Seafood Trade Magazine - Feb 2014 - Tạp chí Thương mại Thủy sản

Page 1



Àïí nuöi töm thaânh cöng, chuáng ta coá...

CPF-Turbo Program Chuáng töi tûå haâo àaä goáp phêìn mang laåi sûå thaânh cöng cho baâ con nuöi töm. Vúái àöåi nguä nhên viïn chuyïn nghiïåp, nhiïåt tònh, coá kinh nghiïåm, sùén saâng àöìng haânh cuâng vúái têët caã baâ con, vò sûå phaát triïín bïìn vûäng cuãa ngaânh nuöi töm cöng nghiïåp taåi Viïåt Nam. töm ùn á c û Th

Hïå thö n ë ga n

toa n â s inh ho cå

nuöi

Töm giön ë g

á ao ã ly an Qu

Fulfill the Success For Sustainable Business

Haäy cuâng traãi nghiïåm thaânh cöng vúái

“CPF-Turbo Program”

CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN CHÙN NUÖI C.P. VIÏÅT NAM

ÀC: KCN Baâu Xeáo, xaä Söng Trêìu, huyïån Traãng Bom, tónh Àöìng Nai ÀT: (0613) 921502 - 09 Fax: (0613) 921512 - 14 Website: www.cp.com.vn


Nöå i dung

SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

NÙM THÛÁ 15

12

Söë 170 thaá n g 2/2014

Gia tăng giá trị sản phẩm để nâng cao lợi nhuận

Để cạnh tranh thành công trên thị trường thế giới và nâng cao lợi nhuận, ngành chế biến thủy sản cần chú trọng sản xuất sản phẩm giá trị gia tăng.

16

Ý kiến phát biểu tại Hội nghị Tổng kết Xuất khẩu Tôm 2013

Chúng ta không thể bỏ nuôi tôm sú, đặc biệt là tôm sú nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến ở vùng bán đảo Cà Mau.

26

Baseafood với đề án gia tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu

Baseafood không gắng sức chạy theo sản lượng, mà xây dựng và triển khai đề án phát triển sản phẩm GTGT để nâng cao hiệu quả xuất khẩu.

30

VIACIMEX đồng hành cùng doanh nghiệp

VIACIMEX luôn đồng hành cùng cộng đồng DN chế biến, XNK thủy sản Việt Nam đẩy mạnh quản lý chất lượng và VSATTP.

32

Thủy sản Phương Nam – Vượt qua điểm tới hạn

Nhờ quyết liệt tái cơ cấu, Công ty Phương Nam đã tự xoay xở được nguồn tài chính và dần lấy lại uy tín vốn có của mình.


35

TGĐ Trần Văn Lĩnh: Xuất khẩu tôm 2013 thắng lợi nhưng chưa vội mừng

Thắng lợi của ngành tôm năm qua không hoàn toàn do nội lực tạo ra, mà một phần do thất bại trong nuôi tôm ở một số nước khác.

38

Minh Phương – Đối tác dịch vụ logistics tin cậy

Với tốc độ tăng trưởng bình quân 30%/năm, Minh Phương đang có chỗ đứng vững vàng trên thị trường dịch vụ logistics.

54

Dự báo nguồn cung thủy sản năm 2014

Một năm mới đã đến và các doanh nghiệp thủy sản tiếp tục phải đối phó với nguồn cung nguyên liệu liên tục biến động.

70

Cải cách thủ tục hành chính về chất lượng và thú y thủy sản

Nâng cao hoặc bãi bỏ một số quy định, thủ tục hành chính không hợp lý trong quản lý chất lượng và thú y thủy sản là hết sức cần thiết.

88

Bảo vệ dịch vụ hệ sinh thái vì sự phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững

Tối ưu hóa các hoạt động kinh tế để vừa gia tăng thu nhập vừa bảo vệ môi trường sinh thái là mong muốn mà con người luôn hướng tới. Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

3


THÛSÛÅBAN TÊÅP LUÊÅN KIÏåBIÏN N / BÒNH

Sẵn sàng tâm thế phát huy đà tăng trưởng

K

ết quả sản xuất-kinh doanh năm 2013 cao hơn dự báo và giá trị xuất khẩu tăng gần 14% trong tháng đầu năm 2014 là sự khởi đầu rất đáng khích lệ của ngành thủy sản khi bước vào một năm sản xuất và lao động mới. Nhưng cũng cần nhận rõ những tồn tại, hạn chế trong năm qua, chuẩn bị tâm thế đương đầu với những khó khăn để tiếp tục phát huy đà tăng trưởng về lượng và phát triển triển về chất thật hiệu quả trong năm tới. Bởi trong năm 2014, sự phục hồi kinh tế ở các khu vực trên thế giới còn rất mong manh; bất ổn chính trị tràn lan và ngày càng phức tạp. Thị trường thế giới vẫn trong tình trạng sa sút với sức mua hạn chế, nhất là ở các thị trường nhập khẩu nông sản truyền thống của Việt Nam. Xuất khẩu của ngành nông nghiệp nói chung đã rơi vào xu thế giảm dần từ vài năm qua. Những yếu tố này cũng sẽ tiếp tục ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu thủy sản và cả chuỗi sản xuất trước đó. Làm thế nào để duy trì và tăng cường khả năng cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế thế giới eo hẹp? Không còn con đường nào khác là tái cơ cầu ngành theo hướng phát triển bền vững. Cụ thể hơn là phải tổ chức lại sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý và đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật trong tất cả các khâu từ khai thác, nuôi trồng, đến chế biến xuất khẩu. Những hoạt động này phải đạt được mục đích cuối cùng là gia tăng giá trị sản phẩm, sao cho đem lại lợi nhuận cho mọi thành phần tham gia vào chuỗi sản xuất. Chủ trương đó chỉ thành hiện thực khi Bộ, các cơ quan quản lý và toàn ngành chung sức xây dựng và thực hiện một kế hoạch phát triển tổng thể, toàn diện, có sự sắp xếp, ưu tiên hợp lý những lĩnh vực cơ bản, chủ chốt để tập trung nguồn lực thật sự hiệu quả, tránh tham lam, dàn trải gây lãng phí. Thực tế sản xuất thủy sản trong mấy năm gần đây cho thấy, việc sản xuất, quản lý chất lượng giống, thức

4

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

ăn và kiểm soát dịch bệnh trong nuôi trồng; và đầu tư hiện đại hóa tàu thuyền và công nghệ bảo quản sau thu hoạch trong khai thác thủy sản là những yếu tố có tính quyết định đối với hiệu quả của cả chuỗi sản xuất. Mặt khác, việc phải áp dụng quá nhiều tiêu chuẩn, kể cả những tiêu chuẩn tự nguyện theo yêu cầu của các thị trường nhập khẩu đã khiến không chỉ người nông dân, mà ngay cả các doanh nghiệp chế biến cũng vô cùng lúng túng, hoang mang trước cả một “ma trận” tiêu chuẩn khi xây dựng vùng nuôi cho mình. Vì vậy, rất cần tập trung sự quan tâm trong việc hài hòa hóa các tiêu chuẩn, xây dựng và quảng bá tiêu chuẩn chung được công nhận trên thị trường quốc tế. Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao những đóng góp của ngành nông nghiệp trong thành tựu chung của đất nước, nhưng cũng nhấn mạnh: “Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp giảm dần và bộc lộ những hạn chế yếu kém của một nền nông nghiệp dựa trên kinh tế hộ manh mún, thiếu liên kết, năng suất và chất lượng thấp trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì vậy, phải thực hiện hiệu quả ba đột phá chiến lược, đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cầu nền kinh tế, đặc biệt là đẩy nhanh tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới”. Với bản lĩnh của những người tiên phong trong hội nhập kinh tế quốc tế, những người lao động ngành thủy sản ý thức rõ nội lực của mình và bối cảnh thị trường, chuẩn bị nguồn năng lượng mới, sẵn sàng tâm thế cho những bước đi vững chắc để chinh phục những đỉnh cao mới.n Ban Biên tập Thương mại Thủy sản


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

Sản xuất nguyên liệu thủy sản

không đáp ứng kịp năng lực chế biến p Thái Phương Ngành thủy sản khá thành công trong năm 2013 với tổng sản lượng đạt trên 6 triệu tấn, tăng 2,1% so với năm 2012 và giá trị sản xuất toàn ngành trên 176.500 tỷ đồng, tăng 4,2%. Ghi đậm nhất là dấu ấn thắng lợi về sản lượng tôm chân trắng nuôi nhờ khắc phục một phần dịch bệnh tôm.

Tổng cục Thủy sản triển khai kế hoạch năm 2014

H

ội nghị tổng kết của Tổng cục Thủy sản (TCTS) tổ chức vào cuối tháng 12/2013 đã đánh giá cao những thành tựu mà ngành đạt được trong năm. Trong khai thác thủy sản đã đẩy mạnh việc tổ chức lại hoạt

động trên biển, khuyến khích khai thác xa bờ theo tổ đội sản xuất, tập trung đánh bắt các đối tượng có giá trị kinh tế cao và có thị trường tiêu thụ tốt; nghiên cứu đầu tư và ứng dụng công nghệ, thiết bị bảo quản hiện đại để nâng cao giá trị sản phẩm và giảm thất thoát sau

thu hoạch, v.v… Nuôi trồng thủy sản (NTTS) ghi dấu ấn hiệu quả trong khắc phục dịch bệnh và sự nhảy vọt sản lượng tôm chân trắng. Hai đối tượng nuôi chính là tôm và cá tra tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong tổng giá trị XK thủy sản của cả nước. Ngành NTTS đã xây dựng dự án “Phát triển tôm chân trắng bố mẹ” và chuyển giao 110.000 con cá tra hậu bị về các cơ sở sản xuất giống nhằm mục tiêu đảm bảo chất lượng con giống cho người nuôi; tăng cường kiểm soát vật tư đầu vào. Đặc biệt là việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, dịch vụ cho ngành, trong đó ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng vùng nuôi tập trung thâm canh, v.v… Tuy nhiên, so với nhu cầu nguyên liệu để sản xuất phục vụ thị trường trong và ngoài nước, nhất là cho các nhà máy chế biến XK thì khả năng đáp ứng vẫn còn một khoảng cách khá xa. Tình trạng thiếu nguyên liệu đủ tiêu chuẩn chất lượng vẫn rất phổ biến. Đây là vấn đề cần sự quan tâm lớn của cả Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

5


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

ngành khai thác và NTTS trong thời gian tới.

Nhận diện tồn tại và hạn chế

Đối với khai thác thủy sản Cơ cấu tàu thuyền đã có nhiều tiến bộ, hỗ trợ tích cực cho khai thác xa bờ, nhưng tỷ trọng sản lượng các đối tượng có giá trị cao, nhiều cơ hội thị trường và mang lại lợi nhuận cao cho ngư dân lại ngày càng giảm sút. Điều này thể hiện rõ nhất ở hai đối tượng chủ lực là cá ngừ và mực, bạch tuộc. Thiếu nguyên liệu là một trong những nguyên nhân chính khiến XK mực, bạch tuộc, cá ngừ và các loài cá biển khác đều thấp hơn đáng kể so với năm 2012. Năm 2013, sản lượng khai thác cá ngừ đại dương của cả nước sụt giảm. Không những thế, việc xử lý, bảo quản chưa đúng kỹ thuật đã làm giảm phẩm cấp và chất lượng, không đáp ưng yêu cầu XK đã ảnh hưởng lớn đến giá trị cuối cùng của sản phẩm. Đề cập vai trò của Quyết định 68/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 về chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch trong nông nghiệp đối với những tồn tại trong bảo quản chất lượng sản phẩm thủy sản sau khai thác, ông Đào Hồng Đức, Cục trưởng Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản cho rằng: “Đối với ngành khai thác thủy sản, chính sách hỗ trợ chủ yếu là lắp đặt hệ thống thiết bị bảo quản sản phẩm sau đánh bắt trên tàu. Đến nay, nhiều tàu khai thác, tàu thu mua và vận chuyển hải sản đã lắp đặt được các thiết bị bảo quản

6

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Ông Bùi Đức Quý, Vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản

Bà Trần Bích Nga, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản

lạnh, nhưng do thực tế tàu thuyền của ngư dân còn rất thô sơ, chưa có thiết kế thích hợp nên việc hiện đại hóa và nâng cấp để lắp đặt đồng bộ các thiết bị vẫn còn nhiều khó khăn đòi hỏi phải có khoảng thời gian nhất định.” Theo thống kê, sản lượng khai thác mỗi năm của nước ta đạt 2,2 triệu tấn, nhưng tỷ lệ thất thoát khá lớn, khoảng 20 - 25% tổng sản lượng, tương đương với giá trị hàng nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, các cảng cá và khu neo đậu trú ẩn vẫn còn có những nơi chưa đạt được yêu cầu về luồng lạch và không đủ cơ sở hậu cần cung cấp dịch vụ. Những tồn tại này chủ yếu là do việc xây dựng quy hoạch trước đây đã lỗi thời do số tàu thuyền tăng lên và công suất của mỗi tàu cũng lớn hơn rất nhiều. Việc cung cấp vốn, tín dụng và bảo hiểm cho ngư dân cũng như đầu tư cho khai thác thủy sản là những vấn đề được đại diện của các địa phương hết sức quan tâm, đòi hỏi Tổng cục Thủy sản phải chú trọng trong năm 2014. Tuy nhiên TCTS và

các đơn vị chức năng cần xây dựng các giải pháp kêu gọi vốn đầu tư, kể cả nguồn vốn ngoại, nhằm tăng cường nguồn lực phát triển ngành. Về cơ chế cho vay đối với ngư dân, theo Tổng Cục trưởng Vũ Văn Tám: “Nhà nước vẫn có chính sách rất ưu đãi cho ngư dân vay vốn, nhưng cho vay phải theo cơ chế thương mại thông thường, việc xử lý rủi ro cũng theo cơ chế này, nghĩa là vẫn phải có thế chấp và đảm bảo thì ngân hàng mới cho vay. Ví dụ, giá trị một con tàu khoảng 10 tỷ đồng, ngân hàng có thể cho vay 8 tỷ với lãi suất 2,3%/năm, còn ngư dân phải bỏ ra 2 tỷ đồng. Số tiền của ngư dân phải có trước để chứng minh năng lực, khi đó ngân hàng mới có cơ sở để cho vay phần tiếp theo 80%. Tuy nhiên, đối với ngư dân số tiền nêu trên là rất lớn đối với họ, vì vậy việc triển khai cho vay theo hướng này còn rất khó tiến triển”. Về nuôi trồng thủy sản Rõ ràng là hoạt động sản xuất chế biến XK tôm và cá tra đều phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nuôi, nhưng nguồn cung cấp này luôn trong


tình trạng bất ổn. Năm 2013, sản lượng tôm chân trắng đã giúp giải quyết nhiều nguyên liệu cho chế biến XK, nhờ vậy ngành tôm đã tận dụng được cơ hội thị trường để gia tăng đáng kể giá trị XK. Tuy nhiên, nhiều năm qua, hầu như các nhà máy chế biến tôm chỉ hoạt động được khoảng 40-50% công suất thiết kế do thiếu nguyên liệu. Ngành cá tra lại luôn chao đảo giữa thừa và thiếu nguyên liệu, hiệu quả đầu tư nuôi thiếu bền vững vì vậy giá trị cuối cùng mang lại cho cả người nuôi và nhà chế biến XK rất thấp. Nhiều yếu tố đầu vào ảnh hưởng tới NTTS, nhưng vấn đề chất lượng con giống luôn là mối lo ngại đầu tiên của người nuôi. Sự hạn chế trong quản lý và kiểm dịch con giống NK đã gây ra không ít tổn thất. Ông Bùi Đức Quý, Vụ trưởng NTTS thuộc TCTS, cho biết: “Qua việc rà soát và đi kiểm tra thực tế tới các đầu mối nước ngoài cung cấp tôm bố mẹ tôm chân trắng đã phát hiện 3 cơ sở đã lấy tôm nuôi từ đầm xuất bán cho Việt Nam làm tôm bố mẹ để sản xuất giống. Ba cơ sở trên đã bị cảnh báo và cấm XK vào Việt Nam.” Mới đây, một thông tư về quản lý chất lượng con giống thủy sản đã được ban hành làm công cụ pháp lý hỗ trợ việc quản lý chất lượng và tạo ra cơ chế để kiểm soát và truy xuất nguồn gốc đến các nước có tôm bố mẹ XK sang Việt Nam. Cũng trong năm 2013, đã có thêm 2 văn bản quan trọng

Nuôi cá tra theo tiêu chuẩn GlobalGAP

khác quản lý về thức ăn và các sản phẩm xử lý và cải tạo môi trường trong NTTS. Những văn bản này thể hiện tiếp cận quản lý chất lượng từ gốc của cả chuỗi sản xuất thủy sản. Tuy nhiên, việc triển khai và giám sát thực hiện các văn bản ấy mới thực sự quan trọng và có hiệu quả. Ông Quý cũng cho biết, năm 2014 Cục sẽ tiếp tục xây dựng thông tư đánh giá rủi ro đối với thủy sản sống NK vào Việt Nam và văn bản quản lý vùng nuôi tôm, đặc biệt là nuôi tôm nước lợ. Như vậy, cùng với việc ban hành Nghị định về Cá tra, ngành NTTS về cơ bản đã có đủ công cụ pháp lý chính để quản lý hoạt động này ở các địa phương. Ông Quý thông báo, năm 2014 ngành sẽ dành ưu tiên các nguồn lực để cấp thiết xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn của ngành. Đối với thủy sản là lĩnh vực mới, nhiều tiêu chuẩn

và qui chuẩn kinh tế, kỹ thuật cho ngành cần được xây dựng.

Sự phối hợp và hỗ trợ của các cơ quan chức năng khác

Quản lý chất lượng thủy sản nuôi Cuộc đấu tranh với những rào cản kỹ thuật từ các thị trường NK đã đạt được những thành công nhất định, chẳng hạn Nhật Bản đã chấp nhận tăng mức dư lượng ethoxyquin trong tôm NK, tạo điều kiện thuận lợi hơn để XK tôm của nước ta sang Nhật Bản. Tuy nhiên, theo bà Trần Bích Nga, Phó Cục trưởng Quản lý Chất lượng Nông, lâm sản và Thủy sản, luôn xuất hiện các rào cản thương mại từ phía các nước NK. Chẳng hạn, một số nước đang tiếp tục đưa ra cảnh báo lô hàng nhiễm dư lượng một số kháng sinh như Trifluralin và Enrofloxacin sử dụng trong NTTS. Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

7


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

Hoa Kỳ cũng đưa ra luật Nông nghiệp mới, chuyển thanh tra cá da trơn từ Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) sang Bộ Nông nghiệp, gây thêm khó khăn cho việc XK cá tra của nước ta vào Mỹ do phải đáp ứng những tiêu chuẩn phức tạp trong suốt chuỗi sản xuất cá tra ngay từ khâu nuôi cá. Bộ NN&PTNT đang phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao và các bộ liên quan tích cực đấu tranh, yêu cầu Mỹ không dựng thêm những rào cản đối với thương mại cá tra Việt Nam. Đối với ngành khai thác, bà Nga đề nghị cần chú trọng nhiều hơn vào việc khắc phục những sai lỗi theo các khuyến cáo và kiến nghị của các đoàn thanh

tra nước ngoài khi đến thăm các cơ sở khai thác để đảm bảo khai thác bền vững, chống tình trạng khai thác không hợp pháp, không quản lý và không báo cáo (IUU). Yêu cầu này là rất thiết thực để có đủ điều kiện để cấp chứng nhận xuất xứ cho lô hàng khai thác khi XK. Bà Nga cho biết thêm: “Năm 2014 được Bộ NN&PTNT chọn là năm thứ tư liên tiếp về quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và ATTP nông, lâm, thủy sản. Trong năm 2013, số cơ sở cung cấp vật tư nông nghiệp và NTTS được thống kê để kiểm tra định kỳ còn thấp, vì vậy số cơ sở đã được kiểm tra còn rất thấp. Trong năm 2014, sẽ tập trung kiểm tra các cơ sở có nhiều ’vấn đề’”. Phòng chống dịch bệnh

Năm 2013 ghi nhận sự nỗ lực có hiệu quả của công tác quản lý dịch bệnh EMS trên tôm, góp phần phục hồi đáng kể sản lượng tôm chân trắng. Tuy nhiên, theo ông Trần Đình Luân, Phó Cục trưởng Thú y, hoạt động NTTS, nhất là nuôi tôm đã phá vỡ quy hoạch rất nhiều, trong khi điều kiện cơ sở hạ tầng không đầy đủ, khiến việc quản lý dịch bệnh rất khó khăn. Hơn nữa, dịch bệnh lại chủ yếu phát sinh từ các mô hình nuôi nhỏ lẻ, tự phát của người dân và do chưa kiểm dịch hết con giống NK. Ông Luân nhận xét: “TCTS và Cục Thú y cần phối hợp chặt chẽ trong công tác quan trắc cảnh báo môi trường và kiểm soát dịch bệnh tôm. Trong năm 2013 sự phối hợp đó chưa tốt, năm 2014, phải làm tốt hơn. Cần chia sẻ thông tin giữa hai đơn vị về diện tích nuôi, diện tích bị bệnh…. và cả số lượng tôm giống NK để kiểm tra chéo và giám sát chặt chẽ đầu ra của con giống”. Tổng Cục trưởng Vũ Văn Tám kết luận: “Công tác trước mắt của lĩnh vực NTTS là tính toán lại các chỉ tiêu đặt ra đối với nuôi tôm năm 2014, nhất là nuôi tôm chân trắng. Hiện tại, cần giữ ổn định diện tích và tăng cường quản lý vùng nuôi, bám sát quy hoạch. Việc mở rộng diện tích cần tính toán theo tín hiệu thị trường để điều chỉnh cho phù hợp, nhằm đảm bảo kiểm soát được dịch bệnh, phòng chống thiên tai và đảm bảo hiệu quả cho người nuôi”. n T.P.

Tôm HLSO phục vụ XK của Camimex

8

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

Nhiều kỳ vọng xuất khẩu 2014 Tại Hội nghị Triển khai nhiệm vụ ngành Công thương năm 2014 do Bộ Công Thương tổ chức ngày 10/1/2014 tại Hà Nội, nhiều chuyên gia dự báo, trong vòng 2 năm tới kinh tế thế giới sẽ dần ổn định lại sau khủng hoảng, tăng trưởng khả quan hơn, tạo điều kiện thúc đẩy XK. Nhưng nền kinh tế trong nước phục hồi chậm và còn nhiều trở ngại như sức mua giảm, hàng tồn kho nhiều, chi phí đầu vào cao, khó khăn về nợ xấu, thanh khoản của các ngân hàng thương mại,...

M

ặc dù còn nhiều khó khăn nhưng hiện nay, Việt Nam đang hướng đến Cộng đồng ASEAN 2015, đàm phán và ký nhiều hiệp định thương mại tự do, đáng chú ý là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP… Bên cạnh đó, Nhà nước ngày càng quan tâm nhiều đến tình hình sản xuất, kinh doanh của DN, chính sách hỗ trợ, khuyến khích XK ngày càng được hoàn thiện, tăng trưởng tín dụng 2014 được dự báo sẽ tốt hơn... Vì vậy triển vọng tăng trưởng XK, tăng trưởng kinh tế sẽ tốt hơn.

Tình hình xuất khẩu năm 2013

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, tổng kim ngạch XK năm 2013 ước đạt khoảng 132,17 tỷ USD, tăng khoảng 15,4% so với năm 2012, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra (tăng 10%). Trong đó, các DN trong nước chiếm tỷ trọng 33%, ước đạt 43,75 tỷ USD, tăng 3,5%, các DN có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) chiếm tỷ trọng 61,4% ước đạt 81,18 tỷ USD, tăng 26,8% so với năm 2012. Năm 2013 là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam xuất siêu kể

Kim ngạch XK từ năm 2011 đến năm 2013

Nguồn: Bộ Công Thương

từ khi gia nhập WTO, ước xuất siêu 863 triệu USD.Tăng trưởng XK đạt được ở hầu hết các mặt hàng XK chủ lực. Cả nước có 22 nhóm hàng có kim ngạch XK trên 1 tỷ USD. Riêng giá trị XK nhóm hàng nông, lâm, thủy sản bị ảnh hưởng của một số nông sản sản lượng hạn chế nên XK giảm. XK nhóm hàng này ước đạt 19, 85 tỷ USD, chiếm 15% trong tổng kim ngạch XK, giảm 5,3% so với cùng kỳ năm 2012. Nhìn chung, năm 2013 XK nhóm hàng nông, lâm, thủy sản không được lợi cả về giá và lượng. Trong số 7 mặt hàng tính được về giá và lượng thì có 4 mặt hàng có lượng XK giảm, gồm

có sắn và sản phẩm từ sắn giảm 26,8%; cà phê giảm 25,7%; gạo giảm 16,1%; và chè giảm 5,2%. Có 5 mặt hàng giá XK giảm, gồm hạt điều, cà phê, hạt tiêu, gạo và cao su. XK thủy sản tiếp tục gặp khó khăn do rào cản thương mại từ các nước NK nên chỉ tăng 10,5%, thấp hơn mức tăng trưởng XK chung. Tính chung kim ngạch XK nhóm hàng này giảm 649 triệu USD do giá XK giảm và giảm 1,3 tỷ USD do lượng XK giảm. Tính chung giảm do cả giá và lượng là 1,95 tỷ USD. Về thị trường XK, năm 2013 mặc dù khủng hoảng kinh tế, sức mua thị trường thế giới suy giảm, nhưng các thị trường XK truyền thống của Việt Nam như Đông Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

9


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

Quang cảnh Hội nghị

Nam Á, EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ tiếp tục được giữ vững. XK tăng trên tất cả các thị trường, trong đó thị trường châu Phi tăng cao nhất, ước 28%; tiếp đó là châu Mỹ, tăng 23,1%, châu Âu tăng 19,4%, châu Đại Dương tăng 14,1% và châu Á tăng 12,7%. Thị trường châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu thị trường XK của Việt Nam, chiếm 51,2%. Tiếp đến là châu Mỹ 21,2% và châu Âu 20,5%, với kim ngạch XK ước lần lượt 67,7 tỷ USD, 28,06 tỷ USD và 27,05 tỷ USD. Theo Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng, kết quả này phản ánh năng lực sản xuất hàng XK của nền kinh tế ngày càng được mở rộng, cơ cấu hàng XK từng bước đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng các sản phẩm đã qua chế biến. Riêng đối với lĩnh vực thủy sản, báo cáo của VASEP cho biết, khó khăn trong XK thủy sản năm qua vẫn chưa được khắc phục, sự sụt giảm xảy ra với hầu như tất cả 10 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

các mặt hàng ngoại trừ tôm. Các thị trường chính vẫn chưa thật sự thoát khỏi suy thoái, tình trạng thiếu hụt nguyên liệu cho chế biến cùng với sự sụt giảm chất lượng nguyên liệu XK vẫn là thách thức cho ngành XK thủy sản. Điểm nổi bật của XK thủy sản 2013 là sự phục hồi của ngành tôm trước nhiều thuận lợi, từ sự cải thiện trong sản xuất tôm nguyên liệu trong nước do bước đầu kiểm soát được dịch bệnh, đến các kết quả có lợi trong các vụ kiện tôm. Tổng giá trị XK tôm Việt Nam năm 2013 đạt 3,1 tỷ USD, tăng 39,1% so với năm 2012, đóng góp 46,3% cho kim ngạch XK thủy sản, chủ yếu nhờ giá XK tăng cao, tập trung chủ yếu vào thị trường Mỹ, tăng 82,5 %.

Năm 2014: Tập trung đẩy mạnh xuất khẩu

Năm 2013, mặc dù quy mô và tốc độ tăng trưởng XK hàng hóa đều vượt mức kế hoạch đề ra và tiếp tục xuất siêu, nhưng XK vẫn

tăng trưởng chủ yếu ở những nhóm mặt hàng do khối DN FDI sản xuất và là những mặt hàng dựa vào nguồn lao động rẻ và gia công hơn là những mặt hàng có GTGT cao. Bên cạnh đó, chất lượng tăng trưởng XK nhìn chung chậm cải thiện, cơ cấu hàng hóa XK chuyển dịch chậm, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp, chế biến, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao vẫn chưa thay đổi đáng kể. Tỷ trọng XK sang các thị trường mới như châu Phi, Mỹ Latinh còn nhỏ và chưa có giải pháp mang tính đột phá để thực sự tận dụng được cơ hội XK sang các thị trường tiềm năng này… Do đó, Bộ Công Thương định hướng cho những năm tiếp theo tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp XK, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng cần tập trung khai thác cơ hội mở cửa thị trường từ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế để


đẩy mạnh XK vào các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Ấn Độ... đồng thời khai thác các thị trường tiềm năng như Nga, Đông Âu, châu Phi, Trung Đông và Mỹ Latinh... Dự kiến kim ngạch XK 2014 đạt khoảng 145,4 tỷ USD, tăng 10%, trong đó, nhóm hàng nông, lâm, thủy sản dự kiến đạt 20,7 tỷ USD, tăng 4,6 % so với năm 2013 và chiếm tỷ trọng khoảng 14,3%. Năm 2015, dự báo tăng trưởng XK hàng hóa 10%, ước đạt 160,3 tỷ USD, nhập siêu kiểm soát ở mức 5 % kim ngạch XK. Bộ Công Thương dự báo, năm 2014, tôm và cá tra tiếp tục là mặt hàng chủ lực kéo XK thủy sản tăng trưởng, trong đó, XK tôm vẫn giữ ngôi vị quán quân trong XK thủy sản, do thị trường vẫn rộng mở, giá cao. Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng cho rằng, để đạt được mục tiêu, kế hoạch đề ra, cần tập trung đẩy mạnh XK, nhất là những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, giảm tỷ trọng hàng XK là nguyên liệu thô và sơ chế; Tích cực, chủ động khai thác, mở rộng thị trường; Đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ với các đối tác; Ưu tiên XTTM, XTXK các mặt hàng chủ lực như tôm, cá, gạo, cà phê...vào các thị trường XK trọng điểm, thị trường mới có nhiều tiềm năng; Hệ thống hóa những yêu cầu chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để phổ biến kịp thời cho thương nhân XK; Đẩy mạnh công tác thỏa thuận với nước NK công nhận lẫn nhau về chất lượng hàng hóa. Đồng thời triển khai

bài bản và hiệu quả hơn các biện pháp cảnh báo sớm và vận động đấu tranh hiệu quả trong các tranh chấp thương mại... Đại diện VASEP, TTK Trương Đình Hòe khẳng định, cho đến nay, Việt Nam đang XK hầu hết là sản phẩm thô, do đó chất lượng chính là thước đo giá trị và thương hiệu thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Để gia tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm Việt Nam với các nước cùng sản phẩm, VASEP kiến nghị, các cơ quan nhà nước cần quan tâm sát sao cho khâu sản xuất tôm nguyên liệu đủ tiêu chuẩn chất lượng XK thông qua tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn và quản lý kiểm soát chất lượng theo chuỗi từ con giống, thức ăn tới sản phẩm chế biến, XK nhằm duy trì và cải thiện chất lượng tôm Việt Nam và giảm giá thành sản xuất; Quy hoạch lại sản lượng cá tra nhằm cân đối cungcầu; Hỗ trợ Hiệp hội và DN đấu tranh với các vấn đề tranh chấp TM; Hỗ trợ DN duy trì XTTM tại các thị trường trọng điểm như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc...; Đẩy mạnh quảng bá hình ảnh cá tra Việt Nam ra thế giới; Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm giúp DN gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường XK thủy sản quốc tế, ... Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, trong hội nhập quốc tế và kinh tế đối ngoại, trước hết cần tập trung mở rộng thị trường XK, do đó Bộ Công Thương cần tích cực đưa ra những chính sách ủng hộ các

DN trong nước, bảo vệ thị trường nội địa, đồng thời tìm kiếm, mở rộng thị trường XK; Thúc đẩy hội nhập kinh tế- quốc tế, tận dụng tối đa những lợi ích mà các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) mang lại; Thực hiện tái cơ cấu theo hướng gia tăng chất lượng sản phẩm, đưa KHCN vào sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để duy trì XK hàng hóa ổn định, DN trong nước cũng cần đầu tư xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài, nâng cao khả năng quản lý, quản trị tốt dòng vốn, dòng tiền, nguồn nhân lực, đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa... Trả lời phỏng vấn của các phóng viên bên lề hội nghị, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng nhấn mạnh, trong bối cảnh Việt Nam đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, khi đàm phán các Hiệp định TM tự do, chúng ta đều mong muốn các DN đang hoạt động tại Việt Nam, đặc biệt là các DN trong nước là đối tượng chính được hưởng những ưu đãi từ những hiệp định này. Do đó, các DN cần tích cực tham gia tham vấn trong đàm phán chính sách TM quốc tế. Bên cạnh đó, các DN cũng cần phải chủ động hơn, có lộ trình cụ thể để khi các hiệp định chính thức có hiệu lực thì DN có thể tận dụng ngay những cơ hội mà các FTA mang lại. n Nguyễn Thị Hồng Hà

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

11


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

Gia tăng giá trị sản phẩm

để nâng cao lợi nhuận Khởi đầu năm mới, ngành thủy sản nhận tin vui xuất khẩu ước đạt 552 triệu USD trong tháng 1/2014, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên để cạnh tranh thành công trên thị trường thế giới, ngành chế biến cần đẩy mạnh sản xuất sản phẩm GTGT.

Tình hình ngành thủy sản thế giới

Theo đánh giá của Globefish, trong năm 2013 tổng sản lượng thủy sản thế giới tiếp tục tăng, đạt khoảng 160 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng vượt sản lượng đánh bắt; tiêu thụ trên đầu

Tôm bao bột bánh mì phục vụ XK

12 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

người bình quân đạt 20kg/năm. Mặc dù nguồn cung từ nuôi tăng nhưng số loài khai thác tự nhiên đưa vào làm thực phẩm trực tiếp cho con người nhiều hơn và sản xuất bột cá giảm. Thương mại thủy sản tăng trưởng vừa phải cả về giá trị

và khối lượng. Tình hình thị trường nói chung tiếp tục khó khăn, nhất là một số thị trường truyền thống ở các nước phát triển. Giá một số loài nuôi tăng nhẹ, chủ yếu do thiếu nguồn cung mà không phải do nhu cầu cao. Chỉ số giá thủy sản của FAO cho thấy giá tiếp tục giữ ở mức cao, mặc dù đã giảm so với mức đỉnh hồi cuối năm 2012. Khó khăn về nguồn cung cá hồi nuôi và tôm nuôi đã đẩy giá lên nhưng giá các loài cá thịt trắng, cá ngừ và các loài cá nổi khác đều giảm. Các loài nuôi như cá chẽm giá xuống thấp do nguồn cung vượt xa so với nhu cầu trước mắt của thị trường. Đánh giá triển vọng, Globefish cho rằng các thị trường thủy sản tiếp tục bị ảnh hưởng của sự bất ổn kinh tế ở các thị trường truyền thống. Tại Nhật Bản, đồng yên suy yếu đã khiến thủy sản NK đắt đỏ hơn; NK thủy sản các loại của Mỹ trong năm 2013 cũng chỉ tăng nhẹ gần 1% về khối lượng. Các nước đang phát triển có vẻ khả quan hơn do nhu cầu trong nước tăng.


Một số thay đổi trên thị trường NK thủy sản Việt Nam

Đầu năm 2014 đã có hai sự kiện khá thuận lợi cho XK. Ngày 9/1/2014, Cơ quan quản lý An toàn thực phẩm và Kiểm dịch động thực vật Ucraina

Các nhà NK và XK hàng đầu năm 2010, 2011 &, 2012

USD/tấn

Thuế NK vào các nước phát triển thường thấp hoặc bằng O, vì vậy, việc tiếp cận thị trường chủ yếu phụ thuộc vào khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn bắt buộc của các nước NK; tuy nhiên điều này cũng rất khó khăn, do sự bùng nổ các tiêu chuẩn tự nguyện gắn với tính bền vững, khả năng truy xuất nguồn gốc và chứng nhận, những yếu tố này làm đội giá thành phẩm và mang lại rất ít lợi nhuận cho người sản xuất. Tiêu thụ thủy sản của Trung Quốc sẽ tăng mạnh. Hiện nước này là nhà NK thủy sản lớn thứ tư thế giới (sau EU, Nhật và Mỹ) nhưng lại là quốc gia riêng rẽ XK thủy sản lớn nhất. Tiêu thụ tính trên đầu người dự kiến sẽ tăng lên mức 31/kg/năm. EU-28 về lâu dài vẫn tiếp tục tăng trưởng và giữ vị trí là thị trường thủy sản số một thế giới, do dân số tăng và tiêu thụ ổn định ở mức 23kg/người/năm. Mỹ sẽ tiếp tục tăng trưởng và vượt qua Nhật Bản, do dân số tăng và tiêu thụ ổn định. Còn Nhật Bản, về lâu dài tiêu thụ thủy sản sẽ giảm. Theo Felix Dent (FAO), NK thịt đang dần nhiều hơn so với NK thủy sản. Tiêu thụ thủy sản vẫn cao - 57kg/người/ năm - nhưng đang giảm dần.

EU Nhật -27 nước

Mỹ

Trung Quốc

Hàn Quốc

EU Trung NaUy Thái Lan Việt Nam -27 nước Quốc

Chỉ số giá thủy sản theo loài, 1990 – 2013

Các loài thủy sản khác

Cá thịt trắng

Cá hồi

Tôm

Cá nổi

Cá ngừ

(SVPS) đã ra thông báo kết quả đầu ra đáng quan tâm ở Đông Xuất thủy sản Việt Nam, 2000-2013 đợt thanh trakhẩu hồi tháng 12/2013 Âu. Tiếp đó,(Triệu ngày USD) 21/1/2014, Bộ vàTriệu chính thức cho phép 10 DN Y tế Lao động và Phúc Nhật USD Tăng,lợi giảm (%) chế Bản đã thông báo chính 70thức 8000biến thủy sản được XK cá tra7000vào Ucraina. Tuy tiêu thụ nâng giới hạn dư lượng tối 60 đa không nhiều thủy sản của nước của ethoxyquin (chất chống50oxy 6000 ta,5000 nhưng Ucraina cũng là một hóa sử dụng trong thức ăn 40tôm) 4000 3000 2000

30 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

20 10

13


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN Các loài thủy sản khác

trong tôm NK lên 0,2 ppm, tăng 20 lần so với mức 0,01ppm trước đó. Nhật Bản cũng đã quyết định dỡ bỏ quy định kiểm tra ethoxyquin đối với 100% lô tôm NK từ Việt Nam. Tuy nhiên, mới đây Cơ quan Giám sát Nông nghiệp Nga (Rosselkhoznadzor) đã ra quyết định tạm ngưng NK một số mặt hàng thủy sản, trong đó có cá tra từ Việt Nam với lý do không bảo đảm chất lượng VSATTP. Quyết định có hiệu lực từ 31/1/2014. Trong năm 2013, tổng giá trị NK thủy sản Việt Nam vào Nga đạt trên 100 triệu đôla, trong đó cá tra 39,5 triệu USD. NK của Nga chiếm khoảng 1,5% tổng giá trị XK thủy sản của nước ta. Mặc dù là tạm ngưng, nhưng quyết định này đã gây khó khăn lớn cho các DN cá tra khi đang gặp bế tắc trên thị trường EU. Bên cạnh đó, việc Mỹ thông qua Dự luật Nông trại với điều khoản chuyển thanh tra cá nheo từ Cơ quan quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (FDA) sang Bộ Nông nghiệp, với dự kiến áp dụng toàn bộ quy trình kiểm soát ATTP trong chuỗi sản xuất cá tra tương tự như sản xuất cá nheo của Mỹ là trở ngại rất lớn cho ngành cá tra nước ta. Mới đây, chương trình Seafood Watch thuộc tổ chức Monterey Bay Aquarium cũng đang thực hiện những đánh giá về tác động môi trường để xếp hạng một số loài nuôi. Tôm sú và tôm thẻ chân trắng nuôi của ta cũng đang nằm trong diện bị “quan tâm” một cách tiêu cực. 14 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Cá thịt trắng

Cá hồi

Tôm

Cá nổi

Cá ngừ

Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, 2000-2013 (Triệu USD) Triệu USD

Tăng, giảm (%)

8000

70

7000

60

6000

50

5000

40

4000

30

3000

20

2000

10

1000

0

0

-10 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Giá trị (Triệu USD)

Gia tăng giá trị để cải thiện giá và hạn chế rào cản chống bán phá giá

Tăng, giảm (%)

khu vực như Ấn Độ, Bănglađét, Pakistan,… có các chủng loại hàng hóa tương tự Việt Nam, cũng XK dưới dạng nguyên liệu Với giá trị XK hơn 6,7 tỷ USD nhưng với giá rất cạnh tranh, trong năm 2013, Việt Nam củng DN ngành chế biến và XK thủy cố vững chắc hơn vị trí thứ 4 của Xuất khẩu thủy sản sang thị trường chính EU, Nhật Bản và Mỹ, sản nước ta không thể tiếp tục mình trong top 10 nước XK thủy 2000-2013 (Triệu USD) chỉ tập trung gia tăng khối sản hàng đầu trên bản đồ thương Triệu USD lượng, mà phải tăng cường tỷ mại thế giới. trọng hàng chế biến GTGT. Liên tiếp vượt qua những 1600 1400 cao về kim ngạch XK, Làn sóng nâng cấp cơ sở đỉnh 1200 vật chất, áp dụng chương trình có đóng góp lớn cho ngành 1000 nghiệp trong vai trò là quản lý chất lượng quốc tế và nông 800 đổi mới công nghệ cũng như bệ đỡ của nền kinh tế, nhưng 600 phương thức quản lý trong ngành XK thủy sản vẫn đang 400 ngành chế biến thủy sản trong đứng 200 trước nhiều thách thức những năm cuối 1997 - 2002 đã lớn 0 trong cuộc cạnh tranh 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2011 ngoặt 2012 2013 tạo 2008 ra 2009 một2010 bước về thị toàn cầu, về thị trường, chất trường, về giá trị XK và sự thay lượng, giá thành và mẫu mã EU Nhật Bản Mỹ đổi vượt bậc về trình độ sản xuất sản phẩm. và chất lượng sản phẩm.Nhưng Xu hướng tiêu thụ thực đến nay, tình hình và nhu cầu phẩm thế giới đang chuyển thị trường đã có rất nhiều biến mạnh sang các loại sản phẩm chuyển. Để duy trì lợi nhuận chế biến sẵn, tiện dụng, trong và phát triển bền vững, ngành đó có nhiều sự đổi mới về bao chế biến XK phải tạo nên một bì, kích cỡ gói sản phẩm và làn sóng mới về phát triển mặt cách thức sử dụng tối giản bên hàng chế biến sẵn, GTGT mới cạnh yêu cầu về nhãn mác bền có thể chạy đua hiệu quả trên vững. Khi ngày càng có nhiều thương trường quốc tế. nhà cung cấp mới khác trong


chạy theo xu hướng chung của Hiện nay, thủy sản dạng thị trường. nguyên liệu vẫn chiếm một tỷ Sản phẩm thủy sản Việt trọng khá cao trong XK. Cụ thể, Nam rất dồi dào và phong phú, trong ba mặt hàng có giá trị XK luôn đứng trong tốp 10 nhà cao nhất năm 2013 thì mặt hàng XK thủy sản lớn nhất trên thị tôm thuộc mã HS 03 - tôm các trường quốc tế, nhưng chưa loại tươi/sống/đông lạnh/khô Các loài thủy sản khác Cá thịt trắng Cá hồi Tôm Cá nổi Cá ngừ tạo ra nét riêng biệt nổi bật cho - chiếm trên 67%, trong khi mã quốc gia, như Thái Lan với các HS 1605 - tôm chế biến các loại nhãn hiệu cá ngừ hộp và tôm; - chỉ chiếm chưa đến 33%. Tỷ Philippin với cá ngừ tươi, đông trọng XKXuất cá tra chếthủy biến chiếm khẩu sản Việt Nam, 2000-2013 (Triệu USD) lạnh và đồ hộp, Na Uy với cá phần rất không đáng kể, chỉ có Triệu USD Tăng, giảm (%) hồi; Ôxtrâylia với bào ngư và hơn 0,6%, với 11 triệu USD so 8000 70 tôm hùm đá, v.v... với 1,750 tỷ USD XK cá tra tươi/ 7000 60 Việc xây dựng thương hiệu đông lạnh (chủ yếu là philê). 6000 50 cho các sản phẩm XK chủ Ngành cá ngừ đạt được tỷ lệ tốt 5000 40 lực đã được các cơ quan30nhà nhất, nhưng cũng không quá 4000 nước chủ trương triển 20khai bán, đó là 48% giá trị XK cá ngừ 3000 từ nhiều năm nhưng chưa có chế biến/52% giá trị XK cá dưới 2000 10 kết quả. Tuy nhiên, các DN dạng nguyên liệu. 1000 0 cũng không quá trông chờ Thực tế, ngành chế biến và 0 -10 2000sản 2001chưa 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2009nước. 2010 2011 2012 2013 vào2008 nhà Nhiều DN như XK thủy có một chiến USD) Minh Tăng, giảm (%) Phu Seafood Corp., Vinh lược riêng về đầuGiátưtrị (Triệu nghiên Hoan Corp., Quoc Viet Co., cứu phát triển sản phẩm, yếu Ltd, Stapimex, Agifish, Fimex, tố rất quan trọng để tăng cường Thuan Phuoc Corp., Havico, sản phẩm GTGT. Công việc này Cafatex, Camimex, Sea Minh chủ yếu chỉ do một số ít DN tự Hai, Havuco, Trung Son, triển khai, còn phần lớn vẫn thụ Đại Thành, Godaco, Sotico, động đáp ứng theo đơn hàng và Xuất khẩu thủy sản sang thị trường chính EU, Nhật Bản và Mỹ, 2000-2013 (Triệu USD) Triệu USD 1600 1400 1200 1000 800 600 400 200 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

EU Nhật Bản

Mỹ

Highlandragon, Hai Nam Co., Ltd vv….đã tạo dựng được uy tín và thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình trên các thị trường quốc tế . Trong tình trạng luôn thiếu nguyên liệu và giá lại cao, các DN đều xác định phải tổ chức lại và nâng cao năng lực sản xuất hàng GTGT, nhằm nâng cao giá sản phẩm, tránh lãng phí nguyên liệu và tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân, điều quan trọng nữa là nâng cao tính an toàn thực phẩm và hạn chế một phần rủi ro về chất lượng sản phẩm. Vai trò của các ngành công nghiệp phụ trợ, tạo ra nguồn cung cấp ổn định, những sản phẩm như nước sốt, gia vị, bao bì, nhãn mác, phương thức bao gói,... chất lượng cao và giá thành hợp lý đang là một thách thức không nhỏ, vì cho đến nay vẫn phải nhập khẩu. Việc tăng cường sản xuất sản phẩm GTGT đòi hỏi sự hỗ trợ và đồng hành của các cơ quan chức năng thuộc ngành thủy sản và Bộ Công Thương trong xúc tiến bán hàng và quảng bá sản phẩm. Công tác này phải được đổi mới để giúp DN tiếp cận được các hệ thống phân phối và bán lẻ tại các thị trường nhằm mở rộng đầu ra cho các sản phẩm chế biến sâu, gia tăng giá trị của nước ta, nhằm mang lại lợi nhuận hợp lý cho nhà chế biến XK và sau đó cho người sản xuất nguyên liệu. n Phương Mai

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

15


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

Đánh giá tình hình xuất khẩu tôm 2013:

Những ý kiến thẳng thắn và tâm huyết Ông Phạm Anh Tuấn Phó Tổng Cục trưởng Thủy sản

Về lựa chọn loài tôm nuôi, tôi cho rằng chúng ta không thể bỏ nuôi tôm sú, đặc biệt là tôm sú nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến ở vùng bán đảo Cà Mau, vì một số lý do. Thứ nhất, chúng ta vẫn là một trong số ít nước sản xuất tôm sú trên thị trường nên cần phải giữ thị phần ta đang có. Thứ hai, trong mô hình nuôi tôm quảng canh hiện tại ở Cà Mau, cần phải có các đánh giá tác động môi trường một cách đầy đủ, trước khi Bộ NN&PTNT quyết định nên hay không nên đưa tôm thẻ vào. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần đẩy mạnh nuôi tôm thẻ vì loài này có thời gian nuôi ngắn nên có thể tăng năng suất. Bộ NN&PTNT cũng đã định hướng sẽ phát triển tôm thẻ ở các vùng nuôi thâm canh và bán thâm canh, kể cả ở các vùng nuôi tập trung và không tập trung. Đối với vấn đề dịch bệnh tôm, năm 2013 vừa qua chúng ta đã có cơ hội tổ chức Hội nghị NTTS Châu Á-Thái Bình Dương (APA2013), với rất nhiều chuyên đề thảo luận về EMS. Việt Nam 16 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

được đánh giá đã có một số thành công về khắc phục EMS, như xác định được một số nguyên nhân, kiểm soát được sự lây lan,… Năm 2014, theo cảm nhận của tôi, có khả năng Thái Lan sẽ phục hồi sau EMS, nhưng cũng phải mất khoảng 1-2 năm mới khôi phục được như trước. Ấn Độ hiện chưa có vấn đề EMS nhưng vụ nuôi của họ chậm hơn chúng ta 1,5 - 2 tháng. Do đó, trong nửa đầu năm 2014 chúng ta vẫn còn cơ hội rất tốt cần tận dụng triệt để.

Ông Trần Thiện Hải Chủ tịch VASEP, TGĐ Công ty CP Thủy sản Minh Hải (Bạc Liêu)

Ở góc độ DN, riêng tôi và cộng đồng DN đều mong muốn và đều cần người dân nuôi cả tôm sú và tôm thẻ. Hiện nay, tôm thẻ có ưu điểm là thời gian nuôi nhanh, giá cao nên người dân đổ xô vào nuôi. Người người dân cho rằng tôm sú có nhiều bệnh hơn, thời gian nuôi dài hơn nên cũng nhiều rủi ro hơn. Tôi nghĩ, đây là lúc DN cùng các cơ quan quản lý phải làm sao để giảm thiểu được rủi ro và lấy lại niềm tin vào tôm sú nơi người dân.

Có nhiều vấn đề cần giải quyết, nhưng chất lượng con giống là việc chính mà Nhà nước phải làm. Phải làm sao để người dân thấy nuôi tôm sú cũng có lợi giống như nuôi tôm thẻ trong thời gian qua. Hiện nay, con giống tôm thẻ được quản lý khá tốt, nhưng tôm sú thì hoàn toàn ngược lại. Bơm chích tạp chất trong tôm là vấn nạn kéo dài đã gần 20 năm qua, kể từ ngày nuôi tôm sú phát triển. Tuy nhiên, qua 20 năm vấn đề vẫn không có gì thay đổi, thậm chí còn tệ hơn. Trước tình trạng ngày càng xấu đi như vậy, chúng ta lại nghĩ đến cách tiếp cận là chấp nhận nó, tìm cách che dấu nó. Nhưng tôi khẳng định, rằng hiện nay tất cả các nhà NK tôm Việt Nam ở các thị trường đều đã biết và cảnh báo về điều này. Tôi nghĩ, đã đến lúc cộng đồng DN thủy sản, đặc biệt là VASEP phải thay đổi cách tiếp cận, không che dấu nữa, mà cùng nhau đấu tranh triệt để để chấm dứt vấn nạn này.

Ông Lê Văn Quang Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Thủy sản Minh Phú (Cà Mau)


Hiện nay gần như toàn bộ thế giới đã chuyển sang nuôi tôm chân trắng, dù cho nhu cầu tôm sú trên thị trường vẫn còn rất tốt. Chúng tôi đã nghiên cứu rất nhiều về tôm sú và khẳng định, tôm sú thực tế vốn có đặc tính sinh học tốt hơn tôm thẻ. Vậy nhưng, qua thời gian được gia hóa, chọn dòng.. chính tôm thẻ bây giờ lại có nhiều ưu thế vượt trội hơn cả tôm sú. Vì sao lại thế? Đơn giản là vì chưa có quốc gia đầu tư nghiên cứu và cải tạo thành công giống tôm sú sạch bệnh. DN chúng tôi đã tự nghiên cứu, đã tự làm, nhưng năng lực của chúng tôi chỉ có hạn. Nhìn sang Thái Lan, họ đã và đang âm thầm gia hóa, chọn giống tôm sú từ vài năm qua. Hiện nay, họ đã tạo được giống sú có đặc tính sinh học tốt hơn và đang bắt đầu nuôi thử nghiệm. Nhà nước đầu tư đúng thì chỉ cần 5-7 năm sau chất lượng tôm sú chắc chắn sẽ vượt tôm thẻ. Đây phải là trách nhiệm của quản lý Nhà nước. Đối với nạn bơm chích tạp chất, tôi khẳng định chúng ta không thể chống được, vì lợi nhuận thu được khi bơm chích hiện nay có thể lên đến hơn 50.000 đồng/kg, đây là siêu lợi nhuận. Bây giờ phải tiếp cận theo kiểu của thị trường Hàn Quốc, dứt khoát nói “không” đối với tôm bơm tạp chất. Phải siết mạnh tay mới mong kiểm soát được.

Ông Võ Quang Huy Phó Chủ tịch Hiệp hội Tôm Mỹ Thanh (Sóc Trăng)

Theo tôi, tôm thẻ có những lợi thế. Thứ nhất là thành công trong việc gia hóa và kiểm soát được dịch bệnh. Thứ hai, tôm thẻ

nuôi nhanh, giá trị thương phẩm đến sớm, mau thu hồi vốn nên ít rủi ro. Những người nuôi tôm chúng tôi nói chung, làm việc gì có lời cao mà ít rủi ro thì chúng tôi làm. Tôi nghĩ con tôm thẻ trong năm tới sẽ tăng hơn nhiều so với dự báo. Năm 2013, chúng ta cho rằng diện tích nuôi tôm tăng nên sản lượng tăng. Thực ra chỉ là tăng vòng quay thôi, bởi thực tế diện tích nuôi tôm đã bị thu hẹp, vì người nuôi không có vốn. Theo tôi, năm qua thành công là nhờ sự cần cù của người nông dân. Họ rút tỉa từng “bí kíp” trong ao nuôi. Chẳng hạn, do tình hình dịch bệnh, người nuôi sẽ không thả nuôi hàng loạt mà thả rải rác. Các DN chế biến tôm nghĩ lượng tôm nguyên liệu sẽ tập trung dồi dào vào tháng 7 đến tháng 10, nhưng tôi có thể khẳng định, từ đây đến cuối năm sản lượng sẽ không tập trung vào một thời điểm mà sẽ thu hoạch liên tục rải rác quanh năm. Các DN chế biến cứ yên tâm. Riêng về nạn bơm chích agar, tôi thấy tình hình bây giờ đã hết sức nghiêm trọng. Theo tôi biết, bây giờ đã là xưởng chích agar chứ không còn là người chích nữa rồi. Tôi cho rằng đây cũng chỉ là quy luật thị trường, vì có thị trường, có người mua, có người bán thì mới có người làm.

Nếu bây giờ VASEP vận động được khách hàng kiên quyết không nhập tôm bơm agar nữa, thì làm gì còn ai làm nữa, tự động sẽ chấm dứt thôi.

TS. Nguyễn Thị Hồng Minh Nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy sản, Chủ tịch Danh dự VASEP

Mọi người nói không có giải pháp gì đối với việc bơm chích agar vào tôm, vậy tại sao Thái Lan làm được, các nước làm được? Tôi đề xuất làm theo mô hình chợ bán buôn nguyên liệu tôm, từ chợ bán buôn chúng ta sắp xếp lại và kiểm soát thông qua chợ. Ý tưởng này đã có từ lâu nhưng không ai chịu làm. Chúng ta phải bắt đầu ngay bây giờ. Chợ là đầu mối của chuỗi tiêu thụ, nơi chúng ta có thể kiểm soát được. Tôi đề nghị Bộ NN&PTNT làm việc với các tỉnh để thành lập các chợ bán buôn và kiểm soát chất lượng thông qua chợ, và tôi tin sẽ có nhiều DN sẵn sàng đầu tư. Tôi kỳ vọng Bộ NN&PTNT kết hợp với VASEP quyết tâm làm chuyện này, có thể chưa hoàn thành được trong vòng 1 năm, nhưng chúng ta phải bắt tay vào làm ngay. n Trần Duy thực hiện

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

17


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

Thủy sản - điểm tựa chính

của ngành nông nghiệp Trà Vinh Sau quá trình phục hồi và tạo đà tăng trưởng trong năm 2013, ngành thủy sản Trà Vinh có đủ cơ sở để định hướng chiến lược phát triển trong những năm tiếp theo, tiếp tục là ngành kinh tế chủ lực và là điểm tựa của ngành nông nghiệp của tỉnh.

Phục hồi và tăng trưởng

Mặc dù năm 2013 ngành nông nghiệp tỉnh Trà Vinh phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, như sự xâm nhập sâu và đột ngột của nước mặn vào vùng nội đồng, khí hậu biến đổi thất thường, dịch bệnh lây lan,… nhưng toàn ngành nông nghiệp của tỉnh đã nỗ lực khắc phục và đạt được sự tăng trưởng khá, cơ bản hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Ông Nguyễn Văn Phong, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, nhận định : “Năm 2013 là năm thắng lợi trong gian khó của hoạt động sản xuất, kinh doanh ngành nông nghiệp, đặc biệt là ngành thủy sản. Ngành đã tạo được đà phục hồi và tăng trưởng đáng kể”.

Theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh, giá trị GDP toàn ngành nông nghiệp ước đạt 3.407 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 1994), tăng 3,5%, giá trị sản xuất 8.067 tỷ đồng, bằng 98,74% kế hoạch, tăng 5,88% so với năm 2012. Trong đó, giá trị sản xuất của riêng lĩnh vực thủy sản ước 2.946 tỷ đồng, đạt 92,5% so với kế hoạch và tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2012… Những số liệu này cho thấy năm 2013 ngành thủy sản của tỉnh đã phục hồi đáng kể và bắt đầu có đã tăng trưởng sau những thiệt hại trong năm 2012 và những năm trước đó. Nuôi trồng thủy sản có vai trò quan trọng nhất trong ngành

Hội nghị “Tổng kết hoạt động năm 2013 và triển khai kế hoạch hoạt động năm 2014 ngành NN&PTNT tỉnh Trà Vinh”

18 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

thủy sản, với tổng sản lượng 81.265 tấn, tăng 12,5%, và giá trị sản xuất 1.678 tỷ đồng, tăng 27,4% so với năm 2012. Tôm sú là đối tượng nuôi chủ lực, bao gồm 26.812 lượt hộ nuôi, sử dụng diện tích 30.967 lượt hecta (bằng 172% kế hoạch), tăng 6.241 ha so với năm 2012. Số lượng giống thả nuôi 2,291 tỷ con, sản lượng thu hoạch 12.325 tấn; năng suất bình quân đạt 0,47 tấn/ha.vụ. Có 4.647 hộ nuôi tôm chân trắng trên diện tích 2.323 lượt hecta, tăng 1.623 ha so với cùng kỳ năm 2012. Số lượng giống thả nuôi 1,246 tỷ con, tăng 1,052 tỷ con so với năm trước. Năm 2013 cũng là năm tỉnh Trà Vinh nuôi tôm chân trắng nhiều nhất và đạt được nhiều thắng lợi nhất. Tổng sản lượng thu hoạch tôm chân trắng 8.132 tấn (156% kế hoạch), tăng 7.335 tấn so với năm 2012, năng suất bình quân 3,1 tấn/ha. Hơn một năm trước, nhiều khu vực trong tỉnh bị thiệt hại do dịch bệnh hoành hành, nông dân phải treo ao vì thiếu vốn để khôi phục sản xuất; đến nay đã xuất hiện ngày càng nhiều vùng nuôi bội thu, tôm nuôi được mùa được giá, nông dân sản xuất có lãi, đời sống được cải thiện rõ rệt. Theo đánh


giá của ngành chuyên môn, trong năm 2013 Trà Vinh có khoảng 72% hộ nuôi tôm sú và 80,3% hộ nuôi tôm chân trắng có lãi. Bên cạnh nuôi tôm, nhiều đối tượng thủy sản nuôi khác cũng được chú ý phát triển rộng nhằm đa dạng hóa sản phẩm, tạo công ăn việc làm, ổn định xã hội địa phương. Năm 2013 có 12.387 hộ nuôi cua biển với 94,52 triệu con giống, diện tích 18.243 ha (đạt 122% kế hoạch), sản lượng thu hoạch 7.597 tấn, tăng 1.192 tấn so với năm 2012; 1.304 hộ nuôi tôm càng xanh, thả 25,82 triệu con giống, diện tích 1.137 ha, sản lượng thu hoạch 515 tấn,... Ngoài ra, các hoạt động phục vụ sản xuất NTTS như khuyến ngư, tập huấn chuyển giao kỹ thuật, bảo hiểm, … cũng được chú ý phát triển. Trong năm, 113 hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, với 58,92 ha nuôi cá tra, tôm sú, tôm chân trắng, với tổng phí bảo hiểm 10 tỷ đồng, tổng kinh phí bồi thường là 47,4 tỷ đồng, tạo tâm lý an tâm trong sản xuất cho nông dân.

Điểm tựa của ngành nông nghiệp

Theo lãnh đạo tỉnh Trà Vinh, năm 2014 ngành nông nghiệp tỉnh quyết tâm đẩy mạnh tái cơ cấu để thúc đẩy tăng trưởng, từng bước xây dựng nền nông nghiệp GTGT cao và phát triển bền vững, trên cơ sở thực hiện tái cơ cấu ngành gắn với xây dựng nông thôn mới, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.

Ông Trần Trung Hiền – GĐ Sở NN&PTNT tỉnh Trà Vinh

Năm 2014 và đến năm 2020, ngành thủy sản tiếp tục sẽ là điểm tựa giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của toàn ngành nông nghiệp. Cụ thể, năm 2014 ngành nông nghiệp tỉnh Trà Vinh phấn đấu đạt tăng trưởng GDP 4,25%, giá trị sản xuất tăng 6,77% so với năm 2013; trong đó trồng trọt tăng 4,2%, chăn nuôi 0,46%, lâm nghiệp 0,12% và đặc biệt, thủy sản có mục tiêu tăng trưởng cao nhất 17,18%. Dự kiến, để đạt mục tiêu này, tổng sản lượng thủy sản toàn tỉnh phấn đấu đạt 172.650 tấn, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác lần lượt là 96.850 và 75.800 tấn. Tuy nhiên ngành thủy sản của tỉnh cũng còn nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS tại một số nơi chưa thật sự đồng bộ; quy trình kỹ thuật nuôi tuy đã cải tiến nhưng chưa khống chế được bệnh trên tôm nuôi một cách hiệu quả; sản xuất giống quy mô nhỏ lẻ, không đảm bảo đáp ứng nhu cầu; công tác kiểm soát,

quản lý chất lượng con giống còn nhiều hạn chế; công tác khuyến ngư về xây dựng, nhân rộng mô hình hiệu quả còn chậm; công tác quản lý nhà nước chưa thực sự mạnh, lực lượng thanh tra chuyên ngành mỏng. Đây là những vẫn đề được tỉnh quan tâm ưu tiên tập trung nguồn lực để giải quyết trong thời gian tới. Bên cạnh giải pháp kỹ thuật chủ lực, để hoàn thành mục tiêu đề ra và thực hiện được vai trò của mình, ngành thủy sản Trà Vinh phải kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp khác. Ông Trần Trung Hiền, Giám đốc sở NN&PTNT tỉnh, xác định: “Ngành thủy sản cần đẩy mạnh hoạt động nuôi trồng thủy sản theo nhiều hình thức khác nhau, đa dạng hóa đối tượng, chủng loại nuôi phù hợp với phù hợp với 3 vùng sinh thái ngọt, lợ, mặn, có giá trị kinh tế cao, đa dạng hóa và ngày càng chủ động nguồn nguyên liệu phục vụ nhu cầu chế biến và xuất khẩu”. n Đỗ Văn Thông

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

19


SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN

Tiêu thụ thực phẩm Tết Nguyên đán Giáp Ngọ 2014

Thủy sản tiếp tục lên ngôi

Trong giỏ thực phẩm ngày Tết năm nay, nhiều gia đình đã bổ sung thêm những mặt hàng thủy sản như cá tra philê, cá kho niêu, cá trắm… và nhiều loại sản phẩm khô.

Doanh nghiệp thủy sản chuẩn bị hàng Tết

Công ty CP Xuất Nhập khẩu thuỷ sản Baseafood dự kiến đưa ra thị trường tết khoảng 60 tấn hải sản khô các loại, gồm hơn 200 mặt hàng với mức giá nhìn chung vẫn giữ nguyên so với năm trước. Ngoài các mặt hàng truyền thống và đã có thương

Quầy thủy sản trong siêu thị Intimex

20 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

hiệu như mực lột da, cá chỉ vàng, Tết năm nay, Baseafood còn đưa ra thị trường 5 sản phẩm mới là cá hồng phi lê, cá hồng khô, một số loại cá tẩm gia vị ăn liền… Cùng với một số thương hiệu lớn, quen thuộc với người tiêu dùng trong tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, như Baseafood, Văn Sen, nước mắm Hòn Cau, mắm ruốc

Bà Ba, các cơ sở trong lĩnh vực hải sản cũng đầu tư cho những sản phẩm chất lượng cao như nước mắm Ánh Phương (huyện Xuyên Mộc), mực tẩm gia vị ăn liền Tâm Việt (huyện Long Điền)… góp phần làm phong phú thêm cho thị trường ngày Tết. Theo các nhà sản xuất, giá nguyên liệu đầu vào năm nay


tăng từ 10 đến 20% so với cùng kỳ năm ngoái, thậm chí có mặt hàng như tôm tăng đến 30%. Tuy nhiên, hầu hết DN trong tỉnh chỉ tăng giá bán khoảng 2 đến 3%, có loại vẫn giữ nguyên giá. Không ít DN còn thực hiện chính sách khuyến mãi nhằm kích thích tăng sức mua, bởi đến tận những ngày giáp Tết sức mua trên thị trường vẫn không cao lắm.

Thủy sản làm quà

Tết này, ngồi ở bất kỳ đâu trên cả nước, chỉ cần gọi điện là có được cả ... niêu cá kho “sản xuất” ở tận Hà Nam! Chuyện thật mà như đùa. Mấy năm trước, ít ai nghĩ có thể mua qua mạng những mặt hàng như bánh gai, xôi chè, cá kho, mắm ruốc... Nay thì những mặt hàng ấy cũng đã có trang web, fanpage riêng để giao dịch. Trang web chuyên bán món cá kho này giới thiệu đầy tự hào: Bên cạnh những đặc sản vật thể và phi vật thể như chuối Đại Hoàng, tác phẩm văn học Chí Phèo - Thị Nở, truyện ngắn Lão Hạc..., thì nay, làng Vũ Đại còn nổi danh với món cá kho. Mức giá có thể tới 1 triệu đồng/niêu nhưng nhiều người vẫn chọn loại đặc sản này làm quà Tết. Chưa có điều kiện lập trang web riêng như món cá kho làng Vũ Đại, một nhóm bạn trẻ quê ở Tứ Kỳ, Hải Dương đã nhanh nhạy rao hàng Tết trên Facebook với món đặc sản mắm rươi. Đến cận Tết, giá bán vẫn là 270.000 đồng/0,5 lít. Hiện nay, nhiều gia đình đã cho thêm các loại sản phẩm thủy sản vào thực đơn đón Tết của

mình. Chị Nguyễn Hồng Nguyên tại quận Hoàn Kiếm kể, năm nay chị đã cho thêm vào thực đơn ngày Tết gia đình món cá tra philê. Chị cho biết cá tra philê mua ngay tại siêu thị gần nhà, giá không cao mà lại có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau. Gia đình ông Nguyễn Văn Tú tại Cầu Giấy cũng cho biết năm nay đã mua 2 con cá trắm đen, mỗi con nặng tới 3kg, với giá 130.000/ ký. Ông nói: “Quá ngán các loại thịt và muốn trở lại không khí của ngày Tết xưa nên năm nay cải tiến, ăn Tết với nồi cá trắm kho là tuyệt vời nhất!”.

Thủy sản vẫn nóng sau Tết

Đến hẹn lại lên, giáp Tết Nguyên đán là thời điểm nguồn cung thủy sản giảm tỉ lệ nghịch với nhu cầu của người tiêu dùng, do đó giá các loại sản phẩm đều có xu hướng tăng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số CPI trong tháng 1 của TP. Hồ Chí Minh đối với mặt hàng thủy hải sản tươi sống tăng tới 1,3%, gần tương đương với mức tăng của các loại thịt gia súc. Những ngày ngay sau Tết, khác với các loại rau củ quả, thịt gia súc… giá mặt hàng thủy sản vẫn cao hơn so với ngày thường. Khảo sát tại một số chợ trên địa bàn Thành phố Hà Nội, cá chép 60.000 - 80.000 đồng/kg, cá trắm đen 150.000 - 170.000 đồng/kg... Riêng mặt hàng tôm, cua biển vẫn đứng ở mức giá khá cao từ trước Tết, như tôm sú to giá 550.000 - 600.000 đồng/kg, tôm sú loại vừa giá 400.000 - 450.000kg, cua biển 250.000 - 300.000 đồng/

kg... Cá rô phi được bán với giá 55.000 đồng/kg, thay vì 35.000 đồng/kg trước Tết. Không chỉ ở các chợ, nắm bắt được tâm lý người tiêu dùng đã quá ngấy ăn bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành ở nhà, nên các quán ăn vỉa hè có bán thực phẩm thủy sản tha hồ “chặt chém” khách hàng, thậm chí với giá cao gấp 3 bình thường, nhưng chất lượng thì lại tỉ lệ nghịch, mà vẫn đông khách. Một bát bún ốc hằng ngày bán ở một khu chợ bình thường của Hà Nội cao lắm cũng chỉ 20.000 đồng, nếu có thêm một hai miếng giò lụa. Vẫn bát bún ốc ấy bán trên vỉa hè Hà Nội những ngày Tết, “rẻ” lắm cũng phải 50.000 đồng. Hỏi nhà hàng tại sao mức giá lại cao gấp đôi ngày thường? Câu trả lời thật “ngọt”: “Giá thế là mềm lắm rồi, vì ngày Tết chúng tôi phải trả lương nhân viên gấp đôi, thậm chí gấp 3; giá các nguyên liệu đầu vào cũng đắt hơn, thậm chí đắt hơn cũng không có mà mua”. “Bao giờ cũng vậy, cứ ra Tết là giá các loại thủy sản tăng, vì mấy ngày Tết, mọi người đã ngán ngẩm các món giò, chả, thịt mỡ, thịt gà,… nên những ngày đầu xuân, muốn đổi món cho ngon miệng. Tuy vậy, năm nay, sức mua cũng không lớn như năm trước nên giá cả cũng có phải chăng hơn,” chị Hoa, một chủ cửa hàng cá tại chợ Nghĩa Tân chia sẻ. n Dũng Minh

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

21


SIN T ÛÅ KIÏå TÛÁC N / THÚÂ BÒNHI SÛÅ LUÊÅN

Sản xuất kinh doanh thủy sản tháng 1/2014

Có cơ sở để hy vọng

Tình hình chung Kết thúc tương đối thắng lợi năm 2013, mặc dù không thật trọn vẹn, ngành thủy sản bước sang năm 2014 với những điều kiện khách quan và chủ quan khả quan hơn năm trước. Kinh tế thế giới đang chuyển biến tốt dần. Kinh tế Mỹ được đánh giá đã thoát hẳn khủng hoảng và đang đi vào giai đoạn hồi phục tích cực, niềm tin của người tiêu dùng đã trở lại. Về phía châu Âu, mối đe dọa của khủng hoảng nợ công hầu như đã được giải tỏa; ngoại trừ Pháp còn khá trầy trật, nhiều nền kinh tế như Đức, Anh, Tây Ban Nha, … có dấu hiệu khởi sắc. Ở trong nước, các biện pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ - đặc biệt là Nghị quyết số 01/NQCP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; và Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu - đã phát huy tác dụng tích cực, khắc phục khó khăn để đưa nền kinh tế từng bước ổn định và phát triển. Nhờ những tác động tích cực đó, trong tháng đầu năm nay, ngành thủy sản tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng từ nửa cuối năm trước. Tổng sản lượng thuỷ sản trong tháng 1/2014 ước đạt xấp xỉ 400 nghìn tấn, tăng gần 1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó có 290 nghìn tấn cá, giảm 0,2% và khoảng 40 nghìn tấn tôm, tăng 4,2%. n

Khai thác thủy sản Sau những đợt gió mùa mạnh và rét đậm vào tháng 12/2013, khiến nhiều tàu thuyền phải nằm bờ, sang tháng 1/2014 thời tiết ấm áp và ít gió hơn, thuận lợi cho hoạt động khai thác biển. Các đối tượng thủy sản cũng xuất hiện với mật độ cao hơn ngay trong vùng gần bờ, nhờ đó năng suất khai thác của tàu thuyền nhìn chung đạt khá. Đặc biệt, sản lượng khai thác đạt cao ngay thời gian 22

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

trước tết âm lịch, giá tiêu thụ sản phẩm tốt nên hiệu quả sản xuất của ngư dân cao. Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước đạt 220 nghìn tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó cá đạt 165 nghìn tấn, tăng 0,5%; tôm 10 nghìn tấn, tăng 2,1%. Sản lượng khai thác biển ước 205 nghìn tấn, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động khai thác xa bờ theo hình thức tổ chức thành tổ, đội sản xuất, khai thác các đối tượng có giá trị kinh tế cao được các địa phương hết sức khuyến khích. Một số địa phương đạt sản lượng khai thác thủy sản khá như Quảng Ninh (ước 4600 tấn), Quảng Ngãi (5600 tấn), Phú Yên (3400 tấn), Khánh Hòa (10.000 tấn), Bến Tre (12.000 tấn), Kiên Giang (37.000 tấn), Cà Mau (13.000 tấn). n

Nuôi trồng thủy sản Trong tháng đầu năm, việc thu hoạch tôm, cá phục vụ nguyên liệu xuất khẩu chỉ còn ở một số diện tích thả giống muộn, nuôi quảng canh cải tiến, nuôi kết hợp hoặc tỉa thưa thả bù; còn lại chủ yếu thu hoạch các đối tượng nuôi phục vụ tiêu dùng nội địa trong dịp tết âm lịch. Sản lượng thu hoạch thủy sản nuôi trong tháng ước đạt 180 nghìn tấn, xấp xỉ cùng kỳ năm trước, trong đó cá 130 nghìn tấn, giảm 1%; tôm 30 nghìn tấn, tăng 4,9%. Nuôi tôm tại các địa phương nhìn chung ổn định, người nuôi chủ yếu tập trung nạo vét, sửa chữa, cải tạo công trình để chuẩn bị thả vụ mới. Triển vọng nuôi cá tra tiếp tục bấp bênh, người nuôi chưa có niềm tin do giá cá nguyên liệu chế biến xuất khẩu giảm xuống mức thấp trong thời gian dài, các biện pháp giải cứu cá tra chưa thấy có tác dụng. Sản lượng thủy sản nuôi của nhiều tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long giảm so với cùng kỳ năm trước như Cần Thơ giảm 11%; Bến Tre giảm 8%; Vĩnh Long giảm 7%; An Giang giảm 5%... n


Xuất khẩu thuỷ sản Tháng 1/2014 là trường hợp hiếm hoi trong nhiều năm mà giá trị xuất khẩu chung các sản phẩm nông- lâm - thủy sản giảm mạnh gần 10% so với cùng kỳ năm trước, ước chỉ đạt 2,32 tỷ USD. Trong bối cảnh đó, giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 1/2014 ước đạt 550 triệu USD, tăng hơn 13% so với cùng kỳ năm 2013 là một kết quả thật sự đáng khích lệ. Mặc dù giá trị xuất khẩu tháng 1/2014 giảm khoảng 18% so với tháng trước đó (12/2013), nhưng điều đó là dễ hiểu, vì đã qua thời kỳ mua hàng cho dịp tiêu thụ cuối năm ở nhiều thị trường chính, khách hàng đang trong giai đoạn nghỉ ngơi và tập hợp thông tin, chuẩn bị cho vụ kinh doanh mới. Nếu nhìn lại xu thế đi lên của xuất khẩu thủy sản sang các thị trường chính qua các tháng của năm 2013, có thể thấy tình hình đang được cải

With our

thiện ngày càng rõ, ngay cả với khối thị trường EU đã từng rất ảm đạm trong những tháng đầu năm 2013. Việc Mỹ không đánh thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp tôm và Nhật Bản nới lỏng rào cản ethoxyquin chắc chắn sẽ còn tiếp tục phát huy ảnh hưởng tích cực đến xuất khẩu tôm của Việt Nam trong năm nay. Những vấn đề lớn nhất cần thay đổi quyết liệt để đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu thủy sản Việt Nam hiện nay là cấu trúc lại ngành cá tra và đẩy mạnh công nghệ sau thu hoạch trong ngành khai thác cá ngừ đại dương. Với những giải pháp hiệu quả hơn, sẽ có cơ sở chắc chắn hơn để tin tưởng ở sự phát triển bền vững của ngành thủy sản nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng. n Hoàng Thanh tổng hợp

The Pangasius products

passion and tenacity

we are proud of to bring you

the best

from the heart of Mekong

River

R

Prod u

ct nam e: FLOR AL TOUCH

.

tichoke Pangasius fish in ar

www.vinhhoan.com.vn

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

23


SHUÃ T ÛÅ KIÏå Y SAÃ NN / BÒNH 5 CHÊU LUÊÅN Nga thông qua kế hoạch đấu tranh với khai thác IUU

Nhà máy chế biến vẹm đầu tiên đạt chứng nhận BAP

Theo Liên minh Nuôi trồng thủy sản toàn cầu (GAA), nhà máy chế biến vẹm của Norlantic Processors tại

Pleasantview

vịnh vùng

Notre

Dame,

Đông

bắc

Newfoundland, Canađa, đã trở thành nhà máy chế biến vẹm đầu

Chính phủ Nga đã thông qua kế hoạch đấu tranh

tiên đạt chứng nhận Thực hành Nuôi trồng Thủy

với các hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp,

sản tốt nhất (BAP) vào cuối tháng 11 vừa qua.

không báo cáo và không được quản lý (IUU). Theo

Ngoài ra, 3 trại nuôi vẹm của Norlantic Processors

đó, Nga sẽ thiết lập một hệ thống truy xuất các sản

với tổng diện tích 728 hecta, cũng đang cố gắng

phẩm khai thác, tăng cường các biện pháp ngăn chặn

được chứng nhận BAP trong tương lai gần. n

công dân Nga tham gia khai thác IUU và đẩy mạnh GAA

hợp tác quốc tế đấu tranh với việc buôn bán thủy sản IUU. Kế hoạch này cũng áp dụng biện pháp xử phạt

Chilê: Miễn thuế xuất khẩu cá hồi xông khói và bột cá sang Nhật và Hàn Quốc

hành chính và hình sự đối với hành vi vi phạm nguồn lợi thủy sản. n Thefishsite Ấn Độ và Ixrael hợp tác sản xuất tôm nước ngọt toàn đực

Cơ quan Phát triển Xuất khẩu thủy sản Ấn Độ (MPEDA) đã hỗ trợ một công nghệ mới, có khả năng tăng sản lượng tôm càng xanh toàn đực ở Ấn Độ lên gấp 3 lần. Công nghệ này do Giáo sư Amir Sagi của ĐH Ben Gurion ở Negev, Israel phát triển, không biến đổi gen hay sử dụng bất kì hóa chất hoặc hóc-môn nào. Tôm toàn đực có tốc độ tăng trưởng nhanh gấp 3 lần tôm cái. MPEDA đã thực hiện các dự án thử nghiệm ở Manikonda, gần Vijayawada, đạt kết quả Theo Bộ Ngoại giao Chilê, xuất khẩu cá hồi xông khói và bột cá của nước này sang Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ được miễn thuế theo thỏa thuận tự do thương mại giữa các quốc gia này. Tính đến tháng 10, Chilê đã xuất khẩu khoảng 500 triệu USD thực phẩm chế biến và các sản phẩm cá hồi sang Hàn Quốc. Chilê cũng là nhà cung cấp cá hồi hàng đầu cho thị trường Nhật Bản. n Seafoodnews

24

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

rất khả quan. Với công nghệ mới, năng suất có thể đạt 2-3 tấn tôm/ha mỗi năm. n Shrimpnews


Đức: Deutsche See ra mắt cửa hàng trực tuyến

Mỹ: Tổ chức NRDC yêu cầu giảm nhập khẩu thủy sản

“Mang cá tươi đến tận cửa nhà bạn “ - là khẩu hiệu mà nhà cung cấp hải sản của Đức Deutsche See đưa ra trong dự án mở cửa hàng trực tuyến cho người tiêu dùng. Đây là dự án đầu tiên của công ty trực tiếp nhắm tới người tiêu dùng cuối. Andreas Kremer, giám đốc tiếp thị của công ty cho biết, dự án đã được thí điểm ở thủ đô Berlin vào tháng 12 và sẽ được thực hiện trên toàn nước Đức nếu thành công. Thông qua một trang web chuyên dụng, người tiêu dùng có thể lựa chọn đặt hàng thủy hải sản tươi như cá nguyên con, phi lê cũng như thủy sản đông lạnh và thịt cho những người sành ăn. n Intrafish

Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên thiên nhiên (NRDC) yêu cầu Chính phủ Mỹ bảo vệ các loài động vật có vú ở biển bằng cách giảm nhập khẩu thủy sản khai thác tự nhiên. Theo tổ chức này, 91% thủy sản tiêu thụ của Mỹ là nhập khẩu và hầu hết các sản phẩm này đều vi phạm luật bảo vệ động vật có vú ở biển. Cũng theo tổ chức này, có tới 650.000 con động vật có vú bị hại hằng năm vì các ngư cụ không thích hợp. n Undercurrentnews

Nhật Bản: Đấu giá con cá ngừ vây xanh nặng 230 kg

Êcuađo cấm khai thác tôm hùm trong 6 tháng

Theo thông lệ, vào đầu tháng 1 hằng năm, người Nhật sẽ tổ chức đấu giá con cá ngừ to nhất như một lời chúc tốt lành cho năm mới. Năm nay, con cá ngừ to nhất đánh bắt được trong mùa đông nặng 230kg đã thuộc về ông chủ chuỗi nhà hàng sushi có tên Kiyoshi Kimura. Đã có 1.729 con cá ngừ được bán hết trong phiên đấu giá đầu năm. Nhật Bản vẫn là nước tiêu thụ đến 80% lượng cá ngừ vây xanh toàn cầu, nhưng đồng thời họ cũng là nước kêu gọi toàn thế giới nên có những hành động thiết thực để bảo vệ loài cá này khỏi tuyệt chủng vì bị săn bắt quá nhiều. n Japan Times

Thứ trưởng Bộ Nuôi trồng và Khai thác thủy sản Êcuađo MAGAP cho biết, nước này đã cấm khai thác tôm hùm trong 6 tháng, từ 16/116/6/2014, nhằm duy trì tính bền vững của các nguồn lợi tôm hùm. Theo đó, các hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển và buôn bán tôm hùm đều bị cấm. Sau khi lệnh cấm kết thúc, tôm hùm lại có thể được khai thác, vận chuyển, chế biến và buôn bán, với điều kiện chiều dài của tôm phải lớn hơn hoặc bằng 26 cm. n Thefishsite

Hằng Vân dịch Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

25


DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN

Baseafood

với đề án gia tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu p Trần Văn Dũng Giám đốc Công ty Baseafood, Ủy viên Ban Chấp hành Vasep

Để tạo thế chủ động khắc phục những khó khăn như thiếu nguyên liệu và chi phí đầu vào ngày càng tăng, Công ty Baseafood quyết định không gắng sức chạy theo sản lượng, mà xây dựng và triển khai thực hiện đề án phát triển sản phẩm GTGT để nâng cao hiệu quả xuất khẩu.

Hệ lụy từ việc chạy theo số lượng

Nhiều năm chỉ tập trung phấn đấu tăng số lượng, mà không chú trọng đến tính hiệu quả đã làm cho tốc độ tăng giá trị sản phẩm của ngành thủy sản – nếu loại trừ các yếu tố biến động giá và lạm phát - ngày càng giảm, thậm chí thấp hơn tốc độ tăng sản lượng, lợi nhuận của các DN và người sản xuất ngày càng thấp.

Hải sản được phơi khô dưới nắng

26 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Theo thống kê sơ bộ, hơn 50% sản lượng thủy sản XK của Việt Nam hiện nay ở dạng nguyên liệu hoặc bán thành phẩm, hàm lượng chế biến thấp, giá trị thấp. Đây là yếu tố làm thất thoát khá lớn giá trị của nguyên liệu thủy sản mà lẽ ra có thể giữ lại trong nước, mang lại nhiều lợi ích hơn cho người sản xuất nguyên liệu, DN chế biến và đóng góp nhiều hơn cho ngân sách.

Trong chế biến thủy sản XK, việc gia tăng số lượng luôn kéo theo nhiều hệ lụy khác, mà trước hết là tình trạng thiếu nguyên liệu ngày càng trầm trọng và các rào cản kỹ thuật được dựng lên ngày càng nhiều ở các nước NK. Đây cũng là những lý do khiến XK hầu hết các nhóm hàng hải sản đều sụt giảm trong năm 2013. Các DN chế biến XK đều chưa có chiến lược hợp lý để thu gom,


dự trữ và NK nguyên liệu nên thường rất bị động khi hết vụ hoặc mất mùa. Do đó, sử dụng thật hiệu quả, gia tăng tối đa giá trị thành phẩm thu được trên 1 đơn vị nguyên liệu có ý nghĩa rất quyết định đối với sự thành bại của DN. Công ty CP Chế biến XNK Thủy sản tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (Baseafood) đã hoạt động trong lĩnh vực chế biến, XK các sản phẩm hải sản nhiều năm, nên càng nhận thức rõ những khó khăn ngày càng chồng chất đối với ngành này. Theo đánh giá của lãnh đạo Công ty, tình hình nguyên liệu sẽ tiếp tục sẽ còn tiếp tục căng thẳng do nguồn lợi biển ngày càng suy kiệt. Việc NK nguyên liệu cũng không dễ dàng vì những ràng buộc pháp lý quốc tế đối với thủy sản khai thác tự nhiên, các thủ tục NK phức tạp, phiền hà, gây tốn kém; và các nước khác cũng thực hiện chính sách bảo vệ nguồn lợi của chính họ.

Lựa chọn sản xuất sản phẩm GTGT

Để tạo thế chủ động khắc phục những khó khăn trên, Công ty Baseafood đã quyết định không gắng sức chạy theo số lượng XK mà xây dựng và triển khai thực hiện đề án phát triển sản phẩm GTGT để nâng cao giá trị XK. Công ty nhận thấy, sản xuất sản phẩm GTGT là lựa chọn tất yếu giúp DN giảm áp lực tìm kiếm nguồn cung nguyên liệu; tận dụng tối đa nguyên liệu và phụ liệu chế biến để tăng hiệu quả sản xuất; giảm chất thải gây ô nhiễm môi trường; sử dụng

Cá khô tẩm gia vị phục vụ XK

hiệu quả nguồn nhân công và tạo việc làm đa dạng, thường xuyên để nâng cao thu nhập cho người lao động. Với các sản phẩm tinh chế, GTGT, DN cũng có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào chuỗi cung cấp, đến gần hơn với người tiêu dùng ở thị trường cao cấp hơn. Việc tăng tỷ lệ sản xuất sản phẩm GTGT còn mang theo những lợi ích khác. Đặc biệt, trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nguồn vốn hạn hẹp, việc sản xuất sản phẩm GTGT giúp cho DN giảm nhu cầu vốn để mua nguyên liệu, giảm chi phí kho bãi, vận chuyển và bảo quản để ưu tiên nguồn tài chính cho những nhu cầu khác. Sản xuất sản phẩm GTGT cũng góp phần nâng cao năng lực chế biến, nâng cao tay nghề, mang lại thu nhập cao hơn cho người lao động.

Xây dựng và triển khai đề án

Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốc Công ty Baseafood đã thống nhất đề án tăng cường

sản xuất sản phẩm GTGT để bắt đầu triển khai từ năm 2013. Tuy nhiên, để thực hiện thành công đề án, Công ty phải giải quyết đồng thời hàng loạt vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng thành giải pháp và lộ trình hết sức cụ thể. Trước hết, đề án phải được thống nhất từ HĐQT, Ban Giám đốc cho đến đội ngũ quản lý tại các nhà máy, xí nghiệp; đồng thời nhận được sự đồng tình ủng hộ của toàn thể Đảng bộ, các tổ chức Công đoàn và Đoàn Thanh niên để phát động, tuyên truyền trong lực lượng lao động của Công ty. Theo đề án đã đề ra, Công ty phấn đấu năm 2013 đưa tỷ lệ sản phẩm GTGT từ mức 30-40% trước đây lên 50% sản lượng thành phẩm chế biến và tiếp tục tăng dần 5-10% mỗi năm để đến năm 2015 hàng GTGT sẽ chiếm 80% sản lượng chế biến, giá trị XK đạt 40-45 triệu USD/năm. Các mặt hàng GTGT bao gồm khoảng 30 mặt hàng từ tôm, cá, mực, bạch tuộc, nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, cua, ghẹ, sò, ốc,… Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

27


DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN

Chủng loại sản phẩm bao gồm đông lạnh, khô, tẩm bột, tẩm gia vị, ăn sống, nướng chín, ăn liền. Công ty đã hình thành đầy đủ nguồn nhân lực, từ công nhân đến cán bộ quản lý sản xuất và quản lý chất lượng. Đội ngũ cán bộ quản lý chất lượng và công nhân lành nghề được gửi đi đào tạo tại nhiều lớp do Bộ NN&PTNT, VASEP, các tổ chức quốc tế tổ chức về quản lý thực phẩm theo các tiêu chuẩn GMP, SSOP, HACCP, Kaizen, 5S, ISO, … và gửi đi tham quan, học tập tại các DN đang sản xuất sản phẩm GTGT khác. Nhà xưởng, máy móc được đầu tư, nâng cấp theo các tiêu chuẩn tiên tiến, thỏa mãn yêu cầu chứng nhận HACCP, HALAL, code EU, tiêu chuẩn XK đi Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản, v.v… Trang bị đây đủ phương tiện, hóa chất và nhân sự cho phòng kiểm nghiệm tại công ty đủ năng lực kiểm tra theo các tiêu chuẩn quy định. Việc chuẩn bị về thị trường và khách hàng có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thành công đề án. Công ty đã làm việc với các khách hàng đang có và tiếp xúc với khách hàng mới để tìm hiểu

Chế biến tôm

28 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

nhu cầu, chủng loại sản phẩm và mẫu mã bao bì họ quan tâm để ký hợp đồng cung cấp. Đội ngũ cán bộ tiếp thị tham gia hàng loạt hội chợ trong nước và quốc tế để nghiên cứu thị trường, tìm hiểu mặt hàng mới để tổ chức sản xuất thử và chào hàng. Chủ trương của Công ty được nhiều khách hàng ủng hộ và tăng được hợp đồng xuất hàng vào các thị trường cao cấp như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu (Đức, Tây Ban Nha, Anh, …). Chính khách hàng cũng muốn giảm chi phí vận chuyển bán thành phẩm, giảm chi phí nhân công và môi trường khi chế biến ở nước họ. Đến nay, Công ty có hơn 40 khách hàng thường xuyên mua hàng ổn định theo thời hạn 3-6 tháng, trong đó 70% là sản phẩm tinh chế chất lượng cao. Riêng khách hàng Nhật Bản chiếm 60% với giá trị khoảng 22 triệu USD/năm.

Những kết quả đầu tiên

Chỉ năm đầu tiên thực hiện, đề án đã đem lại kết quả tích cực rõ rệt. Tỷ trọng sản phẩm GTGT của Baseafood đã tăng từ 35% (3.675T/10.500T) năm 2012 lên 55% (4.750T/8.500T) sản lượng

Chế biến cá saba

chế biến năm 2013. Tương ứng, giá trị XK sản phẩm GTGT cũng tăng từ 11,05 triệu USD trong 31,58 triệu USD tổng giá trị XK lên 17,05 triệu USD/31 triệu USD tổng giá trị XK. Giá XK bình quân tăng 21,3%. Chẳng hạn, bạch tuộc XK nguyên con làm sạch XK với giá 3-3,2USD/ kg, nay XK dạng cắt hạt lựu với giá 5,5USD/kg; Cá mối khô tẩm gia vị giá 6,5USD/kg, tăng 62,5% so với trước đây; Giá cá lưỡi trâu lột da cắt đầu năm 2012 4,2USD/ kg, năm 2013 chế biến dạng phi lê bao bột bán với giá 6,4USD/kg. Cần lưu ý rằng, các mặt hàng sản xuất bán từ năm 2012 thì mức giá trong năm 2013 hầu như vẫn giữ nguyên không thay đổi. Rõ ràng, khi các chi phí đầu vào không ngừng tăng lên, nếu DN không chuyển hướng sản xuất hàng GTGT thì lợi nhuận sẽ sụt giảm nhanh chóng. Cùng với lợi ích tăng lên của Công ty, thu nhập của người lao động cũng được cải thiện rõ rệt. Lương bình quân của công nhân năm 2013 đạt 4,7 triệu đồng/ tháng, trong khi năm 2012 là 4,0 triệu đồng/tháng. Riêng công nhân tại Xí nghiệp 1, nơi đang


thực hiện chuyển đổi sản xuất hàng GTGT, lương bình quân đạt 5 triệu đồng/tháng, trong đó có tới 40% số lao động nhận từ 6 triệu đồng/tháng trở lên, cá biệt có người đạt 8 triệu đồng. Mức lương tăng thêm không phải do tăng đơn giá lương sản phẩm hay tăng thời gian làm việc, mà do trang thiết bị được cải thiện, bớt những công việc nặng nhọc phải dùng sức cơ bắp, quy trình công nghệ hiện đại và phù hợp hơn nên năng suất lao động tăng lên. Bình quân năng suất từ 100kg thành phẩm/công lao động đã tăng lên 130-150kg/công. Có việc làm thường xuyên và thu nhập cao ổn định đã giúp đội ngũ 1.155 người lao động của Công ty hiện nay tích cực làm việc và duy trì số lượng ổn định, giảm hẳn hiện tượng nghỉ việc hay bỏ việc. Số ngày công bình quân của 1 công nhân từ 18-23 ngày công/tháng đã tăng lên 2227 ngày công/tháng. Việc chuyển đổi chiến lược tăng cường chế biến hàng GTGT đã nâng cao vị thế và uy tín của Baseafood trên nhiều thị trường. Công ty đứng đầu Việt Nam về kim ngạch XK bạch tuộc chế biến vào Nhật Bản; sản phẩm cá khô XK vào Nga được Hải quan Bà Rịa-Vũng Tàu xếp vào luồng xanh và được Hải quan Nga miễn kiểm,… Công ty Baseafood được Bộ Công Thương tặng danh hiệu Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín 5 năm liền, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì và nhiều hình thức khen thưởng khác. Tuy nhiên, qua quá trình thực

hiện đề án chuyển đổi của mình, chúng tôi thấy hiện nay sự quan tâm đến lĩnh vực sản xuất sản phẩm GTGT của các cơ quan chức năng nhà nước mới dừng lại ở những lời hô hào chung chung mà chưa thể hiện ở những chế độ, chính sách cụ thể. Hầu hết DN phải tự mày mò nghiên cứu, tự bươn chải lo liệu, từ nguồn vốn đến công nghệ, thị trường. Thiết nghĩ, trong hoàn cảnh đầy khó khăn hiện nay, khi nguồn lợi tự nhiên ngày càng suy thoái, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt, suy thoái kinh tế chưa hồi phục, … Nhà nước cần thể hiện cụ thể mối quan tâm của mình bằng các chính sách

như ưu đãi lãi vay, miễn giảm thuế, hỗ trợ phát triển thị trường cho DN chuyển hướng từ số lượng sang chất lượng, sản xuất những sản phẩm gia tăng giá trị bằng công nghệ và chất xám, nhằm thu được hiệu quả cao hơn và tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đây cũng là phương thức để toàn ngành thủy sản chuyển từ giai đoạn tăng trưởng về số lượng sang giai đoạn phát triển về chất – giai đoạn phát triển với năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao và bền vững hơn. n T.V.D

Việc tăng cường chế biến hàng GTGT đã góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Baseafood trên nhiều thị trường Công Ty Cổ Phần Chế Biến Xuất Nhập Khẩu Thủy Sản Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Tên thương mại Baseafood Địa chỉ : 460 Trương Công Định, Phường 8, TP. Vũng Tàu, Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Điện thoại : (084) 0643 837313 - 0643 582646 Fax : (084) 0643 837312 - Email : baseafoodvn@vnn.vn Website: http://www.baseafood.vn Đội ngũ công nhân: 1.000 người. Code nhà máy: DL 34, DL 20 Hệ thống quản lý chất lượng: HALAL, HACCP, ISO 9001: 2008. Sản lượng thành phẩm xuất khẩu: 9.000 tấn/năm Kim ngạch xuất khẩu: 25 - 30 triệu USD/năm Sản phẩm: tôm, cá các loại, surimi các loại, ghẹ, bạch tuộc, mực nang, mực ống… nguyên con, phi lê, thành phẩm đóng gói nhỏ phục vụ cho các siêu thị. Hàng khô gồm: các loại cá, mực… tẩm gia vị và nướng ăn liền… Thị trường chính: Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Ukraina, Belarus, Tây Ban Nha, Mỹ, Trung Đông​

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

29


DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN

VIACIMEX

đồng hành cùng doanh nghiệp p Đỗ Văn Thông Trung tâm Phân tích và Kiểm định hàng hóa xuất nhập khẩu (VIACIMEX) đã xây dựng cho mình lộ trình phát triển vững chắc, đồng hành cùng cộng đồng DN chế biến, xuất nhập khẩu thủy sản Việt Nam đẩy mạnh quản lý chất lượng và VSATTP.

Các diễn giả tại hội thảo “VIACIMEX đồng hành cùng doanh nghiệp trong quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm”, Cần Thơ, 6/12/2013

Kiểm nghiệm vì phát triển bền vững

Ngành thủy sản nước ta đang phát triển nhanh chóng và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với hàng loạt các rào cản kỹ thuật từ các nước NK, đặc biệt yêu cầu về kiểm soát VSATTP hàng thủy sản XK ngày càng khắt khe. Để vượt qua những rào cản đó không thể thiếu sự đóng góp của các trung tâm phân tích, kiểm định sản phẩm. Là chi nhánh tại TP Cần Thơ của Công ty TNHH Thiết bị 30 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

KHKT Hải Ly, VIACIMEX đã được cộng đồng DN chế biến thủy sản XK biết đến như là một địa chỉ đáng tin cậy trong lĩnh vực phân tích, kiểm định, tư vấn đào tạo xây dựng phòng phân tích thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Kế thừa những nguồn lực và thế mạnh sẵn có từ công ty mẹ, với đội ngũ chuyên viên, kỹ thuật viên giàu kinh nghiệm, trang thiết bị hiện đại, VIACIMEX xây dựng cho mình một lộ trình phát triển dài hạn, vươn lên tầm quốc tế với thế

mạnh nền tảng là lĩnh vực kiểm nghiệm. Đây được xem là bàn đạp để VIACIMEX từng bước mở rộng phạm vi hoạt động sang các lĩnh vực dịch vụ khác. “Kiểm nghiệm là thế mạnh và là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của chúng tôi trong tương lai. Hai phần ba diện tích xây dựng hơn 1.000m2 của Trung tâm là để phục vụ cho khâu kiểm nghiệm, cùng với công nghệ, trang thiết bị phòng thí nghiệm hiện đại, đồng bộ, và nguồn nhân lực có kinh nghiệm, có trình độ cao,” - ông Nguyễn Minh Đức, Giám đốc VIACIMEX cho biết. “Với thế mạnh này, chúng tôi cam kết sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng trong quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm với các chỉ tiêu kiểm nghiệm đa dạng, thời gian kiểm nghiệm nhanh nhất, kết quả chính xác nhất.” Chỉ chưa đầy 4 tháng kể từ khi chính thức đi vào hoạt động ngày 28/05/2013, phòng thí nghiệm của VIACIMEX đã được công nhận đạt chuẩn ISO/ IEC 17025 trên cả hai lĩnh vực hóa sinh với mã số VILAS 681, 5 chương trình thử nghiệm thành thạo quốc tế tham gia với tổ chức FERA đều đạt kết quả tốt. Ngoài ra, bên cạnh dịch vụ kiểm


nghiệm, VICIMEX còn cung cấp dịch vụ tư vấn, giải pháp xây dựng phòng thí nghiệm, tào đạo, huấn luyện các kỹ năng liên quan đến kiểm nghiệm thực phẩm,... VIACIMEX đã đề ra kế hoạch phát triển của mình trong tương lai với những mục tiêu hết sức rõ ràng và cụ thể. “Giai đoạn 20142015 chúng tôi tập trung xây dựng Trung tâm đạt tầm cỡ ĐBSCL về kiểm tra phân tích ATVSTP, cung cấp sản phẩm dich vụ với chất lượng tốt nhất. Giai đoạn 2015-2017 xây dựng Trung tâm đạt tầm cỡ quốc gia về quản lý chất lượng và ATVSTP trong đó kiểm nghiệm đóng vai trò nền tảng, đa dạng hoá các chỉ tiêu, đối tượng như phân bón, nông thủy sản, mật ong....Và dự kiến, Trung tâm sẽ đạt tầm cỡ quốc tế về kiểm tra phân tích ATVSTP vào giai đoạn 2017-2022, trong đó tập trung thiết lập các mối quan hệ, xin công nhận quốc tế” - ông Đức nói.

tốt nhất, VIACIMEX thực hiện chính sách giá thực sự mang tính hỗ trợ cho DN. “Để hỗ trợ DN, chúng tôi cam kết thực hiện chính sách giá bằng hoặc thấp hơn 10% so với giá thị trường” - ông Nguyễn Minh Đức khẳng định. Không dừng lại ở đó, VIACIMEX đã và đang hoạch định chương trình phát triển, chiến lược hợp tác toàn diện sâu rộng trên các lĩnh vực kiểm nghiệm, phân tích, tư vấn, đào tạo....cùng với cộng đồng DN và các hộ nông dân NTTS giám sát chặt chẽ chuỗi thực phẩm, đảm bảo ATVSTP từ trang trại

đến nhà máy chế biến và bàn ăn người tiêu dùng. Ông Khúc Tuấn Anh, Phó Giám đốc Cơ quan Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản Nam Bộ phát biểu:“Tôi tin là VIACIMEX sẽ đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của các DN hiện nay và phần nào cùng với cơ quan quản lý nhà nước tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ DN trong quản lý chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm và thủy sản xuất khẩu”. n Đ.V.T.

Đồng hành cùng doanh nghiệp

Ra đời trong bối cảnh tình hình kinh tế khó khăn, VIACIMEX kỳ vọng sẽ gớp sức cùng các DN thủy sản khắc phục trở ngại, cùng tạo nên đà phát triển chung của ngành thủy sản. Trong công nghiệp chế biến thủy sản XK, khối lượng sản phẩm lớn và sự đa dạng về các mặt hàng, đối tượng, khiến chi phí dành cho khâu kiểm nghiệm là khá lớn, làm gia tăng giá thành sản phẩm, từ đó hạn chế năng lực cạnh tranh của DN. Để thể hiện nguyện vọng và ý chí đồng hành cùng DN, bên cạnh cung cấp dịch vụ chất lượng

Thiết bị – dịch vụ của VIACIMEX Trung tâm phân tích và kiểm định hàng hóa Xuất nhập khẩu VIACIMEX, chi nhánh công ty TNHH Thiết bị Khoa học Kỹ thuật Hải Ly Địa chỉ: A8, đường số 1, KDC Phú An, P. Phú Thứ, Q. Cái Răng, TP Cần Thơ, Việt Nam Điện thoại: +84 710 3918 820 Fax: +84 710 3918 821 Email: info@viacimex.com Website: www.viacimex.com

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

31


DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN

Thủy sản Phương Nam

Vượt qua điểm tới hạn Nhờ quyết liệt, dứt khoát tái cơ cấu, cùng sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía các ngân hàng, Công ty Phương Nam đã vượt qua được điểm tới hạn, tự xoay xở được nguồn tài chính và đang dần lấy lại được uy tín vốn có của mình.

“Ngôi sao sáng” thành con nợ “khủng”

Công ty TNHH Phương Nam được thành lập vào tháng 8/1998 tại tỉnh Sóc Trăng với vốn đầu tư ban đầu khoảng 17 triệu USD, sản phẩm chính là các mặt hàng tôm đông lạnh XK. Năm 2006, công ty đã XK đạt kim ngạch gần 65 triệu USD sang các thị trường chủ yếu như Mỹ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, Hồng Kông và Trung Đông. Năm 2010, Phương Nam chuyển đổi thành công ty cổ phần.

Có thể nói, trong giai đoạn 2007-2011, công ty Phương Nam gặt hái được nhiều thành công rực rỡ và được coi như một “ngôi sao sáng” của ngành thủy sản khi liên tục nằm trong top 10 DN thủy sản tiêu biểu cả nước, kim ngạch XK trung bình từ 7090 triệu USD/năm, tạo công ăn việc làm ổn định cho trên 3.000 lao động tại địa phương. Theo đánh giá của nhiều ngân hàng trong năm 2011, Phương Nam là một trong những DN hoạt

Lễ công bố giấy chứng nhận DN mới của Phương Nam (ảnh: internet)

32 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

động tốt, rất có uy tín trong lĩnh vực XNK thủy sản và nhiều tiềm năng phát triển. Đây được xem là một lợi thế rất lớn, là nền tảng vững chắc để công ty huy động vốn đầu tư cũng như mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, lợi thế ấy lại là con dao hai lưỡi. Để vay được số tiền lớn, Thủy sản Phương Nam đã thế chấp rất nhiều đất đai, nhà xưởng, hàng tồn kho,… của nhà máy và nhiều căn nhà của vị Chủ tịch HĐQT khi đó là ông Lâm


Ông Trần Văn Trí - người tham gia giải cứu thành công nhiều DN thủy sản bên bờ vực phá sản

Ngọc Khuân tại Tp.HCM, với nhiều ngân hàng khác nhau. Thí dụ, chỉ với một kho hàng trị giá hơn 40 tỷ đồng, công ty đã đem thế chấp cho nhiều ngân hàng để vay được số tiền “khủng” lên đến 780 tỷ đồng. Đầu năm 2012, Phương Nam gặp nhiều khó khăn và mất khả năng thanh toán. Tổng số nợ lên đến 1.600 tỷ đồng, trong đó nợ Agribank chi nhánh Sóc Trăng 548 tỷ đồng; VDB chi nhánh Sóc Trăng 341 tỷ đồng và LienVietPostBank Hậu Giang hơn 328 tỷ đồng. Ngoài ra còn có 5 chủ nợ khác là Sacombank gần 147 tỷ đồng, VietcomBank 147 tỷ đồng, ABBank chi nhánh Bạc Liêu 80 tỷ đồng và VietinBank 8 tỷ đồng. Liên quan đến khoản nợ, đã có 20 cán bộ ở các ngân hàng bị bắt, bị khởi tố và điều tra về hành vi vi phạm các quy định cho vay trong tổ chức tín dụng.

Khẩn trương tái cơ cấu

Năm 2012 Phương Nam đứng bên bờ vực phá sản

với kim ngạch XK chỉ vỏn vẹn gần 10 triệu USD, cùng khoảng 650 nhân công sản xuất cầm chừng. Không thể đứng nhìn thương hiệu lớn như Phương Nam sụp đổ, ông Trần Văn Trí, TGĐ Công ty CP Đầu tư quốc tế Trí Việt, với kinh nghiệm đã tích lũy được qua quá trình điều hành, tái cơ cấu Công ty Thủy sản Bình An (Bianfishco) thành công, đã gửi tờ trình đến UBND tỉnh Sóc Trăng, Công ty Mua bán nợ (Bộ Tài chính) và các ngân hàng để xin tham gia tái cấu trúc toàn diện Công ty Phương Nam vì mục đích an sinh xã hội, giữ công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động và giúp bà con nông dân ở vựa tôm Sóc Trăng tìm được đầu ra cho mỗi mùa vụ. Ngày 5/11/2012, Ngân hàng NNPTNT (Agribank) Chi nhánh Sóc Trăng đã làm đầu mối tổ chức cuộc họp khẩn cấp với 6 ngân hàng chủ nợ của Phương Nam để bàn phương án tái cấu trúc. Ông Trần Văn Trí được Agribank

Sóc Trăng mời dự với vai trò là nhà đầu tư. Tuy nhiên, quá trình bàn bạc rất nan giản và phức tạp, kéo dài suốt từ cuối năm 2012 đến đầu tháng 6/2013, trải qua hơn 20 cuộc họp mới đi đến sự thống nhất. Theo đó, các ngân hàng đồng ý cho LienVietPostBank góp vốn 125 tỷ 570 triệu đồng, Sacombank và ABBank mỗi bên góp hơn 80 tỷ đồng để Công ty Phương Nam mới có vốn điều lệ 295 tỷ đồng. Ngày 7/6/2013, Công ty Thủy sản Phương Nam đã được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Sóc Trăng cấp lại giấy chứng nhận đăng ký DN với các cổ đông mới, người đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn Minh Trí, làm chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công ty. Ông Trần Văn Trí cho biết, HĐQT mới điều hành Công ty từ ngày 13/6/2013. Mục tiêu sản xuất kinh doanh năm 2013 đạt kim ngạch XK 25 triệu USD, năm 2014 đạt 50 triệu USD, và sau năm 2015 đạt khoảng 70 - 80 triệu USD/năm. Lợi nhuận sẽ được trích một phần để trả dần các món nợ mà công ty đã mất khả năng thanh toán và được ngân hàng khoanh lại.

Vượt qua điểm tới hạn

Theo đề án tái cơ cấu, Công ty được các ngân hàng tạm ngưng tính lãi 3 năm đối với toàn bộ số nợ 1.600 tỷ đồng và khoanh, giãn nợ từ 3 đến 5 năm, tùy điều kiện của từng ngân hàng. Đồng thời, các ngân hàng cũng đồng loạt hạ lãi vay còn 10%, nợ cũ sẽ thanh toán dần, khi công ty làm ăn có lãi. Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

33


DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN

Bên cạnh đó, LienVietPostBank và ABBank cùng cam kết tiếp tục cho công ty vay thêm vốn mới để mua nguyên liệu, sản xuất hàng thực hiện các hợp đồng vừa ký kết với đối tác truyền thống ở nước ngoài để công ty có cơ hội hoạt động trở lại, không bị phá sản. Số vốn cấp mới này được thu lãi bình thường, quản lý theo dòng tiền và ưu tiên thu hồi trong trường hợp công ty hoạt động sản xuất, kinh doanh không hiệu quả. Đối với các ngân hàng có dư nợ không tham gia góp vốn, có thể hỗ trợ cho vay vốn lưu động hoặc cho vay tài trợ XK tùy theo mỗi ngân hàng. Cổ đông mới có trách nhiệm trả công nợ cho các nhà cung cấp trong quá trình hoạt động kinh doanh sau khi tái cấu trúc thành công. “Qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai” có lẽ là câu ngạn ngữ đúng đối với Công ty Phương Nam lúc này, bởi trước đó, không ai nghĩ công ty có thể sống sót và gượng dậy được sau biến cố được xem là “chấn động” của ngành thủy sản nói riêng và cả nước nói chung. Sáu tháng đầu năm 2013, kim ngạch XK của Phương Nam chỉ có 2 triệu USD, nhưng chỉ 2 tháng sau tái cấu trúc Công ty đã có hợp đồng XK trị giá hơn 8,5 triệu USD (XK hơn 789 tấn tôm). Hơn 100 đối tác truyền thống của Thủy sản Phương Nam, hay tin DN đang hồi sinh đã tiếp tục ký nhiều đơn hàng mới, giúp công ty dần lấy lại được đà tăng trưởng. Ngày 19/10/2013, ông Nguyễn Minh Trí cho biết, kim ngạch XK của đơn vị đã đạt 7,5 triệu USD. 34 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Lũy kế 9 tháng đầu năm đạt hơn 10 triệu USD và lợi nhuận chưa trừ khấu hao trong quý 3 được trên 11,5 tỷ đồng. Cùng với kế hoạch trở lại top 10 DN XK thủy sản hàng đầu Việt Nam vào năm 2015 (dự kiến đạt kim ngạch 80 triệu USD), Thủy sản Phương Nam phấn đấu đến năm 2019 sẽ trả dứt nợ. Công ty tiếp tục duy trì thị trường XK sang Mỹ 4550%, Nhật 25% và EU 20%, còn lại là thị trường Canađa, Hàn Quốc, Malaixia... Theo ông Trí, hiện nay, mỗi ngày Thủy sản Phương Nam mua vào 15-20 tấn nguyên liệu, trong đó 80% là tôm chân trắng, còn lại là tôm sú. Công ty đang liên hệ các khách hàng truyền

thống tại các thị trường Nhật Bản, Mỹ, châu Âu… để ký lại hợp đồng cung cấp hàng hóa, đồng thời phát triển thêm các thị trường XK mới. Để giảm chi phí, Phương Nam sắp xếp, tổ chức lại bộ máy quản lý, dây chuyền sản xuất theo hướng tinh gọn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và thông báo tuyển thêm 1.000 lao động mới. Nhờ tái cơ cấu quyết liệt và dứt khoát, Công ty Phương Nam đã vượt qua được điểm tới hạn, tự xoay xở được nguồn tài chính và đang dần lấy lại được uy tín vốn có. n Trần Duy tổng hợp

Công ty CP thủy sản Phương Nam CÔNG TY CỔ PHẦN CHẾ BIẾN THỰC PHẨM PHƯƠNG NAM Tên thương mại PHUONG NAM FOODSTUFF CORP Địa chỉ Km 2127, Quốc lộ 1A, Phường 7, Tp. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng Tỉnh (TP) SÓC TRĂNG Lĩnh vực hoạt động Chế biến thủy sản, xuất khẩu, nuôi trồng thủy sản, kinh doanh thực phẩm, thức ăn thủy sản… Điện thoại công ty (+84) 79.3.828.608/3.825.887 Fax (+84) 79.3.825.265/3.824.233 Email sales@phuongnamsf.com Website www.phuongnamsf.com EU Code DL 181, DL 414 HT QLCL BRC, HACCP, ACC, ISO 9001:2000, IFS Sản phẩm Tôm các loại, cá nước ngọt đông lạnh...


DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN

TGĐ Trần Văn Lĩnh nói về xuất khẩu tôm 2013:

Thắng lợi nhưng chưa vội mừng Năm 2013, giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam vượt mốc 3 tỷ USD. Mặc dù kết quả khả quan, nhưng ngành tôm vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Bên lề Hội nghị Tổng kết Xuất khẩu Tôm 2013, phóng viên Tạp chí Thương Mại Thủy Sản đã trao đổi về vấn đề này với ông Trần Văn Lĩnh, TGĐ Công ty CP Thủy sản và Thương mại Thuận Phước, Phó Chủ tịch VASEP.

Ông Trần Văn Lĩnh, TGĐ Công ty CP Thủy sản và Thương mại Thuận Phước

Phóng viên (PV): Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2013 của Thuận Phước thế nào, thưa ông ? TGĐ Trần Văn Lĩnh: Năm 2013, Thuận Phước XK được khoảng 90 triệu USD, cao hơn nhiều so với 59,5 triệu USD năm 2012. Mặc dù về giá trị XK, chúng tôi tăng trên 50% nhưng về sản lượng chỉ tăng khoảng 20% mà thôi. Đó là do năm qua giá XK tăng mạnh. Tuy nhiên, Thuận Phước chỉ là một trong số ít DN miền Trung có mức tăng trưởng tăng, trong khi khá nhiều DN tôm Việt Nam hiện nay còn thực

sự gặp không ít khó khăn. Trong 6 tháng đầu năm, do giá tôm trên thế giới chưa biến động manh, hậu quả của dịch bệnh tôm giai đoạn năm 20112012 khiến người nuôi bị đuối sức, nên sản lượng tôm trong nước cũng ít. Từ khoảng giữa tháng 6/2013, giá tôm trên thế giới đột ngột tăng mạnh đã kích thích người nuôi gia tăng sản lượng. Với những hợp đồng đã ký kết, chúng tôi rất phấn khởi, hy vọng một năm bội thu. Tuy nhiên, niềm vui chưa được bao lâu, lúc bắt đầu thu

hoạch thì thương nhân Trung Quốc tràn vào Việt Nam ồ ạt thu mua tôm nguyên liệu với giá cực cao. Điều này đặt DN chúng tôi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu thực hiện theo các hợp đồng đã ký thì sẽ bị lỗ. Những DN nhỏ chắc chắn không thể trụ nổi, chỉ có một vài DN lớn nhờ trường vốn hoặc chế biến những mặt hàng GTGT cao mới vượt qua được, nhưng cũng phải hết sức chật vật. PV: Vượt qua 3 tỷ USD XK có phải là thắng lợi lớn của ngành tôm Việt Nam trong năm qua? TGĐ Trần Văn Lĩnh: Năm nay nhìn thắng lợi như vậy nhưng chúng ta cũng không vội mừng, bởi thắng lợi ấy không phải hoàn toàn do nội lực của mình tạo ra, mà phần không kém quan trọng lại đến từ sự thất bại trong nuôi tôm của một số nước khác. Chúng ta cho rằng ngành nuôi tôm Việt Nam đang phát triển. Nhưng theo tôi, đó chưa phải là phát triển, mà mới chỉ là một sự tăng trưởng theo chiều thuận nhưng không bền vững, có được nhờ sự kích thích của lợi nhuận mà thôi. Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

35


DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN

Điển hình là sự việc thương lái Trung Quốc vơ vét tôm nguyên liệu vừa qua. Do bị kích thích bởi giá tôm nên nhiều nông dân đã đào cả vườn cây của họ lên để nuôi tôm, tất cả những ao trước đây bỏ hóa đều được khôi phục để thả nuôi. Điều này nguy hiểm ở chỗ, thương lái Trung Quốc thu mua tôm không cần quan tâm đến chất lượng và VSATTP nên người người nuôi rất chủ quan khi sử dụng hóa chất, kháng sinh. Điều chúng tôi lo nhất hiện nay, là vụ tôm năm 2014 sẽ có sản lượng lớn, nhưng giả sử thương lái Trung Quốc dừng lại không mua nữa, nhất là nếu tôm dính kháng sinh, DN chúng tôi cũng không dám mua, thì người nuôi sẽ rất khó tiêu thụ được sản lượng ấy. Truyền hình vừa đưa tin ngư dân ở Quảng Ngãi phá đất, khôi phục diện tích cũ để nuôi tôm tràn lan, trở lại tình trạng bất chấp quy hoạch như trước đây. Đồng thời, do nhu cầu con giống quá cao nên đã ra đời nhiều trại giống dã chiến và sản xuất giống cận huyết. Một ngành tôm như vậy liệu có thể gọi là bền vững và thành công? PV: Vậy theo ông, cần giải quyết những vấn đề gì để ngành tôm Việt Nam phát triển bền vững? TGĐ Trần Văn Lĩnh: Tôi đã đề cập đến những yếu tố ấy từ trước đây rất lâu. Lâu nay chúng ta phát triển ở một chừng mực nào đó là nhờ thuận lợi địa lý ở nước nhiệt đới, có nguồn nhân công rẻ, chứ còn giá thành tôm của ta rất cao và tỷ lệ thất bại trong nuôi tôm của ta cũng rất 36 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Công ty CP Thủy sản và Thương mại Thuận Phước

lớn. Tỷ lệ nuôi thành công của ta chỉ khoảng 30%, trong khi ở các nước xung quanh là trên 70%. Năm nay, do tôm thế giới bị mất mùa, dịch bệnh chưa chữa trị được, trong khi Việt Nam may mắn trong nuôi và chữa trị (thậm chí còn dùng thuốc nam chữa bệnh cho tôm), nên cũng có một số thành công nhất định, nhưng thực tế giá thành nuôi tôm của chúng ta vẫn cao. Nếu không nhờ nhu cầu cao về tôm trên thế giới thì chúng ta chắc chắn sẽ không cạnh tranh nổi với tôm Ấn Độ. Ví dụ, vào tháng 6/2013, giá tôm Ấn Độ đã có lúc thấp hơn của ta từ 3-5 USD/kg. Sắp tới, khi các nước khác kiểm soát được EMS, họ hồi phục, phát triển lại được thì lượng tôm lớn mà chúng ta đang gia tăng ồ ạt hiện nay sẽ tiêu thụ ra sao? Ngành tôm là một ngành kinh doanh đối tượng sinh học. Ngành tôm Việt Nam chỉ có thể bền vững nếu chúng ta có sự đầu tư đúng đắn để tạo ra con giống

tốt và phát triển một ngành công nghiệp thực phẩm với giá thành cạnh tranh. Thức ăn chiếm tới 60-65% trong giá thành sản xuất tôm nguyên liệu, nhưng thực tế ngành tôm Việt Nam phải NK 100% đậu nành, bột cá để làm thức ăn nuôi tôm, và gần như 90% sản lượng thức ăn nuôi tôm nằm trong tay các công ty nước ngoài và họ bán với giá rất cao. PV: Năm 2013 vừa qua, người nuôi đã có sự chuyển hướng khá nhanh và mạnh sang tôm chân trắng, đâu là lý do của việc này? TGĐ Trần Văn Lĩnh: Thực ra, người nuôi thấy con tôm nào có lời thì nuôi. Tôm sú đã có từ lâu đời ở Việt Nam, nhưng đến nay vẫn chưa gia hóa được. Giống tôm sú chủ yếu do khai thác tự nhiên ở biển nên không chủ động kiểm soát được mầm bệnh. Trong khi đó, giống tôm chân trắng, tuy ở Việt Nam chưa được phát triển một cách khoa học, nhưng tôm bố mẹ chủ yếu được NK từ các nước như Singapore, Thái Lan, Mỹ,… trong chừng


mực nào đó đã kiểm soát được các mầm bệnh. Mặt khác, tôm chân trắng có hệ số thức ăn tốt hơn và tăng trưởng cũng nhanh hơn tôm sú. Nếu cách đây 5 năm, giá trị thương phẩm của tôm chân trắng trên thị trường thấp hơn nhiều so với tôm sú, thì hiện nay nó đã phổ biến, được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng và giá cũng không thấp. Người dân thấy nuôi tôm thẻ có lợi hơn tôm sú thì họ nuôi thôi. PV: Theo ông, nuôi tôm thẻ liệu có nguy cơ gì không, khi đây là loài ngoại lai và hiện con giống đều phải NK? TGĐ Trần Văn Lĩnh: Trước đây chúng ta đã từng cấm tôm chân trắng và cho rằng tôm sú là tôm bản địa, nuôi tốt hơn. Về khía cạnh khai thác lợi thế tự nhiên, việc chú trọng vào tôm sú là đúng đắn. Nhưng, nuôi tôm là một ngành công nghệ sinh học. Với những thành quả hiện nay của công nghệ sinh học, nuôi một đối tượng đã kiểm soát được về nguồn giống chắc chắn sẽ tốt hơn một đối tượng tự nhiên chưa được bàn tay con người tác động vào. Ngoài ra, có nhiều tài liệu cho rằng nuôi tôm chân trắng gây họa cho môi trường và hủy hoại các loài nuôi khác nên trước đây Bộ Thủy sản (cũ) đã từng cấm. Nhưng các thông tin ấy chưa được chứng minh tại Việt Nam.

Thực tế, nhiều quốc gia trước đây cũng lo ngại như Việt Nam nhưng bây giờ nuôi tôm chân trắng cũng đã dần dần mở rộng, như ở Ấn Độ, Thái Lan… Thậm chí, sản lượng tôm chân trắng nuôi tại các nước này còn tăng rất nhanh. Tôi không bài xích việc nuôi tôm thẻ. Trái lại, tôi là một trong những người đầu tiên yêu cầu Bộ Thủy sản (cũ) cho nuôi tôm thẻ và nếu cấm vì lý do gì thì phải do chúng ta quyết định chứ không phải từ một luồng thông tin, lời khuyên nào đó chưa được kiểm chứng từ phía bên ngoài, không phải từ Việt Nam. Bất cứ nuôi loài nào cũng đòi hỏi phải có sự thâm canh cao độ. Từ lâu nay, chúng ta vẫn chủ yếu khai thác lợi thế tự nhiên mà chưa coi đây là một ngành công nghiệp nuôi trên cơ sở đầu tư vào công nghệ sinh học. Ngày nay công nghệ sinh học đã trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn, cho nên cần làm một cách bài bản từ sản xuất giống, quy hoạch, cải tạo đồng ruộng, kiểm soát môi trường, sản xuất thức ăn… Khi đã nuôi, dù là con tôm nào cũng phải làm bài bản như vậy mới bền vững, còn đã làm không bền vững thì nuôi con tôm nào cũng hủy hoại môi trường và rủi ro lớn. PV: Ông dự đoán như thế nào

CÔNG TY CỔ PHẦN THỦY SẢN VÀ THƯƠNG MẠI THUẬN PHƯỚC Địa chỉ: KCN Dịch vụ & Thủy sản Thọ Quang, Tp Đà Nẵng Sản phẩm chính: tôm sú, tôm thẻ, hải sản Thị trường : Mỹ, EU, Nhật Bản Điện thoại: (+84) 511 3920 920 / Fax: (+84) 511 3923 308. Email: contact@thuanphuoc.vn Website: www.thuanphuoc.vn

về XK tôm Việt Nam năm 2014 ? TGĐ Trần Văn Lĩnh: Chắc chắn năm 2014 sản lượng tôm Việt Nam, mà đặc biệt tôm chân trắng sẽ tăng và XK cũng có khả năng tăng hơn năm nay về sản lượng, về giá trị thì còn tùy thuộc vào giá XK. Nhưng có hiệu quả hay không lại là vấn đề khác. Bởi vì người nông dân Việt Nam nhạy bén đến tội nghiệp, cái gì có lời thì ào ào đua nhau mà nuôi, còn hậu quả thì phụ thuộc vào nhiều cái họ không kiểm soát được. Cho nên, năm tới cũng giống năm 2013, chúng ta sẽ tăng trưởng mạnh nhưng không hẳn là có lãi. Năm 2013 dù nhà chế biến không có lãi nhưng người nuôi vẫn còn lãi, còn sang năm, có lãi hay sẽ là chuyện khác, rất khó dự đoán vì phụ thuộc nhiều vào tình hình thị trường thế giới. Kịch bản thứ nhất là năm 2014 giá sẽ vẫn còn cao, các nước vẫn chưa kiểm soát được EMS. Khi đó Việt Nam có thể tái lập lại một năm thắng lợi như 2013 về sản lượng và giá trị XK. Kịch bản thứ hai, thế giới kiểm soát được EMS và trúng mùa, Việt Nam cũng trúng mùa nhưng chắc chắn chúng ta cạnh tranh kém hơn họ vì khi đó giá bán tôm trên thế giới hạ xuống, có thể sản lượng chúng ta cũng sẽ đạt cao, giá trị XK thấp hơn 2013 một chút nhưng lợi nhuận, tức là hiệu quả thì sẽ thấp hơn rất nhiều. n PV: Cảm ơn ông ! Trần Duy thực hiện

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

37


DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN

Minh Phương

Đối tác dịch vụ logistics tin cậy Với tốc độ tăng trưởng bình quân 30% mỗi năm, Minh Phương đang là thương hiệu có chỗ đứng vững vàng trên thị trường dịch vụ logistics.

Hình thành từ một tầm nhìn chiến lược

Sau bước khởi nghiệp thành công trong các công ty chuyên logistics ở Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, nhận ra đây là lĩnh vực mang tính chiến lược của nền kinh tế, bà Đặng Minh Phương đã quyết định thành lập Công ty TNHH Minh Phương vào tháng 7/1995 với đội ngũ nhân sự cốt lõi khi đó chỉ vỏn vẹn 18 người. Định hướng quan trọng của công ty lúc khởi nghiệp chỉ tập trung vào việc làm cầu nối đưa hàng hóa Việt Nam ra các nước khác cũng như đem hàng hóa mà Việt Nam chưa sản xuất được từ nước ngoài về. Trong khi trên thế giới, logistics đã là mắt xích không thể thiếu trong chuỗi cung ứng hàng hóa và dịch vụ, với những công việc từ kho vận, cung ứng hàng hóa, nguyên vật liệu, vận chuyển, bảo hiểm… đến việc đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thì ở Việt Nam khi đó, ngành logistics còn rất mới mẻ, chưa thực sự trở thành một lĩnh vực dịch vụ độc lập; có chăng chỉ là bộ phận XNK chịu trách nhiệm nhập, xuất hàng hóa, vận chuyển… thuộc một công ty nào đó. Khởi đầu bao giờ cũng lắm

38 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Bà Đặng Thị Minh Phương, TGĐ Minh Phương Logistic

gian nan. Tuy nhiên, với quyết tâm và tận tụy với nghề của toàn thể cán bộ công nhân viên, Minh Phương đã đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao qua các năm. Năm 1999, đánh giá được lượng khách hàng tiềm năng ngày một tăng cao ở các tỉnh phía Bắc, công ty đã chủ động mở VPĐD tại Hà Nội, đảm bảo cung ứng dịch vụ và thiết lập mạng lưới kinh doanh tại thị trường miền Bắc. Một năm sau đó, năm 2000, công ty tiếp tục mở VPĐD tại Đà Nẵng, một đầu mối kinh tế - công nghiệp quan trọng của khu vực miền Trung, nơi tập trung đầy đủ cảng biển, hàng không và tàu lửa, hội tụ được các yếu tố cần để phát triển công nghiệp, du lịch và thương

mại. Ngoài ra, Minh Phương cũng đã thành lập VPĐD tại Hải Phòng – thành phố lớn thứ ba của Việt Nam và sở hữu cảng biển lớn nhất khu vực phía Bắc. Năm 2002, Minh Phương nâng tầm chất lượng dịch vụ và tiến sâu hơn vào chuỗi cung ứng logistics với việc bắt tay cùng tập đoàn Baek-Shim-Ra (Hàn Quốc) để thành lập công ty TNHH Liên doanh Vận tải Container Nice Vina. Sự ra đời của Nice Vina đã hỗ trợ rất nhiều cho các hoạt động vận chuyển của Minh Phương và tạo thêm niềm tin cho khách hàng khi đến với các dịch vụ của Công ty. Đến nay, Nice Vina đã và đang khẳng định được thương hiệu của mình trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ vận chuyển container, với các loại hình dịch vụ chính như cho thuê rơmooc, sửa chữa phương tiện, dịch vụ thu gom hàng hóa và kho bãi,... tạo được niềm tin đối với tất cả khách hàng tại thị trường nội địa.

Đối tác tin cậy

Hiện nay, với việc sở hữu hơn 100 đầu kéo container nhập mới hoàn toàn từ Hàn Quốc, hơn 300 rơmoóc, hàng chục xe vận tải nhỏ, kho bãi rộng 12.000 m2 và hơn 1.000 cán bộ CNV, công


ty Minh Phương có mức tăng trưởng doanh số bình quân đến 30%/năm. Có thể nói, đây là một đối thủ “nặng ký” đối với DN nội địa muốn dấn thân vào lĩnh vực logistics. Gần 20 năm hình thành và phát triển là chặng đường đủ để trải nghiệm và kiểm định một thương hiệu, nhưng slogan của công ty Minh Phương lại không phải là những câu chữ đao to búa lớn. Đơn giản chỉ là: “Một đối tác tin cậy trong các giải pháp logistics”. Minh Phương ngày càng phát triển và trở thành đối tác tin cậy của các DN trong việc cung cấp các giải pháp giao nhận hàng hóa XNK trên khắp Việt Nam. Công ty luôn cố gắng hoàn thiện để thích ứng với nhu cầu ngày càng cao của khách hàng và coi việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của mình. Minh Phương quan niệm rằng, tín nhiệm chính là nền tảng cho những mối quan hệ lâu dài.

Sự tín nhiệm này được duy trì bằng sự chân thật, thẳng thắn, nhẫn nại. Minh Phương đạt được điều đó thông qua những mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh, những mục tiêu định hướng khách hàng, và gắn liền giá trị của Minh Phương với cam kết cung cấp những giải pháp tối ưu. Cùng với phong cách phục vụ chuyên nghiệp, công ty không ngừng nỗ lực đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng bằng chính sự trung thực trong công việc. Theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc bảo hộ ngành logistics nội địa sẽ chấm dứt vào năm 2014. Không đủ vốn, kiến thức logistics còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp,… chính là những điểm yếu chí tử cho các DN nội địa trước

làn sóng các DN logistics nước ngoài đang ồ ạt tràn vào Việt Nam. Khi đó, chỉ những công ty logistics nào có uy tín và tính chuyên nghiệp cao, đủ sức khắc phục những điểm yếu đó, mới có thể giành được niềm tin từ phía khách hàng để trụ vững và tiếp tục phát triển. “Chúng tôi cam kết những tiêu chuẩn cao nhất cho tính chuyên nghiệp trong tất cả hoạt động của mình. Chúng tôi xác định sẽ cung cấp cho khách hàng của mình những giải pháp giá trị bằng chính sự chuyên nghiệp. Chính những giá trị và sự cam kết này đã và đang và sẽ tạo nên sự tin cậy trong lòng khách hàng và cũng là động lực thúc đẩy cho Công ty Minh Phương ngày càng phát triển”- bà Phương chia sẻ. n Trần Duy

CÔNG TY TNHH GIAO NHẬN VẬN TẢI MINH PHƯƠNG Ngành nghề: Dịch vụ Giao Nhận, Vận Chuyển, Xuất Nhập Khẩu Địa chỉ: 33A Trường Sơn - P.4 - Q. Tân Bình - Tp. HCM Điện thoại: 08.38119033 Fax: 08.38119036 Email: information@minhphuongvn.com Website: http://www.minhphuongvn.com

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

39


DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN

CHUÁC MÛÂNG SINH NHÊÅT Ban Chêëp haânh Hiïåp höåi Chïë biïën vaâ Xuêët khêíu Thuãy saãn Viïåt Nam (VASEP) nhiïåt liïåt chuác mûâng 21 doanh nghiïåp höåi viïn nhên kyã niïåm ngaây thaânh lêåp cuãa àún võ trong thaáng 2/2014

TÖÍNG CÖNG TY CP XNK THUÃY SAÃN THANH HOÁA HASUVIMEX (4/2/1994)

CÖNG TY TNHH UNI-PRESIDENT VIÏÅT NAM UNI-PRESIDENT (6/2/1999)

CÖNG TY TNHH GIA CÖNG CBTP NÖNG HAÃI SAÃN TÛÚÂNG HÛÄU TUONG HUU CO., LTD (4/2/1999)

CÖNG TY TNHH THUÃY SAÃN THAÁI BÒNH DÛÚNG - L.A THAI BINH DUONG - L.A CO., LTD (7/2/2006)

CÖNG TY SÖNG GIANH SOGICO (6/2/1996)

CÖNG TY TNHH HUÂNG CAÁ HUNGCA CO., LTD (6/2/2006)

CÖNG TY CP XNK SA GIANG SAGIMEXCO (8/2/1992)

CÖNG TY CP XNK VIÏÅT NGÛ VINAFISH CORP (13/2/2007)

CÖNG TY CP CB THUYÃ SAÃN XUÊËT KHÊÍU ÊU VÛÄNG AUVUNG CO (17/02/2006)

CÖNG TY CP TP ÀOÁNG HÖÅP KIÏN GIANG KIFOCAN (16/2/2005)

CÖNG TY CP CB THUÃY SAÃN XUÊËT KHÊÍU NGÖ QUYÏÌN NGOPREXCO (16/2/2005)

CÖNG TY ÀÖÌ HÖÅP VIÏÅT CÛÚÂNG YUEH CHYANG CANNED FOOD (17/2/1998)

CÖNG TY CP THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN AÁ CHÊU ACOMFISH (18/2/2006)

CÖNG TY CP XNK NAM HAÂ TÔNH SHATICO (20/2/1993)

CÖNG TY CP XUÊËT KHÊÍU THUÃY SAÃN II QUAÃNG NINH AQUAPEXCO (22/2/1993)

CÖNG TY CP XNK THUÃY SAÃN MIÏÌN TRUNG SEAPRODEX DA NANG (26/2/1983)

CÖNG TY TNHH HIGHLAND DRAGON HIGHLAND DRAGON ENTERPRISE (27/2/1999)

CÖNG TY TNHH THÛÅC PHÊÍM A & CDN A & CDN FOODS CO., LTD (27/2/2003)

40 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

CÖNG TY CP XNK THUÃY SAÃN QUAÃNG NINH QUANG NINH SEAPRODEX CO (22/2/1993)

CÖNG TY CP CB THUÃY SAÃN UÁT XI UTXICO (27/2/2002)

CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN THÛÚNG MAÅI DÕCH VUÅ PHAN DUY PHAN DUY CORP (28/2/1983)


DANH SÁCH HỘI VIÊN MỚI HỘI VIÊN CHÍNH THỨC CÔNG TY TNHH HẢI SẢN BỀN VỮNG Địa chỉ: Lô F5-F6 KCN Suối Dầu, huyện Cam Lâm, Khánh Hòa Điện thoại: 058.3744225 Fax: 058.3744226 Email: sustainableseafood.co@gmail.com Loại hình doanh nghiệp: TNHH Năm thành lập: 22/07/2009 Lĩnh vực hoạt động: Chế biến, xuất khẩu

Sản phẩm: Cá biển, cá ngừ, cá nước ngọt đông lạnh, sản phẩm khác Eu code: DL 607 Người đại diện: Bà Nguyễn Thị Thu Thanh – Phó Giám đốc Di động: 0905166985 Doanh số XK năm 2012 (USD): 8,4 triệu USD HTQLCL: HACCP

CÔNG TY TNHH TÍN THỊNH Địa chỉ: Lô F1, KCN Suối Dầu, Khánh Hòa Điện thoại: 058.3744164 Fax: 058.3744165 Email: tungtinthinh@vnn.vn Web: www.tinthinh.com.vn Loại hình doanh nghiệp: TNHH Năm thành lập: 03/07/2002 Lĩnh vực hoạt động: Chế biến, xuất khẩu

Sản phẩm: Cá ngừ, cá biển: dũa, thu, hồng, mũ…, mực, bạch tuộc, tôm, seafood mix Eu code: DL 385 Người đại diện: Ông Nguyễn Thanh Tùng – Phó Tổng Giám đốc Di động: 0914029897 Doanh số XK năm 2012 (USD): 9,5 triệu USD HT QLCL: HACCP, BRC, HALAL, IFS, DOLPHINE SAFE

CÔNG TY TNHH MTV DU LỊCH – THƯƠNG MẠI KIÊN GIANG Địa chỉ: 190 Trần Phú, P.Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá, Kiên Giang Điện thoại: 077.3617724 Fax: 073.3617725 Email: sale@ktcfood.com.vn Web: www.ktcvn.com.vn Loại hình doanh nghiệp: DN Nhà nước Năm thành lập: 28/06/2006

Lĩnh vực hoạt động: Chế biến, xuất khẩu Sản phẩm: Cá ngừ đóng hộp Eu code: DH 755 Người đại diện: Ông Nguyễn Duy An – Giám đốc Di động: 0913993717 Doanh số XK năm 2012 (USD): 3,5 triệu USD HT QLCL: HACCP, ISO 22000:2005, HALAL, IFS

HỘI VIÊN LIÊN KẾT CÔNG TY TNHH NÔNG TRẠI BIỂN Địa chỉ: 549/65 Lê Văn Thọ, Phường 14, Gò Vấp. Tp.Hồ Chí Minh Điện thoại: 08.39166988 Fax: 08.39166987 Email: info@seafarm.vn Web: www.seafarm.vn Loại hình doanh nghiệp: TNHH Năm thành lập: 30/09/2009

Lĩnh vực hoạt động: Thương mại, dịch vụ Sản phẩm: Tôm, Cá ngừ, mực, bạch tuộc đông lạnh, đồ hộp Người đại diện: Ông Nguyễn Sơn Hải Thức – Giám đốc Di động: 0913135516 Doanh số XK năm 2012 (USD): 1,1 triệu USD

CÔNG TY CP CHỨNG NHẬN VÀ GIÁM ĐỊNH VINACERT Địa chỉ: Tầng 4, tòa nhà 130 Nguyễn Đức Cảnh, phường Tương Mai, Hoàng Mai, Hà Nội Điện thoại: 04.36341933 Fax: 04.36341137 Email: director@vinacert.vn Web: vinacert.vn Loại hình doanh nghiệp: Cổ phần

Năm thành lập: 2007 Lĩnh vực hoạt động: Chứng nhận, giám định Người đại diện: Bà Lê Bảo Ngọc – Giám đốc Phát triển thị trường Di động: 0902245768

CÔNG TY CỔ PHẦN CÁ TẦM VIỆT NAM Địa chỉ: 12B Hùng Vương, Nha Trang, Khánh Hòa Điện thoại: 058.3528252 Fax: 058.3528272 Email: my.d.tang@catam.vn Web: www.catam.vn Loại hình doanh nghiệp: Cổ phần Năm thành lập: 2009

Lĩnh vực hoạt động: Nuôi trồng và sản xuất sản phẩm từ Cá Tầm Sản phẩm: Cá tầm tươi sống, hun khói, trứng cá tầm muối Người đại diện: Ông Lê Anh Đức – Tổng Giám đốc Di động: 0982780404 HT QLCL: HACCP, Global GAP

CÔNG TY TNHH GEA REFRIGERATION VIỆT NAM Địa chỉ: Tầng 3, 3G Phổ Quang, phường 2, Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh Điện thoại: 08.62925149/ 38462778 Fax: 08.62925150 Email: hcm.info@gea.com Loại hình doanh nghiệp: TNHH Năm thành lập: 2008

Lĩnh vực hoạt động: Nhập khẩu & phân phối máy móc thiết bị trong ngành lạnh công nghiệp Sản phẩm: Các thiết bị máy móc phục vụ ngành công nghiệp lạnh Người đại diện: Ông Võ Hoàng Tuấn Di động: 0903643569

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

41


SHAÁ P ÛÅ KIÏå T TRIÏÍ N /N BÒNH BÏÌNLUÊÅ VÛÄN G KINH TÏË BIÏÍN

Ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam

và việc thích ứng với biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu và các biểu hiện của nó như nước biển dâng, nhiệt độ tăng, lũ lụt, và các hiện tượng thời tiết cực đoan… sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến ngành NTTS. Ngân hàng Thế giới (WB) đã tài trợ cho một nghiên cứu Kinh tế học về Thích ứng với Biến đổi khí hậu (EACC) trong thực tiễn ngành NTTS Việt Nam.

Kịch bản biến đổi khí hậu

Lãnh thổ Việt Nam là một dải đất hẹp trải dài ven biển, với hai vùng châu thổ lớn ở hai đầu và vùng núi tập trung ở biên giới phía tây và tây bắc. Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nặng nề nhất trước nguy cơ biến đổi khí hậu. Tháng 6/2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN & MT) đưa ra kịch bản trung bình về biến đổi khí hậu của Việt Nam (Bộ TN&MT 2009), dự báo những thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa và mực nước biển trong giai đoạn 2020-2100. Nghiên cứu EACC đã đưa thêm hai kịch bản khí hậu khác, ứng với hai thái cực Khô (IPSL-CM4) và Ẩm ướt (GISS-ER). Theo Bộ TN & MT, dự báo nhiệt độ trung bình của khu vực phía bắc sẽ tăng nhanh hơn phía nam. So với thời kỳ 1980-1999, nhiệt độ trung bình ở phía bắc sẽ tăng thêm khoảng 2,4-6,8°C và phía nam khoảng 1,6-2,0°C vào năm 2100. Lượng mưa hằng năm dự báo sẽ tăng khoảng 7-8% ở các tỉnh phía bắc vào năm 2100, trong khi tại các tỉnh phía nam con số

42 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Dự kiến mức tăng nhiệt độ trung bình năm so với giai đoạn 1980-1999 (°C ) Vùng khí hậu Tây bắc Đông bắc Châu thổ phía bắc Bắc Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên Nam Bộ

2020 0,5 0,5 0,5

2040 1,0 1,0 0,9

2060 1,6 1,6 1,5

2080 2,1 2,1 2,0

2100 2,6 2,5 2,4

0,5 0,4 0,3 0,4

1,1 0,7 0,6 0,8

1,8 1,2 1,0 1,3

2,4 1,6 1,4 1,8

2,8 1,9 1,6 2,0

Dự kiến mức tăng lượng mưa hằng năm so với giai đoạn 1980-1999 (%) Vùng khí hậu Tây bắc Đông bắc Châu thổ phía bắc Bắc Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên

2020 1,4 1,4 1,6

2040 3,0 3,0 3,2

2060 4,6 4,7 5,0

2080 6,1 6,1 6,6

2100 7,4 7,3 7,9

1,5 0,7 0,3

3,1 1,3 0,5

4,9 2,1 0,9

6,4 2,7 1,2

7,7 3,2 1,4

Dự kiến mực nước biển dâng so với giai đoạn 1980-1999 (cm) Kịch bản thấp Kịch bản trung bình Kịch bản cao Nam Bộ

2020 11 12 12 0,3

2040 23 23 24 0,6

2060 35 37 44 1,0

2080 50 54 71 1,2

2100 65 75 100 1,5

này chỉ là 1,5-3%. Mùa khô sẽ trở tình hình hạn hán vào mùa khô. Đặc tính chịu mặn và nhiệt độ của cá tra và tôm nên khô hạn hơn; lượng mưa ở Tốc độ mực nước biển dâng Cá tra Tôm 29,8±1,0°C (Duong, N.D.,nhanh 2006) Giới hạn sinh trưởng thuận khu vực phía nam sẽ giảm mạnh dự kiến ngày càng tăng Nhiệt độ trong ao lợi 28-30°C (Hargreaves and Buổi sáng: 28,3±0,5°C (°C) ở phía bắc trong giai đoạn hơn trong Buổi giaichiều: đoạn 2020-2100, tăng 30,5±0,5°C Tucker 2003) từ tháng 3 đến tháng khoảng vào năm 2050triển và Cá tra 5. có Trong thể sinh trưởng Độ 30cm mặn 15-30 ppt; phát bình thường trong nước độ thuận lợi ở 25 ppt. Tỷ lệ sống bị khi đó, mùa lên tới 75cm vào năm 2100 dựa Chịu mặn (ppt)mưa sẽ trở nên ẩm mặn thấp (Bu ner, n.d) ảnh hưởng khi vượt giới hạn 10ướt hơn; lượng mưa từ tháng 6 theo kịch bản trung bình. 35 ppt. đến tháng 8 tại miền Bắc sẽ tăng Dự báo diện ao nuôi cá tra chịu ảnh hưởng vì sự giađộng tăng mức ngập lụt tối đổi đa khí Tác của biến mạnh hơntíchcác tỉnh phía nam. trong mùa mưa theo kịch bản nước biển dâng 50cm hậu đến ngành Lượng nhiều Sự gia mưa sẽ tập trung Diện tích ao nuôi cá tra chịu ảnh hưởng nuôi trồng tăng mức An Giang Tháp Cần Thơ thủy sản Việt Nam hơn vào các tháng mùa mưa, Đồng ngập lụt ha % ha % ha % Nguy cơ chịu tác động từ biến dẫn đến tối đa (m) sự gia tăng về tần suất, <0,5 đổi khí hậu cường độ và độ dài các cơn lũ, 0,5-1 Lượng mưa thấp hơn trong đồng 1-1,5 thời làm trầm trọng hơn 178 13 273 26 1,5-2 2-2,5 2,5-3 >3

163 1.236 394 210

8 62 20 10

89 211 497 402

6 15 36 29

509 286

48 27


Bắc Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên

1,5 0,7 0,3

3,1 1,3 0,5

4,9 2,1 0,9

6,4 2,7 1,2

7,7 3,2 1,4

Dự kiến mực nước biển dâng so với giai đoạn 1980-1999 (cm) Kịch bản thấp Kịch bản trung bình Kịch bản cao Nam Bộ

suốt mùa khô đi kèm với nhiệt độ không khí tăng lên sẽ gây ra tình trạng các ao nuôi bị mất nước trầm trọng hơn, nhất là ao nuôi tôm quảng canh lớn, làm tăng độ mặn của nước ao, đòi hỏi phải bổ sung nước ngọt trong mùa khô. Nhìn chung, tác động của những biến đổi về lượng mưa cục bộ lên nguồn cung cấp nước cho các ao nuôi không lớn bằng những thay đổi của mực nước biển và việc xây dựng các đập thủy điện ở thượng lưu sông Mê Kông. Những thay đổi lưu lượng nước hằng năm của sông Mê Kông do biến đổi khí hậu chỉ nằm trong phạm vi 5-20%. Trong khi đó, các dự án quy hoạch thủy điện lớn trên sông Mê Kông dự kiến sẽ làm tăng lưu lượng nước mùa khô từ 1050% và giảm lưu lượng nước mùa mưa từ 6-16%. Tính nhạy cảm Cá tra và tôm có các đặc tính sinh học riêng. Cá tra chỉ chịu được độ mặn thấp. Nhiệt độ tăng nhưng vẫn trong giới hạn chịu đựng của các loài nuôi chính, nhất là cá tra. Nhiệt độ tăng sẽ thúc đẩy làm tăng tốc độ trao đổi chất, từ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, đồng thời cũng đòi hỏi cung cấp lượng thức ăn nhiều hơn, làm tăng chi phí nuôi nhưng lại làm ngắn thời gian đạt đến kích cỡ mong muốn. Ngoài ra, nhiệt độ tăng cũng đẩy nhanh tốc độ phân hủy hữu cơ, có thể gây ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt trong hệ thống nuôi khép kín như ao hồ. Lượng

2020 11 12 12 0,3

2040 23 23 24 0,6

2060 35 37 44 1,0

2080 50 54 71 1,2

2100 65 75 100 1,5

Đặc tính chịu mặn và nhiệt độ của cá tra và tôm Nhiệt độ trong ao (°C)

Chịu mặn (ppt)

Cá tra Giới hạn sinh trưởng thuận lợi 28-30°C (Hargreaves and Tucker 2003) Cá tra có thể sinh trưởng bình thường trong nước độ mặn thấp (Bu ner, n.d)

Tôm 29,8±1,0°C (Duong, N.D., 2006) Buổi sáng: 28,3±0,5°C Buổi chiều: 30,5±0,5°C Độ mặn 15-30 ppt; phát triển thuận lợi ở 25 ppt. Tỷ lệ sống bị ảnh hưởng khi vượt giới hạn 1035 ppt.

mùa mưa theo vùng địa lý dựa ôxi hòa tan giảm đòi hỏi tăng Dự báo diện tích ao nuôi cá tra chịu ảnh hưởng vì sự gia tăng mức ngập lụt tối đa trong mùa mưa theo kịch bản nước biển dâng 50cm trên kịch bản nước biển dâng 50 sục khí, nhất là trong nuôi tôm Sự gia Diện tích ao nuôi cá tra chịu ảnh hưởng cm cho thấy, mức ngập lụt dự thâm canh. Cá tra có thể chịu tăng mức An Giang Đồng Tháp Cần Thơ tại các%tỉnh được chất lượng hơn ha báo tăng ngập lụt ha nước thấp % % mạnh nhất ha tối đa (m) nội đồng thuộc lưu vực sông Mê so với tôm. Cần chú ý rằng mỗi <0,5 Kông. Nghiên cứu cũng đưa ra loài 0,5-1khác nhau sẽ phản ứng khác 1-1,5 với nhiệt độ. Trong khi một 178 dự báo 13 273 ao nuôi 26 về diện tích cá tra nhau 1,5-2 163 8 89 6 509 48 vì sự số loài chịu tác động tiêu62cực khi 211 bị ảnh hưởng 2-2,5 1.236 15 286 gia tăng27mức 2,5-3 độ tăng, 394 20 nhiệt một số khác nhờ 497 ngập lụt36tối đa trong mùa mưa. >3 210 10 402 29 Độ mặn có giới hạn chịu Tổng 2.003nhiệt rộng 100 lại có 1.376 100 1.068 100 Sự xâm nhập mặn đặc biệt thể dễ dàng thích nghi với điều quan trọng đối với nuôi tôm và kiện mới. nuôi cá tra ven biển. Các vùng Nước biển dâng cũng sẽ tác nuôi tôm nước lợ ở các tỉnh ven động tới NTTS nước mặn và nước biển từ Trà Vinh tới Cà Mau lợ do sự gia tăng xâm nhập mặn, dễ bị ảnh hưởng vì sự gia tăng đòi hỏi các loài nuôi có mức độ xâm nhập mặn vào mùa khô, chịu mặn cao. Các thái cực thời đặc biệt là các ao nuôi tôm nằm tiết và bão ngày càng tăng cũng ngoài vùng bảo vệ của các đê gây rủi ro cho các ngành sản xuất kè ven biển và hệ thống cống ven biển. Nước biển dâng do bão điều tiết nước. Mặc dù tôm sú và xói lở bờ biển có thể gây ra có thể chịu mặn ở mức cao đến tác động lớn hơn cả sự tăng lên 35-40 ppt, nhưng giới hạn này của mực nước trung bình. Đã có có thể bị thay đổi do các vấn đề những bằng chứng về sự xói lở về dịch bệnh. bờ biển do đê biển bị hư hỏng ở Theo kich bản nước biển Cà Mau. dâng 50 cm, độ mặn tối đa sẽ Tác động của biến đổi khí hậu tăng cao nhất tại các tỉnh Cà Lũ lụt Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang. Nuôi tôm quảng canh và nuôi Độ mặn tại ao nuôi trong vùng cá tra trong nội địa dễ chịu tác vào mùa khô sẽ tăng hơn 2 ppt động của lũ lụt. Các vùng nuôi so với trước đây, đòi hỏi phải cá tra ở An Giang, Đồng Tháp tăng cường bơm nước ngọt vào và Cần Thơ là những nơi dễ chịu ao đầm để duy trì độ mặn thích ảnh hưởng nặng nề nhất trong hợp cho tôm. Tại các vùng có cơ mùa mưa do tác động kết hợp sở hạ tầng điều tiết nước bảo vệ của nước biển dâng và những khỏi xâm nhập mặn, sự gia tăng thay đổi về lượng mưa. Mô hình độ mặn cao nhất là tương đối gia tăng mực nước lũ tối đa trong Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

43


Đặc tính chịu mặn và nhiệt độ của cá tra và tôm

PHAÁT TRIÏÍN BÏÌN VÛÄNG KINH TÏË BIÏÍN

Cá tra Giới hạn sinh trưởng thuận lợi 28-30°C (Hargreaves and Tucker 2003) Cá tra có thể sinh trưởng bình thường trong nước độ mặn thấp (Bu ner, n.d)

Nhiệt độ trong ao (°C)

Chịu mặn (ppt)

nhỏ, không quá 1 ppt. Các vùng nuôi cá tra mở rộng ra phía biển tại Vĩnh Long và Bến Tre nhiều khả năng sẽ có độ mặn cao hơn.

Phân tích kinh tế về sự thích ứng với biến đổi khí hậu

Phân tích kinh tế về sự thích ứng với biến đổi khí hậu trong ngành NTTS tập trung vào hai loài XK chính của Việt Nam là cá tra nước ngọt và tôm sú nước lợ. Ảnh hưởng kinh tế của biến đổi khí hậu ở quy mô trại nuôi Biến đổi khí hậu gây nên những tác động tiêu cực mạnh mẽ trực tiếp đến thu nhập từ nuôi cá tra và nuôi tôm. Nếu không có biện pháp thích ứng, thu nhập từ nuôi cá tra có thể giảm tới 3 tỷ VND/ha vào năm 2020 do biến

Dự báo diện tích ao nuôi cá tra chịu ảnh hưởng vì sự gia tăng mức ngập lụt tối đa trong mùa mưa theo kịch bản nước biển dâng 50cm Sự gia tăng mức ngập lụt tối đa (m) <0,5 0,5-1 1-1,5 1,5-2 2-2,5 2,5-3 >3 Tổng

An Giang ha

163 1.236 394 210 2.003

Diện tích ao nuôi cá tra chịu ảnh hưởng Đồng Tháp Cần Thơ % ha % ha %

8 62 20 10 100

178 89 211 497 402 1.376

đổi khí hậu và còn có thể tăng lên gấp ba lần số đó vào năm 2050. Tổn thất trong nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh sẽ là 130 triệu VND/ha năm 2020 và tăng lên 950 triệu VND/ha năm 2050. Do đó, việc chủ động thay đổi để thích ứng của từng trại nuôi cũng như quy hoạch của nhà nước là rất cần thiết đối với tương lai của ngành. Thích ứng với biến đổi khí hậu

Các vùng chịu ảnh hưởng vì sự gia tăng độ mặn tối đa theo kịch bản nước biển dâng 50 cm

44 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Tôm 29,8±1,0°C (Duong, N.D., 2006) Buổi sáng: 28,3±0,5°C Buổi chiều: 30,5±0,5°C Độ mặn 15-30 ppt; phát triển thuận lợi ở 25 ppt. Tỷ lệ sống bị ảnh hưởng khi vượt giới hạn 1035 ppt.

13 6 15 36 29 100

273 509 286

26 48 27

1.068

100

Các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu có thể ước tính được chi phí bao gồm (a) thay thế hoặc nâng cấp bờ ao nhằm giảm cường độ lũ lụt và xâm nhập mặn; và (b) tăng cường thiết bị điện và xăng để duy trì mực nước và độ mặn trong ao nuôi. Sự kết hợp giữa chương trình chọn giống và những thay đổi trong tập quán nuôi có thể giúp tăng mức độ chịu mặn cho cá tra. Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm tài trợ kinh phí cho chương trình gây giống, tuy nhiên, việc áp dụng nuôi các giống mới và điều chỉnh tập quán nuôi lại thuộc về trách nhiệm của những người quản lý hoạt động NTTS. Cá tra Xét theo hiện trạng, tương lai của hoạt động nuôi cá tra là không chắc chắn do doanh thu có thể không theo kịp sự gia tăng chi phí đầu vào, đặc biệt là chi phí cho thức ăn nuôi cá. Chỉ những người nuôi hiệu quả nhất và có khả năng thích ứng mới có thể tồn tại trong tình hình tỷ suất lợi nhuận nuôi ngày càng giảm, hiện chỉ ở mức 3-5%. Các biện pháp thích ứng


với biến đổi khí hậu tuy làm gia tăng chi phí nhưng sẽ hỗ trợ cho các chiến lược giúp tăng tỷ suất lợi nhuận và giúp các nhà quản lý bù đắp cho chi phí thích ứng. Các chiến lược này bao gồm cải thiện hệ số thức ăn nhờ phát triển và áp dụng các tập quán tốt hơn, bao gồm gây giống, công thức thức ăn và kiểm soát dịch bệnh, đồng thời củng cố chuỗi giá trị bằng liên kết theo chiều dọc. Việc phân bổ lại lợi nhuận cao từ người bán lẻ ở các nước NK và các công ty chế biến XK sang người nuôi thông qua sự cân bằng cung-cầu trên thị

canh. Do ngành nuôi có tính chất thâm dụng vốn và tăng trưởng nhanh, việc thích ứng nên được tiến hành một cách chủ động ở quy mô trại nuôi, chi phí do người nuôi chịu. Tổng chi phí cho thích ứng với biến đổi khí hậu ước tính ở mức trung bình 130 triệu USD/năm cho cả ngành trong giai đoạn 2010-2050, tương đương 2,4% tổng chi phí. n

trường hoặc can thiệp của chính phủ sẽ khuyến khích và nâng cao các hoạt động NTTS nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. Tôm Nhìn chung, nhiều khả năng người nuôi tôm phải chi phí thấp hơn so với nuôi cá tra cho việc thích ứng với nguy cơ gia tăng lũ lụt và xâm nhập mặn. Tuy nhiên, chi phí bơm nước đối với hệ thống nuôi thâm canh/ bán thâm canh sẽ tăng lên một cách đáng kể. Hệ thống nuôi quảng canh không cần thay nước và bơm nước với cường độ cao như hệ thống nuôi thâm

Ngọc Tú lược dịch Theo Nghiên cứu Kinh tế học về Thích ứng Biến đổi khí hậu, World Bank

Fusheng Group factories woldwide

FUSHENG

Beijing China

St. Louis USA

Quangdong China

MÁY NÉN KHÍ www.fusheng-vietnam.com Mr. Hùng 0903.841243 Maùy Thoåi Khí

Shanghai China

Oberhausen Germany

Pittsburgh USA

. otline: 061.3933260 H

Maùy neùn khí piston

Thương Hiệu Của TÂY BAN NHA

Taipei Taiwan

India Dongnai Vietnam

Brazil

Maùy truïc vít khoâng daàu

Maùy neùn khí truïc vít

Maùy neùn khí truïc vít bieán taàn Tiết Kiệm Điện 30~50%

Toång coâng ty/ Nhaø maùy : Soá 6 ñöôøng 3A Khu Coâng Nghieäp Bieân Hoøa II, Ñoàng Nai

Tel : 061.3834566 - Fax : 061.3834599

Vaên phoøng Tp.HCM :

299 Ñöôøng soá 29, P. Bình Trò Ñoâng B, Q. Bình Taân, TP.HCM

Tel : 08.62601987 - Fax : 08.62602361

Vaên phoøng Haø Noäi :

Soá 42, Toå 22A, Phoá Ñöùc Giang, P.Ñöùc Giang, Quaän Long Bieân, Haø Noäi Tel : 04.38757758 - Fax : 04.38757768

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

45


SÛÅIÏÍNKIÏå&NÀAÅ/ IBÒNH B DÛÚNG LUÊÅN

Đại dương - Thế giới của những điều kỳ bí (Kỳ 2) p Bryan Richard, Sarah Richkayzen, Joan Barker

Địa hình đáy đại dương

Phải mãi đến sau Thế chiến thứ 2, khi máy dò ngang lần đầu tiên được được sử dụng để khảo sát địa hình đáy biển, người ta mới biết rằng ở đó cũng có núi non, thung lũng và cao nguyên, chứ không bằng phẳng và đơn điệu như đã tưởng. Những nét gồ ghề, lồi lõm rất đặc trưng này của thế giới đại dương có được là nhờ các hoạt động kiến tạo mảng. Hoạt động núi lửa. Ở rìa đại dương, các thềm lục địa vươn ra phía biển. Phần vươn ra này của mảng lục địa - từng nằm trên mặt nước biển - có chiều rộng

trung bình 65 km, chỗ hẹp nhất chưa đầy 1 km, chỗ rộng nhất lên đến cả ngàn cây số. Tại mép thềm lục địa, địa hình đứt gãy, sụt lún tạo thành sườn lục địa chạy dần xuống vỏ đại dương. Đáy biển sâu – còn gọi là đồng bằng biển thẳm – bắt đầu từ nơi tiếp giáp của sườn lục địa với vỏ đại dương. Nó được bao phủ bởi một lớp bùn cát do vật chất hữu cơ chết tích tụ lại và mang trong mình vô số những ngọn núi lửa – sản phẩm của quá trình nóng chảy và dâng trào đá macma qua lớp vỏ trái đất. Nếu ngọn núi lửa trồi lên trên mặt nước, nó sẽ tạo thành đảo núi lửa – giống như

Mảng Eurasian

Mảng Bắc Mỹ Mảng Juan De Fuca

Mảng Ả Rập

Mảng Caribe

Mảng Philippin

Mảng Châu Phi

Mảng Cocos

Mảng Thái Bình Dương

Tiểu mảng Fiji

những hòn đảo ở Hawaii. Còn nếu đỉnh của nó bị bào mòn và chìm xuống biển thì được gọi là núi chóp phẳng (guyot). Rãnh đại dương. Nền đáy đại dương còn có một cấu tạo đặc trưng khác - các rãnh hay còn gọi là máng nước sâu. Khi hai mảng thạch quyển hội tụ lại, một trong 2 mảng đó sẽ bị nhấn chìm vào lớp phủ trái đất (quyển manti) tạo ra rãnh đại dương. Rãnh đại dương đặc biệt sâu, nổi tiếng nhất là Rãnh Marianas nằm ngoài khơi Nhật Bản, khu vực tây bắc Thái Bình Dương, có độ sâu 11.000 m – hơn cả chiều cao của đỉnh Everest. Rãnh này hình thành khi

Mảng Nazca

Mảng Nam Mỹ

Mảng Scotia

46 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Mảng Bismarck Mảng Somali

Mảng Nam Cực

Mảng Ấn - Úc

Mảng Solomon


Mảng Thái Bình Dương chìm vào Mảng Philippin. Rãnh đại dương xuất hiện nhiều nhất ở Vành đai Thái Bình Dương, nơi mảng đại dương chui xuống dưới các mảng lục địa. Khi quá trình này diễn ra gần khu vực duyên hải, phía đại dương sẽ xuất hiện rãnh đại dương, còn phần lục địa sẽ trồi lên thành một dãy núi. Dãy Andes đã được sinh ra như thế khi mà mảng Thái Bình Dương đẩy Mảng Nazca chìm xuống bên dưới lục địa Nam Mỹ.

Sống núi giữa đại dương

Sống núi giữa đại dương hình thành khi macma dâng lên và đẩy hai mảng đại dương ra xa nhau. Một thung lung lũng mới xuất hiện tại nơi giãn tách làm cho điều kiện tự nhiên của nền đáy biển biến đổi theo. Bản thân khu vực giãn tách đã rất không

Sống núi giữa đại dương

Macma

Mặt cắt ngang của sống núi giữa đại dương cho thấy macma đang trào lên trên vỏ trái đất. Sống núi giữa đại dương là một dãy núi nằm dưới nước, hình thành bởi hoạt động kiến tạo mảng. Các sống núi giữa đại dương trên thế giới được kết nối với nhau và tạo thành một hệ thống sống núi giữa đại dương duy nhất chạy qua các đại dương (ngoại trừ Bắc Thái Bình Dương). Hệ thống này là các dãy núi dài nhất thế giới với tổng độ dài vào khoảng 45.000 km, chiều rộng gần 50 km và cao hơn 3000 m.

ổn định do macma trào lên bề mặt. Thêm nữa, nước biển thấm vào lớp phủ qua chỗ nứt vỡ và

bị đun nóng ở nhiệt độ rất cao rồi lại bị ép phụt trở lên bề mặt. Những miệng phun thủy nhiệt

Các núi lửa ngầm dưới biển nằm suốt dọc các sống núi giữa đại dương. Một số núi lửa trồi lên mặt biển tạo thành các đảo như Galapagos, các đảo trên sống núi Hawaii. Khi núi lửa phun, dung nham nóng chảy gặp nước sẽ nguội đi và tích tụ dưới đáy biển. Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

47


BIÏÍN & ÀAÅI DÛÚNG

này – như người ta thường gọi – là nơi sự sống sinh sôi bất kể tình trạng thiếu ánh sáng mặt trời. Những khoáng chất thoát ra từ đây nuôi dưỡng các vi khuẩn trong nước thông qua quá trình tổng hợp hóa học, giúp chúng phát triển và nuôi sống các sinh vật khác. Sống núi giữa Đại Tây Dương là một điển hình tách giãn của các mảng kiến tạo phía đông và phía tây. Nó là một dãy núi ngầm khổng lồ chạy suốt từ vòng Bắc Cực cho đến cận Nam Cực. Đa phần sống núi này nằm dưới nước, chỉ có một phần nhỏ nhô lên trên mặt nước biển, tạo thành những hòn đảo như Iceland, Azores và Ascension. Nhờ phát hiện ra sống núi giữa Đại Tây Dương vào những năm 1950 mà thuyết lục địa trôi của Wegener đã được công nhận.

vùng nước nông lớn cho sinh vật trú ngụ. Có nhiều yếu tố làm mực nước biển thay đổi nhất thời như thủy triều, bão, bốc hơi, mưa, lũ, dòng chảy của sông, sóng thần. Về lâu dài, nhiệt độ và khối lượng nước ‘nhốt’ trong băng

biển, băng sông, chỏm băng hai cực và nước ngọt mới là những thứ có ảnh hưởng chi phối đến mực nước biển. Ước tính, nước biển dâng do gia tăng nhiệt độ là 0,08 cm/năm. Trái đất ấm lên. Nhiệt độ trên toàn cầu tăng lên đang là

Biến động mực nước biển

Mực nước biển hiện nay cao hơn mực nước biển vào thời kỳ cuối kỷ băng hà – cách đây khoảng 18.000 năm – tới hơn 120 m. Thời kỳ đó, eo biển Bering giữa hai lục địa châu Á và châu Mỹ là một dải đất khô ráo và con người có thể đi bộ qua đó để sang Bắc Mỹ. Nước biển chỉ dâng nhanh trong giai đoạn khoảng 6000 năm trở về trước, sau đó chậm dần và tương đối ổn định trong 3000 năm qua (ngoại trừ 100 năm trở lại đây nước biển dâng khoảng 0,8-0,3 cm/năm và trong vòng 10 năm nay là 0,3 cm/năm). Nước biển dâng sau kỷ băng hà làm ngập những dải đất ở rìa vỏ lục địa và tạo nên những

48 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Mực nước biển ngày nay cao hơn nhiều so với 18.000 năm trước. Các mép, rìa vỏ lục địa bị ngập – vốn được gọi là thềm lục địa – trở thành nơi trú ngụ lý tưởng của vô số các loài động thực vật.


Băng nứt vỡ và tan sớm vào những năm mùa đông nóng bất thường (do biến đổi khí hậu và hiện tượng ấm lên toàn cầu) khiến cho tỉ lệ chết của những con hải cẩu nhỏ sinh ra trên băng tăng dần. Thiếu băng hoặc băng mỏng quá làm cho hải cẩu mẹ không có chỗ để sinh con. Ngoài ra, hải cẩu con cũng dễ bị chết đuối hoặc bị nghiền nát khi những tảng băng dưới chân chúng vỡ ra.

một trong những mối quan ngại lớn nhất của loài người. Người ta ước tính, với đà tăng này của nhiệt độ, nước biển có thể dâng thêm 8 cm vào cuối thế kỷ 21. Nguyên nhân của hiện tượng trái đất ấm lên là do phát thải khí nhà kính – đáng chú ý nhất là khí C02 – tăng nhanh (25% trong vòng 100 năm qua). Nhiệt độ trên trái đất tăng lên là do C02 ngăn không cho nhiệt của mặt trời chiếu xuống trái đất bức xạ ngược trở lại và thoát ra ngoài không gian (hiệu ứng nhà kính). Trái đất ấm lên làm tan chảy các chỏm băng ở hai cực, khiến mức nước biển dâng lên. Mức dâng là bao nhiêu thì còn tùy vào các giả thuyết. Có giả thuyết cho rằng nước biển sẽ dâng hơn 60 cm nếu băng sông

Dải băng Bắc Cực đạt kích thước lớn nhất vào mùa đông. Khi mùa xuân đến, phần mép của nó nứt vỡ ra, trở thành các tảng băng nổi và trôi về phía nam. Khác với các núi băng trôi, các tảng băng nổi này chuyển động dưới lực đẩy của gió chứ không phải của dòng chảy đại dương.

và các mũ băng tan, 600 cm nếu dải băng Greenland biến mất, và 6000 cm nếu cả khối băng Nam Cực tan chảy. Hai giả thuyết sau sẽ chỉ xảy ra trong hàng trăm, hàng nghìn năm nữa, nếu trái đất vẫn tiếp tục ấm lên. Tuy nhiên, giả thiết đầu có thể thành hiện thực ngay trong thế kỷ 22 và ảnh hưởng đến khu vực duyên hải sẽ là vô

cùng nghiêm trọng. Môi trường sống, nhà cửa, tài sản sẽ biến mất; xói mòn; nguy cơ lũ lụt thường xuyên ở những vùng trũng; chất lượng nước thay đổi; các ngành hàng hải, du lịch, vận tải… chắc chắn sẽ chịu nhiều thiệt hại nặng nề. n T.T.P (Còn nữa)

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

49


VÙN HOÅC NGHÏå THUÊÅT

Tho

Nhà thơ Vũ Huy Thủ

Vũ Huy Thủ

sinh ngày 8/11/1942 tại Lâm Thao, Phú Thọ. Tốt nghiệp Đại học Thủy sản. Năm 1964-1994,

Mùa tôm trên cát Đất quê mình đặc biệt quá em ơi, Cát phủ trắng núi đồi trơ sỏi đá, Cây xương rồng bạn với người khách lạ, Anh vạch cát tìm chẳng thấy dấu chân em; Ông cha ta người xuống biển người lên nương,

ông sống tại Hải Phòng, công tác ở Viện Nghiên cứu Hải sản, tham gia nghiên cứu nguồn lợi hải sản Việt Nam. Từ năm 1995 đến nay, ông ở Hà Nội, từng là Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản (Bộ Thủy sản). Tác phẩm đã xuất bản: Làng Dòng (in chung); Một thời để nhớ, Một thời xa xăm (NXB Hội Nhà Văn, 2013); Một thời hương cốm, Một thời xa khơi (NXB Thanh Niên, 2013). Nhiều bài thơ đã đăng ở tạp chí Thủy sản, VNTTX, báo Nhân Dân, Người Hà Nội...

Sống đạm bạc cho qua ngày đoạn tháng,

Giải thưởng văn học: Giải thưởng Cuộc thi trình diễn thơ - Hội viên Thi Đàn Việt Nam

Tấm áo sờn vai bạc màu nắng sạm,

năm 2013 do Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực và Thi Đàn Việt Nam tổ chức.

Nước da đồng hun cháy gió miền Tây; Qua mấy mùa lá rụng lại về đây, Tôi sửng sốt thấy làng chài trên cát, Ánh điện lung linh mặt hồ dát bạc, Ai biến dải cát hoang thành cánh đồng tôm?

Cả thôn làng đang trảy hội rung chuông, Mùa tôm bội thu hecta trên mười tấn, Trong bản trường ca đây là điểm nhấn, Không có xứ nghèo, không số phận long đong, Trí tuệ Việt Nam khi trỗi dậy khơi dòng, Anh đã nhận ra dấu chân em giữa mùa tôm trên cát !

50

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014


Nơi anh đứng đảo tiền tiêu tổ quốc! Em nằm nghe tiếng sóng biển khơi xa, Trong tiếng sóng có lời Anh vọng lại, Nơi đầu sóng đồng đội Anh vững lái, Giữ biển trời, mảnh đất quê hương; Bạn bè cùng Anh đã thức với sao đêm, Nhớ nửa vầng Trăng khi hoàng hôn buông xuống; Anh thân yêu ơi! Em muốn là cây phong ba để cùng Anh chắn sóng, Là hải âu tung cánh giữa trùng khơi, Là cây bàng vuông toả bóng chỗ Anh ngồi;

Qùa Xuân tặng em

Trường Sa ơi, Trường Sa,

Mùa xuân này Anh gửi tặng em

Nơi Anh đứng - đảo tiền tiêu Tổ Quốc,

những vần thơ bậc thang như những đàn tôm nhảy,

Vùng đặc quyền kinh tế biển Việt Nam;

Bức tranh lao xao có cá ba sa, cá tra vùng vẫy,

Đồng đội cùng Anh thành luỹ thép hiên ngang,

Có nơi chúng mình “hôm ấy” gặp nhau;

Chắc tay súng bên tượng đài Tổ quốc;

Trong câu chuyện ngọt ngào, có cả chuyện mai sau,

Đây bốn nghìn năm hồn thiêng non nước,

Chuyện cổ tích xây lâu đài bằng nuôi tôm trên cát!

Dương cao ngọn cờ Tổ quốc trước phong ba, “Đoàn quân Việt Nam đi” vang dội “Tiến quân ca”!

Mùa xuân này Anh tặng em khúc hát, Có lớp lớp sóng xô vào khuôn nhạc,

Em đang nghe lời Anh từng nói,

Khi đoàn tàu đánh cá ra khơi,

Ngày em ra đảo là ngày hoa kết trái,

Tấm lưới em đan, đan cả biển trời,

Những công dân chào đời sống mãi với Trường Sa,

Mẻ cá đầy khoang, mang bóng người thiếu nữ

Tiếp bước cùng Anh, tiếp bước ông cha… Anh lại gặp em trong giấc ngủ, Anh bảo tặng Em bông hoa của đảo, trong ngày lễ thành hôn, Hoa bàng vuông lung linh trong màu sắc kim cương, Em đón nhận và bên Anh mãi mãi !

Tưởng mình lạc giữa động tiên, Có tuyết đang rơi băng giá ngút ngàn, Những tảng băng trôi từ trong nhà máy, Những tảng băng cá, mực, tôm nõn nà đang xếp hàng trong đấy,

Chiều nay tiếng chuông chùa ngân vang vọng lại,

Chuẩn bị lữ hành cho chuyến đi xa,

Đại đức Sư thầy cầu Quốc thái, dân an,

Giữa tiếng ồn ào, xưởng chế biến tan ca;

Các Anh vững lòng tin, Như Hưng Đạo Vương, dõi nhìn ra biển

Mùa xuân này anh gửi tặng em bức tranh tổng thể,

Cả nước bên các Anh,

Phút giao thừa mình nghĩ tới nhau,

Trường Sa đảo là nhà,

Đất nước sang xuân khởi sắc muôn màu,

Biển mãi là quê hương !

Anh lại gặp em nơi chúng mình đã hẹn !

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

51


VÙN HOÅC NGHÏå THUÊÅT

Cào hến sông Bùi

52 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014


N

hững ngày giá rét cuối năm cũng như ngay sau vài bữa nghỉ tết, những người phụ nữ ở xã Hữu Văn (huyện Chương Mỹ, Hà Nội) lại dầm mình dưới sông Bùi để cào hến. Hữu Văn là xã có số phụ nữ làm nghề này đông nhất Hà Nội. Sông Bùi mùa lạnh cạn nước, dễ cào hến, nên các chị thường bắt đầu ra sông từ mờ sang và hì hụi cho đến giữa trưa. Hến cào được sẽ bán ngay trong buổi chợ chiều, lỡ không bán hết thì coi như hôm đó cả nhà ăn hến thay cơm. Hến sông Bùi ngon có tiếng, nhưng chỉ bán được trên dưới 10.000 đ/ kg; nguồn hến cũng đang cạn dần do dòng sông bị ô nhiễm, nên một người cào hến giỏi cũng chỉ thu nhập hơn 100.000 đ/ngày. Ngày ngày phải dầm nước sông, họ thường xuyên bị nước ăn chân tay, bị thấp khớp và nhiều bệnh khác, nhưng không thể bỏ nghề vì đây là nguồn thu nhập chính của cả gia đình... p Việt Quang Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

53


THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN

Dự báo nguồn cung thủy sản năm 2014 p John Fiorillo Một năm mới đã đến và các doanh nghiệp thủy sản vẫn tiếp tục công việc của mình nhằm đối phó với nguồn cung thủy sản liên tục biến động.

N

ăm 2013, cả khách hàng và các nhà cung cấp thủy sản đều phải đối phó với những vấn đề như nguồn cung tôm sụt giảm, khiến giá tăng, hay chi phí cá hồi nuôi liên tục ở mức cao, và nhiều biến động khác trong nguồn cung và giá cả. Để giúp các DN tiếp tục phát triển, Seafood International đưa ra một số nhận định về tình hình giá cả và nguồn cung trong năm 2014 của một số loài thủy sản được giao dịch nhiều nhất thế giới.

Cá thịt trắng: Năm 2014 nhu cầu của người mua cá thịt trắng có thể được thỏa mãn. Sản lượng khai thác cá tuyết và cá minh thái dự kiến vẫn dồi dào nhưng cá haddock có thể giảm.

Cá đáy

Theo Diễn đàn Cá đáy thường niên lần thứ 22 diễn ra tại Viên, Áo hồi tháng 10, sản lượng cá thịt trắng tự nhiên dự kiến sẽ đạt 7,127 triệu tấn trong năm 2014, giảm nhẹ so với sản lượng ước tính 7,2 triệu tấn của năm 2013. Sản lượng cá minh thái Mỹ/

Canađa dự kiến sẽ đạt mức tương tự như năm 2013 là 1,35 triệu tấn. Sản lượng khai thác của Nga sẽ đạt 1,6 triệu tấn, giảm nhẹ so với 1,66 triệu tấn năm 2013. Nguồn cung cá tuyết Đại Tây Dương tăng lên 1,359 triệu tấn, cao hơn so với 1,349 triệu tấn trong năm 2013, trong đó hạn ngạch khai thác của Aixơlen tăng, còn hạn ngạch của Na Uy và Nga giảm nhẹ. Các dự báo đều cho thấy sản lượng khai thác cá tuyết Thái Bình Dương sẽ ổn định ở mức 462.000 tấn. Sản lượng cá haddock sẽ giảm 20.000 tấn xuống còn 278.000 tấn trong năm 2014. Trong đó, sản lượng cá của Nga và Na Uy giảm mạnh nhất. Nguồn cung cá meluc thế giới dự kiến sẽ giảm nhẹ từ 972.000 tấn năm 2013 xuống còn 957.000 tấn trong năm 2014. Sản lượng cá tuyết lục cũng có khả năng giảm xuống còn 337.000 tấn và sản lượng khai thác cá redfish sẽ ổn định ở mức 151.000 tấn.

Cá hồi nuôi

Năm 2014 có thể sẽ khá khan hiếm cá hồi

54 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Sản lượng cá hồi Đại Tây Dương năm 2014 dự kiến tăng nhẹ 2,5%, đạt hơn 2 triệu tấn, cao hơn mức 1,951 triệu tấn sản lượng ước tính trong năm 2013. Morten Vike, Giám đốc điều hành của Grieg Seafood CEO


cho biết: “Nhiều dấu hiệu cho thấy thị trường cá hồi năm 2014 sẽ khá khan hiếm”. Ông dự đoán, sản lượng cá hồi ở Na Uy sẽ tăng khoảng 6%, sản lượng tại Canađa và Anh vẫn không đổi, trong khi sản lượng cá hồi Chi lê giảm. Nếu bạn là người mua cá tra , thì có thể năm 2014 sẽ là năm khắc khổ. Sản lượng sẽ lại giảm khi ngành này đang cố gắng tự điều chỉnh về quy mô sản xuất phù hợp.

Cá tra

Các nhà sản xuất cá tra Việt Nam đã trải qua một năm 2013 đầy khó khăn và dự báo các nhà cung cấp cá tra sẽ không có nhiều cơ hội thành công trong năm 2014. Khi những số liệu cuối cùng của năm 2013 được đưa ra, Việt Nam dự kiến sản lượng cá tra sẽ giảm 30% - xuống mức thấp hơn nhiều so với 1 triệu tấn, đánh dấu một bước lùi của ngành cá tra. Dự kiến, năm 2014 sẽ là thứ tư liên tiếp sản lượng cá tra giảm và chỉ còn 750.000-900.000 tấn. Tại các trại nuôi: Vai trò của NTTS trong nguồn cung thủy sản toàn cầu tiếp tục tăng lên hằng năm.

Cá chẽm và cá tráp

Các chuyên gia dự đoán nguồn cung cá chẽm và cá tráp toàn cầu năm 2013 đạt 342.000 tấn. Tuy nhiên, sản lượng năm 2014 sẽ giảm khoảng 2%. Sản lượng cá cá chẽm và cá tráp của Thổ Nhĩ Kỳ dự kiến sẽ vượt Hy Lạp trong năm 2013, đưa Thổ Nhĩ Kỹ trở thành nhà sản xuất cá

Sự hợp tác giữa các nhà sản xuất cá chẽm, cá tráp chắc chắn sẽ diễn ra trong năm 2014

chẽm, cá tráp hàng đầu thế giới. Theo báo cáo mới nhất Globefish, Thổ Nhĩ Kỳ được dự báo sẽ sản xuất 108.000 tấn cá chẽm và cá tráp trong năm 2013, tăng 12% so với 95.000 tấn của năm 2012. Sản lượng năm 2013 của Hy Lạp dự kiến là 94.000 tấn, giảm 7% so với 101.000 tấn của năm 2012. Khối lượng cá chẽm và cá tráp đưa vào thị trường tăng khiến giá giảm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của nhiều nhà sản xuất. Đây là trường hợp của cá chẽm khi sản lượng tăng 7-10% trong năm 2013, trong khi khối lượng cá tráp giảm đôi chút, nên giá không đổi so với năm 2012. Ngành cá tráp và cá chẽm đang cố gắng duy trì cân bằng cung-cầu, và hầu hết các chuyên gia cho rằng cần tăng cường hợp tác hơn nữa giữa các nhà sản xuất. Xu hướng này chắc chắn sẽ diễn ra trong năm 2014.

Tôm

Do Hội chứng tôm chết sớm (EMS) tàn phá ngành tôm châu Á nên giá tôm toàn cầu tăng vọt. Mặc dù nguồn cung toàn cầu

năm 2013 có thể giảm 8-10% hoặc ít hơn - nếu tính cả tôm tự nhiên nhưng nhập khẩu tôm vào EU và Mỹ đang sụt giảm mạnh hơn so với dự đoán. Các nhà phân tích nhận thấy, nhu cầu tôm hồi cuối năm 2013 giảm do nhiều khách hàng loại bỏ tôm ra khỏi thực đơn và các sản phẩm bán lẻ vì giá cả bị đội lên cao. Mặc dù EMS lan rộng nhưng cũng trong năm 2013 ngành tôm đã thu được nhiều kinh nghiệm để kiểm soát dịch bệnh này, vì vậy các nhà quan sát có cái nhìn tích cực hơn về tương lai. Tuy nhiên, quan trọng là EMS phải thôi lây lan rộng thêm. Nếu EMS vẫn tiếp tục lan rộng, giá tôm sẽ tiếp tục tăng một cách khó lường. Năm mới có thể là năm khởi đầu để phục hồi nguồn cung tôm hoặc cũng có thể là năm nguồn cung chạm đáy và giá cả đạt đỉnh cao. Lúc này vẫn còn quá sớm để đoán định. n Hằng Vân dịch Seafood International 1/2014 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

55


SHÕ T ÛÅ KIÏå TRÛÚÂ N /NBÒNH G THUÃLUÊÅ Y SAÃ NN

Malaixia:

Thị trường thủy sản đầy triển vọng Malaixia đang tập trung phát triển nghề cá, từ đó tạo bàn đạp cho XK thủy sản, đặc biệt là những loài thủy sản chất lượng cao.

Nhu cầu thủy sản của người dân Malaixia ngày càng cao

N

ằm ở Đông Nam Á, với diện tích 329.847 km2, dân số khoảng 28 triệu người, nền kinh tế Malaixia đang phát triển, nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ của nhu cầu trong nước và chuyển biến tích cực đáng kể trong xuất khẩu (XK). Riêng đối với lĩnh vực thủy sản, Malaixia cũng đang từng bước phát triển thủy sản nuôi nội địa, nhằm phục vụ tiêu dùng trong nước và gia tăng XK ra thị trường thế giới, dự kiến với sự hỗ trợ từ phía chính phủ, ngành thủy sản Malaixia có

56 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới.

Nhu cầu tiêu thụ thủy sản ngày càng tăng

Hiện nay, lĩnh vực dịch vụ thực phẩm của Malaixia có tốc độ phát triển nhanh chóng, chỉ tính trong vòng 5 năm lại đây, thị trường dịch vụ thực phẩm đã tăng trung bình từ 7%-10% mỗi năm. Lĩnh vực này được dự báo sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới do thói quen tiêu dùng thực phẩm lành mạnh

và giàu dinh dưỡng của người dân. Bên cạnh đó, một lượng lớn khách du lịch và doanh nhân đến tìm kiếm cơ hội hợp tác tại Malaixia cũng là cơ hội gia tăng nhu cầu tiêu thụ thủy sản tại quốc gia này. Malaixia là quốc gia đa sắc tộc, với 60% là người Hồi giáo; khoảng 20% người dân Malaixia là người gốc Hoa, theo đạo Phật và đạo Thiên Chúa Giáo; 7,1% là người gốc Ấn, theo đạo Hinđu, còn lại là người dân gốc châu Á, Trung Đông và châu Âu. Với đặc điểm dân số đặc trưng, đa phần là người Hồi giáo đã khiến nhu cầu tiêu dùng của người dân Malaixia đối với sản phẩm thủy sản tăng nhanh chóng, đạt tới 50 kg/ người/ năm. Người tiêu dùng Malaixia đang dần thay đổi thói quen ăn uống, từ thói quen ăn uống tại nhà đã chuyển sang các nhà hàng và các khách sạn. Số lượng tầng lớp trung lưu với thu nhập cao tại nước này ngày càng tăng cũng khiến số lượng các nhà hàng, khách sạn với thực phẩm thủy sản phong phú mọc lên nhanh chóng. Những nhà hàng Trung Quốc tại Malaixia thường sử dụng các thực phẩm thủy sản tươi sống như bào ngư, sò điệp, tôm hùm, hàu, cua…Những nhà


hàng, khách sạn cao cấp kiểu phương Tây tại quốc gia này lại thường sử dụng những thực phẩm thủy sản tươi sống, ướp lạnh, đông lạnh như cá hồi, cá tuyết…Trong đó, cá hồi là thực phẩm được đặc biệt ưa thích tại đây. Những siêu thị và chuỗi siêu thị tại Malaixia thường bán thực phẩm tươi hoặc ướp lạnh, đông lạnh cao cấp như tôm, cua, cá thu, cá tuyết, cá hồi… Dự báo, với nhu cầu thủy sản gia tăng mạnh mẽ cùng với hiện tượng nguồn cung thủy sản giảm bởi sản lượng khai thác do hoạt động khai thác bằng lưới kéo bất hợp pháp ở ngoài khơi tăng nhanh, làm cạn kiện nguồn cá giống khiến giá cả thủy sản tại quốc gia này sẽ tăng.

Chú trọng phát triển sản xuất

Ngành khai thác thủy sản xa bờ tại Malaixia chưa phát triển, chỉ đạt 1,3 – 1,4 triệu tấn, mục tiêu sẽ đạt 1,7 triệu tấn mỗi năm. Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là giải pháp chính để đáp ứng nhu cầu thủy sản nội địa. Chỉ

trong vòng 5 năm, từ năm 20052010, với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính phủ, sản lượng NTTS của Malaixia đã tăng gần gấp 3 lần, từ 215.000 tấn lên tới hơn 581.000 tấn. NTTS là một trong những ngành chính của Chương trình chuyển đổi kinh tế của chính phủ. Cục Nghề cá Malaixia cho biết, ngành thủy sản nước này đặt mục tiêu đạt sản lượng NTTS 727.300 tấn vào năm 2015 và sẽ đạt 800.000 tấn trong vòng 5 năm, với mức tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 15% nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và XK. Một số loài chủ yếu ở Malaixia bao gồm rong biển, tôm, cá rô phi, cá tra, cá mú, cá hồng, cá chẽm… Đặc biệt đối với tôm, Malaixia đang hướng tới mục tiêu gia tăng lượng tôm trong nước. Có thể nói, đây là quốc gia đi đầu trong nghiên cứu sản xuất giống và nuôi tôm càng xanh, bên cạnh đối tượng nuôi khác là tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Mặc dù ngành tôm của Malaixia đang bị thiệt hại lớn do Hội chứng tôm chết sớm (EMS) nhưng Malaixia

Kim ngạch XK thủy sản Malaixia (2003 – 2012) Đơn vị: Triệu USD

vẫn lạc quan đặt mục tiêu đạt sản lượng 214.000 tấn tôm biển vào năm 2020. Cục Nghề cá Malaixia đã xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc từ khâu sản xuất giống đến khâu chế biến và dựa vào đó để chứng nhận cho các sản phẩm XK. Để thúc đẩy ngành sản xuất thủy sản phát triển, về đối ngoại, Malaixia tăng cường ký kết hợp tác phát triển nghề cá với một số quốc gia có ngành NTTS phát triển như Na Uy, Philippin, Inđônêxia… Trong nước, Chính phủ Malaixia áp dụng những biện pháp trợ cấp cho ngành khai thác, như hỗ trợ kinh phí để khuyến khích ngư dân khai thác thủy sản ở Malaixia nhiều hơn ở Thái Lan và trợ giá đến 35% chi phí nhiên liệu mỗi tháng cho ngành khai thác và NTTS. Đồng thời, có những chính sách khuyến khích nhằm thúc đẩy đầu tư từ các DN trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài như liên kết áp dụng công nghệ cao trong NTTS, nuôi lồng, sản xuất giống, đánh bắt xa bờ, xây dựng hạ tầng, nhà máy chế biến, sản xuất thiết bị vận chuyển và chế biến… Tuy nhiên, đứng trước sự phát triển của ngành sản xuất dầu cọ và cao su, diện tích NTTS đang trở thành mối quan ngại của sự phát triển ngành thủy sản nước này.

Xuất khẩu

Nguồn: Trademap

Theo số liệu từ Trademap, từ năm 2001- 2008, XK thủy sản của Malaixia (Mã HS 03) liên tục tăng, từ 264 triệu USD lên hơn Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

10 nước xuất khẩu thủy sản (mã HS03) nhiều nhất vào Malaixia (2003-2012) (Giá trị: triệu USD)

57


THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN

Năm 2012, do ảnh hưởng của 653 triệu USD. Tuy nhiên, các EMS, kim ngạch XKTS Malaixia DN XK thủy sản Malaixia cũng chỉ đạt 679 triệu USD, giảm so vấp phải những rào cản thương với hơn 769 triệu USD của năm mại từ các nhà NK lớn trên thế 2011. giới. Năm 2009, do XK sang Hiện nay, thủy sản Malaixia EU bị cấm, kim ngạch XKTS đã được XK đến khoảng 80 thị của Malaixia sụt giảm đáng kể, trường khác trên thế giới. Những xuống mức 542 triệu USD. Với thị trường chính NK thủy sản nỗ lực và cam kết đảm bảo chất Malaixia bao gồm EU, Mỹ, Trung lượng ATTP từ phía Chính phủ Quốc, Nhật Bản, Singapore … và ngành TS Malaixia, XK sang trong đó Singapore là nhà NK cá EU được khởi động trở lại vào lớn nhất, EU, Mỹ, Trung Quốc và năm 2010, tình hình XK đã trở Nhật Bản có nhu cầu NK lớn về nên khả quan và dần tăng tốc. Kim ngạch XK thủy sản Malaixia (2003 – 2012) Đơn vị: Triệu USD

Nguồn: Trademap Chợ thủy sản tai thành phố Miri, miền bắc Sarawak, Malaixia

tôm. Ngoài ra, Malaixia có quan hệ vững chắc với các thị trường ở khu vực Trung Đông.

Nhập khẩu

Malaixia có nhu cầu lớn NK nguyên liệu thô để chế biến sản phẩm GTGT phục vụ tiêu thụ trong nước và tái xuất. Hiện nay, Malaixia chủ yếu NK những mặt hàng thủy sản như giáp xác, cá đông lạnh, cá tươi, phile đông lạnh, nhuyễn thể…Các loài cá biển như cá bơn và cá ngừ được NK chủ yếu từ Ấn Độ, cá hồi đông lạnh từ Na Uy, cá rô phi và một số loài tôm từ Trung Quốc, thủy sản tươi/ướp lạnh từ Inđônêxia, Thái Lan và cá tra philê từ Việt Nam. Theo báo cáo của Cục Quản lý Nông nghiệp ngoài nước (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ), năm 2011, Malaixia NK các sản phẩm cá và hải sản đạt 930 triệu USD về giá trị. Trung Quốc là thị trường cung cấp chính với 302 triệu USD, tiếp theo là Ấn Độ 155 triệu USD và Thái Lan 146 triệu USD.

10 nước xuất khẩu thủy sản (mã HS03) nhiều nhất vào Malaixia (2003-2012) (Giá trị: triệu USD) Nước

Năm 2003

TrungQuốc Inđônêxia Thái Lan Việt Nam Myanmar Ấn Độ Nhật Bản Na Uy Pakistan Mêhicô

41,137 63,193 63,489 65,673 95,422 105,717 6,688 37,560 19,000 22,418 13,905 30,407 3,780 5,810 6,737 13,793 4,770 4,547 6,880 3,102

Năm 2004

Nguồn: Trademap 58 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Năm 2012

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

94,998 65,362 92,897 27,998 26,487 45,409 5,510 11,837 4,560 5,142

108,632 64,863 95,487 43,034 30,892 31,377 7,787 12,152 8,122 6,097

117,985 93,293 99,339 48,859 29,570 29,467 10,230 12,977 10,146 7,164

90,984 98,957 90,517 32,636 29,586 22,714 14,692 13,331 10,405 5,593

162,407 103,189 88,884 27,718 31,450 23,795 14,166 13,853 11,252 9,601

222,333 123,838 97,503 26,435 35,146 29,127 18,990 10,776 14,552 7,498

273,444 265,322 156,407 184,125 120,385 132,288 45,328 48,951 39,595 38,536 39,343 33,085 19,842 25,375 17,409 22,565 18,068 21,454 16,606 17,186


Trong những năm gần đây, Malaixia đang hướng đến nguồn nguyên liệu NK từ Trung Quốc nhờ hàng NK từ Trung Quốc có giá rẻ hơn do thỏa thuận thương mại tự do giữa Trung Quốc và ASEAN và các nước trong nội khối ASEAN, do đó, đây có thể sẽ là cơ hội cho các DN XK thủy sản Việt Nam.

Thị trường số 1 NK cá tra phi lê đông lạnh từ Việt Nam

Theo số liệu thống kê từ ITC, Việt Nam đứng thứ 4 về kim ngạch XNK thủy sản sang thị trường nước này. Năm 2012, kim ngạch XK sang Malaixia đạt giá trị 48,9 triệu USD, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Kể từ năm 2005 đến nay, mặc dù cá phi lê đông lạnh chỉ đứng thứ 4 trong các mặt hàng thủy sản NK vào Malaixia (sau giáp xác, cá đông lạnh, cá tươi), tuy nhiên, mặt hàng này lại có tốc độ tăng trưởng cao nhất và Việt Nam luôn giữ vị trí dẫn đầu về XK cá tra phi lê sang thị trường này. Năm 2012, trong tổng giá trị cá đông lạnh NK (Mã HS 0304) vào Malaixia đạt giá trị 79,1 triệu USD thì sản phẩm cá philê đông lạnh (Mã HS 0304) của Việt Nam chiếm nhiều nhất với 26 triệu USD. Tính đến hết 10 tháng đầu năm 2013, cá phi lê đông lạnh (mã HS 0304) Việt Nam XK sang Malaixia đã đạt khoảng 25,5 triệu USD.

Triển vọng

Quan hệ Việt Nam-Malaysia là mối quan hệ hữu nghị, gắn bó, lâu dài. Malaysia là nước đầu

Chợ thủy sản tại thành phố Sandakan, bang Sabah, Malaixia.

tiên trong khu vực Đông Nam Á thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngay từ năm 1973. Nền kinh tế của hai nước có cơ cấu hàng XK hỗ trợ nhau, do đó, hợp tác kinh tế giữa hai nước còn nhiều triển vọng. Với tốc độ phát triển như hiện nay, kim ngạch thương mại giữa hai nước dự kiến có thể đạt tới từ 12 tỷ USD đến 15 tỷ USD vào năm 2020. Cả hai nước đang cùng nhau đón đầu thách thức và đón nhận cơ hội mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, Việt Nam và Malaixia đang cùng đàm phán, hỗ trợ nhau tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và cùng 10 nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và 6 đối tác kinh tế quan trọng của khối là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand và Ấn Độ (còn gọi là

ASEAN+6), đã bước vào những vòng đàm phán đầu tiên nhằm đi đến một thỏa thuận vào năm 2015, hướng tới việc thiết lập Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)…Đây sẽ là một cơ hội quan trọng để gia tăng mối quan hệ giao thương giữa Việt Nam và các nước trong khu vực ASEAN, trong đó có Malaixia, đặc biệt trong lĩnh vực thủy sản. Ngay từ bây giờ, DNTS Việt Nam nên đầu tư xúc tiến tìm hiểu những thị trường trong nội khối ASEAN, đặc biệt là Malaixia, tăng cường tham gia quảng bá, xúc tiến thị trường, thay vì chỉ tập trung vào những thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản… n Nguyễn Thị Hồng Hà (tổng hợp)

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

59


THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN

Braxin:

Nhiều cơ hội cho cá tra Việt Nam Với diện tích khoảng 8,5 triệu km2, dân số gần 200 triệu người, trong đó tầng lớp trung lưu ngày càng tăng, thu nhập bình quân đầu người ngày càng cao vào mức tiêu thụ thủy sản gia tăng nhanh chóng, Braxin là thị trường hứa hẹn cho thủy sản nhập khẩu, trong đó có mặt hàng cá tra Việt Nam.

tiếp tham gia khai thác và NTTS ở Braxin. Nghề cá nhỏ của ngư dân đánh bắt bằng phương pháp thủ công tập trung chủ yếu ở phía bắc và đông bắc, còn các hoạt động khai thác công nghiệp tập trung ở vùng biển phía nam nước này. Hiện nay, phần lớn nguồn lợi thủy sản tự nhiên của Braxin đã khai thác đến giới hạn hoặc quá giới hạn cho phép, chủ yếu do nghề cá công nghiệp. Năm 2011, Braxin là nhà sản xuất thủy sản đứng thứ tư khu vực Mỹ latinh và Caribê, sản lượng thủy sản

Nhà sản xuất thủy sản lớn trong khu vực

Braxin có đường bờ biển dài 8400 km và một hệ thống sông ngòi rộng khắp, hầu hết các con sông lớn đều chảy ra Đại Tây Dương, trong đó có sông Amazon lớn nhất thế giới tính theo dung lượng nước và là con sông dài thứ hai trên thế giới. Đó là những ưu thế của Braxin để phát triển mạnh khai thác và NTTS. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO), ước có khoảng 3,5 triệu lao động trực tiếp hoặc gián

khai thác ở mức khá ổn định, khoảng 800.000 tấn/năm. Braxin đứng thứ 2 khu vực Mỹ latinh và Caribê về NTTS, với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, từ 172.000 tấn năm 2000 lên 639.000 tấn năm 2011. NTTS nước ngọt (cá rô phi, cá chép...) đạt 545.300 tấn, chiếm 87% sản lượng thủy sản nuôi năm 2011. NTTS ven biển chiếm 13% sản lượng, loài nuôi chủ yếu là tôm chân trắng, trai, hàu... Braxin đặt mục tiêu trở thành một trong 10 nhà sản xuất thủy sản lớn nhất thế giới, chủ yếu

Đơn vị: Nghìn tấn

Tổng sản lượng thủy sản Braxin (1980-2011)

1600 1400 1200 1000 800 600 400 200

XNK thủy sản Braxin (1990-2012)

11

10

20

09

20

08

20

07

20

06

20

05

20

04

20

03

20

02

20

01

20

00

Sản lượng nuôi trồng thủy sản

Nguồn: FAO

60 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

20

99

20

98

19

97

19

19

95

96 19

94

92

Sản lượng khai thác

19

19

92

19

91

19

90

19

89

19

19

87

88

19

86

19

85

19

84

19

83

19

82

19

81

19

19

19

80

0


11

10

20

09

20

08

20

07

20

06

20

05

20

04

20

03

20

02

20

01

20

00

20

99

20

98

19

97

19

19

95

96

19

94

19

92

19

92

19

91

19

90

19

89

19

19

87

88

19

86

19

85

19

84

19

83

19

82

19

81

19

19

19

80

Đơn vị: Nghìn tấn

bằng cách phát triển NTTS theo USD. Theo ITC, Chilê, Trung 104 triệu người) là thuộc tầng lớp phương pháp bền vững. Kế Quốc, Nauy, Áchentina, Bồ Đào trung lưu, trong khi trước đó 10 hoạch đưa ra là năm 2015 sẽ sản Nha và Việt Nam là những nhà năm, tầng lớp này chỉ có khoảng xuất hơn 1 triệu tấn thủy sản cung cấp thủy sản lớn nhất cho 38 triệu người. Thu nhập của Braxin năm 2012, các mặt hàng người dân ngày càng cao nên họ nuôi và có khả năng đạt 10 triệu chính là cá hồi tươi và ướp lạnh, có xu hướng tìm tới thực phẩm tấn năm 2020. cá minh thái đông lạnh, cá tuyết, có lợi cho sức khỏe như thủy sản. Để đạt được mục tiêu này, cá hake, cá sardine, cá tra, ... Năm 1996, mức tiêu thụ thủy sản Chính phủ Braxin sẽ cung cấp XK thủy sản của Braxin không trung bình theo đầu người là 7,62 hỗ trợ kỹ thuật, vốn và cấp giấy ổn định, tăng từ 123 triệu USD kg/năm, đến năm 2011 đã tăng lên phép hoạt động. Dự kiến sẽ hỗ năm 1998 lên 427 triệu USD năm 11,17 kg/năm, gần với mức tiêu trợ khoảng 2.960 triệu USD cho 2004, nhưng lại giảm xuống còn người nuôi và khai thác thủyTổng sản sản lượng thủy sản Braxin (1980-2011)thụ thủy sản do Tổ chức Y tế Thế 212 triệu USD năm 2012, chủ yếu giới khuyến nghị (trung bình 12 để hiện đại hóa ngành. Ngoài ra, do nhu cầu tiêu thụ thủy sản nội kg/người/năm). Người dân vùng Bộ Nghề cá và Nuôi trồng thủy địa gia tăng và đồng nội tệ mạnh phía bắc có mức tiêu thụ thủy sản 1600 Braxin cũng tập trung khai lên so với đồng đô la. Mỹ là thị sản cao hơn ở các khu vực khác thác1400 các hồ thủy điện lớn, hiện trường NK lớn nhất mặt hàng (chiếm 21% tổng tiêu thụ thực nước1200 này có khoảng 250 hồ thủy thủy sản của Braxin, tiếp theo là phẩm). Theo FAO, người dân điện có thể nuôi thủy sản, trong 1000 đó cá rô phi sẽ là loài nuôi chính. Tây Ban Nha và Pháp. khu vực ven biển và lưu vực sông 800 Amazon có mức tiêu thụ rất cao, 600 lên tới 30kg/người/năm. Braxin Xuất nhập khẩu thủy sản Xu hướng tiêu thụ 400 đang lên kế hoạch nâng mức tiêu Braxin là nước NK thủy sản Theo báo cáo thị trường của Cơ 200 thụ thủy sản bình quân hằng năm lớn nhất ở khu vực Mỹ Latinh. quan Xúc tiến Đầu tư và Thương lên 12kg vào năm 2015. Trong 0giai đoạn 2003-2011 NK mại Vương quốc Anh (UKTI), Người Braxin có xu hướng thủy sản tăng đều đặn hằng tầng lớp trung lưu tại Braxin tăng tìm đến các quán ăn, nhà hàng, năm. Năm 2011, giá trị NK thủy Sản nhanh chóng trong những năm Sản lượng nuôi trồng thủy sản lượng khai thác khách sạn... nhiều hơn. Ở đây, họ sản đạt tới 1,3 tỷ USD, tuy nhiên, gần đây. Năm 2012, có tới 53 % Nguồn: FAO được tự do lựa chọn món ăn theo năm 2012, giảm nhẹ còn 1,2 tỷ dân số của nước này (khoảng

XNK thủy sản Braxin (1990-2012) Đơn vị: Triệu USD

1400 1200 1000 800 600 400 200 100 10 20 11 20 12

20

9 20 0

08 20

07 20

06 20

4

05 20

20 0

92 19 92 19 94 19 95 19 96 19 97 19 98 19 99 20 00 20 01 20 02 20 03

91

Xuất khẩu thủy sản (theo giá trị)

19

90

19

19

19 89

19 88

7 19 8

86 19

19 85

84 19

83 19

82 19

19 81

19

80

0 Nhập khẩu thủy sản (theo giá trị)

Nguồn: FAO Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

61


100 Sản lượng khai thác

Sản lượng nuôi trồng thủy sản 0

06

20

05

20

04

20

02

03

20

20

00

01

20

20

98

99

20

19

96

97

19

19

95

Nhập khẩu thủy sản (theo giá trị)

Xuất khẩu thủy sản (theo giá trị)

Nguồn: FAOXNK

19

92

94

19

19

91

92

19

19

90

19

88

89

19

19

86

87

19

19

85

19

83

84

19

19

82

19

19

80

19

19

THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN

81

0

Nguồn: FAO

thủy sản Braxin (1990-2012)

Đơn vị: Triệu USD

Caác TT khaác 33,6%

EU

3,3%

Braxin 6,9%

Mïhicö 5,6%

Myä 21,6%

62 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

ASEAN 7,1%

12

11

20

10

20

09

20

08

20

20

07

20

06

20

05

20

04

20

03

20

02

20

01

20

00

20

99

19

98

97

19

96

19

19

95

19

94

19

92

19

92

19

91

19

90

19

Kim ngạch XKTS từ Việt Nam sang Braxin (2008-2013) theo giá trị (Đơn vị: Triệu USD) 21,9%

Cölömbia

89

88

Thõ trûúâng NK caá tra nùm 2013 (GT)

19

87

19

86

19

85

19

84

19

83

19

82

19

81

19

19

19

80

1400 sở thích. Khoảng 26% người dân Sản lượng và mức tiêu thụ thủy sản bình quân theo đầu người tại Braxin Braxin đi ăn 1200 ngoài hằng ngày (ở Mỹ là 50%), trung bình chi tiêu Năm Dân số (triệu Sản lượng ( kg) Tổng lượng tiêu Tiêu thụ bình 1000 khoảng 13% cho tiêu dùng thủy người) thụ (kg) quân đầu người 800 (kg)/năm sản ở bên ngoài. Số doanh 600 nhân nước ngoài 2010 190,7 1. 264.764.913 1.859.006.640 9,75 đến làm việc tại Braxin cũng làm 400 nhỏ thói quen thay đổi không 2005 181,3 1.009.073.000 1.207.085.449 6,66 ăn uống tại đây. Số DN thủy sản 200 2000 170,1 843.376.500 1.142.107.510 6,71 Nhật Bản hoạt động ở Braxin 100 tăng tới 700% chỉ trong 10 năm 1996 161,2 693.172.500 1.228.437.410 7,62 0 bar, nhà hàng qua. Những quán Nguồn: MPA/ MDIC Nhật Bản mọc lên ngày càng Nhập khẩu thủy sản (theo giá trị) Xuất khẩu thủy sản (theo giá trị) nhiều và trở nên phổ biến khiến đó sản phẩm đạt tiêu chuẩn Trong cơ cấu sản phẩm thủy Nguồn: mức tiêu thụ FAO thủy sản (đặc biệt Thõ trûúâlượng, ng NK caá tra nùm 2013 (GT) Kim ngạch từ Việtcá Nam Braxin (2008-2013) chất VSATTP, xuất xứ sản XK sangXKTS Braxin, trasang là mặt theo giá trị (Đơn vị: Triệu USD) là cá hồi) tăng nhanh... Thêm vào rõ ràngCaá... được ưu tiên hàng chủ lực, chiếm tới 99%. c TTthường khaác EU đó, thói quen tiêu thụ thủy sản lựa chọn.33,6% Kim ngạch XK cá tra sang Braxin 21,9% Cölömbia theo mùa của người dân Braxin năm 2013 đạt 121,8 triệu USD, 3,3% là do bị ảnh hưởng bởi phong Cá tra Việt Nam còn nhiều tăng 54% so với 2012.Với mức tục của những Sản người theo đạotiêu thụ cơ thủy hội sản bình quân theo đầu người tại tăng trưởng như vậy, Braxin đã lượng và mức Braxin Braxin Thiên Chúa Giáo đến sống tại Mặc dù Braxin chưa phải là nhanh chóng trở thành nhà NK 6,9% ASEAN Mïhicö Myä đây. Người 7,1% thị Sản trường thủyTổng sản lớn củatiêu cá tra thụ lớn thứ NămBồ Đào Nha lượngNK ( kg) Dân disốcư (triệu lượng Tiêu bìnhtư của Việt Nam, 5,6% 21,6% sang Braxin có tác động không người) quân đầuMỹ người Việt Nam so với cácthụ thị(kg) trường sau EU, và các nước ASEAN, (kg)/năm nhỏ đến lịch sử và văn hóa của truyền thống như Mỹ, EU, Nhật chiếm 6,9% thị phần. nước này, theo truyền thống Bản,... nhưng đây là thị trường Lượng tiêu thụ cá tra ở 2010 190,7 1. 264.764.913 1.859.006.640 9,75 của họ thì vào những ngày lễ, ổn định và tăng trưởng liên Braxin chỉ đứng sau cá minh họ không ăn thịt đỏ mà thay thế tục hằng năm. Chỉ trong vòng thái, cá tuyết hake và cá hồi. 2005 181,3 1.009.073.000 1.207.085.449 6,66 bằng cá tuyết. 5 năm từ 2008 đến 2013, XKTS Theo ITC, năm 2012, cá phile Cần nói thêm, người tiêu từ 843.376.500 Việt Nam sang1.142.107.510 Braxin đã đông lạnh của Việt Nam chiếm 2000 170,1 6,71 dùng Braxin rất nhạy cảm với tăng vọt từ 185 nghìn USD lên 19,4% thị phần tại Braxin, đứng nguồn gốc xuất xứ của thực 123 triệu USD. Năm 2013, kim thứ 1996 161,2 693.172.500 1.228.437.410 7,62 3, sau Trung Quốc (35,7%) phẩm. Họ bị chi phối vì các vấn ngạch XKTS sang thị trường và Achentina (23%). Rõ ràng Nguồn: MPA/ MDIC đề về môi trường sinh thái khi này có mức tăng trưởng lên tới đây là thị trường tiềm năng cho quyết định mua sản phẩm, do 55,1% so với năm 2012. cá tra Việt Nam.


Nhưng cũng lắm rủi ro

Tuy nhiên, Braxin cũng là thị trường nhiều rủi ro cho các DN Việt Nam. Năm 2010, thương vụ Việt Nam tại Braxin đã cảnh báo Chính quyền bang Santa Catarina (phía nam Braxin) và Hiệp hội Thủy sản Santa Catarina... tỏ ra không hài lòng khi cá tra Việt Nam cạnh tranh gay gắt về giá với cá rô phi Braxin. Bên cạnh đó, Ủy ban Khai thác và Nuôi trồng Thủy sản Quốc gia Braxin, Liên đoàn nghề cá Braxin và các hiệp hội thủy sản ở đây cũng cho rằng, việc NK cá tra đã phá vỡ ngành sản xuất trong nước và gây tổn thất cho các công ty thủy sản Braxin. Gần đây nhất, thông tin từ Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản - Nafiqad cho biết, thủ tục công nhận DN vào danh sách được phép XK thủy sản vào Braxin khá phức tạp với 2 điều kiện: ngoài việc đáp ứng quy định đảm bảo ATTP còn phải đăng ký ghi nhãn từng sản phẩm với Cơ quan thẩm quyền Braxin. Tuy nhiên trình tự, thủ tục phê duyệt đăng ký ghi nhãn

Niềm vui của thương nhân tại chợ thủy sản thuộc thành phố Manaus - thủ phủ bang Amazonas - Braxin

vẫn chưa rõ ràng. Theo đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam, các DN cần thấy rằng, trong thời kỳ hội nhập, xu hướng sử dụng các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước là rất rõ nét, chúng ta buộc phải sống chung với nó, không thể tránh được và chỉ có thể tìm cách để hạn chế các rủi ro. Vì vậy, các DN cần gia tăng chất lượng sản phẩm và tránh việc cạnh tranh bằng giá. Bên cạnh đó, cũng cần sự vào cuộc mạnh mẽ của các cơ

quan chức năng có liên quan để XTTM, quảng bá hình ảnh..., tìm lại sự công bằng cho con cá tra Việt Nam trước những rào cản kỹ thuật cũng như các biện pháp phòng vệ TM của các thị trường NK cá tra quan trọng trên thế giới nói chung và thị trường Braxin nói riêng, giúp các DN đứng vững và phát triển hơn nữa tại thị trường đầy tiềm năng này. n Nguyễn Thị Hồng Hà

Nhà sản xuất máy hút chân không lớn nhất Châu Á

VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN THƯỜNG TRÚ TẠI VIỆT NAM ĐC: 24-26 đường số 5, Cư xá Bình Thới, Phường 8, Quận 11, TP. HCM

ĐT: 08.39620009, 38582206, 39625467

Fax: 38584070

Email: newdiamond@vnn.vn

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

63


SHÕ T ÛÅ KIÏå TRÛÚÂ N /NBÒNH G THUÃLUÊÅ Y SAÃ NN

XUÊËT KHÊÍU THUÃY SAÃN VIÏÅT NAM

NÙM 2013

XK thủy sản Việt Nam trong thaáng 12 năm 2013 đạt 661 triệu USD, tăng hơn 34% so với cùng kỳ năm trước. Tñnh chung cả năm 2013, XK thủy sản chñnh ngạch của Việt Nam đạt hơn 6,72 tỷ USD, tăng 9,6% so với năm 2012. Cơ cấu

Nguöìn: VASEP (theo söë liïåu Haãi quan Viïåt Nam)

thị trường vaâ caác nhoám haâng xuất khẩu chñnh như sau (GT: gña trị, triệu USD).

Thõ trûúâng

Thaáng 11/2013 (GT )

Thaáng 12/2013 (GT)

Myä EU Àûác Anh Italy Haâ Lan Phaáp Nhêåt Baãn TQ vaâ HK Höìng Köng Haân Quöëc ASEAN Öxtrêylia Braxin Mïhicö Nga Caác TT khaác Töíng cöång

141,895 106,532 20,789 14,713 9,676 12,639 10,645 113,731 56,458 11,294 60,659 36,712 22,704 14,499 8,865 9,489 90,072 661,616

135,534 107,578 20,465 12,008 9,999 12,213 10,649 103,882 53,867 13,831 66,287 34,030 18,189 15,891 12,618 18,761 94,486 661,122

Saãn phêím

Thaáng 12/2013 (GT)

340,681 190,469 128,840 147,336 35,328 24,326 11,002 51,049 87,222 661,616

306,391 180,870 104,369 166,636 37,428 22,029 15,399 44,146 106,522 661,122

Caác TT khaác 17,6%

Nhêåt Baãn 17,1%

Myä 22,6%

EU 17,6%

Haân Quöëc 7,7%

So vúái T12/2012 (%) +77,2 +179,3 +12,9 +12,8 -12,7 +16,4 -35,7 15,6 17,8 +34,3

+27,4 +4,12 +5,0 +35,9 -5,4 -5,1 +5,6 +5,0 +36,6 -4,4 +2,4 +13,1 +12,3 +55,1 -1,8 +4,5 -12,3 +9,6

Nùm 2013 (GT)

So vúái nùm 2012 (%)

3.114,285 1.579,109 1.329,280 1.761,147 526,685 254,668 272,017 447,666 874,918 6.724,702

+39,1 +113,0 +6,26 +1,0 -7,2 +19,5 -23,2 -10,8 -19,2 +9,6

Saãn phêím chñnh nùm 2013 (GT)

GT (tr.USD)

Trung Quöëc 8,5% Öxtrêylia 3,1%

1.518,399 1.182,036 212,433 145,992 142,295 130,200 123,400 1.152,445 572,717 128,730 521,158 389,779 206,401 123,076 108,268 105,007 845,415 6.724,702

Top 10 DN XKTS nùm 2013

Thõ trûúâng chñnh nùm 2013 (GT)

So vúái nùm 2012 (%)

Nùm 2013 (GT)

+80,2 +18,4 +5,7 +61,0 -4,1 +30,2 +27,3 +24,6 +16,2 +23,9 +45,5 +21,4 +93,8 +42,7 +8,4 +60,4 +19,7 +34,3

Thaáng 11/2013 (GT)

Töm caác loaåi (maä HS 03 vaâ 16) trong àoá: - Töm chên trùæng - Töm suá Caá tra (maä HS 03 vaâ 16) Caá ngûâ (maä HS 03 vaâ 16) trong àoá: - Caá ngûâ maä HS 16 - Caá ngûâ maä HS 03 Mûåc, baåch tuöåc Haãi saãn khaác Töíng cöång

ASEAN 5,8%

So vúái T12/2012 (%)

411,596 MINH PHU SEAFOOD CRP 166,267 VINH HOAN CORP 158,769 STAPIMEX 147,808 QUOC VIET CO., LTD 132,185 CASES 128,757 Cty TNHH Chïë biïën TS Minh Phuá - Hêåu Giang 112,664 AGIFISH 105,567 HUNG VUONG CORP 104,136 AUVUNG SEAFOOD 102,964 FIMEX VN 1.570,713 Töíng cöång

Haãi saãn khaác 13,0%

Mûåc, baåch tuöåc 6,7 %

Caá ngûâ 7,8%

Töm àöng laånh 46,3%

Caá tra, basa 26,2%

Xuêët khêíu thuãy saãn Viïåt Nam 2011 - 2013

Triïåu USD 750 500 250 0

1

2

3

4

5

2011 GT

64 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

6

7

2012 GT

8

2013 GT

9

10

11

12


XUÊËT KHÊÍU TÖM NÙM 2013 Thõ trûúâng NK töm nùm 2013 (GT) Caác TT khaác 13,8%

Trung Quöëc

XK töm, 2009 - 2013 (GT) Triïåu USD 3500

Nhêåt Baãn

3000

22,8%

2500 2000

12,2%

1500 1000 500 0

Haân Quöëc 7,2% Öxtrêylia 4,1%

2009

2010

2011

2012

2013

Myä

EU

26,7%

13,1%

Thaáng 11/2013 (GT)

Thaáng 12/2013 (GT)

%GT

Nùm 2013 (GT)

%GT

So vúái nùm 2012 (%)

Myä

89,258

82,426

26,9

Nhêåt Baãn

71,395

62,837

20,5

+183,0

830,997

26,7

+82,5

+37,3

708,775

22,8

EU

47,515

39,909

+14,7

13,0

+58,0

409,475

13,1

Àûác

12,098

+31,3

9,745

3,2

+40,2

97,116

3,1

Anh

+18,9

10,311

6,397

2,1

+69,3

80,936

2,6

+59,6

5,829

6,548

2,1

+92,5

61,469

2,0

+73,6

39,236

31,881

10,4

+13,1

381,171

12,2

+49,1

Höìng Köng

5,881

8,464

2,8

+63,4

66,165

2,1

+6,9

Haân Quöëc

33,616

35,704

11,7

+108,3

224,862

7,2

+31,2

Öxtrêylia

15,321

11,227

3,7

+227,2

128,760

4,1

+27,5

Canaàa

13,898

13,393

4,4

+138,7

121,226

3,9

+73,7

Àaâi Loan

8,143

7,977

2,6

+19,4

95,599

3,1

+26,1

ASEAN

6,657

4,943

1,6

+75,9

51,077

1,6

+40,9

Xingapo

3,822

3,064

1,0

+50,1

33,669

1,1

+32,3

Malaixia

1,102

1,158

0,4

+116,5

7,293

0,2

+83,9

Thuåy Sô

5,015

3,575

1,2

+197,1

50,854

1,6

+34,5

Caác TT khaác

10,626

12,518

4,1

+61,9

111,490

3,6

+5,4

Töíng cöång

340,681

306,391

100

+77,2

3.114,285

100

+39,1

Thõ trûúâng

Bó TQ vaâ HK

So vúái T12/2012 (%)

GT: Giaá trõ (triïåu USD) Töm caác loaåi (chïë biïën, thuöåc maä HS 1605)

Töm caác loaåi (söëng/ tûúi/àöng laånh/ khö (thuöåc maä HS 03)) STT

Thõ trûúâng

GT (tr.USD)

Thõ phêìn (%)

STT

1

Nhêåt Baãn

472,912

22,53

1

2

Myä

450,368

21,45

2

3

Trung Quöëc vaâ HK

366,997

17,48

4

Haân Quöëc

161,706

5

Àaâi Loan

6

GT (tr.USD)

Thõ phêìn (%)

Myä

380,629

37,50

Nhêåt Baãn

235,863

23,24

3

Öxtrêylia

96,370

9,49

7,70

4

Haân Quöëc

63,156

6,22

86,157

4,10

5

Àûác

38,226

3,77

Canaàa

84,956

4,05

6

Canaàa

36,270

3,57

7

Àûác

58,890

2,81

7

Phaáp

23,381

2,30

8

Anh

58,129

2,77

8

Anh

22,807

2,25

9

45,477

2,17

9

Haâ Lan

19,085

1,88

10

Thuåy Syä

41,333

1,97

10

15,992

1,58

1.826,925

87,03

Töíng 10 TT

931,780

91,80

272,321

12,97

Caác TT khaác

2.099,246

100,00

Töíng cöång

Töíng 10 TT Caác TT khaác Töíng cöång

Thõ trûúâng

83,259

8,20

1.015,039

100,00

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

65


SHÕ T ÛÅ KIÏå TRÛÚÂ N /NBÒNH G THUÃLUÊÅ Y SAÃ NN

XUÊËT KHÊÍU CAÁ TRA NÙM 2013 Thõ trûúâng NK caá tra nùm 2013 (GT)

XK caá tra, 2009 - 2013 (GT) Triïåu USD

Caác TT khaác

EU

33,6%

2000

21,9%

Cölömbia

1500

3,3%

1000 500

Braxin 6,9%

Mïhicö 5,6%

Thaáng 11/2013 (GT)

Thõ trûúâng

EU

0

ASEAN

Myä 21,6%

Thaáng 12/2013 (GT)

2009

7,1%

%GT

2010

So vúái T12/2012 (%)

Nùm 2013 (GT)

2011

2012

%GT

2013

So vúái nùm 2012 (%)

30,761

31,761

19,1

-7,0

385,418

21,9

-9,4

Têy Ban Nha

6,619

7,304

4,4

+7,1

76,661

4,4

-11,6

Haâ Lan

4,649

5,139

3,1

+6,9

60,030

3,4

-12,1

Àûác

3,974

3,577

2,1

-34,6

45,162

2,6

-21,3

Anh

2,979

3,005

1,8

+19,2

40,935

2,3

+13,2

Myä

25,154

29,444

17,7

+28,1

380,757

21,6

+6,1

ASEAN

11,402

10,608

6,4

+15,0

124,813

7,1

+13,1

Xingapo

3,191

3,830

2,3

+25,9

36,766

2,1

+3,6

Thaái Lan

2,841

1,802

1,1

+11,4

34,233

1,9

+62,3

Philipin

3,267

1,961

1,2

-3,9

26,798

1,5

-2,3

Braxin

14,074

15,797

9,5

+41,9

121,839

6,9

+54,0

Mïhicö

8,422

11,387

6,8

+1,6

98,443

5,6

-3,0

TQ vaâ HK

8,530

8,350

5,0

+18,2

91,114

5,2

+24,9

Höìng Köng

3,030

3,211

1,9

-7,1

36,063

2,0

-14,6

Cölumbia

5,666

6,406

3,8

+20,5

58,833

3,3

+12,5 -6,7

Arêåp Xïut

4,207

3,836

2,3

-17,9

48,805

2,8

Caác TT khaác

39,119

49,046

29,4

+16,8

451,124

25,6

-8,2

Töíng cöång

147,336

166,636

100

+12,8

1.761,147

100

+1,0

GT: Giaá trõ (triïåu USD) Caá tra chïë biïën (thuöåc maä HS 1604)

Caá tra söëng/ tûúi/ àöng laånh/ khö (thuöåc maä HS 03) STT

Thõ trûúâng

GT (tr.USD)

Thõ phêìn (%)

STT

Thõ trûúâng

GT (tr.USD)

Thõ phêìn (%)

1

Myä

379,970

21,71

1

Haâ Lan

4,470

39,93

2

Braxin

121,839

6,96

2

Àûác

1,162

10,38

3

Mïhicö

98,402

5,62

3

Thuåy Syä

0,867

7,74

4

Trung Quöëc & HK

90,642

5,18

4

Myä

0,787

7,03

5

Têy Ban Nha

76,442

4,37

5

Xingapo

0,651

5,82

6

Cölumbia

58,763

3,36

6

Trung Quöëc & HK

0,473

4,22

7

Haâ Lan

55,561

3,17

7

Öxtrêylia

0,431

3,85

8

Arêåp Xïut

48,534

2,77

8

Phaáp

0,275

2,45

9

Öxtrêylia

44,503

2,54

9

Arêåp Xïut

0,271

2,42

10

Nga

44,128

2,52

10

0,225

2,01

1.018,784

58,22

Töíng 10 TT

9,611

85,87

731,170

41,78

Caác TT khaác

1,582

14,13

1.749,954

100,00

Töíng cöång

11,193

100,00

Töíng 10 TT Caác TT khaác Töíng cöång

66 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014


XUÊËT KHÊÍU CAÁ NGÛÂ NÙM 2013 Thõ trûúâng NK caá ngûâ nùm 2013 (GT)

XK caá ngûâ, 2009 - 2013 (GT) Triïåu USD

Mïhicö

Ixraen

1,4%

3,4%

600

Caác TT khaác 18,2%

Myä 35,6%

ASEAN

400 200

6,7%

0

Nhêåt Baãn 8,0%

2009

EU

2010

2011

2012

2013

26,7%

Thaáng 11/2013 (GT)

Thõ trûúâng

Thaáng 12/2013 (GT)

%GT

So vúái T12/2012 (%)

Nùm 2013 (GT)

%GT

So vúái nùmâ 2012 (%)

Myä

14,546

9,793

26,2

-22,4

187,416

35,6

-23,4

EU

8,596

14,481

38,7

+18,4

140,733

26,7

+24,1

Àûác

2,180

4,369

11,7

+12,8

42,936

8,2

+32,9

Italy

1,625

1,865

5,0

-35,4

26,552

5,0

-0,1

Têy Ban Nha

0,660

1,190

3,2

-32,0

15,714

3,0

+6,9

Nhêåt Baãn

1,890

1,811

4,8

-50,6

42,030

8,0

-22,1

ASEAN

1,987

2,311

6,2

+12,2

35,505

6,7

-3,6

Thaái Lan

1,403

1,368

3,7

-7,3

25,044

4,8

-22,1

Ixraen

2,768

0,973

2,6

-31,7

17,906

3,4

+39,2

Tuynidi

0,339

0,398

1,1

-65,3

10,593

2,0

+4,7

Canaàa

0,516

0,628

1,7

+35,6

10,331

2,0

+2,0

Mïhicö

0,196

0,743

2,0

+218,7

7,385

1,4

+10,8

Caác TT khaác

4,489

6,291

16,8

-30,3

74,786

14,2

-5,0

Töíng cöång

35,328

37,428

100

-12,7

526,685

100

-7,2

GT: Giaá trõ (triïåu USD) Caá ngûâ chïë biïën (thuöåc maä HS 1604)

Caá ngûâ söëng/tûúi/àöng laånh/khö (thuöåc maä HS 03) STT

Thõ trûúâng

GT (tr.USD)

Thõ phêìn (%)

STT

Thõ trûúâng

GT (tr.USD)

Thõ phêìn (%)

1

Myä

95,681

35,17

1

Myä

91,735

36,02

2

Nhêåt Baãn

35,352

13,00

2

Àûác

38,623

15,17

3

Italy

24,153

8,88

3

Thaái Lan

19,844

7,79

4

Têy Ban Nha

12,208

4,49

4

Tuynidi

9,770

3,84

5

Ixraen

10,602

3,90

5

Lybia

7,521

2,95

6

Trung Quöëc & HK

9,189

3,38

6

Ixraen

7,304

2,87

7

Canaàa

8,281

3,04

7

Nhêåt Baãn

6,678

2,62

8

Philipin

8,108

2,98

8

Libùng

6,054

2,38

9

Mïhicö

7,385

2,71

9

Böì Àaâo Nha

5,625

2,21

10

Anh

6,041

2,22

10

Thuåy Syä

4,918

1,93

217,002

79,78

Töíng 10 TT

198,072

77,78

Töíng 10 TT Caác TT khaác

55,015

20,22

Caác TT khaác

56,596

22,22

Töíng cöång

272,017

100,00

Töíng cöång

254,668

100,00

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

67


SHÕ T ÛÅ KIÏå TRÛÚÂ N /NBÒNH G THUÃLUÊÅ Y SAÃ NN

Thõ trûúâng NK nhuyïîn thïí HMV nùm 2013 (GT)

XUÊËT KHÊÍU NHUYÏÎN THÏÍ HAI MAÃNH VOÃ NÙM 2013

ASEAN 3,0%

Myä

Öxtrêylia

Caác nûúác khaác

2,3%

5,0%

Nhêåt Bản 10,8%

7,4%

Haân Quöëc 2,3%

EU 69,3% Thaáng 11/2013 (GT)

Thõ trûúâng

3,429 1,213 1,026 0,424 0,759 0,438 0,227 0,111 0,288 0,223 0,078 0,027 0,045 0,079 5,593

EU Böì Àaâo Nha Têy Ban Nha Italy Nhêåt Baãn Myä ASEAN Malaixia Öxtrêylia Haân Quöëc Canaàa TQ vaâ HK Àaâi Loan Caác TT khaác Töíng cöång

Thaáng 12/2013 (GT)

%GT

3,874 1,720 0,882 0,396 0,447 0,553 0,150 0,049 0,074 0,139 0,056 0,129 0,068 0,197 5,688

68,1 30,2 15,5 7,0 7,9 9,7 2,6 0,9 1,3 2,4 1,0 2,3 1,2 3,5 100

So vúái T12/2012 (%)

Năm 2013 (GT)

%GT

So vúái nùm 2012 (%)

50,059 15,869 12,769 9,163 7,770 5,317 2,166 1,110 1,661 1,645 0,842 0,808 0,676 1,302 72,247

69,3 22,0 17,7 12,7 10,8 7,4 3,0 1,5 2,3 2,3 1,2 1,1 0,9 1,8 100

-2,0 +1,2 +5,8 +21,4 +0,8 -23,3 +1,9 +10,4 +13,4 -41,2 -26,2 -47,6 +21,5 +66,1 -5,1

-1,3 +38,4 -28,4 -44,3 -36,9 -37,5 -40,7 -41,3 -24,6 -30,3 +28,9 +78,7 +751,2 +214,8 -9,1

GT: Giaá trõ (triïåu USD)

XUÊËT KHÊÍU MÛÅC, BAÅCH TUÖÅC NÙM 2013 Thõ trûúâng NK mûåc, baåch tuöåc nùm 2013 (GT) Nga 2,0%

ASEAN 11,9% Trung Quöëc 5,3%

Caác nûúác khaác 6,1%

XK mûåc, baåch tuöåc, 2009 - 2013 (GT) Triïåu USD

600

Nhêåt Baãn 27,3%

500 400 300 200 100

EU 16,6%

Thõ trûúâng

Haân Quöëc Nhêåt Baãn EU Italy Àûác Bó ASEAN Thaái Lan TQ vaâ HK Höìng Köng Nga Àaâi Loan Öxtrêylia Myä Caác TT khaác Töíng cöång

Haân Quöëc 30,9%

Thaáng 11/2013 (GT)

13,509 12,650 5,749 4,132 0,340 0,235 5,449 4,356 2,026 0,723 1,307 0,642 0,393 0,434 0,804 42,961

GT: Giaá trõ (triïåu USD)

68 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

0

2009

2010

2011

2012

2013

Thaáng 12/2013 (GT)

%GT

So vúái T12/2012 (%)

Năm 2013 (GT)

%GT

So vúái nùm 2012 (%)

14,789 11,682 5,752 3,335 0,597 0,319 4,727 3,385 2,648 0,592 1,729 0,584 0,419 0,372 1,445 44,146

33,5 26,5 13,0 7,6 1,4 0,7 10,7 7,7 6,0 1,3 3,9 1,3 0,9 0,8 3,3 100

+6,9 +17,7 +8,3 +26,4 +103,6 -44,0 +12,2 +3,9 -1,5 -23,6 +225,7 +21,4 +95,7 -36,0 +236,9 +15,6

138,127 122,179 74,121 51,970 4,325 3,462 53,337 41,955 23,746 7,075 9,057 5,170 4,092 2,983 14,854 447,666

30,9 27,3 16,6 11,6 1,0 0,8 11,9 9,4 5,3 1,6 2,0 1,2 0,9 0,7 3,3 100

-6,7 -15,1 -25,6 -16,4 -1,5 -40,6 +8,8 +11,8 -2,5 -8,5 +66,1 +0,8 -10,2 -70,6 +26,2 -10,8


XUÊËT KHÊÍU CHAÃ CAÁ VAÂ SURIMI NÙM 2013 Thõ trûúâng NK chaã caá, surimi nùm 2013 (GT) Caác nûúác khaác 5,0%

ASEAN 19,9%

Àaâi Loan 3,8%

XK chaã caá, surimi, 2009 - 2013 (GT) Triïåu USD

Nhêåt Baãn 10,8%

300 240 180 120 60

Trung Quöëc 14,5%

Thõ trûúâng

EU 7,3%

Haân Quöëc 38,6%

Thaáng 11/2013 (GT)

Thaáng 12/2013 (GT)

8,606 4,181 2,293 1,184 0,705 3,461 0,203 3,364 1,724 1,346 0,083 0,094 0,718 0,305 0,183 0,665 23,206

8,983 6,637 3,963 2,001 0,673 6,858 0,119 2,936 1,694 1,205 0,116 0,222 1,451 0,338 0,094 0,455 29,446

Haân Quöëc ASEAN Thaái Lan Xingapo Malaixia TQ vaâ HK Höìng Köng Nhêåt Baãn EU Phaáp Lithuani Têy Ban Nha Àaâi Loan Nga Myä Caác TT khaác Töíng cöång

0

2009

Nùm 2013

So vúái T12/2012 (%)

%GT

30,5 22,5 13,5 6,8 2,3 23,3 0,4 10,0 5,8 4,1 0,4 0,8 4,9 1,1 0,3 1,5 100

2010

(GT)

90,540 46,541 30,228 12,432 3,683 34,027 1,827 25,424 17,169 11,312 1,641 1,486 8,885 5,311 1,412 5,040 234,349

+14,7 +126,2 +130,8 +108,1 +215,6 +109,3 -35,1 +4,7 +26,4 +3,9 +84,8 +15,1 -56,5 -49,1 +75,0 +42,5

2011

2012

2013

%GT

So vúái nùm 2012 (%)

38,6 19,9 12,9 5,3 1,6 14,5 0,8 10,8 7,3 4,8 0,7 0,6 3,8 2,3 0,6 2,2 100

-17,7 +22,1 +23,8 +28,7 +3,6 +41,9 +16,1 -36,2 -39,8 -29,8 -70,3 -30,0 -33,7 -48,9 -43,5 -12,7 -14,0

XUÊËT KHÊÍU CUA, GHEÅ VAÂ GIAÁP XAÁC KHAÁC NÙM 2013

TT NK cua gheå, giaáp xaác khaác nùm 2013 (GT) Trung Quöëc 7,0%

ASEAN 3,3%

Haân Quöëc 1,7%

XK cua ghe, giaáp xaác khaác, 2009 - 2013 (GT)

Triïåu USD 150

Caác nûúác khaác 5,1%

120 90 60

EU 18,2%

Thõ trûúâng

Myä 48,8%

Nhêåt Baãn 15,9%

Thaáng 12/2013 (GT)

6,758 1,722 1,002 0,562 0,031 0,017 2,561 0,441 0,221 0,231 0,147

8,282 1,531 0,857 0,296 0,010 0,347 1,594 0,538 0,063 0,264 0,098 0,091 0,079 0,534 0,069 0,347 13,237

0,061 0,005 0,193 0,348 12,321

0 2009

Thaáng 11/2013 (GT)

Myä EU Phaáp Anh Haâ Lan Bó Nhêåt Baãn TQ vaâ HK Höìng Köng ASEAN Xingapo Inàönïxia Haân Quöëc Canaàa Öxtrêylia Caác TT khaác Töíng cöång

30

%GT

62,6 11,6 6,5 2,2 0,1 2,6 12,0 4,1 0,5 2,0 0,7 0,7 0,6 4,0 0,5 2,6 100

So vúái T12/2012 (%)

+87,1 +6,8 +97,8 -34,6 -95,8 +35,7 -37,8 +6,0 -68,6 -0,9 -12,6 -66,1 +185,5 -37,0 +289,7 +34,9

2010

Nùm 2013 (GT)

53,923 20,074 10,247 4,988 2,373 1,500 17,561 7,720 1,585 3,671 1,951 0,838 1,874 1,868 1,818 1,988 110,498

2011

%GT

48,8 18,2 9,3 4,5 2,1 1,4 15,9 7,0 1,4 3,3 1,8 0,8 1,7 1,7 1,6 1,8 100

2012

2013

So vúái nùm 2012 (%)

+4,0 -14,2 -20,8 -9,9 +4,7 -0,6 -18,2 +31,6 -18,5 -22,1 -16,1 -33,3 -30,0 -8,5 -2,6 +28,3 -4,3

GT: Giá trị (triệu USD)

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

69


SHAÁ P ÛÅ KIÏå P LUÊÅ N / TBÒNH KINHLUÊÅ DOANH N

Cải cách thủ tục hành chính

về chất lượng và thú y thủy sản p Nguyễn Thị Hồng Hà Việc xem xét nâng cao hoặc bãi bỏ một số quy định, thủ tục hành chính không hợp lý, đặc biệt trong quản lý chất lượng và thú y thủy sản, là hết sức cần thiết để phát triển bền vững một ngành sản xuất và thương mại thủy sản Việt Nam, hiện đại, đồng bộ và có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới.

Đ

ó là ý kiến của PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng trong Báo cáo Kết quả khảo sát, đánh giá cải cách thủ tục hành chính (CCTTHC) và kiến nghị tháo gỡ khó khăn cho các DN chế biến thủy sản trình Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng Tư vấn CCTTHC vào tháng 12/2013 vừa qua. Năm 2013, XKTS đã đạt được kết quả đáng khích lệ, với giá trị XK trên 6,7 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2012. Mặc dù vậy, DN

XKTS Việt Nam cũng đã phải trải qua một năm nhiều khó khăn, gồm cả những rào cản thương mại từ phía các thị trường NK cũng như những khó khăn nội tại. Nhưng, một trong những khó khăn lớn nhất mà DN XKTS phải đối mặt lại là tình hình CCTTHC chưa thực sự có nhiều tiến triển. Khảo sát của VASEP qua các DN hội viên cho thấy, nhóm thủ tục hành chính (TTHC) có ảnh hưởng và tác động nhiều nhất trong lĩnh vực XNK thủy sản bao

gồm nhóm kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản; và nhóm kiểm tra ATTP. Trong đó, 5 lĩnh vực được cho rằng có tác động mạnh nhất đến DN là: Đăng ký cấp lại Giấy Chứng nhận ATTP; Kiểm tra, chứng nhận cơ sở đủ điều kiện đảm bảo ATTP; Đăng ký cấp Chứng thư đối với lô hàng XK vào các nước có yêu cầu; Đăng ký kiểm tra, chứng nhận cơ sở đủ điều kiện đảm bảo ATTP (để cấp Giấy Chứng nhận ATTP) và Đăng ký kiểm tra,

Các nhóm thủ tục hành chính có ảnh hưởng và tác động nhiều nhất trong lĩnh vực XNK thủy sản 9

KDTS, SPTS nhập khẩu mang theo người, gửi qua đường bưu điện

12

KDTS, SPTS xuất khẩu mang theo người, gửi qua đường bưu điện Kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản tạm nhập tái xuất, chuyển cửa khẩu, quá cảnh …

16 28

Kiểm dịch sản phẩm thủy sản nhập khẩu (bao gồm: Thủy sản sống; Sản phẩm…

30

Kiểm dịch sản phẩm thủy sản nhập khẩu từ tàu đánh bắt hải sản nước ngoài

31

Đăng ký, khai báo kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản tạm nhập tái xuất,… Kiểm dịch sản phẩm thủy sản xuất khẩu bị triệu hồi hoặc bị trả về

47 50

Xử lý lô hàng bị Cơ quan thẩm quyền nước nhập khẩu cảnh báo về CL, ATTP

52

Đăng ký/yêu cầu được Cấp chuyển tiếp Giấy Chứng thư đối với lô hàng thủy …

53

Đăng ký cấp lại Giấy Chứng thư (bị sai, bị thất lạc, ......) Khai báo và Cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch thủy sản nhập khẩu dùng làm nguyên liệu…

58

Cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch sản phẩm thủy sản nhập khẩu dùng làm nguyên liệu…

58 73

Kiểm tra, chứng nhận CL, ATTP đối với lô hàng thủy sản và SPTS dùng làm … Đăng ký cấp lại Giấy Chứng nhận ATTP

75

Kiểm tra, chứng nhận cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản đủ điều kiện ATTP

75 85

Đăng ký có Mẫu Giấy Chứng thư đối với lô hàng XK vào các nước NK có yêu cầu

90

Đăng ký kiểm tra, chứng nhận cơ sở đủ điều kiện bảo đảm ATTP (để Cấp giấy…

96

Đăng ký kiểm tra, chứng nhận Chất lượng ATTP (Chứng thư) lô hàng thủy sản … 0

Nguồn: VASEP

70 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

20

40

60

80

100

120


chứng nhận chất lượng ATTP (Chứng thư) lô hàng thủy sản. Báo cáo Đánh giá tình hình, kết quả thực hiện thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực kiểm tra, chứng nhận ATTP và kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản XNK thuộc Bộ NN&PTNT của Hội đồng Tư vấn CCTTHC cho thấy, có 28% số DN được khảo sát cho biết cơ quan quản lý yêu cầu thêm các loại giấy tờ không cần thiết hoặc đã có; 25% DN cho rằng thời gian giải quyết TTHC kéo dài, không phù hợp; và 53% DN phản ánh họ phải đi lại nhiều lần để sửa đổi, bổ sung hồ sơ.

Khó khăn liên quan đến kiểm dịch thủy sản

Theo báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện cải cách TTHC tại Bộ Nông nghiệp và PTNT của Hội đồng TVCCTTHC, có nhiều khó khăn liên quan đến một số quy định hiện hành tại Thông tư 06/2010/TT-BNNPTNT về kiểm dịch thủy sản và sản phẩm thủy sản NK, chẳng hạn quy định thủ tục đăng ký kiểm dịch phải thực hiện trước khi chủ hàng ký kết hợp đồng với nhà XK (Khoản 3, Điều 3, Thông tư 06) đã can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN, hành chính hóa quan hệ dân sự - kinh tế, tạo ra nhiều bất cập. Tiếp theo là khó khăn trong thủ tục kiểm dịch đối với hàng mẫu. Những hàng mẫu với khối lượng rất nhỏ, gửi nhanh qua đường hàng không với mục đích khảo sát chất lượng và làm thử trước khi quyết định mua hàng hoặc gia công, chế biến XK cũng

Hội đồng Tư vấn CCTTHC làm việc với Bộ NN và PTNT, Hà Nội, 19/12/2013

phải thực hiện dầy đủ qui trình thủ tục kiểm dịch giống như 1 lô hàng lớn. Điều đó gây chậm trễ và mất đi cơ hội của DN để mua được hàng hoặc ký được hợp đồng gia công hoặc sản xuất XK. Bên cạnh đó, đối với hàng thủy sản đông lạnh NK để gia công hoặc sản xuất XK, mặc dù cơ quan kiểm dịch có thể kiểm tra cảm quan và hồ sơ để cấp ngay Giấy chứng nhận để thông quan, và chỉ lấy mẫu kiểm dịch khi có nghi ngờ, nhưng hiện tại vẫn phải chờ 2-3 ngày mới nhận được Giấy chứng nhận, DN mất thời gian đi lại để hoàn tất thủ tục và tốn chi phí lưu kho bãi. Theo Điều 27, Thông tư 128/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính, hàng thủy sản NK chỉ được đưa về kho DN bảo quản để chờ kết quả kiểm tra thông quan lô hàng khi có ”Giấy vận chuyển” của cơ quan Thú y và cơ quan này chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát quá trình vận chuyển và bảo quản đó. Ông Dũng khẳng định, ”Đây là nút thắt gây ách tắc tại cảng đối với hàng thủy sản”.

Tại Quy định về thời hạn giá trị sử dụng của Giấy chứng nhận kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản NK có giá trị sử dụng không quá 60 ngày (Khoản 2, Điều 6, Thông tư số 06/2010/TTBNNPTNT). Nhiều DN cho biết, thời hạn này quá ngắn, không phù hợp với với sản phẩm thủy sản NK để sản xuất tái XK hay gia công chế biến hàng XK.

Khó khăn về kiểm tra chứng nhận an toàn thực phẩm

Sau 2 năm kiên trì kiến nghị sửa đổi, cuối cùng Bộ NN&PTNT đã ban hành Thông tư 48/2013/TT-BNNPTNT (TT48) thay thế cho Thông tư 55/2011 vào ngày 12/11/2013, có hiệu lực từ 26/12/2013. Tuy nhiên, mặc dù về cơ bản Thông tư 48 đã sửa đổi một số quy định cho phù hợp với Luật ATTP và thông lệ quốc tế, đồng thời nới lỏng một số nút thắt cho DN để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động XK thủy sản của DN, nhưng DN lại vấp phải những khó khăn mới ở Thông tư mới ban hành này. Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

71


PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH

Vì vậy, Báo cáo Kết quả đánh giá thực hiện CCTTHC trong lĩnh vực kiểm tra ATTP và kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản XNK của VASEP đã tiếp tục phản ánh 3 kiến nghị quan trọng sau đây của cộng đồng DN: 1. Trong sự thay đổi cách tiếp cận, lấy kiểm soát điều kiện sản xuất là điều kiện chính để XK thủy sản, trong đó giữ nguyên mức đánh lỗi ở từng hạng mục/ chỉ tiêu trong Bảng đánh giá ĐKSX (checklist) đang áp dụng ở TT 55 cho tất cả các mặt hàng (đông lạnh, đồ hộp, hàng khô ....) thay vì điều chỉnh tăng/mở rộng mức đánh lỗi theo hướng nặng hơn mà không dựa trên cơ sở pháp lý hoặc khoa học nào. Bảng đánh giá ĐKSX cơ sở chế biến là nội dung kỹ thuật rất quan trọng trong hoạt động bảo đảm & quản lý ATTP, tác động lớn đến hoạt động của các cơ sở chế biến. Nội dung này được quy định rõ tại điều 19, 20, 21 của Luật ATTP và Khoản 6, Điều 21 của Nghị định 38/2012/ NĐ-CP (Hướng dẫn 1 số điều của Luật ATTP). Theo đó, các nội dung kỹ thuật này phải được xây dựng (theo hướng dẫn) trên cơ sở quy định về điều kiện chung bảo đảm ATTP đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm do Bộ Y tế ban hành tại Thông tư 15/2012/TT-BYT ngày 12/9/2012. 2. Tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra sản phẩm sản xuất từ cơ sở trong danh sách ưu tiên (Phụ lục X) là quá lớn so với nguyên tắc thẩm tra (khác hoàn toàn với giám sát) và so với quy định các nước (EU, Mỹ, Canada, Thái Lan..) đang áp 72 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

dụng. Tại TT 48, quy định tỷ lệ lấy mẫu theo mức độ xếp hạng DN 5-15-25% (theo ”Đặc biệt”, ”Hạng 1” và ”Hạng 2”) số lô hàng sản xuất (không phải lô hàng XK). Trong khi đó Thái Lan quy định 3 tháng và 2 tháng lấy mẫu 1 lần tương ứng với DN loại 1 và loại 2, không căn cứ lô hàng sản xuất; Mỹ thẩm tra 2-5% số lượng lô hàng NK cập cảng và cũng 1-2 tháng lấy mẫu 1 lần ở cơ sở sản xuất XK để thẩm tra. 3. Việc thu phí và lệ phí theo TT 48 (Điều 9) và ràng buộc trách nhiệm đối với chủ cơ sở/ chủ hàng (Điều 37 & 38) chưa thể hiện rõ quan điểm và quy định của Điều 48-Luật ATTP cũng như chính Phạm vi quy định của TT 48 (Điều 48-Luật ATTP, khoản 1: chi phí lấy mẫu và kiểm nghiệm thực phẩm để kiểm tra, thanh tra ATTP do cơ quan quyết định việc kiểm tra, thanh tra chi trả).

Cần tiếp tục tích cực tháo gỡ khó khăn về TTHC

Tại buổi làm việc của Hội đồng Tư vấn CCTTHC với Bộ NN và PTNT vào ngày 19/12/2013 vừa qua để đánh giá các TTHC thuộc lĩnh vực kiểm tra, chứng nhận ATTP và kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản XNK, Hội đồng đã kiến nghị Bộ NN và PTNT nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong 2 lĩnh vực này để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi thông cho hoạt động kinh doanh XK với những nội dung cụ thể sau: Bãi bỏ quy định phải thực hiện thủ tục đăng ký kiểm

dịch trước khi chủ hàng ký hết hợp đồng với nhà xuất khẩu; Đơn giản hóa quy trình kiểm dịch đối với hàng mẫu số lượng rất nhỏ, gửi nhanh qua đường hàng không; Gộp 2 thủ tục đăng ký kiểm dịch và khai báo kiểm dịch thành 1 TTHC để thực hiện; Không yêu cầu sản phẩm thủy sản phải thực hiện kiểm dịch thủy sản tại cửa khẩu nhập mà chỉ thực hiện kiểm dịch tại nơi tiếp nhận lô hàng; Tăng thời hạn giá trị sử dụng trong Giấy chứng nhận kiểm dịch thủy sản; Nghiên cứu, bổ sung chế độ công nhận lẫn nhau đối với trường hợp lô hàng NK đã được nước XK cấp giấy chứng nhận kiểm dịch; Bãi bỏ thủ tục Khai báo kiểm dịch tại cửa khẩu xuất; Nghiên cứu, sửa đổi tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra sản phẩm sản xuất từ cơ sở trong danh sách ưu tiên; Không yêu cầu các cơ sở ngoài danh sách ưu tiên phải thực hiện thủ tục cung cấp thông tin về mẫu chứng thư theo yêu cầu của cơ quan nước nhập khẩu trong cấp chứng thư. Đồng thời, sửa đổi mẫu giấy đăng ký kiểm tra tại phụ lục XII thông tư 48; Bãi bỏ ngay những văn bản hành chính có quy định về TTHC theo đúng quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 63/2010/NĐ-CP … Hi vọng các cơ quan QLNN sẽ thực sự đồng hành cùng DN để sản phẩm thủy sản của Việt Nam ngày càng có vị thế cao trên thị trường XK và nội địa. n NTHH


PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH

Chấm dứt sử dụng lao động trẻ em

trong ngành thủy sản p Bernd Seiffert

Hơn 129 triệu trẻ em trên thế giới hiện làm việc trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và thủy sản. Những trẻ em này, cả nam lẫn nữ, trong độ tuổi 5-17, đang phải làm những công việc có thể nguy hại đến sức khỏe, mất cơ hội hưởng thụ nền giáo dục hoặc nền tảng phát triển cá nhân. Phải tìm biện pháp chấm dứt tình trạng này.

Ông Bernd Seiffert, chuyên gia Ban Bình đẳng Giới & Lao động nông thôn của Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hiệp quốc (FAO), giải thích về lao động trẻ em trong ngành khai thác và NTTS và đề xuất các biện pháp để chấm dứt tình trạng này như sau đây.

Công việc nào trong ngành thủy sản liên quan đến lao động trẻ em ?

Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), khai thác thủy sản trên biển được đánh giá là nghề nguy hiểm nhất trên thế giới. Loại công việc mà lao động vị thành niên thực hiện thay đổi tùy vào tình hình thực tế, nhưng nhìn chung, lao động nam thường liên quan đến hoạt động khai thác trên các tàu đánh cá biển. Các mối nguy hiểm thường trực trong hoạt động khai thác, câu cá đêm và lặn bắt, nơi trẻ em có nguy cơ bị đuối nước hoặc các thương tích khác. Lao động nữ thường liên quan đến các hoạt động chế biến, thường xuyên phải tiếp xúc hay hít phải các hơi, mùi hoặc các loại hóa chất.

Ông Bernd Seiffert, chuyên viên của FAO

Bên cạnh đó, lao động trẻ em cả nam và nữ đều bị sử dụng trong đóng sửa tàu thuyền, nghề này khiến các em phải tiếp xúc nhiều với bụi, mùn cưa, hóa chất hay tiếng ồn lớn… chưa kể đến việc các em còn bị buộc phải sử dụng các công cụ lao động nguy hiểm.

Những hậu quả nào đang đe dọa lao động trẻ em?

Tiếp xúc với các mối nguy hiểm trong công việc có thể dẫn đến nhiều loại chấn thương, mệt

mỏi thể chất và bệnh tật. Lao động trẻ em cũng có thể bị quấy rối và bạo lực. Tất cả điều này có thể dẫn đến thương tật vĩnh viễn hoặc tổn thương tâm lý. Một số vấn đề sức khỏe hoặc khuyết tật xuất hiện sau này trong cuộc sống. Ví dụ, trẻ em mang vác nặng thường có vấn đề về cơ xương khớp ở tuổi trưởng thành, những người khác tiếp xúc với hóa chất độc hại có nguy cơ phát triển ung thư cao. Bên cạnh những ảnh hưởng về vật lý và sang chấn tâm lý, lao động trẻ em khi trưởng thành cũng sẽ rất khó khăn trong việc tìm kiếm những công việc bền vững và ổn định. Việc thiếu hụt nền tảng giáo dục sẽ ngăn cản họ tìm được những việc làm đàng hoàng với mức lương tử tế như những người khác. Ví dụ, các cuộc phỏng vấn với những ngư dân trẻ tuổi ở hồ Malawi (đông nam châu Phi) cho thấy rằng một số người đã từng làm việc bơm nước trên tàu khi chưa học xong tiểu học, sau này, họ rất muốn tham gia vào công việc Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

73


PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH

Một cậu bé làm việc tại một cảng cá ở ngoại ô Karachi, Pakistan - Ảnh minh họa

kinh doanh trong ngành thủy sản nhưng đành bất lực vì không biết đọc, biết viết. Hậu quả của việc có ít hoặc không được giáo dục là khá nghiêm trọng cho các trẻ em. Chúng ta biết rằng, việc giáo dục trẻ em gái có ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề dinh dưỡng và sức khỏe, qua đó, sau này góp phần giảm thiểu tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, bà mẹ và trẻ em. Ngoài ra, giáo dục cũng có thể góp phần giúp bảo vệ chống lại HIV-AIDS.

Thống kê lao động trẻ em trong ngành thủy sản

Chúng ta chỉ biết rằng khoảng 60% lao động trẻ em trên thế giới đang làm trong các ngành nông nghiệp, nhưng không có số liệu chính xác để phân tích cho từng lĩnh vực riêng, mặc dù điều đó rất cần để các nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra các quyết định.

74 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Thu hoạch tôm ở Ấn Độ - Ảnh minh họa

Tại sao cha mẹ để con làm việc trong ngành này?

Có nhiều lý do, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, nhưng một trong những lý do chính là vì nghèo. Một số bậc cha mẹ buộc phải dựa vào nỗ lực lao động của toàn gia đình mới đáp ứng được các nhu cầu cơ bản. Khai thác và NTTS là lĩnh vực hấp dẫn, tạo ra nhiều cơ hội để nhanh chóng kiếm tiền. Một lý do khác là những tập tục văn hóa trong cộng đồng các ngư dân ở vùng sâu vùng xa. Đa số cộng đồng nhận thức rất thấp về việc sử dụng lao động trẻ em là bất hợp pháp. Trong một vài trường hợp, chất lượng giáo dục được xem là không liên quan hay không có ích trong vấn đề này, nhưng trong nhiều trường hợp khác, có nhiều cộng đồng không có hệ thống trường học hoặc cha mẹ không đủ khả năng để trang trải chi phí cho con đi học.

FAO đang làm gì để cải thiện tình hình?

FAO và ILO đã và đang hỗ trợ cho các chính phủ, ngành nông nghiệp và các tổ chức khác ở Malawi phát triển một khuôn khổ quốc gia điển hình để chấm dứt lao động trẻ em trong ngành nông nghiệp, trong đó có lĩnh vực thủy sản. Khuôn khổ hành động là một chiến lược nhằm kêu gọi các bộ, ngành khác nhau và các nhóm xã hội dân sự cùng loại bỏ các nguyên nhân gốc rễ và đề xuất các biện pháp phòng ngừa, chấm dứt lao động trẻ em. Ví dụ, kêu gọi có những cải tiến trong lĩnh vực nông nghiệp để giảm nhu cầu lao động trẻ em, cải thiện điều kiện làm việc và tiền lương, quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên và phát triển nhiều hơn nữa các công nghệ tiết kiệm lao động. Họ thúc giục đầu tư nhiều hơn vào giáo dục,


Trẻ em giăng lưới đánh cá ở hồ Malawi - Ảnh minh họa

các chương trình hỗ trợ đi học, các ưu đãi khác, từ đó, cha mẹ có thể yên tâm đưa con cái đến trường. Chiến lược này cũng nhắm đến các cấp cơ sở, buộc cộng đồng địa phương phải tham gia vào hệ thống giám sát lao động trẻ em và tuyên truyền về những tác hại khi trẻ em phải làm việc trong những điều kiện nguy hiểm. Ở Cămpuchia, nơi rất nhiều gia đình đang phải vật lộn để có đủ thức ăn và tiền cho con đi học, FAO và ILO đã hỗ trợ nhằm phát triển một chiến lược chấm dứt lao động trẻ em trong ngành thủy sản và hỗ trợ đào tạo các cán bộ quản lý nghề cá. Về cơ bản, Cămpuchia đang cố gắng loại bỏ những gì dẫn dắt trẻ em vào các công việc nguy hiểm của nghề cá, những gì đang thôi thúc ngành này sử dụng nhân công giá rẻ. Nước này đã quyết định đưa vấn đề về lao động trẻ em vào Kế hoạch chiến lược 10 năm ngành Thủy sản và Bộ luật Ứng xử Nghề cá có trách

nhiệm cùng những luật và chính sách khác. Các tổ chức cộng đồng nghề cá Cămpuchia cũng đang cố loại bỏ lao động trẻ em trong ngành. Theo kế hoạch, để đảm bảo các hoạt động nghề cá quy mô nhỏ có thể mang lại cuộc sống khá hơn trong tương lai, họ kêu gọi thành lập một Quỹ cộng đồng nghề cá với tiêu chí phòng chống lao động trẻ em, và xác định những người có thể vay tiền của Quỹ.

Phải thực hiện những gì để chấm dứt việc sử dụng lao động trẻ em?

Lạm dụng lao động trẻ em chỉ có thể kết thúc nếu các quan chức chính phủ, các đối tác phát triển, các khu vực tư nhân, các tổ chức và cộng đồng ngư dân cam kết làm việc cùng nhau. Các vấn đề đói nghèo, an ninh lương thực và lao động trẻ em đều phải được giải quyết thông qua các chính sách nhất quán mang tính bền vững về xã hội và môi trường. Ngăn chặn lao động trẻ em

đòi hỏi phải tạo điều kiện cho các trẻ em gái và trai có được cơ hội đi học, lớn lên khỏe mạnh với triển vọng công việc tốt trong tương lai. Các bậc cha mẹ và ngư dân phải hiểu về những nguy hiểm và thiệt hại tiềm ẩn mà những công việc trong ngành có thể đem lại cho trẻ em, cho khu vực, cho môi trường và cho nền kinh tế. Từ đó, các cộng đồng địa phương mới có thể làm việc với các chính phủ để lựa chọn và áp dụng các giải pháp tốt nhất nhằm đáp ứng nhu cầu của họ. Để chấm dứt thực trạng này, FAO và ILO đã công bố ấn phẩm “Hướng dẫn giải quyết lao động trẻ em trong khai thác và NTTS”, giải thích làm thế nào để ngăn chặn tình trạng lạm dụng lao động trẻ em và đưa các em về với cuộc sống bình thường. n Trần Duy biên dịch Theo tài liệu từ FAO.org

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

75


PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH

Liên minh Châu Âu

tuyên chiến với tội phạm thực phẩm p Evelyne Nusalim Các nguyên tắc và quy định trong chế biến, đóng gói và tiếp thị các sản phẩm thủy sản rất cần được hài hòa hóa do nhiều nước và tổ chức khác nhau tuân thủ theo các nguyên tắc khác nhau. Hài hòa hóa cần cho việc thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ và giữ mối quan hệ thân thiện giữa các đối tác thương mại trên toàn cầu.

N

hằm đạt mục tiêu cao nhất về bảo vệ sức khỏe và đảm bảo quyền được thông tin của người tiêu dùng, ngày 25/10/2011, EU đã ban hành Quy định số 1169/2011 qui định về truyền đạt thông tin thực phẩm, nhằm đảm bảo người tiêu dùng nhận được những thông tin phù hợp về thực phẩm mà họ tiêu thụ. Mối quan tâm về đạo đức, xã hội, môi trường, kinh tế và sức khỏe có thể tác động đến sự lựa chọn sản phẩm của người tiêu dùng. Thông tin về thực phẩm trong quy định này cung cấp cho người tiêu dùng những chi tiết đầy đủ và bao quát về việc ghi nhãn mác rõ ràng trên bao bì sản phẩm, kể cả các số liệu về dinh dưỡng, trọng lượng hoặc khối lượng và mọi thông tin cần thiết để người tiêu dùng có những lựa chọn phù hợp khi mua sản phẩm. Điều 39 của Quy định này ghi nhận các nước thành viên có thể thực hiện thêm các biện pháp đòi hỏi đặc thù bắt buộc bổ sung đối với một số loại hay 76 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Bà Evelyne Nusalim, trợ lý tiếp thị thủy sản Liên minh châu Âu

hạng mục thực phẩm cụ thể; nhưng các biện pháp đó phải chính đáng, ít nhất trên cơ sở của một trong những nội dung sau: “Để bảo vệ sức khỏe cộng đồng; bảo vệ người tiêu dùng, ngăn chặn gian lận, bảo vệ các quyền sở hữu thương mại và công nghiệp, chỉ dẫn nguồn gốc, thiết kế nguyên bản có đăng ký; và ngăn chặn cạnh tranh không công bằng”. Trong một tuần diễn ra Hoạt động Opson - hoạt động phối hợp của Interpol và Europol

trên 10 quốc gia trong năm 2011 đã phát hiện một khối lượng lớn thực phẩm và đồ uống giả, trong đó có 5 tấn thủy sản không đạt chuẩn. Hoạt động này được lặp lại vào tháng 12/2012 - Hoạt động Opson II - có sự tham gia của 29 nước với sự điều phối liên kết của Europol - các nước thành viên EU và Interpol của 3 nước thuộc thế giới thứ 3. Trong khuôn khổ “Đào tạo tốt hơn vì chương trình Thực phẩm An toàn hơn”, một hội nghị đã được tổ chức tại Brucxen, Bỉ từ ngày 28-29/2/2012, dưới tiêu đề “Vì cuộc đấu tranh với tội phạm thực phẩm”- một thành ngữ do EC sử dụng để chỉ gian lận thực phẩm, bao gồm việc cố tình ghi nhãn sai, như ghi nhãn sai nước xuất xứ hoặc nguồn gốc, loài và trọng lượng. Hội nghị nhằm mục tiêu nâng cao ý thức về các vấn đề tội phạm có liên quan đến thực phẩm, khuyến khích các ý tưởng mới, trao đổi kinh nghiệm và tăng cường sự hợp tác giữa các nước EU. Hội nghị còn có sự tham gia của chính quyền các


nước thành viên EU gồm nhiều bộ khác nhau, từ các thanh tra viên thực phẩm đến các công tố viên, quan tòa, cảnh sát và quân đội, nhiều bộ của EC, trong đó có DG SANCO (Tổng vụ Sức khỏe và Bảo vệ Người tiêu dùng) - nhà tổ chức, OLAF, Interpol và Europol. Theo dự kiến, dạng hội nghị này sẽ được tổ chức thường kỳ. Nhiều biện pháp khác nhau trong việc phát hiện gian lận đã được trình bày và OLAF đã trình diễn một biện pháp phát hiện gian lận rất ấn tượng thông qua việc thu thập và phân tích dữ liệu.

Mối lo ngại của các nhà nhập khẩu thủy sản EU

Nhiều nhà NK thủy sản EU đã tỏ ra lo ngại trước khó khăn về ghi nhãn trọng lượng và sự đồng nhất về trọng lượng ghi trên bao bì với trọng lượng tịnh. Quy định đưa ra một yêu cầu mới đối với thực phẩm đông lạnh (thủy sản) được bảo vệ bằng mạ băng và qui định: “Đối với thực phẩm được mạ băng, trọng lượng thực của thực phẩm được công bố sẽ không bao gồm phần mạ băng” (điều này cũng đã được nêu trong Các tiêu chuẩn của Codex đối với thủy sản đông lạnh). Không còn chuyện “trọng lượng thực ghi 1kg - nhưng sau rã băng chỉ còn 800g, điều này chỉ có thể trong quy định cũ. Hiện nay, biện pháp phổ biến trong việc đóng gói và ghi nhãn một sản phẩm thủy sản đông lạnh như thế bán ra ở thị trường châu Âu là phải ghi nhãn “trọng lượng thực (không kể mạ băng):

Trọng lượng sản phẩm sẽ không tính phần mạ băng

800g”, nhất là từ 13/12/2014 ngày có hiệu lực của Quy định 1169/2011. Tôm vốn là sản phẩm chứa nhiều nước. Sự chênh lệch về nhiệt độ và quá trình rã băng cũng như sự tiêu hao nước có thể tạo nên sự chênh lệch đáng kể về trọng lượng thực khi hết lớp mạ băng. Nếu không có các tiêu chuẩn pháp lý hài hòa hóa có thể áp dụng ở tất cả các nước thành viên châu Âu thì các sản phẩm áp dụng các tiêu chuẩn của một nước thành viên nào đó có thể sẽ bị từ chối và bị coi là gian lận ở một nước thành viên khác. Theo hướng dẫn của WELMEC, chủ các DN – các tổ chức chế biến và các nhà NK có thể tự quyết định lựa chọn sử dụng hệ thống quản lý chất lượng để xác định khối lượng thực của một sản phẩm, với điều

kiện là cơ quan thẩm quyền của họ chấp thuận hệ thống đó. Vì vậy, nếu sản phẩm được bán ra ở khắp châu Âu, nó sẽ không thể thỏa mãn được tất cả các cơ quan thẩm quyền của các nước thành viên khác nhau, trừ khi có bộ tiêu chuẩn được hài hòa hóa và được tích hợp vào trong văn bản pháp lý của EU.

Tính phức tạp của luật pháp EU

Nhiều chủ DN nước ngoài, nhất là từ các nước đang phát triển, tin rằng tất cả các nguyên tắc ở EU đã được hài hòa hóa và không có những nguyên tắc quốc gia khác được áp dụng đối với các sản phẩm NK từ các nước thứ 3. Rất tiếc, vẫn còn một khoảng cách rất xa, đòi hỏi EC phải phấn đấu để đạt được mục tiêu đó. Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

77


PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH

Việc áp dụng các văn bản pháp lý Cộng đồng Châu Âu phụ thuộc vào hình thức ban hành của mỗi văn bản. Chúng sẽ có cơ sở pháp lý khác nhau dựa trên Điều khoản 288 của của Hiệp định về Chức năng của EU (trước đây là Điều khoản 249 TEC). Một quy định áp dụng chung sẽ có tính ràng buộc một cách đầy đủ và có thể áp dụng trực tiếp ở tất cả các nước thành viên, nhưng vẫn để cho các quốc gia có quyền lựa chọn về hình thức và biện pháp áp dụng. Cơ sở cho các biện pháp và phương pháp trong việc quyết định trọng lượng và khối lượng thực là một số quy định ban hành từ năm 1976, có tính ràng buộc, nhưng việc thực thi chúng lại phụ thuộc vào nhiều văn bản pháp lý và phương pháp của từng quốc gia thành viên. Chỉ trong năm 2000, Chỉ thị 2000/13 mới đặt ra quy định một phương pháp có tính ràng buộc pháp lý được ấn định ở cấp EU nhằm xác định trọng lượng thực của sản phẩm sau khi đã loại bỏ bao nước (trọng lượng không còn lớp mạ băng của các sản phẩm đã mạ băng). Rất tiếc, các nước thành viên thường bất đồng về việc tiêu chuẩn hóa các biện pháp và phương pháp của họ, vì vậy cho đến nay, bộ tiêu chuẩn đã hài hòa hóa có tính ràng buộc pháp lý được áp dụng ở EU để quyết định trọng lượng thực sau khi đã loại bỏ nước vẫn chưa được đưa ra, và vẫn áp dụng các biện pháp của quốc gia trong vấn đề này. 78 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Trọng lượng sản phẩm đã mạ băng: 1kg, sau rã băng 800g

Đến nay, Pháp là nước rõ ràng và nghiêm chỉnh nhất trong việc thực hiện khối lượng và trọng lượng thực thông qua các văn bản pháp lý đã được xây dựng. Pháp đã bắt đầu cuộc đấu tranh với gian lận thực phẩm từ năm 1997, với việc xây dựng chỉ thị về tiêu dùng và trấn áp gian lận và hình thành Vụ quản lý Tiêu dùng và Trấn áp gian lận trực thuộc sự quản lý của Bộ Nông nghiệp. Năm 1981, Vụ này chuyển thành Tổng vụ quản lý Cạnh tranh, Người tiêu dùng và Đấu tranh chống gian lận (DGCCRF). Pháp có hẳn một bộ luật rất nghiêm khắc đối với vấn đề gian lận thực phẩm và ở một chừng mực nào đó nó còn nghiêm khắc hơn những quy định trong chỉ thị của EC. Dưới đây là một số ví dụ do DGCCRF đưa ra:

- Cân trọng lượng sai-không kiểm soát kịp thời và người tiêu dùng không nhìn thấy được: Phạt ở mức độ 3 là 450 euro; - Gian lận về khối lượng sản phẩm–thiếu trọng lượng: Bị giam giữ đến 2 năm và/hoặc phạt 37500 euro.

Tình thế khó xử của các nhà nhập khẩu

Các nhà chế biến và NK có thể tự quyết định sử dụng hệ thống kiểm soát khối lượng cho riêng mình, miễn là cơ quan thẩm quyền của họ thỏa mãn với hệ thống đó. Tình thế khó xử của các nhà NK là ở hầu hết các nước thành viên không có cơ quan nhà nước chuyên trách về đấu tranh chống gian lận thực phẩm, kể cả gian lận kinh tế. Thông thường, các nước này có nhiều cơ quan thẩm quyền lập pháp và hành


pháp khác nhau. Đồng thời, để thực hiện, họ thường tách bảo vệ sức khỏe công cộng với gian lận kinh tế. Các cán bộ thú y thường có nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe công cộng và các cán bộ hải quan thì chịu trách nhiệm đấu tranh với gian lận kinh tế. Do biện pháp xác định về trọng lượng thực không liên quan đến lý do sức khỏe, nên cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm bảo vệ sức khỏe cộng đồng không quan tâm đến việc kiểm soát trọng lượng và chỉ muốn đẩy vấn đề này sang cho các chủ DN. Các cán bộ hải quan ở hầu hết các nước thành viên chỉ thạo việc kiểm soát sản phẩm tại cửa khẩu chứ không phải ở các chuỗi phân phối. Thêm vào đó, vì mục đích để hàng hóa lưu thông thuận lợi giữa các nước thành viên, nước NK có trách nhiệm kiểm soát sản phẩm NK qua biên giới của họ đáp ứng tất cả các quy định của cộng đồng. Sau khi thông quan, hàng hóa có thể được mua bán trên thị trường tất cả các nước thành viên và không có khả năng triệu hồi hàng hóa, trừ khi có nguyên nhân xuất phát từ vấn đề sức khỏe cộng đồng. Hầu hết các cơ quan quản lý có thẩm quyền của nước thành viên đều không nhiệt tình với việc gánh thêm trách nhiệm này, thông thường do luật pháp của nước họ không cho phép áp dụng những nguyên tắc nghiêm ngặt hơn như việc áp dụng ở các nước thành viên khác. Đồng thời, các nhà NK sẽ chỉ có một

phần trách nhiệm đối với các sản phẩm mà họ NK. Họ chỉ có trách nhiệm trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn và quy định của nước thành viên mà họ bán các hàng của họ ở đó. Tuy vậy, thông thường cũng không rõ các tiêu chuẩn này chính xác là gì, hoặc không có các tiêu chuẩn pháp lý nào.

Kết luận

EU tuyên chiến với gian lận thực phẩm nhưng các bên lại không có các luật lệ hài hòa hóa, vì vậy rất khó để hoàn thành nhiệm vụ. Các nước XK, nhất là các nước đang phát triển, có thể phạm vào tội gian lận thực phẩm khi vô tư tin tưởng và chấp nhận mọi yêu cầu của nhà NK mà không hiểu luật lệ được áp dụng ở nước NK. Các nhà NK có thể khiếu nại nhà XK về thiếu trọng lượng vì sự khác biệt giữa quy định áp dụng ở nước NK hàng hóa và nước của DN NK. Đối với các nhà XK, họ cũng không rõ phải áp dụng luật lệ nào đối với hàng hóa của mình. Hơn nữa, đây cũng có thể là một rào cản kỹ thuật đối với việc NK khi các sản phẩm XK tuân thủ luật lệ riêng của nước thành lập DN NK nhưng không đáp ứng yêu cầu của nước NK. Đối với các nhà NK, việc này có thể dẫn đến thảm họa kinh tế, do các nhà XK sẽ chỉ lựa chọn bán sản phẩm qua nước có luật pháp linh động nhất. Từ đó sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.

Khuyến nghị đối với các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu

Khuyến nghị với các DN chế biến và XK để tránh các tranh chấp có thể gây thiệt hại kinh tế: Các nhà chế biến và XK nên khẳng định trong hợp đồng bán hàng của mình, rằng trong trường hợp có khiếu nại hoặc tranh chấp thì sẽ áp dụng Các tiêu chuẩn của Codex Alimentarius. Tất cả các nước thành viên EU cũng như hầu hết các nước XK sang châu Âu đều là thành viên của Codex Alimentarius. Điều quan trọng là phải có một điều khoản để giải quyết tranh chấp. Việc phân xử sẽ kịp thời nhất và có hiệu quả hơn vì nó không nhằm mục tiêu thắng kiện mà là để tìm ra giải pháp tốt nhất cho cả hai bên. Nên làm như vậy vì nếu vụ khiếu kiện có xung đột với các quy định của EU thì tòa án của nước thành viên sẽ tuyên bố họ không có thẩm quyền xét xử vụ đó. Các bên có thể đưa vụ kiện lên Tòa án Công lý Châu Âu ở Luxembourg. Ngôn ngữ sử dụng của Tòa án Công lý châu Âu là tiếng Pháp. Đơn khiếu nại có thể làm bằng một trong những ngôn ngữ của chính nước thành viên EU. Việc xét xử sẽ được tổ chức ở nước thành viên hay do Cơ quan Trọng tài Thụy Sĩ thực hiện. n Phương Mai dịch Theo Infofish International 6/2013

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

79


SHOA K ÛÅ KIÏåHOÅ N /CBÒNH / CÖNG LUÊÅNGHÏå N

Sản phẩm mới của năm 2013 Bánh kẹp cá hồi Sản phẩm của High Liner Foods là sự kết hợp hoàn hảo của cá hồi Đại Tây Dương và cá hồi Thái Bình Dương, không chứa phụ gia hay chất bảo quản. Bánh được làm thủ công, vẻ ngoài rất hấp dẫn. Bánh có các cỡ 2, 4 và 6 aơxo, được cấp đông nhanh. Có thể nướng, áp chảo, hoặc bỏ lò. Món ăn rất có lợi cho sức khỏe. n Seafoodsource

Bánh thủy sản cho người sành ăn

King & Prince đã ra mắt hai sản phẩm mới là bánh thủy sản + tôm hùm và bánh cua thủy sản dành cho người sành ăn. Được chế biến từ tôm hùm nước lạnh Canađa hoặc cua tuyết cuộn surimi, có thể dùng sản phẩm như món khai vị, tráng miệng hoặc ăn cùng với bánh sandwich. n Intrafish

Dòng sản phẩm cá hồi khai thác mới Công ty John West đã cho ra mắt sản phẩm cá hồi đỏ mới, dễ chế biến, hướng đến người tiêu dùng trẻ. Cá hồi đỏ Thái Bình Dương tự nhiên “Season and Stir” có 3 hương vị: chanh tiêu, tandoori và chua ngọt. Cá hồi đỏ phi lê đóng gói trong hộp nhỏ 125 gam, có một gói gia vị và chiếc bát. n Intrafish

Sản phẩm cá hồi xông khói mới của ACME Là cá hồi nuôi không sử dụng hooc môn hay kháng sinh, đây là sản phẩm cá hồi xông khói chất lượng cao và ngon, được bán ở các cửa hàng ở New York. Sản phẩm mới độc quyền tại Whole Foods Market. Sản phẩm được đóng trong gói trong suốt 3 aoxơ. n

Seafoodsource 80

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014


Snack thủy sản và thức ăn chế biến sẵn

Công ty Pacific American cho ra mắt dòng sản phẩm thủy sản giá trị gia tăng gồm snack ăn liền và các món ăn chế biến sẵn. Dòng sản phẩm gồm cua, cá hồi, cá ngừ, cá rô phi, cá phẩm cấp sashimi, tôm hùm, hàu, tôm. Sản phẩm không chứa chất bảo quản, màu hoặc hương vị nhân tạo nhưng đều chứa Omega 3 nguồn gốc tự nhiên. n Intrafish

Vẹm Kiwi

Bào ngư ăn liền Hai miếng bào ngư đóng gói với trọng lượng 320 g là sản phẩm ăn liền của Seafood Co của Hàn Quốc. Hương vị nổi bật nhờ việc bổ sung gia vị tự nhiên được làm từ gan bào ngư và chất chiết từ rong biển. n Infofish 4/2013

Vẹm Kiwi của thương hiệu Pacifica sẽ rất tuyệt vời cho BBQ. Sản phẩm được chế biến làm từ vẹm xanh nuôi của Niu Dilân, đóng trong gói 680 gam. Sản phẩm có hàm lượng chất sắt và đạm cao, chất béo thấp và chứa axít béo omega 3, có hạn sử dụng 2 năm. n Inforfish 4/2013

Tôm khai vị Tôm bao bột chiên giòn Băng Cốc của CP Food được làm từ tôm cỡ lớn, bao bột trộn gia vị cay, dùng chiên giòn với nước sốt mận. Sản phẩm đông lạnh ăn liền này chỉ mất 10-12 phút cho vào lò vi sóng. Mỗi suất được đóng trong gói 200 g. n Infofish 3/2013

Hằng Vân lược dịch Seafood International,12/2013 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

81


SHOA K ÛÅ KIÏåHOÅ N /CBÒNH / CÖNG LUÊÅNGHÏå N

Máy lọc xương dăm và cắt khúc bằng tia X của Valka

Thiết bị này kết hợp tia X, hệ thống xử lý hình ảnh 3D và tia nước điều khiển bằng rôbốt để tự động định vị, lọc xương dăm và cắt khúc với độ chính xác cao. Máy có thể phát hiện xương dăm có kích thước nhỏ đến 0,2mm. Tiết kiệm lao động, cải thiện năng suất, tối ưu hóa giá trị sản phẩm. n http://valka.is/wp-content/uploads/2013/07/ Valka_XRayGuidedCuttingMachine.pdf

Dây chuyền chế biến liên tục

Dây chuyền chế biến liên tục của Marel mang lại hiệu quả cao, chi phí điều hành thấp và chất lượng cao, từ các máy móc đơn lẻ đến dây chuyền tiên tiến, tinh vi, phức tạp với thông tin quản lý tổng hợp. Dây chuyền này có thể hoạt động độc lập hoặc tích hợp trong hệ thống. Dây chuyền gồm máy ghi nhãn giá/ trọng lượng, máy cân, máy dò kim loại và máy dán nhãn hộp. n http://marel.com/fish-processing/systemsand-equipment/processing-systems/end-of-linerange/248?prdct=1&pc=4

82

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Máy lọc xương dăm CT 2612.25 l

Máy lọc xương dăm 2 làn CT2612.25 của Marel có thể xử lý các miếng phi lê cá có trọng lượng từ 0,5-3-4 kg với công suất đến 36 miếng phi lê/phút. Máy hoạt động rất tiết kiệm, nhanh và dễ điều khiển, đảm bảo sản lượng tối đa, giảm thời gian sản xuất và cải thiện chất lượng sản phẩm. n http://marel.com/fish-processing/systemsand-equipment/pinboning/ct-2612.25-pinboneremover/74?prdct=1

Máy đóng gói chân không loại đai có thể tháo rời của Shindaigo

Phù hợp để sản xuất hàng loạt, áp dụng cho nhiều loại túi. Việc áp dụng đai có thể tháo rời dễ dàng giúp dễ dàng làm vệ sinh. Máy làm bằng thép không gỉ, tăng tính an toàn khi sử dụng. n http://www.shindaigo.co.jp/english/belt-e.html


Máy sửa cá Valka

Dây chuyền sửa cá có thể định lượng, sửa cá và phân loại phi lê. Dây chuyền này có khu vực riêng cho nhân công, bàn sửa cá, thùng đựng sản phẩm trước và sau khi sửa cá. Có thể lựa chọn đóng gói tự động hoặc bằng tay. Thiết kế hợp vệ sinh, có thể kết hợp với máy cắt sử dụng tia X, phù hợp với mọi tính năng và kích cỡ. n http://valka.is/products/flowlines/trimming/

Máy đánh vảy Steen ST521

Thiết bị có thể loại bỏ tất cả các loại vảy cá. Thiết kế để sử dụng liên tục và có bổ sung thêm trục chính để loại bỏ những loại vẩy lớn. Trục rất chắc chắn với tính năng bảo vệ tăng gấp 4 lần với lớp thép, hợp chất cách điện và một lớp nhựa. Máy rất an toàn khi sử dụng. n http://steen.be/en/products/fish/descaling/ST521/

Máy làm lạnh siêu tốc Super Cooling

Super Cooling kết hợp làm lạnh tiếp xúc và làm lạnh nhanh, phù hợp với những loài cá có thịt mềm và dễ nát. Super Cooling giúp tăng tuổi thọ của sản phẩm cá thịt trắng lên 3 ngày. Cải thiện năng suất chế biến, giúp sản phẩm tươi và săn chắc. n http://www.skaginn.is/products/super-cooler

Máy chế biến cua

Máy chế biến cua của Snorre giúp rút ngắn thời gian chế biến cua, làm tăng sản lượng thịt và gạch cua. Công suất đạt 1.000 con cua/giờ. Máy được thiết kế hợp vệ sinh. Giảm chi phí lao động. Máy chế biến cua thế hệ thứ 3 của Snorre đơn giản, hiệu quả và giá cả phải chăng, ít phải bảo trì, dễ làm vệ sinh. n http://www.snorregroup.com/crab-slaughtermachine.php

Hằng Vân lược dịch Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

83


NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN

Kiểm soát amoniac trong ao nuôi thủy sản Amoniac là chất độc hại được tích lũy trong quá trình nuôi. Trong ao nuôi được quản lý đúng cách, amoniac hiếm khi tích tụ tới nồng độ nguy hiểm. Tuy nhiên, amoniac có thể tạo thành cái gọi là hiệu ứng “gây chết”, chẳng hạn như giảm tăng trưởng, chuyển hóa thức ăn kém, và làm giảm khả năng miễn dịch ở những nồng độ thấp. Trung tâm NTTS phía Nam (SRAC) – Viện Nông nghiệp và Thực phẩm Quốc gia (Hoa Kỳ) chia sẻ về quản lý amoniac trong ao nuôi thủy sản.

Ảnh hưởng của pH và nhiệt độ lên amoniac

Amoniac trong nước tồn tại ở một trong hai dạng là amoniac (NH3) hoặc các ion amoni (NH4+). Tỷ lệ tương đối cho sự tồn tại của 2 dạng này bị ảnh hưởng chủ yếu bởi độ pH. Amoniac chưa bị ion hóa (NH3) là dạng độc và chiếm ưu thế khi độ pH cao. Các ion amoni (NH4+) tương đối không độc và chiếm ưu thế khi độ pH thấp. Nói chung, khi pH nhỏ hơn 8,0 hàm lượng amoniac ở dạng độc hại có ít hơn 10%. Tuy nhiên, tỷ

lệ này tăng lên đáng kể khi tăng độ pH. (đồ thị) Trong ao, độ pH dao động theo quá trình quang hợp (làm tăng pH) và hô hấp (làm giảm pH) của các vi sinh vật. Do đó, dạng amoniac độc (NH3) tăng lên vào thời điểm cuối buổi chiều tối và amoni (NH4+) chiếm ưu thế từ trước khi mặt trời mọc cho đến sáng sớm. Sự cân bằng giữa NH3 và NH4+ cũng bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ. Với độ pH nhất định, NH3 độc hiện diện trong nước ấm nhiều hơn trong nước lạnh

Các nguồn phát sinh amoniac

Nguồn chính phát sinh amoniac trong ao là do vật nuôi bài tiết. Tốc độ bài tiết có liên quan trực tiếp đến tỷ lệ thức ăn và mức độ protein trong thức ăn. Khi protein bị phân hủy trong cơ thể vật nuôi, một số hợp chất của nitơ được phân hóa để tạo thành protein, một số tạo thành năng lượng, và một số được bài tiết qua mang tạo thành amoniac. Do đó, protein trong thức ăn là nguồn gốc của phần lớn amoniac trong ao. Một nguồn khác làm phát sinh amoniac là sự khuếch tán từ các lớp bùn lắng. Các lớp này là một số lượng lớn các chất hữu cơ sản sinh từ tảo hoặc thức ăn bổ sung, các chất rắn từ bài tiết và các loại tảo chết lắng xuống đáy ao, nơi chúng bị phân hủy… Sự phân hủy các chất hữu cơ này sinh ra amoniac và được khuếch tán vào nước.

Các lựa chọn trong quản lý amoniac

Đồ thị : Nồng độ NH3 phụ thuộc vào nhiệt độ và pH

84 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

Rất hiếm khi nồng độ amoniac trở nên đủ cao để gây ra vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, cần có những bước xử lý thế nào nếu


Phát sinh và hấp thu amoniac trong ao nuôi - minh họa

vấn đề xảy ra. Câu trả lời ngắn gọn là - Không nhiều. Về mặt lý thuyết, có một số cách để giảm nồng độ amoniac, nhưng thực tế đa số các phương pháp chỉ được dùng cho các ao nuôi lớn, sử dụng trong NTTS thương mại. Ngừng hoặc giảm tỷ lệ cho cá ăn Nguồn chính tạo amoniac trong ao là từ protein trong thức ăn. Khi protein trong thức ăn bị chuyển hóa hoàn toàn, amoniac được sản sinh trong cơ thể cá và bài tiết qua mang vào nước ao. Do đó, có vẻ hợp lý khi kết luận rằng có thể kiểm soát amoniac bằng cách điều chỉnh tỷ lệ cho ăn hoặc mức độ protein trong thức ăn. Điều này chỉ đúng ở một mức độ nào đó, phụ thuộc vào việc kiểm soát trong ngắn hạn (ngày) hay dài hạn (tuần hoặc vài tháng). Trong ngắn hạn, việc giảm mạnh tỷ lệ cho ăn ít ảnh hưởng trực tiếp đến nồng độ amoniac. Trong dài hạn, có thể làm giảm

nguy cơ bằng cách điều chỉnh cả tỷ lệ cho ăn và mức độ protein. Khi cho ăn một cách thận trọng, khả năng tăng nồng độ amoniac và những rủi ro liên quan (bệnh, chuyển hóa thức ăn kém, chậm tăng trưởng) có thể được giảm thiểu. Tăng cường sục khí Amoniac độc (NH3) là một chất khí hòa tan, vì vậy một số nhà sản xuất tin rằng sục khí là một cách để loại bỏ amoniac bởi nó làm tăng độ khuếch tán của amoniac từ nước vào không khí. Tuy nhiên, nghiên cứu đã chứng minh rằng việc sục khí không có hiệu quả, do lượng nước bị ảnh hưởng bởi thiết bị sục khí là khá nhỏ so với tổng dung lượng ao, và nồng độ khí amoniac trong nước thường là tương đối thấp (đặc biệt là vào buổi sáng). Sục khí quá nhiều có thể làm tăng nồng độ amoniac, bởi chúng ngăn chặn sự lắng đọng của các lớp bùn lắng và thúc đẩy sự phân hủy hữu cơ.

Bón vôi Từ lâu, nhiều người nghĩ rằng bón vôi sẽ làm giảm nồng độ amoniac. Thực tế, sử dụng vôi có thể làm cho tình huống trở nên tồi tệ hơn nhiều, do gây gia tăng độ pH đột ngột. Tăng độ pH làm amoniac thay đổi và chuyển sang dạng độc cho cá. Ngoài ra, lượng canxi trong vôi có thể phản ứng với phốtpho hòa tan, chuyển hóa chúng và khiến tảo thiếu chất trong sinh trưởng. Kỹ thuật này chỉ hiệu quả trong ao có độ kiềm thấp. Trong khi đó, hầu hết các ao cá đều có đủ độ kiềm. Tăng độ kiềm trên 20 mg/l (theo CaCO3) sẽ không mang lại lợi ích nào cả. Hơn nữa, bón vôi không giải quyết các nguyên nhân gốc rễ khiến nồng độ amoniac cao, nó chỉ thay đổi sự biến động của amoniac từ độc sang không độc bằng cách điều hòa độ pH cao thường xuất hiện vào buổi chiều. Bón photpho Hầu hết amoniac được hấp Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

85


NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN

thu bởi tảo, vì vậy bất cứ điều gì làm tăng sự phát triển của tảo sẽ làm tăng sự hấp thu amoniac. Thực tế này là cơ sở cho ý tưởng bón photpho vào ao để tảo sinh trưởng và làm giảm nồng độ amoniac. Tuy nhiên, trong điều kiện bình thường của ao, tảo đã sinh sôi rất dày đặc và tốc độ tăng trưởng của tảo chỉ bị hạn chế bởi điều kiện ánh sáng, chứ không phải bởi chất dinh dưỡng như phốtpho hay nitơ. Vì vậy, biện pháp này không có tác dụng. Giảm độ sâu của ao Tăng trưởng của tảo (tảo hấp thu amoniac) bị hạn chế bởi điều kiện ánh sáng. Bất cứ điều gì làm tăng ánh sáng cũng làm

tăng sự hấp thu amoniac. Về mặt lý thuyết, tảo nở dày đặc trong ao cạn sẽ hấp thu amoniac hiệu quả hơn trong ao sâu. Tuy nhiên, nhìn chung ao sâu vẫn có nhiều lợi ích hơn (ví dụ: dễ thu hoạch cá, bảo tồn nguồn nước, nhiệt độ ổn định hơn, giảm thiểu tác động của các lớp bùn lắng giữa mỗi lần cải tạo ao). Tăng độ sâu của ao Rõ ràng, ao sâu chứa nhiều nước hơn ao cạn. Vì vậy, với tỷ lệ cho ăn nhất định, ao sâu hơn có nồng độ amoniac thấp hơn vì có nhiều nước để pha loãng amoniac từ bài tiết của cá. Trong thực tế, ao sâu cũng không có đủ nước để pha loãng amoniac một

Một số mẫu vật liệu và hóa chất khử amonic trên thị trường

86 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

cách đáng kể khi so sánh với một lượng lớn amoniac được thải ra liên tục bởi các vật chất sinh học và phi sinh học tương ứng trong ao. Hơn nữa, ao sâu hơn tạo ra khả năng phân tầng và các tầng dưới (các hypolimnion) có thể tập trung nhiều amoniac và thiếu oxy hòa tan. Khi lớp nước này trộn với nước bề mặt trong quá trình “đối lưu”, có thể dẫn đến các vấn đề chất lượng nước. Thay nước Amoniac có thể được đẩy ra ngoài bằng cách thay nước, mặc dù bơm khối lượng nước lớn như vậy rất tốn kém, mất thời gian và là sự lãng phí không cần thiết. Đây cũng là một lựa chọn không hiệu quả trong việc quản lý amoniac. Giả sử nồng độ amoniac trong một ao 10 mẫu Anh (4.046m2) là 1 mg/l. Nồng độ amoniac sau khi bơm 500 gpm liên tục trong 3 ngày sẽ là 0,90 mg/l, giảm chỉ 0,10 mg/l. Hiệu quả của việc làm này đang có nhiều nghi vấn vì không giải quyết được các nguyên nhân gốc rễ của vấn đề. Xả nước ao không chỉ không hiệu quả, mà còn không được ưa chuộng vì những lo ngại về sự xả thải từ ao nuôi ra môi trường. Sử dụng vi khuẩn Một số người tin rằng amoniac tích tụ trong ao vì thiếu các loại vi khuẩn cần thiết. Nếu điều này là sự thật, chỉ cần thêm vào ao các chủng vi khuẩn cần thiết sẽ giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, nghiên cứu trên nhiều chủng vi khuẩn hầu như đều dẫn đến một kết quả chung: chất lượng nước không bị ảnh hưởng bởi việc bổ


sung thêm các loại vi khuẩn này. Quản lý ao theo các tiêu chuẩn hiện tại đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho vi khuẩn phát triển. Hoạt động và sinh trưởng của vi khuẩn bị hạn chế bởi sự sẵn có của oxy và nhiệt độ nhiều hơn là bởi số lượng vi khuẩn. Ngoài ra, vi khuẩn (trong nước ao và bùn lắng) chịu trách nhiệm phân hủy các chất hữu cơ. Do đó, gia tăng vi khuẩn sẽ thúc đẩy sự phân hủy các chất hữu cơ, nồng độ amoniac thực sự sẽ tăng chứ không giảm. Một số loại vi khuẩn oxy hóa ammoniac thành nitrat. Việc thêm chúng cũng sẽ không làm giảm nồng độ amoniac nhanh chóng bởi vì các vi khuẩn phải phát triển trong vài tuần trước khi có một số lượng đủ lớn để ảnh hưởng đến mức độ amoniac. Sử dụng nguồn cacbon hữu cơ Nếu nồng độ oxy hòa tan đầy đủ, việc thêm một nguồn carbon hữu cơ, chẳng hạn như cỏ khô băm nhỏ, vào ao cá thâm canh có thể làm giảm nồng độ amoniac. Dù việc cho cá ăn diễn ra thường xuyên, nhiều loại vi khuẩn trong các ao cá vẫn bị “bỏ đói” cacbon hữu cơ. Chất hữu cơ trong ao cá (các tế bào tảo chết, cá chất rắn từ phân, thức ăn thừa) không đảm bảo tối ưu tỷ lệ các chất dinh dưỡng cho vi khuẩn phát triển. Mặt trái của phương pháp này là rất khó có thể đưa một lượng lớn các chất hữu cơ vào trong ao, trong khi đó, những ảnh hưởng đến nồng độ amoniac cũng không phải là nhanh chóng. Hơn nữa, sẽ phải gia tăng việc sục khí để đáp ứng nhu cầu

oxy cho việc phân hủy một lượng lớn các chất hữu cơ như vậy. Bổ sung các vật liệu trao đổi ion Một số vật liệu tự nhiên, được gọi là zeolit, có thể hấp thụ amoniac trong nước. Đây là biện pháp thực tế sử dụng trong hồ cá cảnh hoặc các ao nuôi quy mô nhỏ, là một hệ thống bảo vệ cá rất tốt, nhưng không thực tế cho ao nuôi với khối lượng lớn. Một số người nuôi tôm ở Đông Nam Á đã cố gắng sử dụng khoảng 200-400 kg vật liệu zeolit trên diện tích mỗi mẫu Anh (4.046m2). Tuy nhiên, nghiên cứu đã chứng minh rằng thực hành này là không hiệu quả và đã bị lãng quên. Thêm axit Về lý thuyết, việc thêm axit (như axit hydrochloric) vào nước sẽ làm giảm độ pH. Điều này có thể thay đổi sự cân bằng amoniac để chúng chuyển sang hình thức không độc (NH4+). Tuy nhiên, sẽ cần có một lượng lớn axit và sẽ phải được trộn nhanh chóng trên khắp mặt ao nhằm ngăn chặn các “điểm nóng” có thể giết chết cá. Hơn nữa, thêm axit sẽ phá hủy khả năng đệm (kiềm) của ao trước khi độ pH có sự thay đổi đáng kể. Khi nồng độ amoniac được hạ xuống, ao xử lý lại cần

phải được bón vôi để khôi phục lại khả năng đệm. Mặt khác, làm việc với các axit mạnh cũng là một mối nguy cho an toàn lao động và cho thủy sản. Tóm lại, vì có rất ít các biện pháp hiệu quả để khắc phục ngộ độc amoniac xảy ra trong ao, nên chìa khóa để quản lý amoniac hiệu quả chính là áp dụng các Quy tắc Thực hành NTTS Tốt nhằm giảm thiểu khả năng xảy ra vấn đề. Điều này có nghĩa là phải thả cá với mật độ hợp lý, thu hoạch thường xuyên để đảm bảo cá không quá lứa, và sử dụng thực hành cho ăn tốt với việc tối đa hóa tỷ lệ tiêu thụ thức ăn (FCR) của cá. n Trần Duy biên dịch Theo tài liệu của SRAC, số 4603

Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

87


SÛÅUÖIKIÏåTRÖÌ N N /NBÒNH G THUÃ LUÊÅ Y SAÃ NN

Bảo vệ hệ sinh thái

vì phát triển nuôi thủy sản bền vững Làm thế nào để đảm bảo sự cân bằng, tối ưu hóa các hoạt động kinh tế để vừa gia tăng thu nhập vừa bảo vệ môi trường sinh thái là mong muốn mà con người luôn hướng tới.

N

uôi trồng thủy sản (NTTS) là một trong những hoạt động kinh tế chủ lực của vùng ĐBSCL và cả nước và là ngành mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho nước nhà. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng hoạt động NTTS là sự suy thoái ngày càng nhanh chóng môi trường sinh thái. môi trường sinh thái bị hủy hoại đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với cuộc sống con người.

Vùng ĐBSCL có nhiểu cồn, bãi nổi ven sông, chế độ thủy triều, nguồn nước rất thuận lợi cho hoạt động NTTS, là vùng đất trù phú, bạt ngàn vườn cây ăn trái quanh năm tươi tốt. Những năm gần đây, sự hấp dẫn từ lợi nhuận của nuôi cá tra, nuôi tôm, … đã khiến nhiều vườn cây này bị thay thế bằng các trang trại NTTS qui mô công nghiệp. Hoạt động này một mặt đã làm thay đổi diện mạo kinh tế địa phương, gia

tăng đáng kể thu nhập, cải thiện đời sống người dân. Nhưng, bên cạnh những mặt tích cực đó, nó cũng gây ra những tác động tiêu cực, làm thay đổi môi trường sinh thái, khiến cho cuộc sống và sản xuất ngày càng khó khăn, dịch bệnh có nguy cơ bùng phát bất cứ lúc nào. Tương tự, các hệ sinh thái vùng ven biển cũng bị ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng bởi các hoạt động sản xuất của con

Hội thảo tổng kết dự án ““Quản lý dịch vụ hệ sinh thái vì mục tiêu phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững”, Cần Thơ, 9/1/2014

88 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014


người, nhất là hoạt động nuôi tôm công nghiệp. Trong những năm 2011- 2012, dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp hay đốm trắng trên tôm bùng phát dữ dội, gây thiệt hại nặng nề tại nhiều tỉnh thành nuôi tôm trọng điểm. Rõ ràng, tuy có đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội tại nhiều địa phương, nhưng NTTS cũng trực tiếp hoặc gián tiếp gây những tác động tiêu cực lên môi trường sinh thái, như ô nhiễm môi trường, nguồn nước, ảnh hưởng đến các loài sinh vật đặc hữu, xung đột lợi ích giữa các hoạt động kinh tế của các thành phần dân cư…. Mâu thuẫn giữa các thành phần xã hội tại đây cũng theo đó mà ngày càng gay gắt hơn. Do đó, để phát triển NTTS ổn định và bền vững, công tác bảo vệ môi trường sinh thái cần phải được đặt lên hàng đầu, sao cho có thể phát triển, tối ưu hóa các lợi ích kinh tế, đồng thời giữ gìn và bảo vệ hệ sinh thái ở trạng thái tốt nhất.

Bảo vệ dịch vụ hệ sinh thái cần các giải pháp đồng bộ

Ý thức được tầm quan trọng của các dịch vụ hệ sinh thái đối với hoạt động NTTS, từ cuối năm 2011, trường đại học Stockholm, Đại học Nông Lâm TP.HCM, Đại học An Giang và WWF Việt Nam đã phối hợp thực hiện Dự án “Quản lý dịch vụ hệ sinh thái vì mục tiêu phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững”. Dự án nghiên cứu vai trò cũng như quan hệ tương tác giữa dịch vụ hệ sinh thái với các hoạt động NTTS trên hai

Nước thải ao nuôi cá tra công nghiệp là một trong những nguyên nhân hủy hoại hệ sinh thái vùng lân cận

đối tượng tôm và cá tra, các giải pháp kỹ thuật NTTS, đánh giá ảnh hưởng của nước thải, bùn thải NTTS lên hệ sinh thái,... từ đó có những biện pháp hữu hiệu giúp bảo vệ hệ sinh thái, góp phần phát triển bền vững ngành NTTS của Việt Nam. Được thực hiện từ 10/2011 đến 01/2014, Dự án đã kết thúc và đạt được nhiều kết quả khả quan. Ông Ngô Tiến Chương, đại diện WWF Việt Nam, cho biết: “Bảo vệ dịch vụ hệ sinh thái là hoạt động vô cùng phức tạp, đòi hỏi phối hợp nhiều hoạt động khác nhau trong đó công tác nghiên cứu

khoa học, đánh giá tác động các hoạt động của con người lên môi trường sinh thái, từ đó đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực lên hệ sinh thái. Đến nay, các nhà khoa học tham gia dự án đã có những kết quả nghiên cứu ban đầu, chúng tôi sẽ tập hợp và sớm đưa ra các đề xuất cụ thể, góp phần đưa ngành NTTS cả nước cũng như vùng ĐBSCL phát triển ổn định và bền vững”. Trong hoạt động NTTS, đặc biệt là đối với nghề nuôi cá tra công nghiệp, quản lý bùn thải và nước thải là những vấn đề nan giải và thu hút sự quan tâm Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

89


NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN

của tất cả các thành phần tham gia trong chuỗi sản xuất. “Với diện tích, sản lượng và năng suất nuôi như hiện nay, thật không quá khó để hình dung lượng nước thải và bùn thải mà ngành nuôi cá tra thải ra môi trường lớn như thế nào. Rõ ràng, khối lượng là rất lớn và những tác động tiêu cực của chúng lên môi trường là không hề nhỏ. Quản lý nước thải, bùn thải là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu, làm đau đầu cơ quan quản lý như chúng tôi. Nhưng nếu chỉ có cơ quan quản lý chúng tôi giải quyết

thì cũng đành bó tay,”- ông Trần Anh Dũng, Chi cục trưởng Thủy sản An Giang phát biểu. Đồng quan điểm trên, TS Châu Thi Đa – Khoa Thủy Sản, Đại học An Giang cho rằng: “Để đảm bảo phát triển bền vững, ổn định đồng thời bảo vệ được môi trường sinh thái, ngành NTTS cần giải quyết triệt để những tác động tiêu cực thông qua nhiều giải pháp kỹ thuật khác nhau, như áp dụng và nhân rộng các hình thức nuôi mới, hiệu quả như mô hình tômlúa, nuôi sinh thái…, đa dạng hóa

đối tượng nuôi, xử lý triệt để chất thải như sử dụng bùn đáy ao cá tra làm phân hữu cơ, sử dụng nước thải ao nuôi cá tra cho trồng trọt... Quy hoạch sao cho phát huy được thế mạnh từng địa phương để phát triển NTTS nhưng vẫn đảm bảo gìn giữ được sự ổn định của môi trường sinh thái, giảm thiếu tác động tiêu cực đến môi trường”. Cá tra và tôm là hai đối tượng nuôi chủ lực của vùng ĐBSCL, sự phát triển mạnh và nhanh chóng của hai đối tượng này trong thời gian qua đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế của toàn vùng, nhưng đồng thời cũng đã gây ra những tác động tiêu cực lên môi trường sinh thái, đồng thời mâu thuẫn xã hội cũng phát sinh và có xu hướng gia tăng khi mà ý thức chung vì cộng đồng của một bộ phận nhỏ người dân còn hạn chế. Chính vì thế, cần“tăng cường giáo dục ý thức vì cộng đồng cho người dân cũng là một trong những hoạt động không thể thiếu nhằm bảo vệ dịch vụ hệ sinh thái, phát triển bền vững ngành NTTS” - ông Ngô Tiến Chương nhấn mạnh. Cùng với đó, tăng cường tính liên kết vùng từ phạm vi nhỏ đến toàn khu vực sẽ là một giải pháp kèm theo, phải được thực hiện song song, đồng bộ bên cạnh các giải pháp kỹ thuật khác. Có như vậy, ngành thủy sản mới có cơ hội phát triển bền vững và ổn định, đảm bảo cả về mặt kỹ thuật, hiệu quả kinh tế và các vấn đề xã hội khác. n Đỗ Văn Thông

Vườn dừa xanh tươi, trĩu quả vì được chăm bón bằng bùn thải ao nuôi cá tra tại Công ty CP Gò Đàng.

90 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014


ÀÊËT VIÏåT / NHÛÄNG NEÃO ÀÛÚÂNG

Đến Thủy Trầm, tầm chép đỏ Cứ mỗi dịp Tết đến, Xuân về, làng Thủy Trầm, xã Tuy Lộc, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ lại nhộn nhịp vào mùa cá chép đỏ.

Khấm khá nhờ cá chép đỏ

Trước khi khởi hành về ngôi làng chuyên phụ trách phương tiện giao thông cho Táo quân về chầu trời, chúng tôi nghe nói đường đi rất xấu. Khá lo lắng, nhưng từ tấm biển báo làng nghề giản dị nằm ở đầu làng, theo con đường bê tông xuyên qua rừng cọ vào giữa làng lại cực kỳ dễ dàng và thuận tiện. Tìm vào khu 3 đến nhà anh Nguyễn Văn Hiệp, một trong những “đại gia cá đỏ” của Thủy Trầm. Gia đình anh Hiệp có 5 ao nuôi, đồng thời

cũng làm đại lý thu mua cá trong làng. Anh cho biết: “Con đường bê tông nối dài từ tỉnh lộ vào làng là đóng góp của tất cả các hộ dân trong làng. Năm nay vừa làm xong nên giờ đi lại thoải mái lắm rồi”. Tuy mới là 20 tháng Chạp nhưng cả Thủy Trầm đã rộn rã tiếng người gọi nhau í ới, tiếng máy bơm nước, tiếng xe máy, ô tô qua lại rầm rập. Đã thấy nhộn nhịp, nhưng chị Nguyễn Thị Hiền, vợ anh Hiệp vẫn cười nói: “Nhà báo về sớm quá, hôm nay chỉ nhà nào có ao to hay có người

đặt hàng trước mới tát trước thôi, 21, 22 âm mới vui”. Anh Hiệp kể, từ ngày 21, 22 tháng Chạp, tiểu thương từ mãi Yên Bái, Việt Trì, Hà Nội… sẽ đánh ôtô, xe máy đậu kín đầu làng. Tới ngày đó, cá chép đỏ rực cả bể, ao nhà. Cá được cho vào các thùng, sọt rồi chất lên ôtô, xe máy ầm ầm chạy về xuôi để kịp phân phối về những vùng miền khác nhau. Mặc dù năm nào người Tuy Lộc nuôi cá cũng được mùa và một số xã lân cận cũng đã học tập nuôi cá chép đỏ, song không vì

Quây lưới bắt cá chép đỏ Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

91


ÀÊËT VIÏåT / NHÛÄNG NEÃO ÀÛÚÂNG

thế mà ế cá. Anh Hiệp nói: “Tuy nhiều nơi nuôi được nhưng làng mình làm nghề lâu năm rồi nên có nhiều bí quyết để giữ cá đồng đều, đỏ đẹp. Sáng ngày 23 (tháng Chạp âm lịch) năm ngoái, vẫn còn có xe đến xin mua cá, nhưng giờ ấy thì tìm đỏ mắt cũng không thấy cá đỏ đâu”. Và vội bát cơm, chỉ cho xem bể cá đỏ chót của gia đình, anh chị Hiệp-Hiền lại chuẩn bị ra ao để kịp tát nước, bắt cá, đưa cá về bể nhà chờ người mua đến lấy. “Đấy, cái nghề cũng lạ, chăm nuôi cả năm, bán chỉ trong một ngày. Mọi người đều nỗ lực, khẩn trương vì cả năm mới có một ngày lễ Táo quân, nếu chậm là mất hết,” anh Hiệp nói. Anh cho biết thêm, cá trong ao nhà anh đã được đặt mua hết với mức giá 80.000/kg, năm nay

anh xuất đi thị trường miền Bắc từ 2,5 - 3 tấn cá chép đỏ, thu nhập hơn 200 triệu đồng. Ngắm ngôi nhà 5 tầng, tiện nghi đầy đủ, ô tô con đỗ trước cửa rồi tới ông chủ nhà chân lấm tay bùn nhưng vẫn thượng tất cả những thứ y nguyên từ dưới ao lên, “chễm chệ” giữa nhà mới thấy cái sự vất vả xứng đáng đến nhường nào.

Sự tích con cá chép Thủy Trầm

Thủy Trầm có 3 khu hành chính, trong đó khu 3 được xem như “vựa” cá chính của thôn. Khu này có 133 hộ thì hầu như 100% số hộ đều nuôi cá chép đỏ với diện tích ước khoảng 28,3 ha. Ông Hoàng Minh Quân, Chủ

Gia đình anh Nguyễn Văn Hiệp chuẩn bị cá để xuất bán

92 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

tịch xã Tuy Lộc, mách nước nếu muốn biết chuyện cá đỏ cứ vào Thủy Trầm hỏi anh em Kỷ, Vụ. Được hỏi về bí quyết nuôi cá lớn chậm và đều, anh Hà Công Vụ giải thích: “Ao nhỏ, nước sạch, không sâu quá, thả cá thật dày, cho ăn ít. Mỗi mét vuông mặt nước nên thả 500 – 700 con. Như thế cá sẽ chậm lớn và thu được số lượng lớn trên một diện tích mặt nước nhỏ”. Ông Bùi Đình Chữ, nhà ở khu 2 cho biết, cá của người dân Thủy Trầm nổi tiếng bởi cách lựa chọn cá bố mẹ cho nhân giống rất khắt khe, đảm bảo chất lượng của cá đỏ. Từ 4 con cá giống gốc mà ông Trần Văn Sáu mang về, người dân lựa chọn những con cá có màu đỏ chót như màu cờ, khỏe mạnh, trên đầu hay thân


mình không có đốm, nuôi vỗ làm cá bố mẹ, cho phối giống, nuôi 1 tháng bằng nước sạch, cho ăn bằng đỗ tương xay để cho ra được những con cá giống chất lượng nhất. Đến kỳ cá sinh nở, người ta mang bèo tây phủ gần kín ao cho cá đẻ trứng bám vào rễ bèo màu trắng sữa li ti. Sau đó, từng chùm bèo sẽ được nhấc lên mang về nong ấp khô, tránh tình trạng cá đẻ rồi tự ăn mất trứng. Người ta chăm sóc trứng rất cẩn thận, như chiếu thêm ánh sáng để kích thích trứng nở. Đến khi nhìn thấy trên những quả trứng trắng li ti hiện lên hai cái mắt đen là lúc đưa trứng cá trở lại ao để ương nở. Cá lúc mới nở chỉ bé bằng sợi chỉ, người ta gọi là cá bột. Mỗi mét vuông mặt nước có thể thả tới 500 đến 700 con, mỗi ao có thể thả hàng vạn con cá. Thức ăn chính của cá là củ sắn xay. Mỗi ao cả năm cũng chỉ cho ăn hết tấn sắn, chi phí vài triệu bạc, không đáng là bao. Ông Chữ nói: “Đời sống vật chất của người dân càng khá giả thì con người càng dành nhiều sự quan tâm đến vấn đề văn hóa tâm linh. Chính vì thế, con cá chép đỏ quê tôi làm ra cung không đủ cầu. Nhất là từ giữa tháng 6/2011, UBND tỉnh Phú Thọ đã có quyết định công nhận thôn Thủy Trầm là làng nghề. Đó là điều kiện hết sức thuận lợi để khẳng định về chất lương, giúp con cá chép đỏ của chúng tôi vươn ra thị trường tiêu thụ xa hơn nữa trong nay mai. Đây đúng là con cá đã góp phần xóa đói, giảm nghèo ở vùng trung du miền núi này”. n

Cá được cho vào bao tải vận chuyển bằng sức người

Dũng Minh Cá chép đỏ Thủy Trầm Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

93


ÀÊËT VIÏåT / NHÛÄNG NEÃO ÀÛÚÂNG

“Thi sĩ” làng mắm tép Đình Trung

p Bài và ảnh: Nguyễn Việt

“Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ” - đã rất nhiều lần kinh nghiệm ấy không chỉ giúp tôi “được việc” mà còn có những gặp gỡ thú vị. Lần này cũng vậy, khi về đến xã Hà Yên (huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa) tôi chọn một bà già vừa từ chợ ra, xách 2 chiếc làn đầy rau quả thịt cá, để hỏi thăm đường về làng Đình Trung. Cười xởi lởi phô hàm răng nhai trầu đen nhánh, bà leo thoắt ngay lên sau xe tôi, nói như ra lệnh: “Chú chở bà về luôn, rồi bà chỉ cho, muốn tìm nhà ai bà cũng biết. Bà là bà Thiềm, dân gốc Đình Trung đây”. Tôi ngoan ngoãn “tuân lệnh” và thưa là chỉ định tìm mua ít mắm tép. Bà Thiềm cười khanh khách: “Đúng rồi, đến Đình Trung mà không có mắm tép mang về thì cũng như chưa đến. Tôi đưa chú tới nhà bán mắm ngon nhất luôn. Mà tôi còn làm thơ về mắm tép nữa đấy nhé”. Rồi bà cao hứng ngâm nga:

Lặn lội trong bùn lạnh nước giá để nhặt từng con tép

94 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

“Đình Trung mắm tép lẫy lừng Nước mắm tinh khiết đã từng tiến vua Tép ngoài đồng chẳng phải mua Mắm ngon là bởi em vừa khéo tay”… 79 tuổi, bà Thiềm vẫn nhanh nhẹn hoạt bát và cực kỳ minh mẫn, chưa quên chuyện gì ở làng ở xã. Bà bảo, mắm tép thì nhiều nơi làm, nhưng mắm tép Đình Trung có màu sắc, mùi vị đặc biệt vì nó được làm thuần từ loại tép riu, mình nhỏ nhưng béo lẳn, màu xanh trong do sống ở vùng nước nhiều rong rêu, mà phải là rong trơn, chứ đồng nào nhiều rong đuôi chó thì tép lại kém ngon. Cuối năm trời rét là dịp tép béo và ngon lắm. Ngày trước, mỗi khi cày bừa xong vụ đông, cả làng rủ nhau đi đánh tép, những cánh đồng chiêm trũng ven sông Hoạt, sông Tống đông vui như trẩy hội. Ở Đình Trung nhiều đôi nên duyên cũng chính từ những buổi đánh tép chung, mà cảnh vợ chồng hợp lực bắt tép


ban đêm còn được đưa vào thơ ca nữa. “Lênh đênh một chiếc thuyền hoa Chèo ra hải hà bắt lấy muôn binh Chồng đi vợ lại ngồi rình Chờ chồng bắt được muôn binh mới về”. Bà Thiềm lại cười thành tràng: “Đấy chú xem, xúc được cả rổ tép có phải là muôn binh không? Tả đúng cảnh nhà tôi hồi xưa đấy, tôi phải chèo thuyền và ngồi rình ông ấy đánh tép xong là mang ngay ra chợ sớm.”. Đang mạch chuyện vui, bà không ngừng được, chỉ vỗ vai tôi ra hiệu đã đến hàng bán mắm. Vợ chồng anh Liêm - chị Huyền chủ hàng cùng ngoảnh ra cười: “Bà tả thì thi vị thế, chứ đi đánh tép cực lắm anh ạ, đêm đông lội ruộng lội sông cứ gọi là tím tái cả người. Phải ngâm mình trong bùn lạnh nước giá dăm bảy tiếng đồng hồ mới được vài cân tép. Tép xúc trên đồng thường lẫn rất nhiều tạp chất, phải cho vào rổ lớn, lắc cho bớt bùn đất rồi mới sàng sẩy để lọc bỏ rong cỏ, đãi tiếp đến khi chỉ còn lại cá tép rồi mới phân loại”. Chị Huyền cho biết, ít năm trước cứ vào dịp này mỗi ngày Đình Trung có cả trăm người đánh tép ngay trên đồng làng. Nay thì các cánh đồng quanh làng và cả xã Hà Yên đã gần như không còn tép. Đánh bắt nhiều là một phần, nhưng chủ yếu là lạm dụng thuốc trừ sâu khiến tép không sống nổi. Vẫn còn một số người Đình Trung theo nghề truyền thống, nhưng họ phải đi xa hơn, ra mạn Tam Điệp hoặc Hậu Lộc mới bắt được nhiều tép. Hiện ở Hà Yên có khoảng 20 cơ sở sản xuất mắm tép, nhưng “nguyên liệu” là tép vùng khác, chứ tép xanh Đình Trung hiếm lắm. Song các hộ làm mắm vẫn kiên quyết giữ thương hiệu cho mắm tép Đình Trung, không bao giờ dùng tép “gạo” to mình nhạt thịt, mà vẫn chọn tép riu để mắm luôn dậy mùi thơm và chuyển màu đỏ au đẹp mắt. Xách ra hũ mắm vừa “chín tới”, chị Huyền giới thiệu: “Ăn được rồi đấy anh ạ. Đây là mắm sổi, chỉ cần làm sạch tép, để ráo nước rồi trộn với thính, đường, muối, ủ 15 ngày là xuất hàng. Loại này chỉ có 60.000 đ/kg thôi. Còn như làm mắm trường, phải cho tép trộn muối, thính vào hũ sành, đặt ton (giỏ) hình tròn có miệng vừa bằng ngang miệng hũ. Ủ suốt 1 năm mới ngấu, rồi có thể lấy mắm

Bà Thiềm giới thiệu một can mắm sổi

dùng luôn, hoặc múc nước cốt đã ngấm sang ton để mang nấu nước mắm. Hiện một chai “gù” (chai 65) nước mắm tép giá 180.000 đ. Tỷ lệ trộn là cứ 10 bát tép thì dùng 4 bát muối và 2 bát gạo rang giã làm thính”. Bà Thiềm tiếp lời: “Ấy bây giờ các chị muối tép bằng hũ nhỏ, chứ hồi xưa tôi muối bằng chum, mỗi chum phải 100 bát tép (3 bát = 1 kg). Phải lúc gom được nhiều tép, tôi làm cả trăm chum như thế mà không hỏng chum nào đâu nhé. Công thức làm mắm, tôi cũng phổ thơ cho con cháu dễ nhớ, bài thơ này của tôi sau đó được Ty Văn hóa hồi đó thưởng 100.000đ cơ đấy”. Rồi bà đọc luôn: “Tép riu trăm bát đong đầy Bao nhiêu bát muối đã đầy đủ chưa? Phận em muối mắm xin thưa Bốn mươi bát chẵn là vừa anh ơi Gạo rang mười bát nhân đôi Một năm ấp ủ là thời cất chung Đậu xanh hai bát rang hồng Vắt xong bỏ đỗ, nước trong vào nồi Bắc lên bếp lửa đun sôi Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014

95


ÀÊËT VIÏåT / NHÛÄNG NEÃO ÀÛÚÂNG

Sáu giờ vàng ngọc em thời nhấc ra Mắm này đem biếu thông gia Thơm ngon tinh khiết đậm đà tình quê…” Chị Huyền giải thích thêm: Khi nấu nước mắm, múc hết nước cốt trong ton rồi, còn xúc mắm tép vào túi vải, vắt kiệt lấy bằng hết nước cốt cho vào nồi cùng đậu xanh đã rang và giã nhỏ, đun vừa lửa. Tùy theo đơn đặt hàng, đun càng lâu mắm càng đặc, nhưng thông thường khoảng 6 tiếng đồng hồ là nước mắm đã chuyển sắc vàng, sánh như mật ong. Mấy vại mắm chưa đến kỳ cất chung, tôi không được xem nấu nước mắm tép, nghe tả cũng thấy hấp dẫn, chỉ còn “lăn tăn” cái chuyện dân làng ai cũng khăng khăng là thật - mắm tép Đình Trung từng là đặc sản tiến vua. Dường như ít lâu nay chỗ nào cũng thấy “món tiến vua” thì phải(?). Nhưng theo ông Hiệp ở thôn 3, chuyện này là có căn cứ. Theo sử sách, đất Hà Yên là nơi dừng chân của vua Lý Nam Đế, khi ông cùng Triệu Quang Phục đem quân vào Nghệ An đánh đuổi giặc Lương. Đến thời Lý Thái Tổ đi đánh Chiêm Thành cũng nghỉ quân tại đất này, rồi cho dựng chùa Long

Cảm trên núi Ốc gần đó. Cách Đình Trung chỉ khoảng 1 km là nơi vua Trần từng chọn làm đại bản doanh trong cuộc rút lui chiến lược thứ hai (1285) chống quân Nguyên, hiện vẫn còn đền thờ Trần Hưng Đạo. Các vua triều Lê đã nhiều lần qua Hà Yên mỗi khi về thăm quê hương đất tổ và bái yết sơn lăng. Trong cuộc tấn công thần tốc ra Bắc đánh giặc Thanh, hoàng đế Quang Trung đã qua đất Hà Yên lập “phòng tuyến Tam Điệp”. Trong phong trào Cần Vương chống Pháp, Hà Yên trở thành hậu phương của chiến khu Gia Định lịch sử (1885-1886). Các bậc cao niên trong làng truyền lại rằng nước mắm tép Đình Trung được các vua nhà Nguyễn đặc biệt ưa thích. Riêng bà Thiềm thì khẳng định đầy tự hào: “Mắm ngấu thơm lừng, ăn luôn cũng tốt mà chưng lên càng ngon, chẳng lẽ không tiến vua được sao?! Mà nói cho chú biết nhé, đánh tép thì đàn ông đàn bà đều là được, nhưng muốn có mắm ngon thì phải có bàn tay phụ nữ. Nhà tôi 5 chị em gái, cũng từ chum mắm mà lo được nhà cao cửa rộng, con cái học hành tử tế trưởng thành cả”. Bà lại đọc thơ: Nhà ta chẳng phải hiếm hoi Chỉ hiềm không có con trai nối dòng 5 con phận gái má hồng Thay trai gánh vác ngoài trong việc nhà Tuổi già yên chí mẹ cha Chúng con thu xếp việc nhà xong xuôi Thế gian chẳng thiếu chi người Vô nam dụng nữ vậy thời cũng nên… Bà chép miệng, tiếc rằng con cháu không ai chịu nối nghiệp mắm tép, đứa thì xây trang trại nuôi lợn, người lại lập công ty buôn ốc… Nhưng rồi bà lại cười vui: “Nhưng mắm tép Đình Trung thì không bao giờ hết chú ạ, bây giờ nhiều nhà khác họ làm cũng ngon lắm, hàng bán được quanh năm, xuất đi khắp các vùng miền. Trời rét thế này, cứ xào ít thịt dọi trong chảo, lúc chín tới mới cho mắm tép vào đảo… thì ăn cơm không biết no. Chú nếm thử nhé, rồi sẽ nhớ thơ của tôi: Dù ai xuôi ngược sơn khê Mắm ngon vẫn nhớ lối về Đình Trung”. n N.V.

Mắm trường được muối trong hũ sành

96 Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 170 / thaáng 2/2014




Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.