu tố nội sinh, ngoại sinh và là kết quả của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa.
2.1.1. Kịch nói ra đời đáp ứng nhu cầu diễn tả những yếu tố mới của hiện thực đời sống
Năm 1585, Đzhovani Batista Gvarini hoàn thành vở kịch đồng nội với nhan đề: Chú mục đồng trung thành. Sự xuất hiện của Chú mục đồng trung thành đã gây ra cuộc tranh luận gay gắt trên văn đàn lúc bấy giờ. Trước khi Chú mục đồng trung thành ra đời, nhân loại mới có Bi kịch và Hài kịch. Khi Chú mục đồng trung thành xuất hiện, các học giả không biết xếp nó vào thể tài nào mà bấy lâu nay người ta từng biết đến, Bi kịch cũng không phải, mà Hài kịch cũng không đúng. Một nhà nghiên cứu kịch lúc đó, Đzhaasson Đenores cho rằng: “vở kịch là sự phá hoại trầm trọng tất cả những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật kịch”. [1.Tr.249] Để biện hộ cho vở kịch của mình, Gvarini đã đưa ra nhiều lý lẽ. Ông cho rằng, các nhà thơ, nhà viết kịch, có quyền sáng tạo ra những tác phẩm thuộc thể loại mới. “Như một người trồng vườn, nhà thơ có thể tiếp cây, chiết cành mới vào cái cây thi ca cũ. Với thời gian, trong đời sống luôn luôn diễn ra những thay đổi nó đòi hỏi phải đổi mới thi ca và kịch”. [1.Tr.253] Ông gọi tên thể loại kịch mới đó là Bi Hài kịch và khẳng định: Bi Hài kịch chính là thể loại phù hợp ở mức độ lớn nhất với tinh thần và quan niệm hiện đại… Bi kịch không phù hợp với thẩm mỹ của khán giả hiện đại, bởi vì nhìn chung, Bi kịch là dã man, trong khi đó, ý thức của con người hiện đại đã trở nên văn minh