NÖÅ I DUNG
SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN
NÙM THÛÁ 16
06
SÖË 181-182 THAÁ N G 1+2/2015
10 SỰ KIỆN NGÀNH THỦY SẢN NĂM 2014
Tạp chí Thương mại Thủy sản đề cập đến các sự kiện chính như xuất khẩu thủy sản đạt gần 8 tỷ USD; Doanh nghiệp thủy sản cả nước chung sức bảo vệ Biển Đông; Các nghị định quan trọng của Chính phủ về phát triển và quản lý ngành thủy sản…
10
XỬ LÝ VẤN NẠN TÔM BƠM TẠP CHẤT
31
VIFOODS ĐƯỢC KHÍCH LỆ TRỞ LẠI THỊ TRƯỜNG HÀN QUỐC
38
KIẾN VƯƠNG ĐỒNG HÀNH CÙNG “MẮT THẦN” PHI LỢI NHUẬN
48
HÙNG VƯƠNG SA ĐÉC XÂY DỰNG NHÀ MÁY MỚI, CAM KẾT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Vấn nạn này đã diến ra liên tục gần hai mươi năm nay, các ngành chức năng đã triển khai nhiều hoạt động, tuy nhiên cần phải thực hiện các giải pháp mạnh mẽ và nghiêm khắc hơn.
Mặc dù XK bạch tuộc sang Hàn Quốc đã bị gián đoạn, nhưng với những ưu đãi từ Hiệp định FTA Việt Nam-Hàn Quốc sắp ký kết, Vifoods kỳ vọng sẽ gia tăng mạnh hơn XK trở lại Hàn Quốc.
Vốn rất nổi tiếng trong lĩnh vực cung cấp hóa chất, dược, nhuộn, dệt….Kiến Vương đang tích cực góp sức mình trong công tác xã hội vì cộng đồng.
Công ty đang tiến hành đầu tư xây dựng nhà máy mới, nâng cấp công suất chế biến và trang bị hệ thống xử lý nước thải hiện đại, đảm bảo nguồn nước xả đạt loại A, có thể xả trực tiếp ra môi trường.
90 96
NGÀNH TÔM THÁI LAN TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC NĂM 2014
Ảnh hưởng của hội chứng tôm chết sớm, EU ngừng áp dụng hệ thống ưu đãi thuế quan, giá tôm thấp và cáo buộc lạm dụng lao động trong ngành thủy sản, sản lượng tôm năm 2014 của Thái Lan có thể chỉ đạt 200 nghìn tấn.
Tel: (84) 08 62810443
XUẤT KHẨU THỦY SẢN NĂM 2014-THẮNG LỢI CHO TÔM VÀ TRUÂN CHUYÊN CHO CÁ TRA
Năm 2014, tôm tiếp tục giữ ngôi vị số một với tỷ trọng giá trị XK chiếm trên 50%, trong khi cá tra, cá ngừ chiếm tỷ trọng thấp hơn so với năm 2013. Xuất khẩu nhuyễn thể và cua ghẹ giữ tỷ trọng ổn định.
104
2015, DỰ ĐOÁN THỊ TRƯỜNG TÔM THẾ GIỚI TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG TÍCH CỰC
Thị trường tôm thế giới năm 2015 được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng tích cực nhờ khối lượng giao dịch trong năm 2014 tăng mạnh so với năm 2013 và nhập khẩu vào thị trường Mỹ và Đông Á tăng mạnh.
126
Chế bản và in: Công ty CP In Công Đoàn Việt Nam
DỰ LUẬT “TẠO SÂN CHƠI BÌNH ĐẲNG” VÀ ĐỘNG CƠ BẢO HỘ NGÀNH SẢN XUẤT NỘI ĐỊA CỦA MỸ
Tháng 12/2014, Mỹ đã đề xuất dự luật trên với việc quy định một số biện pháp nhằm tăng hiệu quả của Luật CBPG và CTC, tăng cường bảo vệ các nhà sản xuất nội địa. Nếu được thông qua, luật này sẽ ảnh hưởng nhiều đến các nhà XK thủy sản vào Mỹ.
148
NUÔI VÀ TIÊU THỤ CÁ RÔPHI PHẢI LÀ NGÀNH SẢN XUẤT KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN
Để phát triển bền vững ngành cá rôphi, cần có những cơ chế và chính sách đặc thù, đồng thời phải cần coi đây là ngành sản xuất kinh doanh có điều kiện, tránh những bất cập mà ngành cá tra đã vấp phải.
Tranh tết Ảnh: Thanh Hội Giá: 140.000 đồng THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Cảng cá Cát Lở, Vũng Tàu
Thành công đáng khích lệ trong năm 2014 và định hướng cho năm 2015
T
heo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, năm 2014, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn về thời tiết, dịch bệnh, các rào cản thị trường và những biến động trên Biển Đông, ngành thủy sản vẫn có những thành công đáng khích lệ. Tổng sản lượng thủy sản đạt 6,3 triệu tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, sản lượng khai thác thủy sản đạt 2,7 triệu tấn,tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2013, nuôi trồng thủy sản đạt 3,6 triệu tấn, tăng 4,8%. Giá trị xuất khẩu đạt 7,92 tỷ USD, tăng 18% so với năm ngoái, vượt 11,6% so với kế hoạch. Hai sản phẩm chủ lực là tôm và cá tra đóng góp đến trên 70% vào kim ngạch xuất khẩu của ngành, đặc
4
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
biệt là tôm thẻ chân trắng chiếm gần một nửa giá trị xuất khẩu của mặt hàng này. Nuôi trồng thủy sản tiếp tục tăng trưởng tốt, có sự chuyển dịch khá rõ nét trong điều chỉnh cơ cấu nuôi, từ tôm sú chuyển mạnh sang tôm chân trắng, phát huy được lợi thế kiểm soát dịch bệnh hiệu quả để gia tăng sản lượng tôm Việt Nam và nắm bắt các cơ hội trên các thị trường xuất khẩu. Cụ thể, năm 2014, sản lượng thu hoạch tôm đều tăng so với cùng kỳ, diện tích nuôi tôm nước lợ ước đạt 685 nghìn ha (tăng 4,4% so với năm 2013), đặc biệt sản lượng ước đạt 660 nghìn tấn (tăng hơn 20% so với năm 2013),tăng thêm 120 nghìn tấnso với năm 2013, chủ yếu do sản
lượng tôm chân trắng tăng (hơn 100 nghìn tấn, tương đương 42,9%). Với sản lượng nguyên liệu tăng, nhu cầu thị trường đối với sản phẩm tôm ở mức cao giúp xuất khẩu tôm tiếp tục tăng về giá trị kim ngạch xuất khẩu (ước đạt 3,8 tỷ USD, tương đương 127% so với năm 2013). Về cá tra, ước cả năm 2014 diện tích nuôi cá tra đạt 5.500ha với sản lượng đạt 1,1 triệu tấn (bằng 100% kế hoạch về diện tích và sản lượng). So với năm 2013, giá thu mua cá tra nguyên liệu đã dần theo hướng ổn định và có lợi hơn cho người nuôi, là tín hiệu tốt để người nuôi cá tra tiếp tục sản xuất. Tuy nhiên, hiện nay, cơ sở hạ tầng cho NTTS còn hạn chế,
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Hội nghị Tổng kết nhiệm vụ năm 2014 và triển khai kế hoạch năm 2015
chưa theo kịp thực tế phát triển sản xuất. Dịch bệnh trên tôm, cá tra, ngao, tu hài mặc dù đã được kiểm soát tốt hơn nhưng vẫn xảy ra dịch bệnh cục bộ và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, để hạn chế những bất cập này, cần hướng dẫn người nuôi tuân thủ khung mùa vụ nuôi, quy trình nuôi có hiệu quả trong năm 2015; giám sát việc thực hiện thả giống theo thời gian hướng dẫn và quy hoạch. Cần chú trọng phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là dịch bệnh trên tôm nuôi nước lợ, ngao. Bên cạnh đó, công tác giảm tổn thất sau thu hoạch trong khai thác hải sản chuyển biến chưa nhiều, chất lượng sản phẩm thủy sản cả khai thác và nuôi trồng chưa ổn định, tồn dư kháng sinh còn cao nhất là trong tôm nuôi nước lợ …. Năm 2015, ngành thủy sản đặt mục tiêu tổng sản lượng thủy sản đạt 6,65 triệu tấn, tăng 5,5% so với năm 2014; trong đó khai thác thủy sản 2,7 triệu tấn (tăng 0,7%), nuôi trồng 3,95 triệu tấn (tăng 9,7%), với giá trị xuất khẩu đạt 8,5 tỷ USD. Để đạt được mục tiêu này,
Tổng cục Thủy sản sẽ tập trung kiểm soát tốt dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản (NTTS); kiểm soát tốt chất lượng vật tư thủy sản; trong đó kiểm tra sát sao các yếu tố đầu vào, nhất là chất lượng thức ăn, kháng sinh, sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường nuôi trồng và con giống. “Đối với những doanh nghiệp có lô hàng bị cảnh báo, Bộ sẽ tăng cường kiểm soát, phân loại, tăng tần suất kiểm tra. Đặc biệt, với những đơn vị tái vi phạm, sẽ có biện pháp xử lý kịp thời, kiên quyết. Hơn nữa, Bộ còn tăng cường kiểm tra hệ thống kiểm soát chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu, hạn chế tình trạng hàng đã xuất bị nước nhập khẩu cảnh báo. Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương, Hội Nông dân, Mặt trật Tổ quốc Việt Nam sẽ phối hợp để kiểm soát tình trạng sử dụng vật tư đầu vào, các loại hóa chất kháng sinh trong sản xuất nông nghiệp nói chung, NTTS nói riêng để tạo ra những sản phẩm chất lượng”- Thứ trưởng Vũ Văn Tám nhấn mạnh. Ông Phạm Anh Tuấn - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản khẳng định, ngành thủy sản sẽ tập trung triển khai các nhiệm
vụ theo định hướng, mục tiêu, nội dung của Chiến lược Phát triển ngành thủy sản đến năm 2020; Quy hoạch tổng thể thủy sản đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Đề án tái cơ cấu ngành thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Theo đó, tôm nước lợ, cá tra tiếp tục là đối tượng nuôi chủ lực, ngoài ra còn phát triển cá rô phi cả ở vùng nước ngọt và vùng nước lợ mặn. Tổng cục Thủy sản cho biết, đang khẩn trương xây dựng Đề án phát triển nuôi cá rô phi đến năm 2020 với các mục tiêu chính là: Khai thác và phát huy tối đa lợi thế đặc thù và khả năng cạnh tranh của cá rô phi Việt Nam; hình thành ngành sản xuất lớn theo hướng công nghiệp (đồng bộ từ khâu sản xuất đến xuất khẩu), gắn nuôi cá rô phi với ngành chế biến, bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; phấn đấu thành một ngành hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân; đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái. Năm 2015, Việt Nam sẽ gia nhập các hiệp định thương mại tự do FTA, đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho ngành nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng. Theo Tổng cục Thủy sản, ngành sẽ tập trung triển khai Đề án tái cơ cấu ngành thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, thực hiện chủ đề “Năm vệ sinh an toàn thực phẩm nông nghiệp”. Nam Khang THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
5
SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN
10 sự kiện ngành thủy sản năm 2014 01
Xuất khẩu thủy sản vượt xa mức dự kiến, đạt gần 8 tỷ USD
tăng sản lượng tôm chân trắng. Mặt hàng tôm là động lực thúc đẩy tăng trưởng mạnh cho XK thủy sản trong năm nay và triển vọng cho năm tới. Xuất khẩu cá tra vẫn chưa có sự tiến triển tích cực, trong khi các mặt hàng cá biển, nhuyễn thể ….đã có bước tăng trưởng đáng kể, trừ mặt hàng cá ngừ vẫn giảm kim ngạch XK khá mạnh so với năm ngoái.
Doanh nghiệp thủy sản cả nước chung sức bảo vệ Biển Đông
chóng hưởng ứng cuộc vận động. Kết thúc gần 1 tháng phát động hướng về biển đảo, đã có 49 DN, tổ chức, cá nhân ủng hộ 3,367 tỷ đồng. Hiệp hội đã dành 2 tỷ đồng trao tặng trực tiếp cho lực lượng Kiểm ngư và Cảnh sát biển và trên 1,367 tỷ đồng được chuyển tới bà con ngư dân hoạt động trên vùng biển đảo Hoàng Sa.
Tổng giá trị XK thủy sản chính ngạch của cả nước ước đạt 7,92 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là một thành tích đáng ghi nhận của ngành trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới chưa thoát khỏi cuộc suy thoái kinh tế kéo dài. Cơ cấu sản phẩm XK chủ lực của ngành gồm các mặt hàng chính như tôm (chiếm 50%) cá tra (22%) cá ngừ (6%) cá biển (12%) nhuyễn thể (7%) … Mặt hàng tôm lập kỷ lục mới về giá trị XK, với trên 4 tỷ USD, tôm có đóng góp lớn nhất trong tổng giá trị XK thủy sản của Việt Nam nhờ nỗ lực khắc phục dịch bệnh EMS, nắm bắt được cơ hội thị trường và gia
02
Ngày 1/5, Trung Quốc di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam, huy động 140 tàu, trong đó có tàu quân sự cùng máy bay hộ tống giàn khoan, dùng vòi rồng phun nước và tàu to đâm thẳng vào các tàu Việt Nam đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền hợp pháp, cố tình phá hoại tàu thuyền và đe dọa tính mạng của ngư dân đánh bắt trên biển. Ban Chấp hành Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam đã kêu gọi tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân chung tay góp sức ủng hộ chương trình “Chung sức bảo vệ biển Đông của Việt Nam”. Thể hiện tinh thần yêu nước và trách nhiệm công dân, nhiều doanh nghiệp và cá nhân ngành thủy sản đã nhanh
6
Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 181-182 / thaáng 1+2/2015
Thûúng maåi Thuãy saãn - Xuên ÊËt Muâi
03
Nghị định 36/2014/NĐ-CP về nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá tra
Chính phủ đã phải quyết định hoãn thi hành hai nội dung này vào giờ chót. Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét và sửa đổi Nghị định trong năm nay.
Thuế chống bán phá giá đối với tôm Việt Nam bị áp mức ở cao nhất trong POR8
kết luận các doanh nghiệp tôm của Việt Nam không bán phá giá, không gây thiệt hại gì cho Mỹ và áp thuế bằng 0% cho tất cả 32 doanh nghiệp của Việt Nam. Năm 2014, với POR 8, DOC lại kết luận các doanh nghiệp Việt Nam đều bán phá giá với mức thuế rất cao, cao nhất trong 8 chu kỳ tính thuế của DOC. Mức thuế cao sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp Việt Nam, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh mặt hàng tôm của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển khai thác thủy sản
nhiều khó khăn. 21 mẫu tàu cá do Bộ NN&PTNT đưa ra chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, có nhiều vướng mắc trong việc thẩm định năng lực của ngư dân. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn đưa ra yêu cầu phải có tài sản thế chấp khác để ngư dân vay vốn lưu động phục vụ từng chuyến đánh bắt xa bờ hay nâng cấp ngư lưới cụ, thiết bị đi biển.
Ngày 29/4/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 36/2014/NĐ-CP về nuôi, chế biến và XK sản phẩm cá tra. Nghị định quy định cụ thể việc nuôi, chế biến cá tra: Quy hoạch nuôi, chế biến cá tra; điều kiện cơ sở nuôi cá tra thương phẩm; điều kiện cơ sở chế biến cá tra; điều kiện về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm cá tra chế biến. Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/6/2014. Tuy nhiên, một số điểm quy định trong Nghị định chưa phù hợp với thực tế sản xuất, chế biến của hầu hết các doanh nghiệp cá tra, nhất là phần quy định về hàm ẩm và tỷ lệ mạ băng của philê cá. Các doanh nghiệp đã kiến nghị nhiều lần và
04
Ngày 19/9/2014, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã công bố kết quả cuối thuế chống bán phá giá tôm Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ cho đợt xem xét hành chính từ 01/02/2012 đến 31/01/2013 (POR8). Theo đó, các công ty xuất khẩu tôm Việt Nam bị áp các mức thuế chống bán phá giá (CBPG) cao nhất từ trước đến nay. Điều đáng chú ý nhất là với POR 7 trước đó trong năm 2013, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã
05
Ngày 07/7/2014, Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ đã được ban hành, trong đó quy định các chính sách cơ bản nhất cho phát triển khai thác thủy sản, khuyến khích ngư dân đóng tàu công suất lớn, vỏ thép để dần chuyển từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ, đồng thời góp phần vào bảo vệ các vùng biển của nước ta. Nghị định qui định các chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng cho khai thác hải sản; chính sách tín dụng; chính sách vay vốn lưu động; chính sách bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thuyền viên. Đặc biệt Nghị định đã khuyến khích ngư dân đóng tàu công suất lớn vỏ thép/vật liệu mới, với thời gian vay 11 năm, lãi suất ưu đãi chỉ từ 1-3%/ năm. Nghị định 67 chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 25/8/2014. Tuy nhiên việc thực hiện Nghị định còn gặp
Thûúng maåi Thuãy saãn / söë 181-182 / thaáng 1+2/2015
7
06
Cá tra chịu mức thuế thấp hơn trong Kết quả sơ bộ POR10
công ty xuất khẩu cá tra Việt Nam có thể sẽ chịu mức thuế là 0,58 đô la Mỹ/kg. So với kết quả chính thức của POR9, kết quả sơ bộ của POR10 có mức thuế thấp hơn nhiều. Cụ thể, mức thuế bình quân mà 24 doanh nghiệp phải chịu là 0,58 đô la Mỹ/kg, thấp hơn mức 1,2 đô la Mỹ/kg hiện nay nhưng cao hơn mức 0,42 đô la Mỹ của lần công bố POR8.
Cam go cuộc chiến chống tôm tạp chất
không sản xuất, kinh doanh tôm, các sản phẩm tôm có chứa tạp chất. Các cơ sở, doanh nghiệp cam kết thực hiện sẽ được thông tin công khai
Ngày 9/7/2014, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) mới đưa ra đánh kết quả sơ bộ đợt rà soát hành chính lần thứ 10 (POR10) đối với thuế chống bán phá giá (CBPG) cá tra phi lê nhập khẩu từ Việt Nam giai đoạn từ 01/8/2012 đến 31/7/2013. Theo đánh giá trong kết quả sơ bộ POR10, các
07
08
8
Ngày 01/8/2014, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 20/CT-TTg về việc ngăn chặn hành vi đưa tạp chất vào tôm nguyên liệu và sản xuất kinh doanh tôm có chứa tạp chất. Chỉ thị nêu rõ các hành vi tổ chức, tham gia đưa tạp chất vào tôm nguyên liệu và sản xuất kinh doanh tôm có chứa tạp chất sẽ được các cấp có thẩm quyền xem xét, bổ sung thành tội danh mới trong Bộ Luật Hình sự. Cũng theo chỉ thị, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp, cơ sở nuôi, khai thác, thu gom, sơ chế, bảo quản, vận chuyển, chế biến, kinh doanh thủy sản cam kết không đưa tạp chất vào tôm nguyên liệu,
Thị trường Nga mở cửa cho 10 DN
Trung tuần tháng 8/2014, Nga và Liên minh Hải quan Nga – Belarus - Kazakhstan đã dỡ bỏ lệnh tạm đình chỉ nhập khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Liên bang Nga và Liên minh Hải quan đối với 7 doanh nghiệp, trong đó có 5 doanh nghiệp chế biến sản phẩm cá tra đông lạnh và 2 DN chế biến tôm đông lạnh. Sang đầu tháng 9/2014, Nga tiếp tục dỡ bỏ lệnh tạm đình chỉ NK đối với 3 DN thủy sản Việt Nam, trong đó có 1 DN cá tra nâng tổng số DN được phép XK vào thị trường này lên 10 DN. Thủy sản là ngành hàng đang có nhiều DN muốn XK sang Nga nhất vì đây là thị trường hấp dẫn với ưu đãi thuế và sức tiêu thụ mạnh. Việc nới rộng một phần cho DN thủy sản Việt Nam là tín hiệu rất quan trọng, tích cực cho thủy sản Việt Nam, đặc biệt là ngành cá tra và
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
trên phương tiện thông tin đại chúng.
cũng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho ngành surimi, vốn được ưa chuộng ở khu vực này. Bên cạnh đó, các DN thủy sản rất kỳ vọng sẽ nhanh chóng khôi phục lại thị trường Nga, sau một thời gian dài sa sút giá trị XK.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
09
Thí điểm mô hình đánh bắt cá ngừ đại dương theo công nghệ Nhật Bản
xung và máy thu câu tự động). Tỉnh Bình Định cũng hỗ trợ chủ tàu cải tạo hầm đông, áp dụng công nghệ bảo quản CAS (Cell Alive System) đã được Nhật chuyển giao cho Việt Nam. Đợt đấu giá đầu tiên tại sàn giao dịch cá ngừ Osaka (Nhật Bản) chưa mang lại kết quả như mong muốn. Nhưng đây là một định hướng đúng của tỉnh Bình Định nhằm khắc phục nghề đánh bắt cá ngừ truyền thống lạc hậu và kém hiệu quả.
Goal được tổ chức lần thứ hai tại Việt Nam
GOAL 2014 cũng đã tổ chức 2 sự kiện nhằm tôn vinh những thành tựu của thủy sản Việt Nam: Trao giải thưởng “Thành tựu Trọn đời” cho PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, một trong những nhà lãnh đạo có trình độ, tầm nhìn và đầy tâm huyết trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành thủy sản Việt Nam; hội thảo “Tôn vinh lãnh đạo thủy sản Việt Nam” - một “sự kiện đặc biệt” nhằm xây dựng nhận thức về sự cần thiết của việc tăng cường các hoạt động có trách nhiệm giúp các trại nuôi thủy sản có quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam dễ dàng thâm nhập thị trường.
Bình Định là một trong ba tỉnh có năng lực và sản lượng khai thác cá ngừ đại dương cao nhưng nghề cá ngừ đại dương vẫn chỉ mang lại những sản phẩm đạt chất lượng và giá trị thấp, chưa có đầu ra cho sản phẩm cá ngừ tươi nguyên con, kim ngạch xuất khẩu thấp, nguyên nhân chủ yếu là do: (1) Phương pháp khai thác, xử lý, bảo quản, vận chuyển trên biển chưa phù hợp, (2) Chưa có sự liên kết giữa các bên liên quan trong quá trình khai thác, thu mua, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá ngừ đại dương. Để nâng cao hiệu quả đánh bắt, nghề cá ngừ đại dương, Bình Định đã tiến hành xây dựng mô hình gồm: Các tàu khai thác, nhà thu mua, xuất khẩu và đại lý độc quyền cho nhà XK tại Nhật Bản. Tàu khai thác của Việt Nam được hỗ trợ tập huấn phương pháp, kỹ thuật khai thác, xử lý, bảo quản cá ngừ đại dương và áp dụng các thiết bị câu công nghệ Nhật Bản (gồm máy tạo
10
Hội nghị Nuôi trồng thủy sản toàn cầu dành cho giới lãnh đạo năm 2014 (GOAL 2014) được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh từ 7-10/10/2014. Hơn 400 đại biểu là các học giả, chuyên gia, nhà quản lý quốc tế… tập trung bàn về tình hình sản xuất, nuôi thủy sản và phân tích các chuỗi giá trị của ngành, nhất là tập trung phân tích và đánh giá các dữ liệu về sản xuất và đưa ra các dự báo về ngành thủy sản toàn cầu. Vấn đề dịch bệnh đang và sẽ là thử thách hàng đầu cho sự phát triển của ngành NTTS toàn cầu. Thực tế, năm 2013 sản lượng thủy sản nuôi toàn cầu đã giảm 4% do dịch bệnh tôm kéo dài, trong đó sản lượng tôm ước giảm 19% so với năm 2012 do dịch bệnh EMS, và sẽ tiếp tục giảm 8% trong năm 2014. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng dự đoán năm 2015 và 2016 sản lượng tôm sẽ hồi phục, và năm 2016 mức sản lượng sẽ quay về mốc của năm 2012, hay sản lượng tôm nuôi toàn cầu được dự kiến sẽ tăng từ 4 triệu tấn lên 8 triệu tấn trong thập kỷ tới. Sản lượng cá toàn cầu năm 2015 cũng sẽ có những sự hồi phục nhẹ và từng bước lấy lại đà tăng trưởng sau hai năm chững lại.
Thái Phương THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
9
SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN
Thực trạng nhức nhối
Một vụ bơm tạp chất vào tôm sú bị cơ quan liên ngành Cà Mau phát hiện
Xử lý vấn nạn tôm bơm tạp chất
Nhiều giải pháp, ít hiệu quả VẤN NẠN BƠM TẠP CHẤT VÀO TÔM NGUYÊN LIỆU ĐÃ DIỄN RA LIÊN TỤC GẦN 20 NĂM NAY. CÁC NGÀNH CHỨC NĂNG CŨNG TRIỂN KHAI NHIỀU HOẠT ĐỘNG TRUY QUÉT, TUY NHIÊN, ĐÃ ĐẾN LÚC CẦN NHỮNG GIẢI PHÁP MẠNH MẼ VÀ NGHIÊM KHẮC HƠN MỚI MONG GIẢI QUYẾT TRIỆT ĐỂ.
10
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Hoạt động sản xuất, chế biến, XK mặt hàng tôm đang đối mặt với nạn bơm chích tạp chất từ nhiều năm nay. Đây thực chất là hành vi đưa những dị vật và chất như: đinh ghim, dây thép, agar.. vào tôm, nhằm làm tăng trọng lượng từ 10-20%, tăng kích cỡ, thay đổi kết cấu thành phần sản phẩm, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Tồn tại gần 20 năm nay, hành vi này đã trở thành một vấn nạn hết sức nhức nhối đối với cộng đồng DN chế biến tôm nói riêng và DN thủy sản Việt Nam nói chung, ảnh hưởng đến uy tín và chất lượng của hàng XK Việt Nam. Theo Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Thế, Cục Trưởng Cục An ninh Nông nghiệp (A86), từ chỗ chỉ có một số đại lý, nậu, vựa nhỏ lẻ, đến nay việc bơm chích đã được coi như một nghề kiếm tiền của một bộ phận người dân. Không chỉ bơm chích tôm sú, họ còn bắt đầu bơm sang cả tôm tchân trắng, với thủ đoạn tinh vi như pha loãng tạp chất, gây khó khăn cho công tác phát hiện, dùng ống tiêm và bình xịt hơi nén sâu vào con tôm, tiến hành hoạt động vào ban đêm… “Thực tế, trong quá trình triển khai các biện pháp ngăn chặn, xử lý hiện tượng này đã có nhiều trường hợp đe dọa cán bộ làm công tác kiểm tra. Đối tượng manh động còn dùng gậy, dao.. để chống đối. Vào thời điểm tăng cường kiểm tra, các đối tượng còn thuê người đóng giả xe ôm canh gác ở trụ sở cơ quan chức năng tại địa phương”, Thiếu tướng
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Thế, Cục Trưởng Cục An ninh Nông nghiệp (A86)
Nguyễn Ngọc Thế chia sẻ. Theo ông Lê Văn Quang, Tổng giám đốc Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, trước đây nạn bơm tạp chất chỉ diễn ra nhiều ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, nhưng giờ đây đã có ở hầu hết các tỉnh ĐBSCL, tới Tp Hồ Chí Minh, Bình Thuận và một số tỉnh phía Bắc. Thậm chí có những nhà máy chế biến cá ở trong khu công nghiệp nay chuyển sang chế biến tôm, họ đầu tư hẳn dây chuyền hiện đại để bơm tạp chất. “Siêu lợi nhuận trong sự vụ này như buôn ma túy vậy. Tôm bơm tạp chất sẽ tăng trọng lượng 15-20%, mỗi kg tôm bơm tạp chất họ lãi 80.000-85.000 đồng. Hầu hết tôm bơm tạp chất đều được xuất sang Trung Quốc. Việc này không những làm ảnh hưởng đến những DN làm ăn chân chính mà còn làm xấu hình ảnh tôm Việt Nam” - ông Quang cho hay. Tại Hội nghị góp ý cho Đề án “Kiểm soát ngăn chặn hành vi đưa tạp chất vào tôm nguyên liệu và sản xuất, kinh doanh sản phẩm tôm có tạp chất”, do Bộ NN&PTNT tổ chức tại Tp Hồ
Ông Lê Văn Quang, TGĐ Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú
Chí Minh ngày 19/12/2014, báo cáo của Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản (NAFIQAD), hằng năm tại các tỉnh trọng điểm, các cơ quan chức năng đã phát hiện, thu giữ và xử lý trung bình khoảng 20 trường hợp liên quan đến hoạt động vận chuyển các lô tôm nguyên liệu có chứa tạp chất. Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, năm 2012 đã phát hiện và xử lý 80 vụ, năm 2013 là 50 vụ và 6 tháng đầu năm 2014 là 20 vụ. Trong năm 2013 và đầu năm 2014, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã cảnh báo về việc phát hiện 6 lô hàng tôm có tạp chất agar từ Việt Nam. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), truyền thông châu Âu cũng đã đưa tin về việc các nhà NK thủy sản cảnh báo về tình trạng này ở Việt Nam và cảnh báo người tiêu dùng EU. Ngoài ra, thời gian gần đây tình trạng thương lái Trung Quốc tăng cường thu mua tôm Việt Nam, trong đó có cả các sản phẩm tôm có chứa tạp chất, cũng góp phần dẫn tới tình trạng khan hiếm nguyên liệu khiến vấn nạn
bơm chích tạp chất càng diễn biến phức tạp.
Chưa có giải pháp triệt để
Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Thế nhận định, hiện nay cơ chế xử lý hành vi này chưa thực sự có tính răn đe đủ mạnh, chưa có cơ sở để xử lý hình sự mà chủ yếu là xử lý hành chính với mức phạt tối đa là 100 triệu đồng. Chính vì vậy, các đối tượng vẫn ngang nhiên vi phạm. Hơn nữa, theo Nghị định 178/2013/NĐCP quy định xử phạt về ATTP, không có quy định tịch thu lô nguyên liệu thủy sản có chứa tạp chất và cũng không nói rõ cách thức loại bỏ tạp chất như thế nào, nên gây khó khăn rất lớn cho cơ quan chức năng. Mặt khác, các kết quả kiểm tra cũng cho thấy, số vụ việc bị phát hiện rất hạn chế so với thực tế vụ việc vi phạm. Đối tượng vi phạm bị phát hiện, xử lý chủ yếu là các phương tiện lưu thông, vận chuyển tôm nguyên liệu và một số ít cơ sở thu mua, sơ chế nguyên liệu, chưa phát hiện và xử lý tận gốc vấn đề chính là các tụ điểm bơm chích tạp chất tại THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
11
SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN
Bơm tạp chất vào tôm là hành vi gian lận thương mại
địa phương. Từ năm 2010 đến nay, chưa phát hiện, xử lý được một tụ điểm bơm chích nào tại các địa phương. Bơm tạp chất thậm chí còn diễn ra ở những DN lớn, có thế lực. Khi bị phát hiện họ được bao che, cản trở nên khó xử lý. Có nhiều DN công khai công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng “nói không với tôm tạp chất”, thì sau đó lại bị các cơ quan chức năng phát hiện, bắt giữ nhiều lô hàng có tạp chất. Một điểm khó nữa trong công tác phòng chống hành vi này chính là cơ chế trao đổi thông tin, phối hợp kiểm tra, ngăn chặn xử lý… chưa đồng bộ từ Trung ương xuống địa phương, giữa các tỉnh có liên quan, giữa các cơ quan quản lý chức năng.. Do đó, khi ngăn chặn ở tỉnh này, các đối tượng lại di chuyển sang tỉnh khác làm tình hình thêm rối 12
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
ren, phức tạp. Có trường hợp, khi bắt quả tang đối tượng tổ chức bơm chích đã gặp phải sự phản kháng của những người này, sau đó không cơ quan nào đứng ra nhận trách nhiệm xử lý. Cục Quản lý thị trường thì cho rằng đây là trách nhiệm của Thanh tra Bộ NN&PTNT và ngược lại. Thậm chí, người dân cũng không vào cuộc cùng chính quyền, kinh phí cho hoạt động ngăn chặn bơm chích tạp chất cũng rất hạn chế, lực lượng tiến hành mỏng, kiêm nhiệm nhiều việc nên thực hiện không được liên tục, chặt chẽ. Chỉ thị 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã có hiệu lực từ ngày 1/8/2014 mới đây thể hiện quyết tâm từ Chính phủ trong việc giải quyết vấn nạn này. Chỉ thị nêu rõ chỉ đạo của Thủ tướng đối với các tỉnh, thành phố ven biển thực hiện biện pháp
tước quyền sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP hoặc đình chỉ hoạt động đối với cơ sở tái phạm, thông báo công khai các tổ chức, DN, cá nhân vi phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Đặc biệt, Thủ tướng đã giao Bộ Công an chủ trì phối hợp với Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao và các bộ liên quan nghiên cứu hành vi tổ chức, tham gia đưa tạp chất vào tôm nguyên liệu và kinh doanh tôm có chứa tạp chất để các cấp có thẩm quyền xem xét, bổ sung tội danh mới trong Điều 162 Bộ luật Hình sự. Đồng thời, theo chỉ thị 20, Bộ NN&PT NT cũng đã triển khai đề án “Kiểm soát ngăn chặn hành vi đưa tạp chất vào tôm nguyên liệu và sản xuất, kinh doanh sản phẩm tôm có tạp chất”, trong đó có sự tham gia phối hợp rất chặt chẽ của Bộ Công an, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, UBND các tỉnh trọng điểm và Hiệp hội VASEP. Đề án triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp nhằm tạo một cơ chế thống nhất trong việc kiểm soát, xử lý triệt để và có hiệu quả đối với tệ nạn này với 2 giai đoạn. Giai đoạn 20152016 là ngăn chặn, tiến tới cơ bản chấm dứt tình trạng đưa tạp chất vào tôm tại 4 tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang. Từ 2016, sẽ đồng loạt triển khai trên cả nước ở tất cả các địa phương có hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm tôm. Trần Duy
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Tiềm năng xuất khẩu thủy sản
được đánh giá cao THEO BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG XK QUỐC GIA, VỀ LĨNH VỰC THỦY SẢN, CÁ TRA, TÔM, CÁ NGỪ LÀ NHỮNG MẶT HÀNG ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ LÀ NGÀNH HÀNG XK QUAN TRỌNG, CÓ TIỀM NĂNG CAO,DÙ VẪN CÒN GẶP KHÔNG ÍT THÁCH THỨC.
mặt hàng XK cũng như đánh giá được tiềm năng và các yếu tố hạn chế trong việc XK các mặt hàng, từ đó giúp các DN cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có những biện pháp và chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy XK và khai thác tối ưu tiềm năng XK của các nhóm ngành hàng.
Tiềm năng xuất khẩu cao Đông đảo các doanh nghiệp tham gia Hội thảo Đánh giá tiềm năng xuất khẩu quốc gia
Đ
ánh giá tiềm năng XK thuộc giai đoạn khởi động của Chương trình “Nâng cao năng lực cạnh tranh XK cho các DN nhỏ và vừa Việt Nam (DNNVV) thông qua hệ thống xúc tiến thương mại địa phương”. Đây là dự án hỗ trợ kỹ thuật sử dụng nguồn ODA không hoàn lại do Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ và được thực hiện trong 04 năm (2013 – 2017). Đánh giá tiềm năng XK nhằm xác định những sản phẩm, ngành hàng có tiềm năng XK của quốc gia và khu vực. Dựa trên căn cứ này, Chương trình sẽ tập trung nguồn lực để hỗ trợ xúc tiến XK trong giai đoạn chính (2015-2017). Đánh giá tiềm năng XK dành cho 05 ngành hàng là nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, thủ công mỹ nghệ và thủy sản được Ban Quản lý tiến hành thực hiện ở cấp quốc gia và ở cấp vùng (Bắc, Trung và Nam). Theo báo cáo Đánh giá tiềm năng XK Quốc gia, có trên 70 mặt hàng XK hiện tại và có tiềm năng XK của Việt Nam được phân loại thành 3 nhóm: Tiềm năng cao, tiềm năng trung bình và tiềm năng thấp. Từng nhóm được phân loại dựa trên mức giá trị XK hàng năm gồm các mặt hàng XK quan trọng có giá trị trên 1 tỷ USD, các mặt hàng XK trung bình và mặt hàng XK ít. Bà Nguyễn Thị Thu Hằng, Tư vấn trưởng dự án cho biết, cách phân loại này sẽ góp phần hệ thống hóa được cơ cấu các
Theo Báo cáo rà soát tiềm năng XK của Việt Nam, dựa vào chỉ số XK Việt Nam và chỉ số NK thế giới thì mặt hàng cá, động vật giáp xác, động vật thân mềm (13, 23) được đánh giá là một trong 30 sản phẩm đứng đầu xét cả về 2 tiêu chí: XK Việt Nam cao và NK thế giới cao. Để xác định được tiềm năng XK của từng mặt hàng, 3 chỉ số chính được nhóm chuyên gia đưa ra để đánh giá là: Chỉ số về thành tích XK dựa theo giá trị XK và thị phần XK trên thế giới cũng như mức tăng trưởng, cán cân thương mại; Chỉ số thị trường thế giới dựa theo giá trị NK của thế giới, tăng trưởng NK thế giới, tiếp cận thị trường thế giới; Chỉ số điều kiện cung nội địa dựa theo chất lượng sản phẩm & hiệu quả sản xuất, công nghiệp hỗ trợ & các mối liên kết. Cá phi lê đông lạnh và tôm THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
13
SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN
Sản phẩm XK của Việt Nam thay đổi rất lớn trong 11 năm trở lại đây
Sản phẩm XK của Việt Nam thay đổi rất lớn trong 11 năm trở lại đây
Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam, Tổng cục thống kê Việt Nam, Ngân hàng thế giới
Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam, Tổng cục thống kê Việt Nam, Ngân hàng thế giới
Kết quả đánh giá tiềm năng ngành thuỷ sản
Nhóm thuỷ sản Tôm Ca Nhóm thuỷ sản Nhuyễn thể Cá tra Tômlạnh được đánh giá là đông Cangư ngành hàng XK quan trọng, có Nhuyễn tiềm năngthểcao. Tôm chế biến, mực và bạch tuộc, các loại cá đông lạnh là những mặt hàng XK trung bình, có tiềm năng trung bình. Cá ngừ vằn, sọc dưa cũng được xếp vào mặt hàng XK trung bình, tuy nhiên có tiềm năng cao. Nhuyễn thể là mặt hàng XK trung bình, có tiềm năng thấp. Bột cá, cá viên; cá răng cưa, cá hồi, cá ngừ vàng, cá thu…; dầu cá là những mặt hàng XK ít (dưới 100 triệu USD), có tiềm năng trung bình. Còn lại, cá 14
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Chỉ số Chỉ số Chỉ số Giá trị 3* Thị 2* Tình 1* xuất trường hình Thành khẩu thế cung nội tích xuất 2012 Kết quả đánh giá tiềm năng ngành thuỷ sản giới địa khẩu (triệu Chỉ số Chỉ số Chỉ số Giá trị USD) 3* Thị 2* Tình 1* xuất trường hình Thành khẩu 1.488 tích 3,9xuất cung 3,39nội thế 3,25 giới 2012 địa khẩu (triệu 1.891 3,85 2,83 3,5 USD) 265 3,43 2,77 2,6 356 1.488
2,9 3,9
2,76 3,39
1.891cũng3,85 2,83 phi lê khác là mặt hàng XK 265 được 3,43xếp vào2,77 ít, tuy nhiên, mặt 2,9XK cao. 2,76 hàng có 356 tiềm năng
Nhưng cũng không ít thách thức
Những tồn tại làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả XK cũng được báo cáo đưa ra là do giá trị gia tăng (GTGT) thấp, chất lượng sản phẩm XK chưa cao, phụ thuộc vào nguyên liệu NK , cơ sở hạ tầng chế biến và vận tải kém, quy hoạch kém… Theo bà Nguyễn Thị Thu Hằng, thiếu thông tin thị trường
2,7 3,25
Chỉ số Trung bình *
Đánh giá của chuyên gia tư vấn quốc gia
Chỉ số Trung bình * 3,51 3,39
Đánh giá của chuyên gia tư vấn Caogia quốc Cao
2,93
Cao
2,79 3,51
Trung bình Cao
3,5 đề nổi cộm, Cao đến 3,39 ảnh hưởng là vấn 2,6tiếp thị sản Caonăng 2,93phẩm. Khả việc hỗ 2,7 trợ thông2,79 tin từ các cơ quan Trung bình XTTM, các hiệp hội ngành hàng chưa đáp ứng nhu cầu của DN. Các DN không được trang bị tốt các kỹ năng để nghiên cứu, tìm kiếm thị trường. Kiến thức về thị trường nước ngoài và năng lực tham gia thương mại quốc tế các DN nhỏ và vừa tương đối kém. Việt Nam vẫn đang dựa vào là lợi thế về chi phí nhân công nên khó có thể bền vững trong hoạt động XK. Phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu cũng khiến DN phải
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
chịu nhiều rủi ro mỗi khi có biến động giá và thời gian giao hàng. Năng lực cạnh tranh thấp hạn chế sự nâng cấp hoạt động trong chuỗi giá trị của các DN. Riêng đối với ngành cá tra, bà Hằng khẳng định, sự liên kết giữa các DN cá tra kém dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hưởng uy tín của ngành. Liên kết với ngành công nghiệp phụ trợ trong nước cũng vẫn còn kém (chỉ có khoảng 30% các DN được hỏi cho biết là họ đang sử dụng máy móc được sản xuất trong nước). Nhiều công ty chế biến đã thành lập từ lâu nhưng về cơ sở hạ tầng thì không cải thiện nhiều nên chất lượng không tốt. Đối với tôm, vấn đề nổi cộm cần quan tâm đó là dịch bệnh gây ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu và chất lượng thành phẩm sau đó. Về mặt tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, Việt Nam kém hơn so với các đối thủ XK tôm chính là Thái Lan và Êcuađo. Cá ngừ cũng được đánh giá là sản phẩm có tiềm năng XK cao, tuy nhiên, các DN chế biến vẫn còn phải NK đến 40% nguyên liệu. Đội tàu đánh bắt cá ngừ nhỏ và công nghệ bảo quản sau đánh bắt lạc hậu làm giảm giá trị của cá ngừ. Phương pháp câu tay kết hợp ánh sáng thực hiện chưa tốt, dễ làm suy kiệt nguồn lợi và làm giảm chất lượng cá.
Giải pháp xuyên suốt
Các chuyên gia thực hiện báo cáo khuyến nghị cần nghiên cứu phát triển nguồn nguyên
liệu, nhất là nguồn nguyên liệu NK, và hợp tác đánh bắt, nuôi trồng với các nước khác. Hỗ trợ các DN tự xây dựng vùng nguyên liệu cho riêng mình. Mô hình sản xuất gắn kết nguyên liệu với nhà máy chế biến được đánh giá có nhiều ưu điểm và mang lại hiệu quả kinh tế cao, sản lượng và chất lượng nguyên liệu ổn định, DN chủ động điều tiết đầu ra và đầu vào, dễ đáp ứng các tiêu chuẩn về truy xuất nguồn gốc. Cần thúc đẩy quy hoạch chi tiết cho từng vùng nuôi, đối tượng nuôi và đưa ra các quy định về điều kiện nuôi. Thực hiện việc giao diện tích đất và mặt nước cho người nuôi với thời gian hợp lý để đảm bảo đầu tư có hiệu quả và phát triển ổn định. Nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp bảo vệ nguồn lợi biển phù hợp với nền sản xuất nhỏ và đa loài. Các quy định cần đi liền với chế tài xử phạt và có lực lượng kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Đẩy mạnh nuôi cá tra bền vững, nuôi sạch theo tiêu chuẩn quốc tế nhằm đảm bảo tính bền vững của ngành, và được thị trường quốc tế chấp nhận. Cần xây dựng thương hiệu cho hàng hoá XK Việt Nam để khẳng định vị thế cạnh tranh bền vững mang lại lợi ích thực tế cho quốc gia. Nhà nước cần hỗ trợ các chương trình xây dựng thương hiệu thủy sản như xây dựng sản phẩm, kênh phân phối, kênh tiếp thị, giáo dục hành vi khách hàng... Bên cạnh đó, Bộ Công Thương và Bộ NN&PTNT cần phối hợp để xây
dựng các đề án xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới cho các sản phẩm truyền thống và các sản phẩm mới tiềm năng, thành lập và phát triển các đại lý thương mại thuỷ sản tại các thị trường chính... Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất những việc cần làm ngay như cải thiện công nghệ và quản lý: như công nghệ sau thu hoạch đối với cá ngừ; quản lý nghề cá có trách nhiệm theo quy tắc của EU…; Hình thành các cụm công nghiệp dịch vụ tạo ra các trung tâm chế biến, logistics, nghiên cứu sản phẩm mới, nghiên cứu thị trường, định hình chiến lược phát triển cho ngành; Đầu tư các trung tâm nghiên cứu sâu về sinh học, sinh hóa, chế biến thực phẩm để tập trung thử nghiệm và nghiên cứu các sản phẩm mới từ nguyên liệu thủy sản; Rà soát các chính sách liên quan đến tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, vật tư, thức ăn, hoá chất; tiêu chuẩn DN chế biến, SX thuỷ sản... Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải khẳng định, phát triển XK chính là con đường nhanh nhất để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Tới đây, Việt Nam sẽ tập trung phát triển các mặt hàng công nghệ mới có GTGT cao, hàm lượng công nghiệp và chất xám cao trên cơ sở thu hút mạnh đầu tư trong nước và nước ngoài vào các ngành sản xuất định hướng XK. Nguyễn Thị Hồng Hà THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
15
SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN
Gia tăng giá trị
cho các mặt hàng thủy sản trong tương lai
“KHI ĐẶT RA CÂU HỎI NÔNG NGHIỆP CÓ LÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI HAY KHÔNG? TÔI NGHĨ, CHẮC CHẮN, NÓ PHẢI LÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI. TUY NHIÊN, HIỆN NAY, CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP CHƯA ĐỦ ĐỘ VƯƠN ĐỂ NÔNG NGHIỆP TRỞ THÀNH ĐỘNG LỰC CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ”.
Đ
Chế biến cá ngừ XK tại Công ty Cổ Phần Thủy sản Bình Định (BIDIFISCO)
ó là khẳng định của PGS. TS Nguyễn Hữu DũngPhó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam. Ông cho rằng, để đạt được mục tiêu nâng giá trị gia tăng (GTGT) lên hơn 50% giá trị XK thủy sản không phải là quá khó, vấn đề là cần quan tâm đầu tư hơn nữa đến phát triển kinh tế biển.
Giá trị gia tăng nông, lâm, thủy sản còn thấp
Gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đứng đầu trong XK nông, lâm, thủy sản... Tuy nhiên, điều dễ thấy là vấn đề chất
16
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
lượng, GTGT và năng lực cạnh tranh của nông sản Việt còn thấp; cơ sở hạ tầng phục vụ bảo quản, chế biến kém phát triển; quy mô công nghiệp chế biến nông sản còn nhỏ, công nghệ thiết bị lạc hậu... Đây chính là nguyên nhân khiến cho giá trị hàng nông sản Việt Nam thường thấp hơn từ 15 - 50% so với sản phẩm cùng loại của các nước khác. Theo Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối: Thời gian qua, tốc độ gia tăng giá trị bình quân mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản đã không ngừng giảm sút, từ 4,42% (giai đoạn 1996-2000), 3,83% (giai đoạn 2001-2005) xuống còn
3,55% vào các năm 2006, 2007; hiện nay chỉ dưới 3%. Thừa nhận năng lực cạnh tranh của ngành chế biến nông lâm thủy sản khá yếu kém, nhiều sản phẩm nông, lâm, thủy sản của Việt Nam có vị thế cao trên thị trường về số lượng, song tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu ở phân khúc GTGT lại thấp, ông Nguyễn Trọng Thừa - Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại NLTS và nghề muối (Bộ NN - PTNT) cho rằng, bất cập cơ bản trong công nghiệp chế biến hiện nay là không đảm bảo sự ổn định về chất lượng và khối lượng của nguồn nguyên liệu, các sản phẩm chế biến thô, đơn giản, chất lượng thấp đang chiếm tỷ trọng lớn và tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn thực phẩm (ATTP), việc sử dụng các phế, phụ phẩm chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, giá thành sản xuất cao, nhưng giá bán lại thấp. Bên cạnh đó, công nghiệp hỗ trợ để hoàn thiện sản phẩm chậm phát triển, thương mại và hạ tầng thương mại phục vụ cho chế biến hiện còn nhiều yếu kém, chưa đủ tầm để chủ động giao dịch trên thị trường khu vực và thế giới cũng là
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
những thách thức không nhỏ mà ngành chế biến NLTS của VN chưa thể vượt qua. TS Đặng Kim Sơn - Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn nhấn mạnh: “Điều quan trọng nhất lúc này là ngành nông nghiệp cần điều tra tổng thể thực trạng những ngành hàng chủ lực để phân tích, đánh giá và đề xuất các gói giải pháp phù hợp cho việc phát triển chế biến, thương mại NLTS. Theo đó, phải quy hoạch cơ sở chế biến NLTS gắn kết với quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu của từng ngành hàng, đồng thời dựa trên tín hiệu dự báo nhu cầu của thị trường để khai thác lợi thế của từng vùng phù hợp với quy hoạch phát triển chung của cả nước và từng địa phương”.
Giải pháp tăng giá trị cho các mặt hàng thủy sản
PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng cho hay: “Tôi nhận thấy, để các ngành khác như dịch vụ, y tế… vươn lên tầm thế giới thì có lẽ nước ta phải đầu tư rất nhiều. Nhưng với ngành nông nghiệp, chúng ta đã có một số lĩnh vực đã vươn lên tầm thế giới. Cụ thể như ngành thủy sản, hiện nay Việt Nam là nước nuôi trồng thủy sản đứng thứ 3 trên thế giới, đồng thời là quốc gia đứng thứ 5 về giá trị kim ngạch XK, đứng trong tốp 3 hàng đầu thế giới về số lượng nhà máy đạt tiêu chuẩn EU, với hơn 450 nhà máy được cấp code để XK. Giá trị XK năm 2014 là 7,92 tỷ USD, nhưng cả DN và nông dân vẫn
cảm thấy bất an là điều chúng ta cần phải bàn. Chúng ta cần phải tìm mọi cách để thúc đẩy GTGT cho các mặt hàng thủy sản để DN và nông dân được hưởng lợi. Để làm điều này cũng không phải là quá khó”. Trăn trở với mục tiêu nhằm thúc đẩy GTGT cho các mặt hàng thủy sản, ông Dũng đề xuất một số giải pháp cho một số sản phẩm thủy sản lợi thế của nước ta. Cụ thể, đối với ngành tôm, ông Dũng nhấn mạnh: “Hiện nay, cả sản xuất và XK tôm Việt Nam đều đã xếp thứ 3 trên thế giới. Năm 2014, XK tôm chiếm hơn một nửa tổng giá trị XK thủy sản của Việt Nam. Chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về ngành chế biến GTGT tôm của nước ta. Ví như khả năng chế biến GTGT tôm của Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú không kém bất cứ nước nào trên thế giới. Nhưng trên thực tế, nhìn tổng thể, GTGT tôm của nước ta mới chỉ đạt 30%, cho thấy dư địa để nâng cao tỷ lệ GTGT tôm còn rất nhiều. Nhìn sang các nước bạn, cùng là những nước cung cấp tôm như chúng ta, ví dụ như Thái Lan. Chúng ta thấy, tại Thái Lan, khu Công nghiệp nuôi tôm của nước họ được đầu tư rất hiệu quả, với 300- 400 ha ao nuôi được nuôi trong nhà (Indoor). Vì vậy, theo tôi, nếu ngành tôm được đầu tư hơn nữa về công nghệ, kỹ thuật thì tỷ lệ GTGT tôm chắc chắn được nâng cao”. Đối với ngành cá tra, trên thực tế, hiện nay, sản phẩm GTGT (mã HS16) chỉ chiếm 1% giá trị, trong
khi đó sản phẩm philê đông lạnh chiếm đến 99%. Nhưng để sản phẩm cá tra đạt GTGT lên tới 50%, ông Dũng tin rằng hoàn toàn có thể thực hiện được. Ông đề xuất: “Hiện nay, thị hiếu của người Nhật và Bắc Âu đối với sản phẩm thủy sản thường là cá biển tươi, ít dùng cá nước ngọt philê đông lạnh bởi họ quan niệm sản phẩm thủy sản tươi từ biển sẽ đạt vệ sinh an toàn thực phẩn (VSATTP) hơn là sản phẩm thủy sản nước ngọt. Do đó, nếu như chỉ cần biến 1/3 số sản phẩm cá tra philê đông lạnh của chúng ta thành sản phẩm hun khói thì câu chuyện sẽ khác hẳn. Chúng ta chỉ cần đầu tư một công nghệ hết sức đơn giản, nhưng thu được lợi ích thiết thực. Hay như ngành nuôi cá tra, hiện nay năng suất thu hoạch cá tra đang ở mức 200 tấn/ha, nếu chúng ta đầu tư công nghệ đưa thêm ô xi vào tầng đáy thì năng suất có thể lên tới 1000 tấn/ha/vụ. Rõ ràng, chúng ta có cơ hội thực tiễn để phát triển cả vùng nuôi và cơ sở chế biến cá tra”. “Đối với sản phẩm cá ngừ, hiện nay, tỷ lệ chế biến GTGT đạt gần 40%, đây là tỷ lệ cao nhất so với các ngành khác như tôm (30%), cá tra (chỉ 1%). Do đó, cá ngừ là sản phẩm đầu tiên có khả năng đạt tiêu chí 50% nhanh nhất. Nếu chúng ta tập trung đầu tư công nghệ vào hoạt động bảo quản cá ngừ thì chắc chắn mục tiêu đề ra sẽ đạt được nhanh chóng”- ông Dũng khẳng định. Nguyễn Thị Hồng Hà THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
17
SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN
Công ty thương mại trong chuỗi giá trị cá tra:
Sản phẩm độc đáo và gia tăng giá trị KHÔNG CHỈ ĐÓNG VAI TRÒ LÀ CẦU NỐI, RÚT NGẮN KHOẢNG CÁCH GIỮA NGƯỜI SẢN XUẤT VÀ TIÊU DÙNG, KỊP THỜI CUNG CẤP THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG GIÚP DOANH NGHIỆP (DN) ĐIỀU CHỈNH SẢN XUẤT, CÁC CÔNG TY THƯƠNG MẠI TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ CÁ TRA CÒN ĐÓNG VAI TRÒ LÀ NGƯỜI TIÊN PHONG TRONG KHAI THÁC THỊ TRƯỜNG NGÁCH VỚI NHỮNG SẢN PHẨM ĐỘC ĐÁO CÓ GIÁ TRỊ CAO.
Chưa đánh giá đúng vị trí của công ty thương mại
Không chỉ riêng tại Việt Nam, từ lâu các tổ chức trung gian cụ thể ở đây là các công ty thương mại (CTTM) đã đóng vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất và kinh tế nói chung ở nhiều quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong xúc tiến thương mại vàgiúp khắc phục nhiều trở ngại khác mà các nhà sản xuất gặp phải. Chính vì thế, rất nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan thậm chí kể cả Mỹ đều dựa vào các CTTM để cải thiện tình trạng thâm hụt thương mại và gia tăng giao dịch. Ngoài ra, theo các chuyên gia, các CTTM hỗ trợ các nhà sản xuất nhỏ và lớn tìm hiểu thị trường mới và nâng cao nâng lực cạnh tranh của họ thông qua những sản phẩm ổn định và nâng cấp công nghệ. Đồng thời đề ra các phương án – kể cả việc tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu độc lập của các nhà sản xuất, hướng dẫn đàm phán thành công trong những tình huống cạnh tranh quyết liệt ở nhiều khía cạnh khác nhau.
18
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Ông Võ Hùng Dũng, Tổng thư ký Hiệp hội cá tra Việt Nam
Tại Việt Nam, cụ thể là đối với ngành cá tra, trong bối cảnh ngành này đang đối mặt với những khó khăn nội tại trong hoạt động sản xuất, thị trường xuất khẩu cũng ngày một khó khăn hơn nhiều biến động và có khi gián đoạn với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với ngành cá thịt trắng khai thác và nuôi khác, đó là chưa kể hàng loạt các rào cản kỹ thuật, yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm do các nước nhập khẩu dựng lên ….Trong hoàn cảnh đó, các CTTM phần nào đã giải quyết được những vướng mắc trên và góp phần
đáng kể vào thành tích xuất khẩu trong năm 2014 của toàn ngành. Theo tiến sĩ Võ Hùng Dũng, Tổng thư ký Hiệp hội cá tra Việt Nam: “Đối với ngành cá tra, sự hợp tác của các nhà sản xuất với CTTM đang mang lại rất nhiều lợi thế như chi phí giao dịch thấp, cung cấp nhiều thông tin thị trường hơn và các lợi ích tài chính. Các CTTM có thể giúp các doanh nghiệp nhỏ liên kết với các doanh nghiệp lớn để có được khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài, có thêm kiến thức chuyên môn, công nghệ và ý tưởng”. Mặc dù đã có những đóng góp nhất định, nhưng vai trò của
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Công ty thương mại chinh phục thị trường ngách bằng những sản phẩm độc và lạ: Đầu cá, vây cá, ức cá...
các CTTM trong chuỗi giá trị cá tra vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Theo ông Dũng, nhìn chung thái độ đối với DN làm thương mại trong ngành nông nghiệp và thủy sản còn có tính phân biệt, không ưa thích thậm chí là có sự vận động đưa vào trong các văn bản qui định về thể chế với định kiến là các CTTM thường làm ăn chụp giật, phá rối thị trường. Thực tế, vai trò của các CTTM là không thể phủ nhận, nhưng vẫn tồn tại những quan điểm không đúng đắn. Chính vì thế, cộng đồng cần phải thay đổi và xem xét ở những trường hợp cụ thể, không nên “vơ đũa cả nắm”, ảnh hưởng đến uy tín của những đơn vị làm ăn chân chính.
Hàng “độc” giúp gia tăng giá trị
Trong vài năm trở lại đây, ngành cá tra đang rất khó khăn về thị trường tiêu thụ, không ít DN rơi vào cảnh nợ nần, hoạt động sản xuất kinh doanh bị thu hẹp.
Các CTTM không nằm ngoài xu thế chung, trải qua những chao đảo của thị trường nhưng không ít DN vẫn trụ vững và tạo được đà phát triển mới. Theo thống kê của Hiệp hội cá tra Việt Nam, hiện tại có 201 công ty tham gia vào ngành hàng chế biến, xuất khẩu cá tra thì có đến 90 công ty chuyên về thương mại xuất khẩu, chiếm 8-9% tổng sản lượng. Con số tuy còn khiêm tốn nhưng đóng góp của của nhưng CTTM là không thể phủ nhận. “Mặc dù hoạt động ở qui mô tương đối nhỏ nhưng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của các DN thương mại khá đa dạng. Đặc điểm của các công ty này là tỷ lệ hàng GTGT trong cơ cấu sản phẩm khá cao, chiếm khoảng 12%, trong khi đó, tỷ lệ sản phẩm phi lê đông lạnh tchiếm 24,5%, sản phẩm cắt khúc là 13,7%. Bột cá và dầu cá cũng là hai mặt hàng chủ lực của các DN này. Ngoài ra, thị trường của các CTTM hiện nay tập trung chủ yếu là ASEAN, Hồng Công và Trung Quốc.” ông Dũng cho biết.
Ngoài ra, theo đánh giác của chuyên gia, sở dĩ không ít các CTTM vẫn có thể đứng vững trong thời kỳ khó khăn chung của toàn ngành là do những DN này đã rất linh hoạt và khai thác rất tốt thị trường ngách – nơi mà nhu cầu thị trường về khối lượng không cao nhưng đòi hỏi sản phẩm phải độc đáo và lạ. “Trong quá trình Hiệp hội cá tra Việt Nam thống kê các mặt hàng xuất khẩu của DN chúng tôi thật bất ngờ nhận ra rằng trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của các DN thương mại xuất hiện những mặt hàng mà từ trước đến nay chưa từng thấy. Đó là những mặt hàng GTGT, hàng sản xuất từ phế liệu như đầu, vây, đuôi cá….Chính những mặt hàng độc và lạ này đã đưa giá trị lô hàng xuất khẩu của DN tăng lên khá cao” Rõ ràng, mặc dù hoạt động ở qui mô còn hạn chế nhưng các DN thương mại đã rất linh hoạt và khai thác tốt thị trường ngách với những sảm phẩm đặc trưng, giá trị cao từ đó góp phần không nhỏ trong việc mở rộng thường, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu. Để các CTTM thực hiện tốt chức năng cũng như phát huy được lợi thế của mình, Nhà nước nên tạo ra những cơ chế chính sách hỗ trợ các DN đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường, hỗ trợ thông thông tin liên tục, kịp thời và chính xác….Ngoài ra, cần phải xóa bỏ định kiến và có cách nhìn đúng về vai trò và những đóng góp của các CTTM trong chuỗi giá trị ngành cá tra. Đỗ Văn Thông THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
19
SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN
Hợp tác thủy sản Việt Nam - Cu Ba
Sát cánh cùng phát triển NGAY TỪ ĐẦU NHỮNG NĂM 1970, VIỆT NAM VÀ CU BA CÓ SỰ HỢP TÁC VỀ THỦY SẢN. HIỆN NAY, VIỆT NAM ĐANG HỖ TRỢ CU BA TRONG VIỆC XÂY DỰNG QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN THỦY SẢN CU BA ĐẾN NĂM 2020, ĐIỀU NÀY THỂ HIỆN TÌNH HỮU NGHỊ TRUYỀN THỐNG GẮN BÓ GIỮA HAI NƯỚC.
sản xuất với động cơ và thiết bị khai thác, ngư cụ hợp lý (ngư cụ khai thác hiện tại khó đảm bảo đánh bắt được cá cỡ lớn ở độ sâu cũng lớn hơn).
Hợp tác thủy sản Việt NamCu Ba
Bộ trưởng Bộ NN & PTNT Cao Đức Phát tặng quà cho Bộ trưởng Công nghiệp thực phẩm Cuba Maria Del Caramen Concepcion Gonzalez
Hiện trạng thủy sản Cu Ba
Cu Ba là một quần đảo có khoảng 1.600 hòn đảo lớn nhỏ, nằm ở vùng biển Caribê, với chiều dài bờ biển xấp xỉ 5.800 km. Thuỷ sản Cu Ba mang đặc trưng của nguồn lợi nhiệt đới, đa loài với nhiều loài hải sản phong phú như tôm hùm, cá ngừ, cá rạn san hô, cá thu, cá trích, cua, ghẹ, nghêu, hải sâm…Sản phẩm có lợi thế của Cu Ba là tôm hùm, đứng thứ nhất về giá trị và đứng thứ 2 về sản lượng. Tổng sản lượng khai thác thủy sản của Cu Ba trong những năm gần đây đạt rất thấp trong đó, tôm hùm Caribê Panulirus argus chiếm 25% (tôm hùm là đối tượng đánh bắt 20
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
có giá trị kinh tế cao nhất, chiếm 90% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Cu Ba). Ngoài ra, Cu Ba còn đánh bắt các đối tượng cá nổi (như: hồng, song, đối, trích, thu, ngừ, khế…). Cu Ba hiện có 15 doanh nghiệp khai thác thuỷ sản (thuộc GEIA) với khoảng 700 tàu, kích thước 11-30m (đa số 12-18m), chưa kể trên 3.000 tàu thuyền nhỏ do ngư dân tự đóng, vỏ gỗ, dài 4-5m. Về dịch vụ hậu cần, các cảng cá, bến cá đều đã cũ và không có mái che. Do đó, Cu Ba cần nâng cao năng lực khai thác nhằm đạt được hiệu quả cao hơn, trang bị các phương tiện khai thác đủ điều kiện an toàn
Trong khuôn khổ hợp tác song phương về lĩnh vực thủy sản giữa Việt Nam và Cu Ba (2012-2014), Chính phủ Việt Nam cũng đã hỗ trợ 4,5 tỷ đồng thực hiện Dự án Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản Cuba đến năm 2020. Việt Nam đã phân tích và lựa chọn phương án phát triển thuỷ sản Cu Ba trên cơ sở hệ thống kế hoạch hóa nhưng chú trọng nhiều đến khu vực ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Tư nhân chỉ đầu tư một phần. Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư, cho phép liên doanh với nước ngoài. Thực hiện Biên bản kỳ họp lần thứ 30 và 31 của Ủy ban hợp tác Liên chính phủ Việt Nam-Cuba, hai dự án hợp tác mới với Cuba đã được thẩm định, phê duyệt và triển khai thực hiện. Trong đó có Dự án Hỗ trợ ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) Cuba giai đoạn 2014-2016 (Việt Nam hỗ trợ 12
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
tỷ đồng Việt Nam, tương đương gần 571.500 USD). Hội đàm với Bộ trưởng Công nghiệp thực phẩm Cuba Maria Del Caramen Concepcion Gonzalez, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát nhấn mạnh, trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Cu Ba, chúng ta đã có Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản, tôi tin đó sẽ là định hướng để các bạn Cu Ba lựa chọn các loài nuôi, địa điểm nuôi nhằm phát triển ngành NTTS, nhưng quan trọng là Cu Ba cần có những chính sách để khuyến khích và nhân rộng mô hình này. Rõ ràng, chúng ta không nên xây dựng những DN nhà nước trực tiếp tham gia NTTS. Nhà nước cần đưa ra những chính sách để người dân được lợi và họ sẽ đầu tư vào lĩnh vực này, còn nhà nước chỉ hỗ trợ, chứ không nên đầu tư vào lĩnhvực thủy sản thay cho nông dân. Nếu chúng ta sốt ruột, dùng ngân sách nhà nước để đầu tư vào lĩnh vực thủy sản thì hiệu quả sẽ không cao. Trên tất cả mọi lĩnh vực của ngành
thủy sản, Việt Nam sẵn sàng hỗ trợ Cu Ba. Chủ yếu là tư vấn về kỹ thuật. Trong tư vấn kỹ thuật thì quan trọng nhất là về giống và phòng chống dịch bệnh. Bộ trưởng Maria Del Caramen Concepcion Gonzalez cho biết, kể từ năm 1970, Cu Ba đã bắt đầu có những tàu đánh bắt lớn, xa bờ, nhưng qua thời gian, sản lượng đánh bắt xa bờ sụt giảm nghiêm trọng, do biến đổi khí hậu và nhiều nguyên nhân khác như hành động đánh bắt trái phép trong thềm lục địa Cu Ba. Hiện nay, các giống, loài hải sản quanh khu vực Cu Ba đã giảm đáng kể. Thảm thực vật bị suy giảm, dẫn đến nguồn thức ăn của các loài tôm bị mất đi. Ngoài ra, hệ thống các cảng cá, bến cá cũng bị xuống cấp do thiên tai, bão lụt. Cu Ba đã đưa ra những quy định về thời gian và loài thủy sản cấm đánh bắt, yêu cầu ngư dân sử dụng những công cụ đánh bắt thân thiện với môi trường. Bà Bộ trưởng cho biết thêm, hiện chính sách mới về phát triển thủy sản đang được trình
Hội đồng chính phủ thông qua. Cu Ba phát triển ngành thủy sản trên cơ sở tận dụng những hồ nước, đập nước và các khu bảo tồn biển. Ưu tiên trước mắt của Cu Ba là NTTS để cung cấp nguồn dinh dưỡng, protein cho người dân với giá rẻ, nhưng yếu tố quan trọng là phải chọn được giống tốt, môi trường nước sạch, thức ăn đảm bảo và nhất là công nghệ nuôi và chế biến hiện đại để nâng cao hiệu quả và giá trị của ngành thủy sản. Cu Ba mong muốn được hợp tác với Việt Nam nhằm cải tạo các giống cá rô phi, tôm, trắm, chép, trôi và cá tra. Cu Ba đánh giá cao kinh nghiệm phát triển thủy sản của Việt Nam. Sau khi có quy hoạch tổng thể, Cu Ba rất mong muốn phía Việt Nam tiếp tục hỗ trợ Cu Ba thực hiện quy hoạch chi tiết cho một tỉnh trọng điểm về phát triển thủy sản. Ngày 17/12/2014 vừa qua, Chủ tịch Cuba Raul Castro và Tổng thống Mỹ Barack Obama đã công bố quyết định tái thiết lập quan hệ ngoại giao, mở đường cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, chấm dứt hành động cắt đứt quan hệ ngoại giao và áp đặt một lệnh cấm vận thương mại của Washington với Habana. Đây chính là sự khởi đầu cho một tương lai tốt đẹp của đất nước Cu Ba trong thời gian tới. Việt Nam luôn sát cánh bên cạnh “người anh em” trên con đường phát triển ngành thủy sản Cu Ba ổn định và bền vững. Nguyễn Tất Thắng (tổng hợp)
Cu Ba rất quan tâm đến phát triển ngành thủy sản trong tương lai THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
21
TIN TÛÁC / THÚÂI SÛÅ
Sản xuất kinh doanh thủy sản năm 2014
Tôm chiếm trên 50% tổng giá trị xuất khẩu TÌNH HÌNH CHUNG Kinh tế Việt Nam trong năm 2014 tiến triển khả quan hơn 2013 với ổn định kinhtế vĩ mô được duy trì vững chắc, tăng trưởng kinh tế phục hồi rõ nét vàđồng đều, thị trường tài chính có những chuyển biến tích cực, cân đốingân sách được cải thiện. Khó khăn của của doanh nghiệp và hộ giađình cũng giảm bớt, theo Ủy ban giám sát hành chính quốc gia. Dự đoán, sang năm 2015 tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục xu thế phục hồi và mụctiêu tăng trưởng 6,2% có rất nhiều khả năng thực hiện được. Cơ cấu nền kinh tế năm nay tiếp tục theo hướng tích cực. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2014 có nhiều thuận lợi do thời tiết ổnđịnh, dịch bệnh được kiểm soát tốt hơn; Nhà nước ban hành nhiều cơ chế, chính sáchkhuyến khích, hỗ trợ nông nghiệp, thủy sản; Tăng trưởng sản xuất nông,
KHAI THÁC THỦY SẢN
Năm 2014, công tác quản lý, khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản được cácban ngành quan tâm chỉ đạo sát sao, đặc biệt là các chính sách khuyến khích và hỗ trợngư dân đóng tầu công suất lớn đi khai thác vùng biển xa với nhiều nghề đánh bắt hiệuquả. Sản lượng khai thác thủy sản cả năm 2014 ước đạt 2,7 triệu tấn, tăng gần 4 % so với năm
lâmnghiệp và thủy sản có dấu hiệu phục hồi, góp phần vào tăng trưởng chung của cả nước.Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2014 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 830 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9% so với năm 2013, bao gồm: Nông nghiệp đạt 617,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9%; lâm nghiệp đạt 23,9 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%; thủy sản đạt 188,6 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8%. Theo ước tính của Tổng cục Thủy sản, tổng sản lượng thuỷ sản năm 2014 ước đạt 6332,5 nghìn tấn, tăng 4,4% so với năm 2013, trong đó cá đạt 4571 nghìn tấn, tăng 4,5%; tôm đạt 790,5 nghìn tấn, tăng 9,3%.Sản lượng khai thác ước đạt 2,7 triệu tấn, tăng 3,9%; sảnlượng nuôi trồng ước đạt 3,6 triệu tấn, tăng 4,8% so với năm 2013.
2013, trong đó: khai thác biển ước đạt 2,5 triệu tấn, tăng 4 %. Theo báo cáo của 3 tỉnh trọng điểm đánh bắt cá ngừ, sản lượng khai thác cángừ mắt to vây vàng cả năm 2014 tại Bình Định ước đạt 9.419 tấn, tăng 12,6% so vớinăm 2013, Phú Yên ước đạt khoảng 4030 tấn giảm 11%,Khánh Hòa ước đạt khoảng 5.164 tấn.
Máy hấp tôm
22
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Máy chiên tôm
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cả năm ước tính đạt 3,6 triệu tấn, tăng 4,8% so với năm trước, trong đó cá 2,45 triệu tấn, tăng 4,1%; tôm 631,5 nghìn tấn, tăng 12,7%. Sản lượng tôm nuôi tăng mạnh chủ yếu do nhiều địa phương thực hiện chuyển đổi phần lớn diện tích nuôi tôm sú sang nuôi tôm chân trắng, đồng thời tăng diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh, giảm dần diện tích nuôi quảng canh. Tình hình sản xuất một số loài chủ lực như sau : -Tôm sú: Diện tích và sản lượng tôm sú vùng ĐBSCL năm2014 đều giảm so với 2013. Diện tích nuôi tôm sú năm 2014 ước đạt 537 ngàn ha,giảm 4%, sản lượng tôm sú thu hoạch trong năm đạt 252 nghìn tấn, giảm 8,7% so với năm 2013. Sóc Trăng là tỉnh có diện tích và sản lượng giảm nhiều nhất, diện tích giảm 35% và sản lượng giảm 28%so với 2013, nguyên nhân là do nhiều hộ đã chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng. -Tôm chân trắng: Phong trào nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển mạnh ở các tỉnh ĐBSCL do thời gian nuôi trắng ngắn, đạt tỷ lệ thành công cao, giá báncao và khả năng chống chịu dịch bệnh và thời gian sinh trưởng ngắn hơn. Do đó, nhiềuhộ nuôi tôm sú đang chuyển sang nuôi tôm chân trắng sau một số vụtôm
XUẤT KHẨU THUỶ SẢN
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản của ngành năm 2014 đạt 30,86 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2013. Trong đó, giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 7,92 tỷ USD, tăng 18,4%, riêng tháng 12 ước đạt 706 triệu USD. Hoa Kỳ vẫn duy trìđược vị trí là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 21,81% tổnggiá trị xuất khẩu. Xuất khẩu thủy sản sang thị trường này 11 tháng đầu năm đạt 1,57 tỷUSD, tăng 18,78% so với cùng kỳ năm 2013. Xuất khẩu sang hầu hết các thị trường lớn khác đều tăng như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốcvới mức tăng tương ứng đạt 9,03%, 34,59% và 12,46%. Tuy nhiên, ngành XK cũng phải cần lưu ý nhiều đến xu hướng giảm giá hàng hóa trên thế giới trong năm 2015. Vì vậy, cần có các biệnpháp để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa và mở rộng thịtrường xuất khẩu, quản lý nhập khẩu. Bên
sú thua lỗ. Năm 2014, diện tích nuôi tôm chân trắng vùng ĐBSCL ước đạt 67 ngàn ha, tăng 68% so với năm 2013, sản lượng tôm chân trắng tăng mạnh, ước tính đạt 349 nghìn tấn, tăng 36,3% so với năm 2013, trong đó: Sóc Trăng và Bến Tre là hai tỉnh có sản lượng lớn nhất vùng, đềutăng 31% so với năm 2013, cụ thể Sóc Trăng sản lượng đạt 66.400 tấn, Bến Tre sảnlượng đạt 42.200 tấn. -Cá tra: Diện tích nuôi cá tra của các tỉnh ĐBSCL cả năm2014 ước đạt hơn 5.500 ha với sản lượng ước đạt 1158,3 nghìn tấn, giảm 3,1% so với năm 2013. Đầu năm 2014, giá cá tra bắtđầu có diễn biến khả quan, và sau một thời gian giá cá tra tăng ổn định, nhiều hộnuôi tiếp tục thả nuôi vụ mới, diện tích nuôi tăng mạnh kể từ tháng 10 đến nay và đãdần hồi phục gần bằng cùng kỳ năm ngoái cả về diện tích và sản lượng. Hai tỉnh ĐồngTháp và An Giang có sản lượng cá tra lớn nhất với sản lượng gần tương đương so với năm 2013, Đồng Tháp giảm 2%, An Giang giảm 8%. Riêng Hậu Giang, diện tíchgiảm 12% đáng kể, nhưng sản lượng lại tăng mạnh, đạt 70.905 tấn, tăng 102%so với 2013, do giá cá nguyên liệu tăng.
cạnh các biện pháp thúc đẩy xuất khẩucũng cần có các biện pháp khuyến khích tiêu dùng trong nước thông qua phát triểnhệ thống phân phối, đẩy mạnh cho vay tiêu dùng, hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sảnphẩm. Nhập khẩu Thủy sản: Giá trị nhập khẩu mặt hàng thủy sản năm 2014 ước đạt 1,05 tỷ USD, tăng 45,9% so với năm 2013, riêng tháng 12/2014 đạt 93 triệuUSD. Hai nhà cung cấp chính là Ấn Độ, chiếm 33,5% tổng giá trị NK và Đài Loan, chiếm 7,2%. Trung Quốc là nhà cung cấp thủy sản lớn thứ 7 cho Việt Nam, chiếm 3,8% tổng giá trị nhập khẩu. 11 tháng đầu năm 2014, giá trị nhập khẩu thủy sản từ thị trường này đã tăng mạnh, đạt trên 80% so với cùng kỳ năm 2013. Phương Mai tổng hợp
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
23
THUÃY SAÃN 5 CHÊU INĐÔNÊXIA CÓ THỂ THÀNH TRUNG TÂM CHẾ BIẾN THỦY SẢN CỦA THẾ GIỚI
MALAIXIA SẢN XUẤT VẮC XIN CHO CÁ RÔ PHI
Cục Thủy sản Malaixia đã sản xuất vắc xin “StrepToVax” để đối phó với dịch bệnh trên cá rô phi. Tổng cục trưởng thủy sản Datuk Ismail Abu Hassan cho biết vắc xin này sẽ có lợi cho người nuôi cá cũng như ngành nuôi trồng thủy sản quốc gia. Vắcxin đã được thử nghiệm trong quá trình nuôi và tỉ lệ sống của cá rô phi đạt tới 80%. Với vắcxin này, người nuôi cá rô phi sẽ không còn cần phụ thuộc vào kháng sinh và hóa chất để xử lý cá bị nhiễm liên cầu khuẩn (streptococcus). Vắcxin là kết quả nghiên cứu chung của các chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Thủy sản, Đại học Universiti Putra Malaysia và Viện nghiên cứu Công nghệ sinh học Nông nghiệp Malaixia. Bernama CÁC NƯỚC THÁI BÌNH DƯƠNG KÊU GỌI HẠN CHẾ KHAI THÁC CÁ NGỪ
Phòng Thương mại và Công nghiệp Inđônêxia (Kadin) ủng hộ chính phủ nước này trong việc đưa Inđônêxia trở thành trung tâm chế biến thủy sản thế giới với mục tiêu XK 40 tỉ USD trong những năm tới. Yugi Prayanto, phó chủ tịch của Kadin phụ trách về thủy sản cho biết, chính phủ cần hành động ngay vì Inđônêxia có rất nhiều tiềm năng. Inđônêxia cần triển khai một số bước quan trọng. Đầu tiên là xây dựng tiêu chuẩn cho tất cả các sản phẩm thủy sản nội địa để chúng có thể lấy được chứng nhận ở trong nước và quốc tế. Tiếp đó, Inđônêxia cần chuẩn bị một lực lượng lao động lành nghề trong nước chứ không phải là lao động nước ngoài. Kadin cũng yêu cầu ngân hàng quốc gia hỗ trợ để tăng cường đầu tư trong ngành chế biến thủy sản. Tempo NGA BẬT ĐÈN XANH CHO THỦY SẢN SRI LANKA
Bảy nước Ôxtrâylia, Niu Dilân, Quần đảo Cook, Niue, Tuvalu, Samoa và Tonga đã ký kết thỏa thuận nhằm xây dựng hạn ngạch khai thác cá ngừ vây dài Nam Thái Bình Dương. Việc ký kết này sẽ giúp thỏa thuận Tokelau có hiệu lực trước khi diễn ra cuộc họp lần thứ 11 của Ủy ban Nghề cá Trung Tây Thái Bình Dương được tổ chức tại Apia ngày 01/12/2014 vừa qua. Thỏa thuận này là lời kêu gọi của các quốc đảo Thái Bình Dương tới các quốc gia đang khai thác cá ngừ tại các khu vực đặc quyền kinh tế có những hành động nhằm giảm thiểu việc khai thác các loài đang bị suy giảm. Đây là lần đầu tiên các nước quốc đảo Thái Bình Dương đạt được một thỏa thuận chính thức về quản lý nghề khai thác cá ngừ vây dài. Tongadailynews 24
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Liên bang Nga đã cấp phép cho một số công ty của Sri Lanka XK thủy sản vào thị trường này. Kết quả này là nỗ lực của Chính phủ Sri Lanka thông qua Đại sứ quán Sri Lanka tại Liên bang Nga, trong đó có việc cho phép 14 công ty của Sri Lanka XK sang Cộng hoà Belarút và Cộng hòa Kazacstan mà không phải nộp thuế hải quan (cùng nằm trong Liên minh hải quan). Sri Lanka cũng cho biết khi các công ty này XK sản phẩm thủy sản vào Nga cũng sẽ được miễn thuế hải quan đối với cá tươi hoặc ướp lạnh, cá đông lạnh, cá philê và các loại thịt cá khác, cá khô hoặc ướp muối. Fis
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI DOANH SỐ THUỶ SẢN ANH TĂNG
Theo thống kê mới nhất của Nielsen Scantrack, doanh thu thuỷ sản của Anh tăng 2,6% từ ngày 21/6/2013 đến 21/6/2014 đạt 3,17 tỷ bảng Anh (tức 5,1 tỷ USD). Dù khối lượng giảm 3,8% xuống còn 344.000 tấn, nhưng giá trung bình tăng 6,7% lên 14,74 USD/kg. Doanh số cá ướp lạnh đạt 3,1 tỷ USD, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước mặc dù khối lượng bán ra giảm nhẹ nhưng giá trung bình là 20,20 USD/kg, tăng 6,5%. Doanh số cá đông lạnh giảm còn 1,1 tỷ USD và cá chế biến có bảo quản đạt 831,7 triệu USD. Cá hồi, cá tuyết và cá vược là các mặt hàng cá ướp lạnh có doanh thu tăng mạnh nhất. Công ty bán lẻ Young’s Seafood có doanh thu từ cá ướp lạnh tăng 21% đạt 80 triệu USD và công ty có kế hoạch phát triển sản phẩm này trong năm 2015. Trong khi đó, tình hình kinh doanh của Tesco đã sụt giảm nghiêm trọng khi mất thị phần vào tay Morrisons, Waitrose, Lidl và Aldi. Seafoodsource
GREENPEACE YÊU CẦU HÀN QUỐC ĐẤU TRANH VỚI KHAI THÁC IUU
Tổ môi
chức trường
Greenpeace đã kêu gọi Chính phủ Hàn Quốc tham gia vào các hoạt động quốc tế nhằm đấu tranh với các hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), cũng như sửa đổi Dự luật khai thác ở các vùng đại dương. Dưới áp lực của quốc tế, Chính phủ Hàn Quốc đã soạn thảo một dự luật sửa đổi các hoạt động khai thác ở vùng đại dương. Tuy nhiên, Greenpeace cho rằng vẫn có những lỗ hổng lớn trong dự thảo luật sửa đổi, như chưa tính đến các chủ sở hữu được hưởng lợi từ tàu, chưa có cơ chế cụ thể triển khai luật và hình phạt chưa đủ mạnh để ngăn chặn đánh bắt cá IUU. Việc sửa đổi dự luật khai thác ở các vùng biển khơi của Hàn Quốc cũng được đưa ra tại cuộc họp của Ủy ban Nghề cá Trung Tây Thái Bình Dương (WCPFC) ở Samoa. Undercurrentnews
CÔLÔMBIA, PÊRU VÀ CHILÊ THỎA THUẬN TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT NGHỀ CÁ Pêru, Côlômbia và Chilê đã thỏa thuận về tăng cường giám sát hoạt động khai thác nhằm đấu tranh với tình trạng khai thác thủy sản bất hợp pháp và tình trạng tội phạm đang ảnh hưởng tới khai thác và nuôi trồng thủy sản. Ba nước dự kiến tổ chức các cuộc họp thường xuyên nhằm chia sẻ kinh nghiệm và tối ưu hóa các công cụ và thủ tục. Thứ trưởng Bộ Thủy sản, Pêru Juan Carlos Requejo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giám sát trong ngành khai thác thủy sản để đảm bảo nguồn lợi thủy sản bền vững. Ba nước còn thảo luận về việc đổi mới và cải cách trong việc sử dụng các công nghệ giám sát đội tàu đánh cá; các kỹ thuật hoặc công nghệ để giám sát các nguồn lực
và phương pháp kiểm soát hoạt động khai thác. Fis
NA UY TĂNG CƯỜNG XK THỦY SẢN SANG ẤN ĐỘ
Na Uy đang phải tìm kiếm thị trường mới cho các sản phẩm thủy sản, nhất là cá hồi và cá tuyết khi Nga ra lệnh cấm ngày 7/8/2014, trong đó Ấn Độ là 1 thị trường tiềm năng. Theo ông Christian Chramer, giám đốc Hội đồng Thủy sản Na Uy, hiện tại Na Uy chưa đặt bất kỳ mục tiêu nào cho việc XK thủy sản sang Ấn Độ, các DN Na Uy mới chỉ bắt đầu tiếp xúc với các nhà NK thủy sản và các hãng bán lẻ của Ấn Độ. Việc quan trong là cần có Hiệp định Thương mại Tự do giữa Na Uy và Ấn Độ, sau đó mới đưa ra các mục tiêu cụ thể. Na Uy đã XK thủy sản sang Ấn Độ trong hơn 10 năm nay nhưng khối lượng còn hạn chế. Cá hồi Na Uy XK sang Ấn Độ thường đi qua Đan Mạch, Ba Lan và Hà Lan. Được biết, Ấn Độ chỉ NK khoảng 60 tấn cá hồi vào năm 2013, phần lớn trong số đó từ Na Uy. The Hindu THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
25
THUÃY SAÃN 5 CHÊU CÔNG TY AUSTRALIAN FISHING ENTERPRISES XK CÁ NGỪ SANG TRUNG QUỐC
Sau hai thập kỷ phụ thuộc vào XK cá ngừ sang thị trường Nhật Bản, nhà chế biến cá ngừ lớn nhất Ôxtrâylia, Australian Fishing Enterprises, bắt đầu đa dạng hóa thị trường XK bằng cách XK thủy sản cho Zoneco một trong những công ty thủy sản lớn nhất Trung Quốc. Giới chuyên gia đánh giá Trung Quốc là một thị trường rất mới không chỉ với công ty mà còn với cả ngành cá ngừ của Ôxtrâylia, vì vậy thỏa thuận giữa hai công ty trên là hết sức ý nghĩa. Ông Peter Fare, đại diện công ty hy vọng sẽ mở ra cơ hội cho nhiều công ty nước ngoài tiếp cận thành công thị trường Trung Quốc. Abc.net.au
ÊCUAĐO ĐẤU TRANH VỚI IUU THEO THỎA THUẬN THƯƠNG MẠI VỚI EU
Thứ trưởng Bộ Thủy sản Êcuađo đã tổ chức một hội thảo với các đại diện từ các tổ chức chính phủ khác liên quan đến việc kiểm soát cảng biển và nghề khai thác thủy sản của Êcuađo nhằm xây dựng kế hoạch hành động quốc gia ngăn chặn và đấu tranh với các hoạt động khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Kế hoạch này là một cam kết liên quan đến các hiệp định thương mại với Liên minh châu Âu (EU). Theo Andres Domingo, phó giám đốc Nguồn lợi Thủy sản Uruguay, điều phối viên của hội thảo, kế hoạch này là công cụ để cho phép nước này đưa ra các chiến lược bảo đảm các quyền của công dân, đấu tranh với các hoạt động IUU, trong đó quan tâm đến các vấn đề sinh học, công nghệ, kinh tế, xã hội, thương mại và các mặt về môi trường. Êcuađo cũng đã có những cam kết thực hiện bảo vệ các loài như cá mập và cá heo.EU hiện là thị trường tiêu thụ cá ngừ chính của Êcuađo, chiếm 65% kim ngạch XK.
NHẬP KHẨU CÁ MELUC CỦA NGA GIẢM DO LỆNH CẤM
Fis
Mặc dù, NK từ các nhà XK mới tăng nhưng
ĐẦU TƯ CHO THỦY SẢN CỦA CHI LÊ TRONG NĂM 2014 THẤP KỶ LỤC
khối lượng NK cá meluc trong tháng Nga
10 đã
của giảm
52% do nước này ra lệnh cấm NK thực phẩm từ các nước phương Tây. Theo thống kê của Hải quan Nga, lệnh cấm hồi
Cơ quan môi trường Chi lê đã phê duyệt mức đầu
7/8 đã ảnh hưởng nặng nề đến NK cá meluc của
tư cho nghề khai thác và nuôi trồng thủy sản năm
nước này, do vậyNga đã tăng NK từ các nước XK
2014 là 38 triệu USD, thấp kỷ lục trong 6 năm qua.
mới, đặc biệt là từ Trung Quốc và Êcuađo để
bù
Năm 2008, hệ thống đánh giá tác động môi trường
đắp thiếu hụt nguồn cung. XK cá meluc của Trung
của Chính phủ Chilê (SEIA) đã phê duyệt mức đầu
Quốc sang Nga đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm
tư cho các dự án khai thác và nuôi trồng thủy sản với
trước kể từ khi có lệnh cấm, đưa nước này trở thành
tổng giá trị là 91 triệu USD và mức đầu tư trung bình
nước XK cá meluc lớn thứ ba cho Nga trong năm
cho các năm 2009-2014 là 355 triệu USD/năm. Theo
nay. Êcuađo còn tăng mạnh hơn, vươn lên vị từ thứ
ông Felipe Manterola, tổng giám đốc Salmonchile,
5 lên vị trí thứ 2. Doanh số xuất từ Achentina và Pêru
ngành thủy sản Chilê đang phục hồi và tăng trưởng.
sang Nga cũng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, điều này
Năm 2007, sản lượng đạt 650.000 tấn, sau đó giảm
chưa đủ để bù đắp sự sụt giảm nguồn cung do NK
xuống còn 400.000 tấn, nhưng năm 2014 đã đạt gần
trong 10 tháng đầu năm đã giảm 12,7%.
800.000 tấn.
Undercurrentnews
26
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Undercurrentnews
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI PÊRU CẤM KHAI THÁC TÔM
MELIOMAR VÀ ALPITRADE CỦA PHILIPPIN ĐƯỢC CHỨNG NHẬN COC
Hai công ty chế biến của Philippin tham gia chương Chính phủ Pêru đã ra lệnh cấm khai thác các nguồn lợi thủy sản dễ bị tổn thương nhất, trong đó có tôm và tôm sông. Bộ Sản xuất Pêru cho biết lệnh cấm khai thác tôm có hiệu lực vào ngày 16/12 và kéo dài cho đến hết ngày 15/2/2015. Còn tôm sông bị cấm khai thác từ 20/ 12 đến hết ngày ngày 31/3. Lệnh cấm khai thác cá hải tượng bắt đầu ngày 01/10 đến hết ngày 28/ 2 và lệnh cấm thu hoạch nghêu đen sẽ bắt đầu từ ngày 15/2 đến tháng 31/3. Cơ quan Khoa học Biển Pêru, Imarpe, yêu cầu ra lệnh cấm này nhằm tránh khai thác các loài trên trong thời gian thủy sản tái sinh sản. Undercurrentnews
trình đánh giá Chuỗi sản phẩm an toàn (CoC) trong dựán cải thiện nghề cá Artesmar (FIP). Hai công ty này là Meliomar và Alpitrade được đánh giá thành công với hệ thống truy xuất nguồn gốc được Công ty tư vấn Blueyou xây dựng cho tất cả các sản phẩm cá ngừ vây vàng được kinh doanh trên thị trường theo chương trình Artesmar. Artesmar là một sáng kiến cải tiến nghề cá nhằm giải quyết những bất cập của nghề cá nhỏ lẻ và tạo ra khuôn khổ để từng bước cải thiện nghề cá. Các dự án FIP của Artesmar sử dụng các tiêu chí sinh thái để đánh giá ngành thủy sản trong quá trình thực hiện chương trình dài hạn về cải tiến nghề cá. Undercurrentnews
NGÀNH THỦY SẢN ÔXTRÂYLIA CÓ LỢI NHỜ FTA VỚI TRUNG QUỐC
Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Trung Quốc hứa hẹn mang lại sự thay đổi cho ngành thủy sản Ôxtrâylia. Các công ty chế biến, ngư dân và đại diện ngành thủy sản cho rằng FTA sẽ tăng tính cạnh tranh của thủy sản Ôxtrâylia. Theo hiệp định, trong 4 năm đầu, thủy sản Ôxtrâylia sẽ không bị đánh thuế khi XK sang Trung Quốc, kể cả các mặt hàng như tôm rồng đá và bào ngư. Những mặt hàng này đang bị đánh thuế 14-15%. Theo ông Justin Phillips, giám đốc Hội đồng Tư vấn Tôm rồng đá Nam Ôxtrâylia, FTA cũng sẽ cho phép thủy sản Ôxtrâylia cạnh tranh tốt hơn với các nước khác như Niu Dilân và Chilê. Ôxtrâylia sẽ tăng XK bào ngư sang Trung Quốc do Nhật Bản- nguồn cung cấp bào ngư truyền thống đang giảm XK do suy thoái kinh tế. Abc.net
Hằng Vân lược dịch THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
27
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
Ông Yuttana Thongphur Phó TGĐ cấp cao Công ty Cổ Phần Chăn Nuôi C.P. Việt Nam:
“Chính chúng ta quyết định chất lượng thủy sản!” TẠI BUỔI GẶP GỠ VÀ LÀM VIỆC GIỮA CÔNG TY CỔ PHẦN CHĂN NUÔI C.P. VIỆT NAM (C.P. VIỆT NAM) VÀ HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM (VASEP) VỪA QUA TẠI TP HỒ CHÍ MINH, TẠP CHÍ THƯƠNG MẠI THỦY SẢN ĐÃ CÓ DỊP GHI NHẬN NHỮNG Ý KIẾN CHIA SẺ, ĐÓNG GÓP CỦA ÔNG YUTTANA THONGPHUR- PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC CỦA C.P.VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN BỀN VỮNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM.
Ông Yuttana Thongphur - Phó Tổng Giám Đốc cấp cao Công ty Cổ phần Chăn Nuôi C.P. Việt Nam
28
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Phóng viên (PV): Năm 2014 đã khép lại với nhiều thành công cho thủy sản Việt Nam, ông có những chia sẻ gì với bà con người nuôi ? Ông Yuttana Thongphur: Năm 2014, thủy sản Việt Nam đã thu về kim ngạch XK trên 7,9 tỷ USD, trong đó ngành tôm đạt trên 3,7 tỷ USD, đây là một thắng lợi lớn cho bà con nuôi tôm nói riêng và thủy sản Việt Nam nói chung. Tôi xin chúc mừng và kỳ vọng những năm tới Việt Nam sẽ đạt được nhiều thành tựu cũng như gặt hái được nhiều thành công hơn nữa. Năm 2015, với việc cộng đồng kinh tế ASEAN hình thành và Việt Nam là một quốc gia thành viên của cộng đồng, Công ty C.P. Việt Nam khuyến cáo bà con cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm đối với việc góp phần xây dựng uy tín cũng như giữ vững thương hiệu cho con tôm, con cá của Việt Nam. Uy tín và chất lượng tôm, cá Việt Nam bắt nguồn từ nhiều khâu, tuy nhiên nuôi là thành tố quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng hàng đầu. Người nuôi sản xuất ra được nguồn thủy sản sạch, tươi và dồi dào thì đó chính là những nguồn nguyên liệu chất lượng để các nhà máy chế biến ra những sản phẩm chất lượng, khẳng định được thương hiệu cho thủy sản Việt Nam trên thương trường. Bà con nuôi thủy sản nên tuyệt đối tránh lạm dụng kháng sinh, hóa chất … trong nuôi, thu hoạch hay xuất bán, để có thể ảnh hưởng đến thương hiệu của thủy sản Việt Nam bởi thị trường XK ngày càng khắt khe với các tiêu chuẩn chất lượng và rào cản kỹ thuật. Đối với lĩnh vực nuôi tôm, những người nuôi tôm chưa thành công trong năm qua, chúng tôi khuyến cáo bà con hãy nuôi trở lại với mô hình 3090-30. Nghĩa là thả nuôi 30 con/m2, nuôi 90 ngày và thu hoạch kích cỡ khoảng 30 con/kg. Sau khi bà con đã dần phục hồi thì mới bắt đầu gia tăng
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Mô hình ao CPF Green House đã mang lại thành công cho người nuôi tôm
mật độ và sản lượng trở lại. Tuy nhiên, để phát triển bền vững hơn, bà con cần chú ý thả tôm với mật độ vừa phải, có ao chứa, ao lắng và chú trọng hệ thống an toàn sinh học. PV: Ngoài ra, ông có đề xuất, kiến nghị gì với các cơ quan quản lý thủy sản Việt Nam không, thưa ông? Ông Yuttana Thongphur: Những năm tới, chúng tôi mong muốn các cơ quan ban ngành liên quan, bộ chủ quản quan tâm chú trọng nhiều hơn đến phổ biến rộng rãi các kỹ thuật nuôi tôm tiên tiến hiện nay cho bà con nông dân, kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất giống kể cả việc gia hóa tôm bố mẹ để có nguồn giống tốt, có biện pháp kiểm soát được tình trạng sử dụng thuốc kháng sinh, hóa chất, chế phẩm sinh học… Mặt khác, đối với vấn đề dịch bệnh, hiện nay tuy bệnh hoại tử gan tụy cấp tính hay EMS đã phần nào được khắc phục nhưng chúng ta cũng không nên chủ quan, vì sau EMS hiện đã xuất hiện thêm những bệnh mới trên tôm. Về thức ăn nuôi tôm, chúng
tôi khuyến cáo người nuôi nên sử dụng thức ăn có độ đạm hợp lý, phù hợp với đặc điểm sinh học và dinh dưỡng của tôm, bà con nên chú trọng kiểm soát các thông số về môi trường, nhất là đảm bảo hàm lượng oxy trên 6 ppm. Nên có sự đầu tư nghiên cứu để sản xuất nguồn protein thay thế dần bột cá, dầu cá nhằm hạn chế khai thác nguồn thủy sản tự nhiên. Mặt khác, tôi nhận thấy các DN thủy sản Việt Nam hiện nay đã và đang có được những thị trường XK rất tốt, tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục mở rộng thêm nhiều thị trường mới bên cạnh các thị trường truyền thống. Tôi cũng đánh giá cao mô hình nuôi tôm của một số công ty lớn với việc đặt nhà máy chế biến sát ngay cạnh trại nuôi. Đặc biệt, các đơn vị này hiện cũng đã cải tiến mô hình nuôi, thu nhỏ kích cỡ của các ao nuôi nhằm tạo điều kiện thu hoạch, vận chuyển nhanh, tôm đưa vào chế biến luôn tươi nên sản phẩm có màu sắc đẹp và chất lượng cao. PV: Ông có thể chia sẻ một vài
kinh nghiệm để giúp bà con nuôi tôm Việt Nam thành công và bền vững hơn? Ông Yuttana Thongphur: Chúng tôi hiện đã có giải pháp nuôi “3 – 3 – 3” hướng tới sự bền vững. Đó là “3 giảm – 3 tăng – 3 ổn định”. “3 giảm” tức là giảm diện tích nuôi và tái cơ cấu trang trại theo hướng ao nuôi nhỏ, tỷ lệ ao chứa nói chung/ao nuôi là 6/4, giảm mùn bã hữu cơ và chất thải đồng thời và giảm mầm bệnh bằng cách nâng cao hệ thống an toàn sinh học. “3 tăng” tức là tăng diện tích ao chứa, ao xử lý và ao sẵn sàng lên 60% tổng diện tích, tăng diện tích ao ương và tăng hàm lượng oxy hòa tan. “3 ổn định” là ổn định về pH, nhiệt độ và hàm lượng oxy hòa tan. Đây là giải pháp nếu được áp dụng đúng sẽ giúp cho người nuôi giảm thiểu được nhiều rủi ro và gia tăng sản lượng. PV: Được biết thời gian qua công ty đang tập trung phát triển rất thành công mô hình nuôi tôm “trong nhà”(indoor), xin ông cho biết thêm về mô hình này ? Ông Yuttana Thongphur: Ở tập đoàn, chúng tôi gọi đó là CPF Green House mà ở cấp độ cao hơn sẽ là CPF Combine program. Theo tôi nhận thấy, ngành nuôi tôm của Việt Nam có nhiều điểm khác biệt rất rõ rệt ở 2 miền của đất nước. Miền Nam thì có thể nói là thời tiết thuận lợi hơn, có thể nuôi tôm được quanh năm. Còn miền Bắc thì khí hậu không được ổn định bằng, lúc nóng thì nóng quá, còn lúc lạnh thì lại quá lạnh. Mặt khác sự biến đổi khí hậu cũng tác động nhiều đến THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
29
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
ngành nuôi. Do đó, phát triển nuôi tôm công nghiệp ở Việt Nam và đặc biệt là ở khu vực phía Bắc nên đi theo hướng nuôi “indoor”(trong nhà). Thực ra ý tưởng cho mô hình “indoor” này là bắt nguồn từ mô hình nuôi tôm siêu thâm canh theo công nghệ raceway. Để nuôi được tôm siêu thâm canh, bắt buộc phải nuôi trong nhà nhằm kiểm soát chặt chẽ được tất cả các yếu tố như nhiệt độ, oxy, khí hậu, an toàn sinh học,….Hiện nay, một số tập đoàn, công ty lớn như công ty chúng tôi và một số đối tác đã chia sẻ ý tưởng và áp dụng mô hình nuôi được đánh giá là rất có triển vọng này. Ở vùng ĐBSCL, cũng là mô hình nuôi “indoor” nhưng chúng tôi có vài cải tiến nhỏ nhằm hợp lý hóa. Chúng tôi khuyến khích bà con nuôi tôm làm hệ thống an toàn sinh học, phải có ao chứa, ao xử lý, ao sẵn sàng… Đồng thời, ao phải lót bạt để ngăn phù sa, có hệ thống lưới ngăn cua, ngăn chim. Để ổn định nhiệt độ và pH, chúng tôi thiết kế hệ thống CPF Green House với lưới che khoảng 60% diện tích ao để ngăn ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp xuống ao nhằm tạo điều kiện ổn định nhiệt độ và pH mà vẫn duy trì sự phát triển
của tảo. Ao nuôi, chúng tôi cũng khuyến cáo mực nước không cần sâu lắm và nên theo dõi nhiệt độ nước thường xuyên. PV: Hiện nay, ngoài tôm và cá tra, ở Việt Nam đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều xu hướng chuyển sang nuôi cá rô phi, ông nhận xét như thế nào về điều này? Ông Yuttana Thongphur: Theo đánh giá của chúng tôi, cá rô phi đóng một vai trò khá quan trọng. Cách đây 2-3 năm thì sản lượng cá rô phi của Việt Nam chỉ khoảng gần 100.000 tấn thôi nhưng đến nay thì sản lượng đang ngày càng tăng và có xu hướng phát triển rộng rãi. Hiện nay, với tình hình cá tra đang gặp khó khăn nên một số DN nuôi cá tra đã từng bước chuyển sang phát triển cá rô phi để XK, bởi thị trường cho loài cá này đang rất tiềm năng, nhất là nguồn cá rô phi hiện nay từ một số nước khác đang gặp nhiều vấn đề về kháng sinh và con giống bị cận huyết…Đây cũng là một cơ hội cho bà con nuôi cá, bởi Việt Nam có đầy đủ điều kiện về thiên nhiên, khí hậu và các nhà máy chế biến hiện đại, đạt tiêu chuẩn để chế biến cá rô phi XK. PV: Như vậy, cần phải có những bước đi như thế nào để cá
CÔNG TY CỔ PHẦN CHĂN NUÔI C.P. VIỆT NAM Tên thương mại: C.P. VIETNAM CORPORATION Địa chỉ: KCN Bàu Xéo, Sông Trầu, Trảng Bom, Đồng Nai Điện thoại công ty: (+84) 613 921 502-09 Fax: (+84) 613 921 512-14 Email: cpthuysan@yahoo.com /muahangvisinh@gmail.com Website: www.cp.com.vn HT QLCL: HACCP, ISO 9001, ISO 50001, ISO 140001, BAP, GLOBAL GAP, GMP, ASC, GMP+ Sản phẩm: Thức ăn tôm, cá, chế phẩm sinh học, giống tôm, cá, đông lạnh tôm, cá
30
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
rô phi phát triển thành công ở Việt Nam? Ông Yuttana Thongphur: Để có thể phát triển thành công con cá rô phi ở Việt Nam, vấn đề cần chú ý trước hết đó chính là con giống. Giống cá rô phi hiện nay ở Việt Nam chưa được ổn định, chưa rõ ràng về nguồn gốc, nhập từ nước ngoài như Trung Quốc, Philippin hoặc Thái Lan... Muốn phát triển ngành cá rô phi, trước tiên phải chú trọng đến sản xuất giống, nhất là giống cá rô phi đơn tính. Hiện nay, công ty chúng tôi đã đầu tư trại cá rô phi giống thí điểm ở tỉnh Hậu Giang. Sau thời gian thí điểm, chúng tôi có định hướng mở rộng để hỗ trợ cho người nuôi. Vấn đề quan trọng khác là thức ăn cho cá rô phi và kỹ thuật nuôi, C.P. Việt Nam đã có nhà máy chế biến thức ăn với công suất khoảng 360.000 tấn/ năm và hiện cũng đang hoàn tất các khâu để chuẩn bị đưa ra thị trường một loại sản phẩm thức ăn chuyên biệt dành riêng cho cá rô phi. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã có chương trình nuôi cá rô phi theo tiêu chuẩn 100-100100 (ương cá đến trọng lượng 100gam, thả mật độ 100con/m3 và nuôi 100 ngày đạt 700gam). Theo mô hình này hệ số thức ăn của cá đạt khoảng 1,5, năng suất 60kg/m3 và rút ngắn được thời gian nuôi với chu kỳ 2,5 vụ/năm. Chúng tôi sẵn lòng hướng dẫn kỹ thuật và chia sẻ kinh nghiệm nuôi cá rô phi theo mô hình này một cách rộng rãi với bà con người nuôi. PV: Cảm ơn ông! Trần Duy ghi
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Bạch tuộc là một trong những sản phẩm chủ lực của Vifoods XK vào Hàn Quốc
Sản phẩm Sushi mực tẩm gia vị của Vifoods
Sản phẩm bạch tuộc nguyên con của Vifoods
Sản phẩm mực tươi lột da của Vifoods
Vifoods được khích lệ trở lại thị trường Hàn Quốc TỪ MỘT LÝ DO KHÁ BI HÀI, VIFOODS ĐÃ BUỘC PHẢI CHẤM DỨT HOÀN TOÀN THỊ TRƯỜNG HÀN QUỐC. TUY NHIÊN, VỚI NHỮNG ƯU ĐÃI TỪ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO GIỮA VIỆT NAM – HÀN QUỐC SẮP ĐƯỢC KÝ KẾT CÙNG NHỮNG KHUYẾN KHÍCH TỪ THỊ TRƯỜNG NÀY, VIFOODS ĐƯỢC KỲ VỌNG SẼ GIA TĂNG XK TRỞ LẠI VÀO HÀN QUỐC.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
31
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
Công ty Vifoods làm việc với đoàn KFTA do Thứ trưởng Park Hyoung Coo (thứ ba từ trái sang) dẫn đầu
Đổi tên sản phẩm, mất cả thị trường
Công ty TNHH Thực phẩm Việt (Vifoods Co., Ltd) tuy mới được thành lập vào năm 2008 nhưng từ trước đó, đội ngũ cán bộ công nhân viên chủ chốt của công ty đã có hơn 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất, chế biến và XK thủy sản ở Công ty TNHH Đông Đông Hải (Eastern Sea Co., Ltd), một công ty chị em của Vifoods. Với lợi thế đặt nhà máy tại KCN Đông Xuyên, Tp Vũng Tàu, Vifoods luôn có được nguồn nhiên liệu dồi dào, tươi và sạch để đưa vào sản xuất. Cùng với các trang thiết bị dây chuyền máy móc hiện đại, tiên tiến, hệ thống quản lý chất lượng đạt các tiêu chuẩn quốc tế như: BRC, HACCP, ISO 22000, FDA… các sản phẩm của Vifoods đã được khách hàng trong, ngoài nước tin tưởng và đánh giá cao. Thị trường truyền thống của công ty kể từ ngày thành lập và cũng là thị trường chủ lực của
32
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
công ty chính là EU, chiếm hơn 60% tổng doanh thu của Vifoods. Bên cạnh đó, Vifoods còn có các thị trường chính khác như: Italia, Tây Ban Nha, Hà Lan, Đức, Bồ Đào Nha, Pháp, Đan Mạch.. Một thị trường cũng quan trọng không kém đối với công ty chính là Nhật Bản. Thị trường này chiếm hơn 30% tổng doanh thu của Vifoods và đặc biệt chuyên NK các sản phẩm giá trị gia tăng với chất lượng và giá trị cao với yêu cầu hết sức khắt khe và nghiêm ngặt. Ngoài ra, hiện công ty cũng đang bước đầu XK sang thị trường Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canađa) với khoảng 3% tổng doanh thu. Đặc biệt, Hàn Quốc cũng là một thị trường rất tiềm năng của Vifoods. Tuy nhiên, công ty đã buộc phải chấm dứt hoàn toàn tại thị trường này vì một lý do cũng khá bi hài. Tại buổi làm việc với ông Park Hyoung Coo, Thứ trưởng Bộ Đại dương và Thủy sản Hàn Quốc trong ngày 10/12/2014 vừa
qua, đại diện lãnh đạo Vifoods đã cho biết, sản phẩm XK chủ lực của công ty sang thị trường này chính là mặt hàng bạch tuộc nguyên con đông lạnh. Tuy nhiên, do công ty chỉ chuyên sản xuất loại bạch tuộc với kích cỡ nhỏ nên cách đây hơn 1 năm, các cơ quan quản lý Hàn Quốc đã yêu cầu Vifoods không được sử dụng tên “Octopus” (bạch tuộc) mà phải đổi thành “BabyOctopus” (bạch tuộc-con) trên nhãn mác sản phẩm. Điều này tưởng chừng như hết sức bình thường và vô hại. Tuy nhiên, hậu quả sau đó thật sự không hề nhỏ. Ngay khi sản phẩm được đưa ra thị trường, người tiêu dùng Hàn Quốc lập tức bị phân vân bởi 2 khái niệm mới này về sản phẩm. Thậm chí, một số nhà hoạt động môi trường tại Hàn Quốc còn kêu gọi người tiêu dùng không nên chọn sản phẩm “Baby-Octopus” vì nhiều lý do và lý luận khác nhau. Kết quả là các nhà NK của Vifoods đã không thể tiêu thụ được sản phẩm và chấm dứt đặt hàng. Sau nhiều nỗ lực cứu vãn bất thành, công ty buộc phải quyết định chấm dứt hoàn toàn thị trường Hàn Quốc, dù trước đó thị trường này được Vifoods đánh giá rất cao và hoàn toàn có khả năng tăng trưởng ngang bằng thị trường Nhật Bản của công ty.
Khuyến khích đẩy mạnh XK trở lại vào Hàn Quốc
Theo Thứ trưởng Park Hyoung Coo, sự việc xảy đến với Vifoods tại thị trường Hàn Quốc
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
như phản ánh là một điều hết sức đáng tiếc. Bởi thực sự, nhu cầu tiêu thụ thủy sản, nhất là các sản phẩm bạch tuộc tại Hàn Quốc là rất lớn. Hiện tại, Hàn Quốc vẫn đang NK sản phẩm bạch tuộc từ các nước, trong đó nhiều nhất là từ Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á. “Với việc Việt Nam và Hàn Quốc đang trong quá trình đàm phán và tiến tới ký kết Hiệp định Thương mại tự do song phương (FTA), chúng tôi hoàn toàn mong muốn thúc đẩy hợp tác và phát triển hơn nữa trong việc gia tăng kim ngạch thương mại giữa 2 nước, trong đó, riêng ngành thủy sản hiện đang được Chính phủ Hàn Quốc rất quan tâm”, ông Park Hyoung Coo phát biểu.
Cùng đi với ông Park Hyoung Coo tại buổi làm việc với Công ty Vifoods còn có các đại diện của Hiệp hội Thương mại và Thủy sản Hàn Quốc (KFTA). Ngay sau chuyến tham quan dây chuyền sản xuất cũng như tìm hiểu về các sản phẩm thủy sản giá trị cao của Vifoods, phía Hàn Quốc đã đánh giá rất cao hệ thống sản xuất và chất lượng sản phẩm của công ty. “Trước đây, tôi cũng đã từng là một chuyên gia thanh tra hệ thống quản lý chất lượng và vệ sinh ATTP tại nhiều nhà máy trên thế giới. Tôi có thể khẳng định, với hệ thống trang thiết bị hiện đại, lượng nguyên liệu dồi dào, công nhân có tay nghề và hệ thống quản lý chất lượng
Đại diện lãnh đao Công ty Vifoods cùng đoàn Hiệp hội Thương mại & Thủy sản Hàn Quốc
CÔNG TY TNHH THỰC PHẨM VIỆT Tên thương mại: VIFOODS Co.,Ltd Địa chỉ: Đường số 7 KCN Đông Xuyên, P. Rạch Dừa, Tp. Vũng Tàu Điện thoại công ty : (+84) 64 3615645/62586483 Fax: (+84) 64 3616 008 Email: info@vifoods.com.vn Website: www.vifoods.com.vn EU Code: DL 133 HT QLCL : HACCP, BRC, ISO 9001: 2008, FDA Sản phẩm: Cá biển, surimi, nhuyễn thể 2 mảnh vỏ đông lạnh, tôm, các sản phẩm GTGT...
đạt chuẩn quốc tế như tôi vừa được tham quan tại công ty, thì Vifoods hoàn toàn đáp ứng được mọi yêu cầu, đủ điều kiện để XK thủy sản vào thị trường Hàn Quốc”, ông Park khẳng định. Ngoài mặt hàng bạch tuộc, phía Hàn Quốc cũng khuyến khích Vifoods đẩy mạnh XK các sản phẩm giá trị cao của công ty như: các mặt hàng sushi, thủy sản phối trộn, tôm tẩm, cá tẩm, tempura… bởi đây cũng là những sản phẩm mà người tiêu dùng Hàn Quốc cũng rất ưa chuộng. Các đại diện KFTA cam kết chắc chắn sẽ kết nối và giới thiệu đến Vifoods những nhà NK lớn, có uy tín cũng như kỳ vọng Vifoods sẽ sớm quay trở lại với thị trường Hàn Quốc. Riêng về vấn đề mà Công ty Vifoods phản ánh, ông Park Hyoung Coo đồng ý ghi nhận ý kiến và khi trở về nước sẽ có những trao đổi cụ thể với cơ quan quản lý trực tiếp vấn đề này nhằm tháo gỡ một phần khó khăn cho Công ty Vifoods nói riêng và cho các doanh nghiệp Việt Nam khác nói chung. “Tôi đánh giá cao những phản ánh chân thực và thẳng thắn của công ty đối với thị trường Hàn Quốc. Để góp phần thúc đẩy gia tăng thương mại và tạo dựng niềm tin đối tác lẫn nhau, tôi nghĩ những rào cản và khó khăn như thế này nên cần phải được xem xét và giải quyết một cách thỏa đáng”, ông Park Hyoung Coo khẳng định. Trần Duy THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
33
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
Gần nửa thế kỷ phát triển mạnh mẽ
Công ty TNHH Uni-President Việt Nam
Tham quan mô hình nuôi tôm nhà bạt của Uni-President
Uni-President
“3 tốt, 1 hợp lý” ĐỂ TẠO ĐƯỢC THƯƠNG HIỆU MẠNH TRONG NGÀNH SẢN XUẤT THỨC ĂN VÀ CON GIỐNG, UNI-PRESIDENT LUÔN TRUNG THÀNH VỚI PHƯƠNG CHÂM “3 TỐT”, BAO GỒM CHẤT LƯỢNG TỐT, UY TÍN TỐT, DỊCH VỤ TỐT VÀ “MỘT HỢP LÝ” LÀ GIÁ CẢ HỢP LÝ.
34
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Uni-President là tập đoàn lớn nhất trong lĩnh vực lương thực, thực phẩm tại Đài Loan, được chính thức thành lập vào ngày 01/07/1967. Trong gần 50 năm qua, Uni-President đã mở rộng lĩnh vực hoạt động của mình từ việc sản xuất Thức ăn thủy sản, bột mì, thức ăn gia súc, dầu ăn, mì ăn liền, nước giải khát cho đến các dịch vụ phân phối, tài chính, bảo hiểm, siêu thị, chứng khoán, ngân hàng và giải trí. Thời điểm cuối những năm 1960, tại Đài Loan đã bắt đầu xuất hiện các công ty chú trọng vào triển khai sản xuất thức ăn thủy sản. Điển hình là vào đầu năm 1969, lần đầu tiên trên thế giới, thức ăn cho cá Chình đã được đưa vào sản xuất thành công tại Đài Loan. Đó cũng chính là thời điểm, Uni-President bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu và phát triển trong ngành thủy sản bởi chính những kết quả nghiên cứu sẽ là chìa khóa để đảm bảo ngành kinh doanh thủy sản phát triển bền vững. Năm 1969, Uni-President hợp tác với công ty Nisshin Nhật Bản để sản xuất thức ăn cá Chình. Sau đó, nhờ vào sự cải tiến về kỹ thuật và dây chuyền sản xuất thức ăn cá Chình hoàn chỉnh, công ty đã sản xuất thành công thức ăn cá Chình hiệu quả cao. Gần 50 năm qua, thêm nhiều sản phẩm thức ăn thủy sản chất lượng cao đã được sản xuất tại bốn nhà máy ở Trung Quốc và hai nhà máy ở Việt Nam. Sản
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Các sản phẩm thức ăn chăn nuôi thủy sản đa dạng, chất lượng cao của Uni-President Việt Nam
Lễ thành lập Công ty TNHH Giống thủy sản Uni-President tại tỉnh Ninh Thuận
phẩm của Uni-President hiện nay được XK tới nhiều nước trên thế giới, như Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Thái Lan, Malaixia, Philippin, Inđônêxia, Ấn Độ, Sri Lanka, Nam Phi, Đông Phi, các nước Trung Đông, Anh và Mỹ. Hoạt động toàn cầu trong
ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) của Tập đoàn UniPresident trong gần nửa thế kỷ từ ngày thành lập đến nay luôn phát triển và vững mạnh với tốc độ tăng trưởng bình quân 30-40%/năm. Năm 2006, doanh thu toàn tập đoàn đạt 150 triệu
USD với sản lượng lên đến trên 200.000 tấn. Uni-President chú trọng việc hợp nhất các sản phẩm bằng cách đưa vào sử dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc tinh vi từ các thành phần nguyên liệu đến các sản phẩm hải sản và cam kết đảm bảo vệ sinh ATTP cho người tiêu dùng. Với lợi thế vốn có, UniPresident đã chọn Việt Nam là nơi để phát huy thế mạnh của mình. Công ty TNHH UniPresident Việt Nam được chính thức thành lập ngày 06/02/1999, với tổng số vốn đầu tư trên 220 triệu USD, mang đến cho thị trường Việt Nam nhiều sản phẩm đa dạng, đạt chất lượng cao. Nhà máy chính đặt tại KCN Sóng Thần II, tỉnh Bình Dương với diện tích 15 hecta. Ngoài ra, công ty còn có các nhà máy chi nhánh đặt tại Tiền Giang, Ninh THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
35
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
Thuận, Quảng Nam, Quảng Trị và đặt các Văn phòng đại diện, kho xuất hàng tại Nha Trang, Đà Nẵng và Hà Nội…
Hướng tới sản phẩm chất lượng cao và an toàn sinh học
Thời gian đầu tại Việt Nam, hoạt động của Uni-President chủ yếu là nhập khẩu hàng trực tiếp từ Tổng công ty tại Đài Loan về để phân phối vào thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển của thị trường nên vào năm 2001, công ty đã quyết định chính thức tiến hành xây dựng nhà máy thức ăn thủy sản tại tỉnh Bình Dương. Sản phẩm chính mà UniPresident cung cấp là các loại thức ăn cho tôm sú, tôm chân trắng, tôm càng xanh, cá tra, cá lóc, cá rô phi và công ty cũng đã mở rộng sản xuất thêm thức ăn cho ếch, cá kèo và các loại thức ăn cho cá biển như cá mú, cá chẽm, cá chim vây vàng… Năm 2006, công ty tiếp tục mở rộng với việc đưa vào hoạt động thêm một nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản mới tại khu công nghiệp Mỹ Tho – Tiền Giang. Tháng 11/2007, UniPresident Việt Nam là công ty sản xuất thức ăn thuỷ sản đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức SGS cấp chứng nhận ISO 22000: 2005, là tiêu chuẩn kết hợp ISO9001 và HACCP, cho hệ thống quản lý ATTP “từ ao nuôi đến bàn ăn” của công ty. Ngoài ra, Uni-President Việt Nam cũng là đơn vị đầu tiên sử dụng máy ép đùn và tạo viên
36
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Uni-President góp phần đem đến vụ mùa bội thu cho người nuôi tôm Việt Nam
để sản xuất thức ăn viên đồng nhất với chất lượng cao, ổn định cung cấp cho thị trường Việt Nam. Với công nghệ sản xuất hiện đại, công ty luôn đảm bảo công suất, chất lượng sản phẩm với khoảng 1.100 tấn thức ăn/ ngày; lợi nhuận bình quân 900 tỷ đồng/năm; tạo công ăn việc làm cho gần 1.500 lao động. Nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản tại khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc, Quảng Nam vào năm 2011 bắt đầu sản xuất nhằm đáp ứng sản lượng thức ăn thủy sản cung cấp cho khu vực miền Trung và miền Bắc Song song với việc chế biến thức ăn cho ngành thuỷ sản, Uni-President Việt Nam còn đầu tư hơn 2,5 triệu USD xây dựng trại sản xuất tôm giống tại huyện Ninh Phước (Ninh Thuận), và đã đi vào hoạt động từ tháng 4/2008.
Uni-President Việt Nam cam kết cung cấp tới bà con nông dân một loại tôm giống có chất lượng tốt và sạch bệnh (SPF), phù hợp với yêu cầu của thị trường quốc tế về truy xuất nguồn gốc và nâng cao tỷ lệ thành công trong quá trình nuôi của bà con nông dân, giảm bớt những rủi ro vốn rất cao của ngành NTTS. Để sản xuất giống tôm chất lượng và sạch bệnh (SPF), UniPresident sử dụng hệ thống lọc nước hiện đại và diệt khuẩn bằng Ozon, đảm bảo chất lượng nước an toàn. Tôm bố mẹ loài tôm chân trắng F1 được NK từ Mỹ, là loại giống SPF có thể kháng được bệnh Taura, tôm giống có tốc độ tăng trưởng nhanh. Tôm sú bố mẹ được NK từ châu Phi, hoàn toàn không mang 9 loại bệnh đặc trưng do tổ chức vệ sinh động vật của thế giới qui
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
định, là nguồn tôm bố mẹ SPF có sức tăng trưởng nhanh. Công ty cho biết: “Ở Việt Nam, người dân vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc vệ sinh ao, đầm trong nuôi thuỷ sản, nhiều hộ nuôi con giống không rõ nguồn gốc xuất xứ làm lây lan bệnh dịch, vừa gây thất thu, vừa làm mất uy tín của các công ty cung cấp con giống. Tuy nhiên, Việt Nam có tiềm năng về nuôi trồng thuỷ sản, Nhà nước
luôn ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho các DN trong việc kinh doanh và mở rộng sản xuất, vì thế chúng tôi đã và đang nhân rộng mô hình ra các tỉnh miền Trung và phía Bắc”. Theo sự phát triển của thị trường giống tôm chân trắng, và nhu cầu giống tôm sú, tất nhiên, chỉ 01 trại giống là không thể đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy, để phát triển thêm quy mô, phù hợp với nhu cầu
Ông Liou Hai Hua (trái) - Giám đốc bộ phận thức ăn thủy sản Công ty TNHH Uni-President giới thiệu máy cho tôm ăn tự động mang nhãn hiệu Uni-President.
CÔNG TY TNHH UNI PRESIDENT VIỆT NAM Tên thương mại: UPVN Địa chỉ: Số 16-18 đường ĐT 743, KCN Sóng Thần 2, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương Điện thoại công ty : (+84) 650 3790811 Fax: (+84) 650 3790810 Email: aquafeed@upvn.com.vn/liou@upvn.com.vn Website: www.uni-president.com.vn HT QLCL : ISO 9001:2008, ISO 22000:2005, HACCP, GLOBAL GAP,... Sản phẩm: Thức ăn thủy sản: tôm (tôm thẻ, tôm sú, tôm càng xanh), thức ăn cá (cá chẽm, cá tra, cá mú, cá rô, cá chim vây vàng…), thức ăn ếch; thức ăn gia súc; bột mì...
của thị trường, năm 2012 Công ty TNHH Giống Thủy sản UniPresident Việt Nam – Chi nhánh Quảng Trị đã ra đời. Uni-President Việt Nam hướng đến một mô hình kinh doanh tổng hợp, kết hợp sản xuất giống thủy sản và sản xuất thức ăn. Ngoài việc xây dựng và mở rộng nhà máy sản xuất, công ty còn hợp tác thực hiện dự án nghiên cứu với tiến sĩ Cha-Fang Lo, phòng xét nghiệm bệnh tôm nổi tiếng của trường Đại học Hải Dương, Đài Loan để phát triển tri thức và kỹ thuật nuôi tôm có hệ thống. Đồng thời, công ty cũng đã thành lập phòng xét nghiệm bệnh thủy sản nhằm hỗ trợ người dân kiểm tra chất lượng con giống. Năm 2015 công ty sẽ đưa ra thị trường sản phẩm Vi sinh đỏ để hỗ trợ và phục vụ bà con nuôi thủy sản. Với tác dụng xử lý và cải tạo làm sạch môi trường ao nuôi, tăng sức đề khánh cho tômcá, giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh và gia tăng hiệu quả kinh tế trong quá trình nuôi. Có thể nhận thấy, hoạt động kinh doanh hợp nhất của Công ty TNHH Uni-President Việt Nam có liên kết chặt chẽ với nhiều lĩnh vực hoạt động của ngành NTTS Việt Nam bởi đó chính là chìa khóa để nâng cao thị phần, phát triển các ngành nghề mới, góp phần mở rộng hoạt động kinh doanh của Tập đoàn UniPresident sang các nước khác trên thế giới trong tương lai không xa. Trần Duy THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
37
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
Kiến Vương
Đồng hành cùng “mắt thần” phi lợi nhuận ĐƯỢC BIẾT ĐẾN NHƯ MỘT THƯƠNG HIỆU HÀNG ĐẦU TRONG RẤT NHIỀU LĨNH VỰC NHƯ: HÓA CHẤT, DƯỢC, NHUỘM, DỆT, CAO SU, GỐM... TRÊN THỊ TRƯỜNG RỘNG LỚN, KIẾN VƯƠNG HIỆN ĐANG KHÔNG NGỪNG TỪNG BƯỚC KHẲNG ĐỊNH GIÁ TRỊ CỐT LÕI KINH DOANH VÀ ĐỒNG HÀNH, GÓP SỨC CÙNG CÔNG TÁC XÃ HỘI VÌ CỘNG ĐỒNG.
Công ty TNHH Kiến Vương
Hơn 20 năm xây dựng và phát triển
Tiền thân của Kiến Vương là Công ty TNHH Vạn Lợi, một trong những công ty tư nhân đầu tiên ra đời tại Tp Hồ Chí Minh theo Luật Doanh nghiệp năm 1990. Đây cũng đồng thời là công ty ngoài quốc doanh đầu tiên chuyên kinh doanh hoá chất, nguyên liệu, phụ gia và chế phẩm sinh học phục vụ cho nhiều ngành kinh tế vào thời điểm đó. Năm 1996, Vạn Lợi được tái
38
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
cấu trúc để chuyển đổi thành Công ty TNHH TM Hữu Tín. Bắt đầu từ đây, công ty liên tục phát triển và gia tăng thị phần tại thị trường Việt Nam, đồng thời tạo dựng được mối quan hệ thân thiết với nhiều đối tác lớn trên thế giới. Các sản phẩm của Hữu Tín chủ yếu đều được NK từ các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng ở Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Á như: Dupont, Kurraray, Cargill, Dow, Solvay, Budenheim… Phát triển ngày một ổn định và mạnh mẽ, năm 2000, công ty
triển khai chi nhánh ở Hà Nội nhằm mở rộng thị trường và tìm kiếm khách hàng tiềm năng ở khu vực phía Bắc. Đến năm 2005, công ty đã phát triển và xây dựng thành công hệ thống các VPĐD tại khắp các tỉnh thành như Đà Nẵng, Nha Trang và Cần Thơ. Năm 2006, Hữu Tín chính thức chuyển đổi thành Công ty TNHH Kiến Vương và đến năm 2008 thì hoàn tất xây dựng nhà máy tại Khu công nghiệp Tân Tạo, Tp Hồ Chí Minh. Hiện nay, Kiến Vương được biết đến như một thương hiệu hàng đầu trong rất nhiều lĩnh vực như: hóa chất, dược, nhuộm, dệt, cao su, nhựa, thủy sản... với thị trường rộng lớn trải dài từ Bắc chí Nam và quốc tế. Nếu thời điểm năm 2001, lợi nhuận trước thuế của Kiến Vương là khoảng 106 tỷ đồng thì năm 2004, công ty đã đạt 279 tỷ đồng và năm 2007 đạt 412,4 tỷ đồng, xếp hạng 86 trong Top 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam - theo bình chọn của báo VietNamNet và Vietnam Report năm 2007. Với sự kế thừa và phát triển của quá trình hơn 20 năm hoạt
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Ông Nguyễn Hữu Quý tại lễ trao tặng “mắt thần” tại Đà Nẵng
Anh Vũ Minh Lý - GĐ Trung tâm Tình nguyện Quốc gia và ông Nguyễn Hữu Quý -Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Kiến Bình Minh ký Thỏa thuận hợp tác
động, Công ty TNHH Kiến Vương đã và đang sở hữu một hệ thống phân phối rộng lớn và không ngừng từng bước cải tiến khẳng định lớn mạnh giá trị cốt lõi cho hoạt động kinh doanh, khẳng định uy tín là một tập đoàn thương mại đa ngành tầm cỡ trong khu vực Châu Á, góp phần đưa hàng hóa của thế giới vào Việt Nam và sản phẩm của Việt Nam ra thế giới bằng những kênh phân phối chuyên nghiệp. Ban lãnh đạo công ty cho biết: “Để có được sự phục vụ tốt nhất đến khách hàng, Kiến Vương có các Chi nhánh và Văn phòng đại diện với đội ngũ chuyên trách có trình độ và kinh nghiệm, sẵn
Ông Nguyễn Hữu Quý (thứ 2 từ phải sang) - TGĐ Công ty TNHH Kiến Vương tại lễ ký kết phối hợp và trao tặng kinh cho người khiếm thị tại tp Hồ Chí Minh
Ông Nguyễn Hữu Quý trao tặng “mắt thần” cho người khiếm thị ở Cao Bằng
sàng tư vấn, hỗ trợ khách hàng. Công ty luôn luôn là người bạn đồng hành với khách hàng trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh. Hiệu quả của khách hàng cũng chính là hiệu quả của Kiến Vương”.
Mối duyên với “Mắt thần”
Mắt thần - (Haptic Eyes) là thiết bị có hình dạng như cặp kính có gắn thiết bị tạo rung, khi phát hiện vậy cản phía trước, thiết bị sẽ tạo độ rung vào cơ thể để báo cho người khiếm thị biết. Càng gần vật cản, độ rung càng mạnh, nhanh và chỉ cần người dùng đổi hướng có khoảng trống là ngay lập tức thiết bị sẽ dừng rung.
Sản phẩm đã đoạt giải Nhân Văn trong cuộc thi Robocon Techshow 2012 và giải Nhất nhà Sáng Chế Việt Nam (Đài Truyền Hình Việt Nam). Đây là công trình khoa học do TS. Nguyễn Bá Hải cùng cộng sự tại trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật tp Hồ Chí Minh thực hiện. Chiếc mắt kính đã phải trải qua 9 lần thử nghiệm và mức giá ban đầu của sản phẩm này là quá cao, khoảng 20 triệu đồng/chiếc, người khiếm thị khó có khả năng tiếp cận. Vì lẽ đó, để “mắt thần” có cơ hội đi xa hơn, phải kể đến cái duyên gặp gỡ giữa ông Nguyễn Hữu Quý, TGĐ Công ty TNHH Kiến Vương, với TS. Nguyễn Bá Hải. Chính nhờ điều THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
39
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
này mà đến nay “mắt thần” sau nhiều cải tiến đã gọn nhẹ như mắt kính thông thường. Biết đến TS.Nguyễn Bá Hải qua một bài báo Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Hữu Quý ngay lập tức nhận ra cái duyên “vì cộng đồng” với chàng tiến sĩ trẻ. Từ những lần đi thăm Hội Người mù quận Thủ Đức (Tp Hồ Chí Minh) và Trung tâm Hỗ trợ trẻ em khiếm thị, TS. Nguyễn Bá Hải và doanh nhân Nguyễn Hữu Quý, hai con người với cùng mục tiêu, cùng lẽ sống đã hợp tác với nhau để cho ra đời sản phẩm “mắt thần” giúp ích cho những con người kém may mắn. Công ty TNHH Kiến Bình Minh ra đời vào tháng 9/2013 chính là kết quả của sự hợp tác than thiết đó và đã giúp giấc mơ “Mắt thần” đến với người khiếm thị trở thành hiện thực. “Mẹ tôi từng bị mù, tôi cũng từng thử nhắm mắt để cảm nhận xem người không còn thấy ánh sáng sẽ sống như thế nào, và tôi biết tôi phải ủng hộ cho nghiên cứu này để không giúp được hết thì ít ra cũng giúp được cho một số người mù bớt bị động trong sinh hoạt hằng ngày” - ông Nguyễn Hữu Quý chia sẻ. Ngoài ra, ông Quý cũng cho biết, hiện Công ty TNHH Kiến Bình Minh là đơn vị duy nhất sản xuất loại kính này với mục
Sản phẩm “mắt thần” cho người khiếm thị
đích phi lợi nhuận. “Kiến Bình Minh được lập ra để theo đuổi chương trình này và hoàn toàn phi lợi nhuận. Chúng tôi đã nhận được nhiều đóng góp của các nhà hảo tâm và rất mong chờ có thêm nhiều tấm lòng mở ra để có thêm nhiều “mắt thần” cho những người mù khác”, ông Quý nói. Nhờ có sự hợp tác phi lợi nhuận từ Công ty TNHH Kiến Vương và Công ty Kiến Bình Minh, “Mắt thần” hiện đã có 2 phiên bản và đang được bán với giá khoảng 3,5 triệu đồng/chiếc và 2,2 triệu đồng/chiếc. Ông Quý cũng tiết lộ, từng có đơn vị ra giá mua bản quyền nghiên cứu “mắt thần” tới 2,3 tỉ đồng để sản xuất sản phẩm bán ra thị trường nhưng TS. Nguyễn Bá Hải không bán. Từ đầu năm đến
CÔNG TY TNHH KIẾN VƯƠNG Tên thương mại: KIEN VUONG Co.,Ltd Địa chỉ: Lô 22, đường 7 KCN Tân Tạo, P. Tân Tạo A, Q. Bình Tân, Tp. Hồ Chí Minh Điện thoại: (+84) 8 37543624 Fax: (+84) 8 37543625 Email: info@kienvuong.com Website: www.kienvuong.com Sản phẩm: Các loại hóa chất, nguyên liệu, phụ gia đa ngành.
40
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
nay, Công ty Kiến Bình Minh và Kiến Vương đã phối hợp với nhiều đơn vị, đoàn thể để tiến hành trao tặng miễn phí “mắt thần” đến nhiều người khiếm thị ở khắp các tỉnh thành trong cả nước như: Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Lai Châu, Hải Dương, Thanh Hóa… Ông Nguyễn Hữu Quý, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Kiến Bình Minh cũng chia sẻ: “Sắp tới công ty sẽ đồng hành cùng Trung tâm công tác xã hội mang “mắt thần” đến các tỉnh, thành như: Bắc Cạn, Hà Giang, Thái Nguyên… Mỗi tỉnh, thành chúng tôi sẽ trao tặng hoàn toàn miễn phí. Tham vọng của chúng tôi là cung cấp “mắt thần” cho 64 tỉnh, thành trên cả nước. Đây là dự án phi lợi nhuận của Công ty Kiến Bình Minh. Tôi mong, “mắt thần” sẽ tiếp tục được cải tiến thêm nhiều chức năng hỗ trợ người khiếm thị hơn nữa trong tương lai”. Trần Duy
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
DASAVINA:
Món quà độc đáo ngày Tết CÁ KHO LÀNG VŨ ĐẠI TỪ LÂU ĐÃ TRỞ THÀNH MÓN ĂN NGON, MÓN QUÀ Ý NGHĨA TRONG MỖI DỊP LỄ TẾT VÀ CÓ MẶT TRONG BỮA ĂN CỦA HÀNG VẠN GIA ĐÌNH VIỆT. MỖI LOẠI CÁ ĐỀU CÓ MỘT KIỂU NGON RIÊNG, TUY NHIÊN ĐIỀU KHÁC BIỆT LÀ CÁ KHO CỔ TRUYỀN THƯƠNG HIỆU DASAVINA ĐƯỢC KHO KỸ HƠN, THỊT CÁ SĂN CHẮC, KHÔNG CÒN MÙI TANH, XƯƠNG CÁ XỐP MỀM KHIẾN THỰC KHÁCH ĐÃ TỪNG ĐƯỢC THƯỞNG THỨC THÌ KHÔNG THỂ NÀO QUÊN.
Ông Nguyễn Bá Toàn- Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Đặc sản Việt Nam
C
hẳng biết tự bao giờ, người làng Đại Hoàng, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân – Hà Nam đã có tục lệ kho cá vào mỗi dịp Tết Nguyên đán. Gia đình nào cũng vậy, dù ăn Tết to hay nhỏ thì trên mâm
cơm cúng ông bà tổ tiên nhất thiết phải có một đĩa cá kho. Có lẽ vậy, mà món cá kho đã đi vào tiềm thức của người dân nơi đây, tình yêu đặc biệt đối với món ăn dân dã này được đúc kết từ bao tâm hồn hết đời này sang đời
khác, tạo nên một món ăn đặc trưng không lẫn với bất cứ món ăn ở bất cứ vùng đất nào trên đất nước. Đến với làng Vũ Đại như một cơ duyên, ngay từ khi được thưởng thức món ăn độc đáo THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
41
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
DASAVINA vinh dự đạt danh hiệu vàng món ngon tinh hoa ẩm thực việt 2014 cho món ăn nổi tiếng là Cá kho làng Vũ Đại
Ngọn lửa bập bùng bên niêu cá kho làng Vũ Đại DASAVINA
này lần đầu tiên, anh Nguyễn Bá Toàn đã nảy sinh ý định muốn đưa đặc sản của làng quê vươn xa ra khỏi lũy tre làng để người tiêu dùng khắp nơi đều được biết đến. Nghĩ là làm, anh Toàn đã cùng 16 nghệ nhân giỏi nhất 42
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Sản phẩm cá kho làng Vũ Đại DASAVINA
làng, ngày đêm miệt mài bên niêu cá, tìm ra phương pháp, bí quyết mới để niêu cá kho cổ truyền trở nên ngon hơn bao giờ hết. Với phương pháp chế biến công phu, tuân thủ chặt chẽ kỹ thuật kho cá, cũng như nguyên
liệu chính là cá trắm đen được đảm bảo, đến gia vị tươi nguyên được trồng ngay tại vườn nhà... Cá kho làng Vũ Đại DASAVINA có một hương vị độc đáo đặc biệt bởi phương pháp chế biến hết sức cầu kỳ, với loại cá trắm đen
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
từ 3kg trở lên, cùng hàng chục gia vị bổ sung như: riềng, sườn lợn, kẹo đắng, nước cốt chanh…, ngoài ra, còn có một thứ gia vị rất đặc biệt đó là nước cốt tương cua được ủ từ 2 đến 3 tháng cho chất lượng thơm ngon và mùi vị nồng thơm đặc trưng. Trước khi kho cá, niêu phải được rửa sạch, luộc nước sôi tăng độ bền và phải dùng củi nhãn mới giữ được hương vị và cá mới ngon…Bên cạnh đó, từng công đoạn kho cá đều có sự giám sát của những chuyên gia của DASAVINA nên mỗi niêu cá ra đời đều đảm bảo tuân thủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm tuyệt đối. Giờ đây, anh Toàn hoàn toàn có thể tự hào, khẳng định rằng niêu cá mang thương hiệu DASAVINA là niêu cá ngon nhất làng. Trao đổi với phóng viên, anh Toàn cho biết, “Gái có công, chồng chẳng phụ”, sau nhiều trăn trở, nỗ lực trong những ngày đầu tìm kiếm khách hàng khắp trong Nam, ngoài Bắc, cá kho làng Vũ Đại DASAVINA đã bước đầu có chỗ đứng trên thị trường, được khách hàng tin dùng. Anh khoe: “ Ngoài rất nhiều những giải thưởng ẩm thực giá trị khác thì năm 2014 vừa qua, cá kho làng Vũ Đại DASAVINA đã lọt vào top 20 thương hiệu thực phẩm nổi tiếng nhất Việt Nam do người tiêu dùng bình chọn, và cơ sở chế biến cá kho DASAVINA được chọn là đại diện duy nhất của khu vực Châu Á Thái Bình Dương để Google về quay clip, quảng bá thương hiệu đặc sản món ăn ngon của Việt Nam,
Công ty TNHH Thương mại Đặc sản Việt Nam P1110 - 34T - Hoàng Đạo Thúy - Cầu Giấy - Hà Nội Phone : 04 6268 8803 Fax: 04 6268 8804 Hotline: 09696 4 5151 0934507489 nhưng tôi luôn cho rằng, phần thưởng lớn nhất đối với sản phẩm của công ty tôi, chính là sự tin yêu của người tiêu dùng”. Anh trầm ngâm: “Thời gian qua, công ty gặp rất nhiều khó khăn, một phần do tác động của khủng hoảng kinh tế, phần khác là do sự cạnh tranh không lành mạnh của một vài cơ sở chế biến khác. Ví dụ, để tăng lợi nhuận, họ sẵn sàng thay nguyên liệu cá trắm đen bằng cá trắm cỏ, thậm chí là cá trôi. Họ cho thêm chất bảo quản vào trong niêu cá, như thế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín thương hiệu của món cá kho truyền thống làng Vũ Đại…Sản phẩm của công ty tôi hoàn toàn không có chất bảo quản, nên thời gian sử dụng ngắn hơn. Nếu khách hàng mua về không biết cách bảo quản niêu cá thì chỉ cần để từ 2-3 ngày là niêu cá có thể bị mốc. Do đó, trước khi giao hàng cho khách, nhân viên công ty tôi phải dặn đi dặn lại cách bảo quản cho người tiêu dùng”.
Khi được hỏi về hướng đi XK món cá kho độc nhất vô nhị này, anh Toàn cho biết, công ty đang có kế hoạch XK sản phẩm này, tuy nhiên cũng chưa hoàn thiện về thủ tục pháp lý và gặp một số khó khăn như niêu kho dễ vỡ, không đảm bảo chắc chắn khi xuất khẩu và hoàn toàn sản xuất thủ công nên năng suất chưa cao… Tuy nhiên, một số người nước ngoài hiện đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam hoặc đến Việt Nam du lịch sau khi ăn cá kho của chúng tôi đều tấm tắc khen ngon, do đó, tôi nghĩ, đây là sản phẩm rất có tiềm năng XK. Dự kiến trong năm 2015, chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thiện để có thể XK sản phẩm ra thị trường thế giới. Anh Toàn khẳng định: “Công ty TNHH Thương mại Đặc sản Việt Nam kiên quyết kế thừa nét đẹp tinh hoa ẩm thực trong món ăn đặc sản cá kho làng Vũ Đại, đồng thời luôn luôn đổi mới một cách sáng tạo, nâng cao chất lượng, kiểu dáng bao bì, uy tín với khách hàng và các đại lý, quyết tâm đưa cá kho làng Vũ Đại DASAVINA trở thành món ăn không chỉ nổi tiếng nhất Việt Nam mà còn được biết đến trên thị trường thế giới!”. Ông bà ta có câu : “Miếng ngon nhớ lâu”. Nếu một lần được nếm món cá kho DASAVINA, chắc hẳn bạn sẽ không bao giờ quên được vị thơm ngậy của nó. Chúc cho món ăn mang đậm hương vị đồng quê Việt Nam này sẽ ngày càng “vươn ra biển lớn”. Nguyễn Thị Hồng Hà THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
43
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
Mạnh dạn và quyết liệt hơn
trong xử lý doanh nghiệp yếu kém 2014 LÀ MỘT NĂM THÀNH CÔNG ĐỐI VỚI THỦY SẢN VIỆT NAM, XUẤT KHẨU CỦA TOÀN NGÀNH ĐẠT MỨC TĂNG TRƯỞNG VƯỢT BẬC, GIÁ TRỊ 7,92 TỶ USD, TĂNG 18% SO NĂM 2013, VƯỢT 13% SO MỤC TIÊU ĐỀ RA. SỰ LỚN MẠNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP (DN) THỦY SẢN ĐẶC BIỆT LÀ CÁC DN NGÀNH TÔM ĐÃ ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH, NHƯNG CŨNG THỂ HIỆN RÕ ĐẶC TRƯNG PHÂN HÓA NGÀY CÀNG LỚN, THỰC TẾ, CHỈ NHỮNG DN “LÀM THẬT MỚI CÓ THỂ SỐNG KHỎE”. THƯƠNG MẠI THỦY SẢN XIN ĐỀ CẬP ĐẾN THỰC TẾ NÀY Ở TỈNH CÀ MAU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHO DN.
Thu hoạch tôm
Sự phân hóa ngày càng rõ nét
Cũng như ngành tôm cả nước nói chung, năm 2014 là năm thành công lớn đối với các DN tôm tỉnh Cà Mau, ngành hàng đóng góp tới 1,25 tỷ USD (tăng 20% so với 2013) trong tổng giá trị kim ngạch XK thủy sản toàn tỉnh 1,3 tỷ USD – mức kỷ lục từ trước đến nay. Ông Lý Văn Thuận – Tổng thư ký Hiệp
44
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Cà Mau (CASEP), cho biết: “Trong năm 2014, ngành tôm Cà Mau với sự bức phá ngoạn mục cả về sản lượng, doanh số lẫn hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó với đặc trưng là cộng đồng DN thủy sản, nhất là các DN tôm trên địa bàn ngày càng phân hóa sâu sắc”. Theo ông Thuận, tổng số 26 DN thành viên của Hiệp hội hiện đã chia thành 3 tốp rõ rệt. Tốp 5
DN dẫn đầu không ngừng phát triển mở rộng qui mô sản xuất và thị trường từ đó gia tăng đáng kể kim ngạch XK, chiếm hơn 75% kim ngạch XK toàn ngành thủy sản của tỉnh. Điển hình trong tốp này là Công ty TNHH Anh Khoa, Công ty CP Chế biến Thủy sản và XNK Cà Mau…, nổi bật nhất là chỉ riêng Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú (Cà Mau) đã đạt kim ngạch XK gần 500 triệu USD. Điều này cho thấy khoảng cách giữa nhóm DN mạnh và yếu là rất lớn và ngày càng nới rộng thêm. Tốp giữa là những DN đang rất khó khăn, chỉ hoạt động cầm chừng nhằm có nguồn thu duy trì đội ngũ công nhân. Đặc điểm của nhóm các DN này là vẫn có thị trường nhưng lại ắch tắc về nguồn vốn, không tiếp cận được nguồn vốn vay do không còn tài sản thế chấp và rất cần sự hỗ trợ về tài chính để có thể khôi phục và phát triển sản xuất. Đáng chú ý nhất là tốp còn lại là 6 đơn vị, chiếm 30% số DN thành viên Hiệp hội, như Công
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
ty TNHH Chế biến và Xuất nhập khẩu Thủy sản Việt Hải, Công ty TNHH Chế biến Thủy sản Minh Châu, Công ty TNHH Chế biến Thủy sản Ngọc Châu, Xí nghiệp Kinh doanh Chế biến Thủy sản XK Ngọc Sinh và hàng loạt DN vừa và nhỏ khác. Đặc điểm của nhóm này là các DN đã nhiều lần đổi chủ nhưng vẫn chưa thể vực dậy hoạt động. Và đến nay, hầu như đã dừng hẳn mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, không ít lãnh đạo các DN này rơi vào vòng lao lý với các khoản nợ khổng lồ lên đến hàng trẳm tỷ đồng mà không biết đến bao giờ mới có thể giải quyết dứt điểm. “Bên cạnh những yếu tố khách quan như suy thoái kinh tế toàn cầu kéo theo nhu cầu thị trường giảm sút thì nguyên nhân những khó khăn mà DN đang mắc phải là do năng lực quản lý, nhất là quản lý tài chính, nguồn vốn của DN còn yếu kém. Một thời, hàng loạt doanh nhân thủy sản chứng tỏ sự lớn mạnh của của mình bằng đầu tư tràn lan ngoài ngành. Đây là nguyên nhân chính của của vấn đề” ông Thuận lý giải. Tính trong cả nước, các số liệu thống kê cho thấy dù có hàng loạt “đại gia” thủy sản vỡ nợ nhưng tổng kim ngạch XK toàn ngành vẫn đạt mức tăng trưởng ấn tượng so với cùng kỳ. Điều này không phải là nghịch lý bởi khi DN này phá sản hoặc hoạt động kém hiệu quả lại là thời cơ tốt cho DN khác vươn lên. Chính điều này đã giữ ổn định và gia tăng doanh số XK cho toàn cục. Bức tranh trên cũng chứng minh rằng nguyên nhân chính dẫn đến
việc sụp đổ của một số DN thủy sản là do đầu tư dàn trải dẫn đến mất cân đối tài chính. Còn những DN chuyên tâm vào làm thủy sản thì dẫu có lúc thăng trầm nhưng không thể “chết”.
Phải mạnh dạn và quyết liệt
Tình cảnh thực tại của các DN nằm ở “chiếu dưới” cho thấy họ đang lâm vào vòng lẩn quẩn và hoàn toàn bế tắc. Khó khăn về tài chính, hệ thống ngân hàng dè đặt trong cho vay cấp vốn hoặc cắtnguồn vốn khiến DN không thể phục hồi sản xuất, và không thể khắc phục được lỗ lã và tiếp tục không thể trả nợ được ngân hàng. Hàng loạt DN đổ vỡ nhưng nhiều hậu quả nặng nề còn tồn tại đó mà chưa thể xử lý được. “Phải mạnh tay giải quyết dứt điểm tình trạng DN lỗ lã không còn khả năng phục hồi sản xuất, tránh để tình trạng các DN đã “chết” nhưng “xác” vẫn nằm đó, gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến toàn ngành” - ông Thuận kiến nghị. Đồng thời, ông Thuận cũng đề xuất 3 hướng giải quyết: Một là Nhà nước và hệ thống ngân hàng ra tay cứu lấy DN bằng những cơ chế ưu đãi hỗ trợ hết sức đặc biệt, giúp DN có được nguồn vốn tái hoạt động sản xuất. Đồng thời phải có cơ chế giám sát nhằm đảm bảo DN sử dụng nguồn vốn đúng mục đích, không đầu tư tràn lan, trái ngành, không để DN rơi tiếp vào vòng lẩn quẩn không lối thoát. Tuy nhiên, theo ông Thuận giải pháp này khó khả thi trong tình hình ngân sách nhà nước đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay.
Hai là phải mạnh dạn cho DN tuyên bố phá sản, không thể cứ để tình trạng “ngắc ngoải” đó kéo dài. Cuối cùng, Nhà nước nên sử dụng một số công cụ kinh tế nhằm khuyến khích, kêu gọi những DN lớn, làm ăn hiệu quả sáp nhập, mua lại những DN yếu kém nhằm phục hồi, mở rộng sản xuất thay vì xây dựng đầu tư nhà máy mới. “Tôi cho rằng, hai giải pháp sau là phù hợp, khả thi nhất và nên được áp dụng. Phải mạnh dạn cho DN yếu kém tuyên bố phá sản vì nếu để lại cũng không thể khôi phục sản xuất, hơn nữa ảnh hưởng đến uy tín toàn ngành. Ngoài ra, mua bán, sáp nhập cũng là phải pháp hay tận dụng công suất tại các nhà máy chế biến, tránh đầu tư mới, gây lãng phí” ông Thuận cho biết. Năm 2014, ngành thủy sản kết thúc với những niềm vui lớn nhưng không phải không có những nỗi buồn xen lẫn khi kim ngạch XK tăng cao nhưng kèm theo đó là không ít DN rơi vào bế tắc, âu đó cũng là những diễn biến vốn có của sự vận động. Tuy vậy, với xu thế phục hồi dần của nền kinh tế thế giới, cùng với đó là nhiều chính sách mới của Nhà nước dành cho ngành thủy sản có tính linh hoạt hơn, điều kiện cho vay được nới lỏng, lãi suất hợp lý và chi phí đầu vào đang dần đi vào ổn định…Chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để tin rằng, năm 2015 chắc chắn sẽ tiếp tục là một năm thành công của ngành tôm nước nhà. Đỗ Văn Thông
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
45
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
SGS Việt Nam Tích cực cùng doanh nghiệp xây dựng thương hiệu nông thủy sản Việt Nam KHÔNG CHỈ LÀ NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ HÀNG ĐẦU, SGS VIỆT NAM HƯỚNG ĐẾN MỤC TIÊU TRỞ THÀNH NHÀ TƯ VẤN, CUNG CẤP THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG GIÚP DOANH NGHIỆP (DN) ỔN ĐỊNH PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT, ĐỒNG THỜI, CAM KẾT ĐỒNG HÀNH CÙNG DN XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU NÔNG THỦY SẢN VIỆT NAM.
N
ăm 2014 đánh dấu bước đột phá mạnh mẽ của ngành thủy sản Việt Nam với giá trị xuất khẩu đạt trên 7,9 tỷ USD, vượt xa mức kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, theo các chuyên gia của SGS Việt
46
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Nam, bên cạnh những thuận lợi cơ bản thì ngành thủy sản cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. “Trong ngành nông nghiệp nói chung, nhất là ngành thủy sản, các rào cản kỹ thuật thương mại được
dựng lên ngày càng nhiều, các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm, trách nhiệm xã hội, an toàn môi trường… ngày càng khắt khe hơn. Nếu DN không có bước chuẩn bị tốt sẽ bị tụt hậu trong quá trình hội nhập toàn cầu này” Ông Vũ Đức Thắng
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Hội thảo với chủ đề “Xu huớng tiêu dùng sản phẩm thủy sản tại các thị trường xuất khẩu lớn; Ngành thủy sản trong tương lai và trách nhiệm xã hội DN” và lễ khai trương Chi nhánh Văn phòng SGS Việt Nam tại thành phố Cần Thơ ngày 12/12/2014
– PGĐ SGS Việt Nam cho biết. Chính vì thế, với vai trò là một trong những nhà cung cấp dịch vụ giám định, thử nghiệm, thẩm tra và chứng nhận hàng đầu tại Việt Nam, SGS Việt Nam mong muốn được tiếp tục đóng góp sức mình đồng hành cùng DN xây dựng thương hiệu nông thủy sản Việt Nam. Từ đó, giúp các sản phẩm nông nghiệp thủy sản Việt Nam thâm nhập sâu rộng vào thị trường toàn cầu. Để cụ thể hóa những cam kết của mình, ngày 12/12/2014, Công ty SGS Việt Nam đã tổ chức hội thảo với chủ đề “Xu huớng tiêu dùng sản phẩm thủy sản tại các thị trường xuất khẩu lớn; Ngành thủy sản trong tương lai và trách nhiệm xã hội DN” đồng thời, tiến hành làm lễ khai trương Chi
nhánh văn phòng SGS Việt Nam tại thành phố Cần Thơ. Đây được xem là sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của SGS Việt Nam. “Đây là một minh chứng, đánh dấu bước phát triển toàn diện, mạnh mẽ của SGS Việt Nam trên các lĩnh vực, nông nghiệp, thủy sản ở cả ba khu vực Bắc, Trung, Nam Việt Nam. Với sự ra đời của Chi nhánh Văn phòng đại diện tại Cần Thơ, SGS Việt Nam sẽ trở nên sâu sát hơn với việc phục vụ và hỗ trợ khách hàng, DN tốt hơn” ông Vũ Đức Thắng cho biết và khẳng định “Thông qua những hoạt động cụ thể của mình, SGS Việt Nam sẽ cùng DN xây dựng thương hiệu thủy sản Việt Nam, từ đó giúp sản phẩm thủy sản nước ta hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới.”
CÔNG TY TNHH SGS VIỆT NAM Tên thương mại: SGS Vietnam Ltd. Địa chỉ: Lô 22, đường 7 KCN Tân Tạo, P. Tân Tạo A, Q. Bình Tân, Tp. Hồ Chí Minh Điện thoại: (+84) 8 37543624 Fax: (+84) 8 37543625 Email: info@kienvuong.com Website: www.kienvuong.com Sản phẩm: Các loại hóa chất, nguyên liệu, phụ gia đa ngành.
Sự ra đời Văn phòng đại diện tại Cần Thơ của SGS Việt Nam còn thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương. Đại diện Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ ông Trần Hữu Hiệp – Vụ trưởng Vụ kinh tế, cho biết “SGS nên chủ động tham gia và tích cực góp phần vào chuỗi giá trị cá tra, một trong 2 mũi nhọn của ngành thủy sản ĐBSCL”. Đồng thời ông cũng mong muốn, SGS sẽ không chỉ đơn thuần là nhà cung cấp chứng thư giám định hàng hóa cho DN, mà cần quan tâm đến các hoạt động tư vấn, cung cấp thông tin cảnh báo thị trường, phát triển khách hàng tiềm năng và gắn kết các chương trình phát triển giữa các tỉnh, thành trong vùng. Cùng quan điểm như trên, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) cho rằng: “SGS nên sớm trở thành nhà tư vấn cung cấp thông tin xu thế thị trường chứ không đơn thuần chỉ là nhà cung cấp dịch vụ như lâu nay”. Đại diện VASEP cũng khẳng định mối quan hệ hợp tác giữa VASEP và SGS Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển tốt trong tương lai. Ông Steven Du, Tổng giám đốc SGS Việt Nam cho biết “SGS Việt Nam sẽ kiên trì với mục tiêu cung cấp dịch vụ hiệu quả và xuyên suốt trong toàn chuỗi giá trị nông thủy sản của vùng ĐBSCL, hướng đến việc cung cấp những thông tin hữu ích, tiếp cận và hợp tác giữa các bên nhằm hướng đến phát triển một nền kinh tế nông nghiệp, thủy sản bền vững”. Đỗ Văn Thông THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
47
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
Hùng Vương Sa Đéc
xây dựng nhà máy mới, cam kết bảo vệ môi trường ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ MÁY MỚI, NÂNG CÔNG SUẤT CHẾ BIẾN ĐỒNG THỜI TRANG BỊ HỆ THỐNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI HIỆN ĐẠI, ĐẢM BẢO NGUỒN NƯỚC XẢ ĐẠT LOẠI A, CÔNG TY TNHH HÙNG VƯƠNG SA ĐÉC DỰ KIẾN ĐỀ XUẤT ĐƯỢC PHÉP XẢ THẢI TRỰC TIẾP RA MÔI TRƯỜNG, TỪ ĐÓ CẮT GIẢM ĐƯỢC CHI PHÍ, TIẾT KIỆM NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
Lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp làm việc với lãnh đạo Công ty TNHH Hùng Vương Sa Đéc
T
rong bối cảnh chung của toàn ngành, cũng như đang phải chịu nhiều tác động tiêu cực từ những diễn biến của thị trường. Thế nhưng không như các doanh nghiệp khác phải co cụm, thu hẹp sản xuất, Công ty TNHH Hùng Vương Sa Đéc không ngừng lớn mạnh và mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, từng bước khép kín toàn chuỗi giá trị ngành cá tra. Nằm trong kế hoạch mở rộng qui mô sản xuất đã được Ban giám đốc công ty thông qua từ năm 2007, Công ty TNHH Hùng Vương Sa Đéc đang lên kế hoạch và chuẩn bị mọi nguồn lực để nâng cao công suất nhà máy chế biến thủy sản lên 220 tấn nguyên
48
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
liệu/ngày nhằm đáp ứng với việc mở rộng qui mô thị trường. Nhà máy hiện tại của công ty mới có công suất 40 tấn nguyên liệu/ ngày với lực lượng công nhân là 400 người. Ông Trần Đức Hoàng – GĐ Công ty TNHH Hùng Hương Sa Đéc cho biết: “Việc mở rộng qui mô sản xuất không chỉ đáp ứng nhu cầu sản xuất thực tế, khẳng định sự lớn mạnh của công ty mà còn góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương, giải quyết công ăn việc làm cho lượng công nhân là 1.400 người. Đây sẽ là một trong những nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu lớn nhất trong khu vực ĐBSCL”. Theo xu thế chung của thị trường, bên cạnh việc đáp ứng
các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP), khách hàng còn đòi hỏi nhà cung cấp phải sản xuất sản phẩm có trách nhiệm với xã hội, an sinh động vật và an toàn với môi trường. Chính vì thế, bên cạnh đầu tư xây dựng nhà máy mới, Hùng Vương Sa Đéc còn đầu tư thêm hệ thống xử lý nước thải với công nghệ thiết bị hiện đại, đảm bảo quá trình sản xuất không gây ô nhiễm môi trường. Khi nhà máy mới được xây dựng và đi vào hoạt động, dự kiến lượng nước thải sẽ gia tăng đáng kể và đạt mức 2.600m3/ ngày đêm. Để xử lý triệt để nguồn nước thải này, Hùng Vương Sa Đéc sẽ đầu tư thêm hệ thống xử lý nước thải hiện đại với số vốn 3-4 tỷ đồng. Và theo yêu cầu của khách hàng, toàn bộ lượng nước thải của công ty được xử lý sẽ đạt đến cột A theo qui chuẩn Việt Nam 11:2008/BTNMT trước khi được xả thải ra hệ thống chung của khu công nghiệp. Theo ông Hoàng, Công ty Cổ phần Hùng Vương đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải tương tự cho nhà máy Hùng Vương Châu Âu tại KCN Mỹ Tho, tỉnh
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Hệ thống xử lý nước thải hiện đại là hạng mục đầu tư không thể thiếu của các doanh nghiệp thủy sản
Tiền Giang và đã được sở Tài nguyên và Môi trường (TNMT), cảnh sát môi trường tỉnh Tiền Giang chấp nhận đạt chất lượng cột A và đã được KCN Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang cho phép xả thải trực tiếp ra môi trường từ hơn 3 năm nay. Chính vì vậy, Hùng Vương Sa Đéc đề nghị các cấp, cơ quan quản lý tỉnh Đồng Tháp cho phép công ty xả thải trực tiếp ra môi trường mà không qua hệ thống xử lý chung của KCN. Từ đó giúp doanh nghiệp cắt giảm được chi phí, hạ thấp giá thành, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới.
“Nếu xả thải vào hệ thống chung của KCN, bên cạnh việc doanh nghiệp phải đầu tư xây dựng hệ thống đấu nối, hệ thống xử lý chung của KCN cũng tốn thêm chi phí xử lý để đạt đến chuẩn A, trong khi nguồn nước thải của nhà máy đã đạt đến chuẩn A rồi. Điều này là hết sức lãng phí và không cần thiết” ông Hoàng cho biết. Ngoài ra, nếu dự án đầu tư mở rộng hay xây dựng nhà máy mới của Hùng Vương Sa Đéc đi vào hoạt động, với công suất đã nêu thì hệ thống xử lý nước thải sẵn có của KCN Sa Đéc chắc chắn sẽ quá tải và phải nâng
CÔNG TY TNHH HÙNG VƯƠNG SA ĐÉC Địa chỉ : Lô 35III -5, khu C mở rộng, KCN Sa Đéc – TP Sa Đéc – Đồng Tháp. Điện thoại : +84 67 376 4345 Fax: +84 67 376 4567 Ngành nghề kinh doanh: Sản xuất, chế biến, bảo quản và xuất khẩu thủy sản.
cấp đầu tư thêm. Chính vì vậy, nếu được chấp thuận cho phép xả thải trực tiếp ra môi trường không chỉ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí mà còn giúp tiết kiệm được nguồn ngân sách nhà nước. Đề xuất của Công ty TNHH Hùng Vương Sa Đéc đã đang được lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp xem xét. Ông Đinh Thanh Hùng – Phó chủ tịch UBND tỉnh đã phân công chi tiết, cụ thể đến từng đơn vị, cơ quan để phối hợp với công ty tiến hành khảo sảo thực tế, tìm ra giải pháp phù hợp với cam kết sẽ linh hoạt trong các chính sách quản lý nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp đầu tư làm ăn trên địa bàn tỉnh. Đỗ Văn Thông
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
49
DOANH NGHIÏåP / DOANH NHÊN
CHUÁC MÛÂNG SINH NHÊÅT Ban Chêëp haânh Hiïåp höåi Chïë biïën vaâ Xuêët khêíu Thuãy saãn Viïåt Nam (VASEP) nhiïåt liïåt chuác mûâng 22 doanh nghiïåp höåi viïn nhên kyã niïåm ngaây thaânh lêåp cuãa àún võ trong thaáng 1/2015
CÖNG TY TNHH THUÃY SAÃN PHAÁT TRIÏÍN FATIFISHCO (2/1/2002)
CÖNG TY CP THUÃY SAÃN BÏËN TRE BESEACO (1/1/2003)
C.TY TNHH ÀÖNG PHÛÚNG DONG PHUONG CO., LTD (7/1/1994)
CÖNG TY TNHH SWIRE COLD STORAGE VIÏÅT NAM SWIRE COLD STORAGE (8/1/1998)
CÖNG TY TNHH MAI LINH MAILINH CO.,LTD (6/1/2002)
CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN XUÊËT NHÊÅP KHÊÍU HOAÂNG LAI HOANG LAI IM-EX JSC (9/1/1992)
CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN THUÃY SAÃN SOÁC TRÙNG STAPIMEX (7/1/1993)
CUÅC QUAÃN LYÁ CAÅNH TRANH VCAD (9/1/2006)
EXPORT JOINT-STOCK CO.
C.TY TNHH LOTTE-SEA LOGISTICS
NGÊN HAÂNG ÀÖNG AÁ
LOTTE-SEA LOGISTICS CO., LTD
SEABANK (14/1/2005)
(12/1/2008)
CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN CHÏË BIÏËN HAÂNG XUÊËT KHÊÍU CÊÌU TRE
XUÊËT KHÊÍU VAÅN ÀÛÁC
CTE JSCO (15/1/1993)
VD FOOD EXPORT JSC (15/1/2001)
CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN CHÏË BIÏËN
CÖNG TY TNHH ANH KHOA AK SEAFOOD (15/1/2002)
CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN THÛÅC PHÊÍM SAO TA
CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN THUÃY SAÃN CAÂ MAU
THÛÅC PHÊÍM PHÛÚNG NAM
SEAPRIMEXCO VIETNAM (16/1/1993)
PHUONG NAM CORP (16/1/1998)
FIMEX VN (20/1/1995)
CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN CHÏË BIÏËN
CÖNG TY CP CHÏË BIÏËN VAÂ XNK
C.TY CP CHÙN NUÖI CP VIÏåT NAM
C.TY TNHH THUÃY SAÃN PHÛÚNG ÀÖNG
THUÃY HAÃI SAÃN HIÏÅP THANH
THUÃY SAÃN CADOVIMEX II
C.P. GROUP (28/1/2011)
PHUONGDONG SEAFOOD
HTFOOD (22/1/1998)
CADOVIMEX (24/1/2007)
CÖNG TY XNK NÖNG SAÃN THÛÅC PHÊÍM AN GIANG CÖNG TY TNHH MTV XK THUÃY SAÃN KHAÁNH HOÂA AN GIANG AFIEX COMPANY KHASPEXCO (30/1/1993) (29/1/1996)
50
CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN THÛÅC PHÊÍM
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
(29/1/2001)
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
CHUÁC MÛÂNG SINH NHÊÅT Ban Chêëp haânh Hiïåp höåi Chïë biïën vaâ Xuêët khêíu Thuãy saãn Viïåt Nam (VASEP) nhiïåt liïåt chuác mûâng 20 doanh nghiïåp höåi viïn nhên kyã niïåm ngaây thaânh lêåp cuãa àún võ trong thaáng 2/2015
TÖÍNG CÖNG TY CP XNK THUÃY SAÃN THANH HOÁA HASUVIMEX (4/2/1994)
CÖNG TY SÖNG GIANH SOGICO (6/2/1996)
CÖNG TY TNHH HUÂNG CAÁ HUNGCA CO., LTD (6/2/2006)
CÖNG TY TNHH UNI-PRESIDENT VIÏÅT NAM UNI-PRESIDENT (6/2/1999)
CÖNG TY TNHH THUÃY SAÃN THAÁI BÒNH DÛÚNG - L.A THAI BINH DUONG - L.A CO., LTD (7/2/2006)
CÖNG TY CP XNK SA GIANG SAGIMEXCO (8/2/1992)
CÖNG TY CP XNK VIÏÅT NGÛ VINAFISH CORP (13/2/2007)
CÖNG TY CP TP ÀOÁNG HÖÅP KIÏN GIANG KIFOCAN (16/2/2005)
CÖNG TY CP CB THUÃY SAÃN XUÊËT KHÊÍU NGÖ QUYÏÌN NGOPREXCO (16/2/2005)
CÖNG TY ÀÖÌ HÖÅP VIÏÅT CÛÚÂNG YUEH CHYANG CANNED FOOD (17/2/1998)
CÖNG TY CP CB THUYÃ SAÃN XUÊËT KHÊÍU ÊU VÛÄNG AUVUNG CO (17/02/2006)
CÖNG TY CP THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN AÁ CHÊU ACOMFISH (18/2/2006)
CÖNG TY CP XNK NAM HAÂ TÔNH SHATICO (20/2/1993)
CÖNG TY CP XK THUÃY SAÃN II QUAÃNG NINH AQUAPEXCO (22/2/1993)
CÖNG TY CP XNK THUÃY SAÃN QUAÃNG NINH QUANG NINH SEAPRODEX CO (22/2/1993)
CÖNG TY CP XNK THUÃY SAÃN MIÏÌN TRUNG SEAPRODEX DA NANG (26/2/1983)
CÖNG TY CP CB THUÃY SAÃN UÁT XI UTXICO (27/2/2002)
CTY TNHH THÛÅC PHÊÍM A & CDN A & CDN FOODS CO., LTD (27/2/2003)
CÖNG TY CÖÍ PHÊÌN THÛÚNG MAÅI DÕCH VUÅ PHAN DUY PHAN DUY CORP (28/2/1983)
C.TY TNHH HIGHLAND DRAGON HIGHLAND DRAGON ENTERPRISE (27/2/1999)
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
51
PHAÁT TRIÏÍN BÏÌN VÛÄNG KINH TÏË BIÏÍN
Một con cá sấu cửa sông (Crocodylus porosus) chộp được một con chim (ở Ôxtrâylia).
Đại dương
- Thế giới của những điều kỳ bí (Kỳ 12)
Bryan Richard, Sarah Richkayzen, Joan Barker
52
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Sự sống trên cạn và dưới biển
Trên các vách đá nhô ra biển và giữa các cồn cát, chúng ta có thể thấy nhiều loài thực vật trên cạn có khả năng chống chịu tốt như địa y, rêu và cỏ. Chúng có thể thích nghi với các điều kiện sống khắc nghiệt của môi trường ven biển như thiếu nước ngọt và ảnh hưởng của hiện tượng táp mặn do gió từ biển thổi vào. Tuy nhiên, ngoài loài dừa cạn có khả năng chống chịu tốt và một số
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Cua biển trên đảo Clipperton ở Thái Bình Dương. Dù từ lâu đã thích nghi với môi trường trên cạn, loài này vẫn phải quay lại biển để đẻ trứng, trong đó có những con đẻ hàng triệu trứng, mang đến góc nhìn đẹp cho người quan sát và bữa ăn ngon lành cho nhiều loài động vật ăn thịt đang đói bụng.
loài giáp xác chân hai loại và giáp xác chân đều, hầu như không có loài động vật biển nào sống ngoài phạm vi đại dương hoặc ở tầng trên mức thủy triều cao. Sự sống trên cạn vẫn tồn tại, nhưng hệ động vật cũng có khuynh hướng chỉ giới hạn ở các loài côn trùng, còn ở giữa các cồn cát lâu năm và trên mỏm các vách đá là các loài thằn lằn và ăn cỏ nhỏ. Giống như các loài chim ăn xác thối, các loài động vật có vú trên cạn lớn hơn ra bãi triều để tìm kiếm thức
ăn là những thứ còn nằm lại sau các cơn thủy triều dâng, rất ít các loài động vật sống ở đây. Tuy nhiên, vào một số thời điểm trong năm, nơi này sẽ trở nên náo nhiệt khi các loài động vật có vú và bò sát biển – có tổ tiên từng sống trên cạn – quay lại đất liền để sinh con hoặc đẻ trứng. Tương tự, chim biển, với một số loài chủ yếu sống phía trên các đại dương, thường tụ tập thành các bầy sinh sản lớn trên các vách đá để đẻ trứng và nuôi con.
Rùa biển
Rùa biển hiện đại đã tiến hóa khoảng 120 triệu năm trước và có khả năng thích nghi cao với môi trường biển nhờ vỏ tương đối nhẹ và thuôn, và các chi được biến đổi thành các chân chèo lớn để bơi. Một số loài thậm chí còn có thể tự bổ sung oxy – nguồn khí thường được lấy qua hít thở trên mặt nước. Ở những hòn đảo xa xôi, cũng có khi, một số loài rùa bòlên trên các bãi biển, nhưng phần lớn chúng sống cả THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
53
PHAÁT TRIÏÍN BÏÌN VÛÄNG KINH TÏË BIÏÍN
Đồi mồi (Eretmochelys imbricata) từng bị săn bắt nhiều vì có mai đẹp. Rùa trưởng thành không chăm sóc rùa con, để trứng ấp và nở một mình trong ổ. Trứng nở sau khoảng hai tháng, nhưng ở nhiệt độ cao hơn, thời gian ấp sẽ ngắn hơn. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến giới tính của rùa mới nở – ở nhiệt độ cao hơn sẽ nở ra nhiều rùa cái hơn.
đời dưới biển. Rùa sinh sản bằng cách đẻ trứng, rùa cái phải di chuyển vào bờ, đẻ trứng vào hố cát và vùi trứng dưới cát để ấp trứng, vỏ trứng rùa dai như da.
Mùa sinh sản
Vào đầu mùa sinh sản, các cá thể đã phát triển thuần thục di cư vào các vùng nước ven bờ là nơi sinh sản của chúng, dọc các bờ biển nơi chúng từng được ấp nở. Rùa xanh (Chelonia mydas) – loài
54
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
thường kiếm ăn ở các vùng nước nhiệt đới nông Đại Tây Dương, vùng ven biển Châu Mỹ – có thể phải di chuyển hơn 1.000 dặm (1.609 km) mới đến được hòn đảo nhỏ Ascension giữa Đại Tây Dương – ở đây có khoảng 5.000 loài rùa xanh đẻ trứng. Các loài sống ở tầng nổi phía trên khác như vích (Lepidochelys olivacea) có thể cũng phải di cư với khoảng cách tương đương. Vích là loài rùa biển có số lượng cá thể đông
nhất và sinh sản với số lượng lớn ngoài khơi bờ biển Thái Bình Dương ở Mêhicô và Costa Rica, và ở Ấn Độ – nơi này cùng lúc có hàng trăm nghìn con rùa cái đến đẻ trứng. Quá trình giao phối xảy ra dưới biển, sau đó rùa đực sẽ quay lại nơi kiếm ăn, còn rùa cái chuẩn bị làm ổ. Rùa cái thường đẻ trứng khoảng hai tuần sau khi thụ tinh. Khi đó, chúng sẽ di chuyển từ biển lên các bãi biển làm ổ.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Vích (Lepidochelys olivacea) vùi trứng trên một bãi biển ở Mêhicô. Rùa có thể sống rất lâu, nhưng trong số những cá thể nở ra, chỉ một số lượng nhỏ sẽ sống được đến giai đoạn trưởng thành để quay trở về sinh sản ở các vùng nước nơi chúng được sinh ra. Việc bằng cách nào rùa trưởng thành có thể tìm được đường quay lại những nơi làm ổ này vẫn còn là bí ẩn, nhưng nhiều người cho rằng chúng có thể tự định hướng và tìm vị trí theo từ trường của Trái Đất. Rùa đực đôi khi có thể sinh sản hàng năm, nhưng rùa cái thường 2-5 năm mới đẻ trứng một lần.
Làm ổ trong cát
Rùa cái nổi lên giữa biển vào ban đêm và di chuyển trong bóng tối về phía bãi biển cao trên mức thủy triều. Cơ thể nặng nề có thể khiến rùa hao tổn sức lực khi di chuyển trên cạn, nhưng khi đã đi đủ xa, chúng sẽ phải đào ổ trên cát bằng các chân chèo sau. Đáng ngạc nhiên là ổ được đào khá sâu, khoảng 81,28 cm. Sau khi đào xong, rùa cái sẽ đẻ một ổ trứng khoảng 50-180 quả, tùy loài, sau đó vùi trứng trong cát và chúng quay lại biển. Toàn bộ quá trình sẽ kéo dài vài giờ đồng hồ và diễn ra 7 lần trong mùa sinh sản. Rùa cái thường ăn rất ít trong khoảng thời gian này, chúng sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn dự trữ chất béo trong cơ thể, nhưng ngay sau khi đẻ trứng xong, chúng sẽ quay lại nơi kiếm ăn và
bắt đầu ăn trở lại. Không giống các loài bò sát thông thường, một số loài rùa hầu như chỉ ăn cỏ, chủ yếu là tảo, nhưng nhiều loài cũng ăn động vật không xương sống ở đáy biển hoặc trôi nổi. Đồi mồi (Eretmochelys imbricata) chủ yếu ăn hải miên.
Bị nhiều loài tấn công
Ngay sau khi nở, rùa con sẽ tự đào cát để ra ngoài ổ và chúng phải đối mặt với nguy cơ bị tấn công từ nhiều loài động vật ăn thịt xung quanh như chim, động vật có vú và cua khi cố gắng để di chuyển ra biển. Trứng thường nở vào ban đêm nhằm giảm nguy cơ bị ăn thịt, nhưng rùa mới nở lại phụ thuộc vào ánh sáng để tìm đường ra biển, nên ban đêm chúng di chuyển về phía mặt biển phản chiếu theo bản năng. Khi ra đến biển, rùa con sẽ bơi
ra ngoài theo hướng bắt nguồn của sóng và di chuyển vào vùng nước sâu hơn. Việc rùa con sống ở đâu trong trong những tháng đầu tiên, hoặc thậm chí những năm đầu tiên trong cuộc đời vẫn còn là bí ẩn, nhưng một số người cho rằng chúng có thể trôi dạt cùng với các bè tảo đuôi ngựa nổi trên mặt nước – nguồn cung cấp thức ăn và nơi trú ngụ của chúng, rùa sống phân tán rộng rãi theo dòng chảy. Sau đó, chúng di chuyển đến các vùng nước ven bờ, trừ rùa da (Dermochelys coriacea) – loài duy nhất trong họ Dermochelyidae và có vỏ da chứ không phải vỏ xương – sẽ sống trên tầng nước nổi trong suốt cuộc đời. Phương Thảo biên dịch (Còn nữa)
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
55
PHAÁT TRIÏÍN BÏÌN VÛÄNG KINH TÏË BIÏÍN
Nuôi tôm kết hợp rừng phòng hộ tại Vườn Quốc gia Xuân Thủy - Nam Định TIÊU THỤ SẢN PHẨM SẠCH ĐANG ĐƯỢC CHÚ TRỌNG TẠI NHIỀU THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ, DO ĐÓ NUÔI TÔM SINH THÁI ĐANG LÀ XU THẾ MỚI CHO NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN. VƯỜN QUỐC GIA (VQG) XUÂN THỦY – NAM ĐỊNH LÀ MỘT TRONG NHỮNG ĐỊA PHƯƠNG ĐI ĐẦU TRONG PHÁT TRIỂN NGÀNH NUÔI MỚI NÀY TẠI VIỆT NAM.
Tôm sinh thái tại Việt Nam
Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), hiện nay 5 địa phương đang triển khai thí điểm nuôi tôm sinh thái là: Vườn Quốc gia Xuân Thủy (Nam Định); Rừng Nhưng Miên Vườn Quốc gia mũi Cà Mau; Rừng phòng hộ Cần Giờ (Tp.Hồ Chí Minh); Rừng phòng hộ ven biển Sóc Trăng và Khu bảo tồn thiên nhiên Thạnh Phú (Bến Tre)
5 dự án này đang góp phần bảo vệ 129.924 ha rừng ngập mặn, phục hồi hệ sinh thái đất ngập nước ven biển. Theo số liệu của Bộ , nếu 100.000 ha rừng ngập mặn được khoán cho các hộ dân bảo vệ, họ tự đầu tư nuôi tôm sú dưới tán rừng sẽ đạt được năng suất thu hoạch tôm sú 200kg/ha/ năm và giá bán khoảng 80.000 đồng/kg. Tổng số tiền thu được khoảng 1.600 tỷ đồng/năm.
Nuôi tôm theo mô hình công nghiệp tại vùng đệm trong khu vực VQG Xuân Thủy - Nam Định
56
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, các tập đoàn bán lẻ trên khắp thế giới đang dần ưa chuộng sản phẩm thủy hải sản được chứng nhận từ đánh bắt hay từ nuôi như một phần trong chiến lược kinh doanh gắn với trách nhiệm DN của họ. Hơn nữa, sản phẩm từ nguồn cung có nguồn gốc và chứng nhận rõ ràng được xem
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
như chiến lược làm giảm căng thẳng với các tổ chức môi trường uy tín và tăng chất lượng, giá trị sản phẩm đến với khách hàng. Theo thống kê, tôm sú nuôi sinh thái của Việt Nam được bán tới 10 thị trường lớn như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Úc, Đài Loan… Riêng khu vực châu Âu, tôm nuôi sinh thái từ Việt Nam được xuất khẩu trực tiếp sang Đức và Thụy Sĩ. Các công ty nhập khẩu của Đức phân phối lại cho các nước châu Âu khác. Từ cuối năm 2013, các nhà bán lẻ tại EU đã điều chỉnh giá bán lẻ đối với tôm nuôi sinh thái trên cơ sở tăng giá mua vào. Người tiêu dùng thế giới tại nhiều nước (Canađa, Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc… ) cũng đang dần chuyển sang lựa chọn sản phẩm tôm nuôi sinh thái có chứng nhận của các tổ chức quốc tế về an toàn vệ sinh thực phẩm, sản phẩm nuôi trong điều kiện bảo vệ môi trường. Do đó, tại nhiều địa phương trên cả nước đang từng bước phát triển nuôi tôm sinh thái.
Thực trạng nuôi thủy sản tại VQG Xuân Thủy
Hiện nay, tại VQG Xuân Thủy đang có gần 500 hộ gia đình nuôi tôm rảo, cua, hà...theo phương thức quảng canh. Người dân ở đây cho biết vào những năm 1980, việc nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản ở đây hết sức dễ dàng. Nhưng bây giờ đã khác, nuôi thủy sản không còn cho kết quả cao nữa vì môi trường tự nhiên của vùng biển này đã thay đổi theo chiều hướng xấu.
Diện tích toàn bộ vườn VQG Xuân Thủy khoảng 7.100 ha, gồm 3.100 ha diện tích đất nổi có rừng và 4.000 ha đất rừng ngập mặn
Ông Đoàn Văn Triều, có 16 ha diện tích đầm nuôi tôm trong vùng đệm của Vườn cho biết thu nhập của ông giảm đi rõ rệt trong mấy năm trở lại đây. “Tôi kiếm được 100 triệu VNĐ trong năm 2013 từ nuôi tôm, nhưng nó chỉ bằng một nửa so với những năm trước đó. Nuôi trồng thủy sản rất dễ bị tổn thương khi môi trường ô nhiễm” ông Triều nói. VQG đã xuất hiện nhiều diện tích rừng ngập mặn bị chết khô. Đây là hậu quả của việc người dân địa phương tận dụng vùng đất ngập nước nuôi tôm quảng canh. Do nước không được tuần hoàn lên xuống tự nhiên theo thủy triều nên những vùng rừng ngập nước đã bị úng và bị chết dần. Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Viết Cách, Giám đốc VQG Xuân Thủy cho biết việc phục hồi rừng ngập mặn trên các đầm tôm đang được thực hiện. Ở các đầm “trắng”, rừng được trồng lại trên các bờ đầm và nội vi theo một thiết kế khoa học đảm bảo độ che phủ đạt 30 - 50%. Cùng với việc phục
hồi rừng, BQL cũng đang phối hợp với chính quyền các xã trong vùng xác lập phương thức canh tác quảng canh cải tiến phù hợp, nhằm giúp người dân ở đây duy trì mô hình lâm ngư kết hợp, có thu nhập ổn định và lâu bền. Đối với các đầm tôm còn rừng, xác lập mô hình nuôi tôm sinh thái có tỷ lệ rừng, mặt nước và phương thức canh tác thích hợp. Kề sát phía nam VQG Xuân Thủy, “vựa ngao” Giao Xuân không chỉ nuôi sống dân cả xã mà còn giúp họ làm giàu, với gần 50 tỷ phú nuôi ngao. Những năm qua, tình trạng khai thác ngao giống và nuôi ngao không đúng cách đã dẫn đến hậu quả làm biến đổi các dòng chảy trong khu bảo tồn Ramsar, dẫn đến cạn kiệt nguồn ngao sinh sản và giảm năng suất các đầm nuôi ngao. Vì vậy, chính quyền địa phương đang phối hợp với VQG xây dựng mô hình nuôi ngao bền vững. Để giữ gìn VQG Xuân Thủy đi đôi với phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng - an ninh, các cấp, các ngành, các THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
57
PHAÁT TRIÏÍN BÏÌN VÛÄNG KINH TÏË BIÏÍN
nhà khoa học cần có những biện pháp đồng bộ, hiệu quả từ công tác quy hoạch đến các tiến trình thực hiện theo từng giai đoạn.
Nuôi tôm sinh thái tại VQG
Dự án nuôi tôm sinh thái của tỉnh Nam Định đang được triển khai tại khu vực xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy nằm trong vùng đệm của VQG Xuân Thủy. Đây là dự án có sự phối hợp giữa Hội Nông dân xã với Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội triển khai thực hiện các mô hình nuôi trồng, chế biến và khai thác thủy hải sản. Trong đó mô hình hỗ trợ nông dân nuôi tôm bền vững, thực hiện các giải pháp hồi phục ao tôm bị suy thoái bằng mô hình nuôi tôm kết hợp với trồng rừng ngập mặn để tái tạo rừng và ổn định hệ sinh thái, thu hút nhiều hộ nuôi tham gia. Ngoài ra, được sự hỗ trợ của Chính phủ Hà Lan, Hội Nông dân xã đã tổ chức hướng dẫn cho hội viên phương pháp
nuôi trồng thuỷ sản theo hướng đảm bảo vệ sinh an toàn và nâng cao nhận thức về lợi ích của quy trình nuôi trồng thuỷ sản đạt hiệu quả, an toàn vệ sinh thực phẩm và giá trị trong việc bảo vệ tài nguyên môi trường, sức khoẻ cộng đồng. Do đó, hơn 1.000 hộ dân trong xã đã chuyển từ khai thác rừng ngập mặn tự nhiên sang khoanh vùng khai thác kết hợp nuôi trồng thuỷ, hải sản. Đến nay, diện tích nuôi trồng thuỷ hải sản của xã đạt gần 2.000ha, tập trung chủ yếu ở khu vực Cồn Ngạn và một phần trong nội đồng. Bằng hình thức nuôi thâm canh, bán thâm canh và bán công nghiệp với con nuôi chủ lực là tôm sú, tôm rảo, cua và ngao giống, đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ông Nguyễn Văn Dũng Chủ tịch Hội cho biết nhân dân trong xã còn tận dụng diện tích mương dẫn nước, ao hồ, đầm, vũng ở cả vùng nước ngọt và nước lợ để trồng rau câu”. Với cách chăm bón đơn giản (thả giống một lần,
thu hoạch nhiều đợt trong năm, mỗi đợt từ 15-20 ngày), mỗi hecta rau câu đạt năng suất 3-5 tấn. Hiện nay, ở Giao Thiện có khoảng 100 hộ thả rau câu kết hợp với nuôi cá hoặc nuôi cua biển. “Đây là mô hình mới, cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với mô hình nuôi thuỷ sản theo hình thức bán thâm canh, vì ngoài giá trị kinh tế, rau câu còn có tác dụng cải tạo môi trường nước, tạo khoáng chất và các sinh vật phù du có lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cua biển, cá vược, cá rô phi đơn tính” ông Dũng nói. Từ mô hình này, gia đình các ông: Trần Phú Tắp, Trần Văn Thái, ở xóm 17; Mai Kế Hồ ở xóm 24; Trần Văn Thiện, Trần Văn Lợi ở xóm Tân Hồng… đã đạt mức thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Bên cạnh nuôi trồng, nghề khai thác hải sản ở xã cũng phát triển, thu hút hàng nghìn lao động địa phương và các xã lân cận với gần 200 phương tiện khai thác gần bờ. Năm 2011, doanh thu từ nghề nuôi trồng và khai thác thủy hải sản của xã đạt khoảng 30 tỷ đồng. Những chuyển đổi hợp lý trong phát triển kinh tế từ việc khai thác tiềm năng, thế mạnh ở vùng đệm Vườn Quốc gia Xuân Thủy đã nâng cao mức sống của nhân dân xã Giao Thiện. Năm 2011, tổng thu nhập của toàn xã đạt trên 146 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 13,2 triệu đồng/năm. Dũng Minh
Nuôi thủy sản trong khu vực VQG Xuân Thủy
58
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Biển Đông với chủ quyền đất nước
TỪ THÀNH CÔNG VƯỢT THÁI BÌNH DƯƠNG BẰNG BÈ MẢNG NHÌN LẠI CỘI NGUỒN HÀNG HẢI TỔ TIÊN BÁCH VIỆT TS Lê Thành Ý - Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam VỚI NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ DI VẬT HIỆN CÒN; NHIỀU NHÀ PHÂN TÍCH CHO RẰNG, NỀN VĂN MINH ĐÔNG NAM Á VÀ CHÂU MỸ CÓ NHIỀU NÉT TƯƠNG ĐỒNG. KHÔNG ÍT GIẢ THUYẾT NÊU RA, TỪ HÀNG NGHÌN NĂM TCN CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á ĐÃ CÓ NHIỀU CHUYẾN VƯỢT BIỂN THÀNH CÔNG GIỮA 2 BỜ THÁI BÌNH DƯƠNG RỘNG LỚN. NHẰM LÀM RÕ NHẬN ĐỊNH NÀY,TIM SEVERIN ĐÃ TÌM NƠI THỬ NGHIỆM VƯỢT BIỂN BẰNG BÈ MẢNG NHƯNG KHÔNG THÀNH. ĐẾN VIỆT NAM, ĐƯỢC PHÉP CỦA BỘ VĂN HOÁ, TỪ KINH NGHIỆM CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI ĐI BIỂN SẦM SƠN, ÔNG ĐÃ TỔ CHỨC ĐÓNG BÈ TRE VÀ TIẾN HÀNH MỘT HẢI TRÌNH DÀI TRÊN BIỂN. SAU 6 THÁNG LÊNH ĐÊNH TRÊN THÁI BÌNH DƯƠNG BẰNG CHIẾC MẢNG NHỎ, ĐOÀN THÁM HIỂM ĐÃ VƯỢT QUA HƠN 5.500 HẢI LÝ AN TOÀN. THÀNH CÔNG NÀY ĐÃ LÀM RÕ TÍNH ƯU VIỆT CỦA PHƯƠNG TIỆN ĐƠN SƠ MÀ NHIỀU THẾ HỆ NGƯ DÂN VIỆT NAM TỪNG SỬ DỤNG; ĐỒNG THỜI CŨNG LÀM NỔI BẬT TRUYỀN THỐNG HÀNG HẢI ĐỘC ĐÁO CỦA TỔ TIÊN TA TỪ KHI DỰNG NƯỚC.
Bè mảng Sầm Sơn trong hành trình vượt Thái Bình Dương
Vào năm 1991, nhóm thám hiểm, đứng đầu là Tim Severin người Ireland đã đến Sầm Sơn; họ đã lên rừng, xuống biển nghiên cứu, tìm hiểu về nghề đi biển bằng bè mảng. Sau thử nghiệm thăm dò, mô hình đầu tiên được đưa lên bờ phân tích; tiếp đó đóng bè tre chạy thử để kiểm định sức chịu sóng, gió. Sau thử nghiệm thành công, tháng 9 năm 1992 nhóm thám hiểm bằng bè mảng bắt đầu thực hiện “dự án” vượt Thái Bình Dương. 6 tháng chuẩn bị, sử dụng khoảng 500 cây luồng, kết nối bằng những sợi mây với tổng chiều dài hơn 100km. Qua bàn tay khéo léo của những người thợ lành nghề, chiếc mảng vượt biển hoàn thành có kích thước dài 20m, rộng 6m và cao 1m. Mảng gồm 4 lớp luồng, giữa mỗi lớp ken gỗ, được buộc bằng hàng ngàn mối lạt mây, không dùng bất kỳ một chiếc đinh sắt hay sợi dây nilon nào. Trong căn lều tranh, tre, nứa lá; những người vượt biển trang bị thêm thiết bị cứu sinh, phương tiện liên lạc hiện đại và hệ thộng Bè tre chuẩn bị vượt Thái Bình Dương - Ảnh tư liệu của Tim Severin THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
59
PHAÁT TRIÏÍN BÏÌN VÛÄNG KINH TÏË BIÏÍN
điện sử dụng năng lượng mặt trời. Riêng những cánh buồm được đặt làm tại xã Hà Nam, nơi nổi tiếng với nghề thuyền buồm và chế tạo những cánh buồm lớn ở huyện Yên Hưng. Sau lễ hạ thủy tại đền Độc Cước, ngày 16/3/1993, mảng được kéo ra Quảng Ninh để lắp cánh buồm rộng 75m2.., (Đỗ Thái Bình 2012, Duy Tuyên 2014). Tháng 5 năm 1993, mang quốc kỳ Việt Nam và Ireland, mảng khởi hành từ Hồng Kông hướng tới vùng biển San Francisco miền Tây nước Mỹ. Đoàn thám hiểm gồm 5 thành viên, ngoài Tim Severin có 1 bác sĩ, 2 vận động viên du thuyền và một người Việt mang tên Lương Văn Lợi. Sau 6 tháng hành trình, vượt trên 5.500 hải lý (85% khoảng cách giữa châu Á và châu Mỹ); trải qua nhiều khó khăn nghiệt ngã, bị dòng hải lưu Kuroshio cuốn trôi, hai lần gặp cướp biển, nhiều nguy cơ va chạm lúc gặp tàu hoặc có dông bão lớn…đoàn đã đến được hải phận gần bờ biển California nước Mỹ (Đỗ Thái Bình 2012). Trong “Hành trình băng ngang Thái Bình Dương bằng tre luồng” Tim Severin đã ghi chi tiết về cuộc thám hiểm; ông kể lại những chuyện săn cá mập, cá voi, dùng cung và lao bắt cá, phơi cá khô ăn dần…; đặc biệt phải kể đến sự chịu đựng bền bỉ, dẻo dai chứng tỏ sức sống mãnh liệt của bè mảng được làm bằng tre luồng trước dông, bão lớn, sóng to. Chiếc mảng vượt Thái Bình Dương chế tạo theo mẫu dân gian được nâng cao nhờ khoa học hiện đại mà người thiết kế là kỹ sư người Anh Colin Mudie. Gần đây chúng tôi dược biết, Colin có thái độ rất nể trọng các dân tộc bản địa từng phát triển phương tiện hàng hải theo sự tiến hóa nhiều thiên niên kỷ. Severin và ông đã tiến hành công việc cẩn trọng với sự tham gia sáng tạo của những người thợ làm mảng Sầm Sơn. Sự kiện vượt đại dương bằng bè mảng với động lực là những cánh buồm thành công đã làm rõ tầm quan trọng của thuyền bè truyền thống. PGS Trịnh Sinh nhận xét, chuyến vượt biển này đã
Hình thể biển Đông với đồng bằng Nanhailand và Sundaland
60
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Bè mảng Sầm Sơn trên biển Thái Bình Dương. Ảnh: Đỗ Thái Bình
bổ sung tư liệu phong phú cho các tài liệu khảo cổ học. Người Việt xưa đã từng mang trống đồng đi muôn nơi theo dọc bờ biển Đông Nam Á và Thái Bình Dương…. chỉ bằng bè mảng. Với lợi thế biển có nghề đóng bè truyền thống, Sầm Sơn xứ Thanh sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với du khách nếu khôi phục lại được nghề này để phục vụ tham quan du lịch dọc theo bờ biển hoặc là ra những đảo xa (Trịnh Sinh 2012) .
Công nghệ thuyền bè ở vùng khai nguyên hàng hải Biển Đông
Vùng ÐNA, Biển Đông và vịnh Bắc Bộ là nơi trải qua nhiều biến động địa lý nhân văn và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nước biển dâng. Những thay đổi địa lý không chỉ làm biến đổi môi trường sinh thái trên mặt đất, dưới đáy biển mà còn tác động rộng lớn đối với văn minh nông, ngư nghiệp cùng ngành hàng hải thời tiền sử. 18,000 năm, trước diện tích biển Đông chỉ bằng ½ ngày nay; cư dân vùng duyên hải khi đó chỉ sống bằng thu lượm tôm, cá, sò, ốc... một số nghiên cứu nhận định, trước thời kỳ nước dâng, biển Đông còn là những đồng bằng Nanhailand và Sundaland, dân sống gắn liền với môi trường hàng hải. Dựa trên kiến thức di truyền, nhân chủng, thần thoại, văn học dân gian, ngôn ngữ, hải dương và khảo cổ học, bác sĩ Stephen Oppenheimer cho rằng, nhiều người đã phải di tản khỏi vùng duyên hải phương Đông vì lụt lội. Những người tỵ nạn này đa từng vun đắp nền văn minh vĩ đại ở phương Tây. Trong nghiên cứu sự hình thành văn hóa hàng hải của Việt Nam và ĐNA, các nhà khoa học đã tìm ra sắc thái đặc thù khác hẳn so với văn hóa lục địa Trung-Hoa và nhấn mạnh, số lớn dân ĐNA khởi sự cuộc sống ở duyên-hải.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Khi nước biển dâng họ hội nhập với cư dân vùng cao; rồi sau này lại trở về đồng bằng gần biển, tiếp tục phát triển nghề hàng hải (Vũ Hữu San 1.999). Khác với nhiều nơi trên thế giới, biển Đông và vùng phụ cận có những đợt gió mùa đổi chiều trong năm, tạo thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp và nghề hàng hải với hải hành viễn duyên tiện lợi cả đi lẫn về. Địa kinh tế giúp hàng hải phát triển, kéo theo đó là mở mang trao đổi hàng hoá, nâng cao kỹ thuật chế tạo và các phương tiện giao thương (Carl Sauer 1952). Vào giai đoạn hậu băng tan; khi nước biển dâng đạt gần mức độ ngày nay (-25m); nhiều nhóm người sống trên các hải đảo, di chuyển và liên-lạc với nhau chủ yếu bằng thuyền bè. Những trở ngại trên biển đã thúc đẩy họ phát minh ra những cánh buồm, bánh lái, thuyền nhiều thân và những bộ phận điều khiển khác nhằm đảm bảo hải hành an toàn, tránh bị đẩy ra khơi xa. (Malcom F. Farmer 1969) Nghiên cứu địa hình đáy biển, William Meacham cũng đã chỉ ra, do nước biển dâng, bè tre đã xuất hiện như một phương tiện di chuyển chủ yếu từ trên 14.000 năm trước (William Meacham 1984). Đi tìm nguồn gốc thuyền bè, Malcolm F. Farmer nhận xét, vịnh Bắc Bộ là nơi có nhiều bằng chứng liên quan giữa bè cổ với thuyền độc mộc và ghe thuyền có kết cấu sườn và khung sau này. Ông cho rằng, chính trên các loại bè này, người ta đã phát minh cánh buồm và bè có trang bị buồm là phương tiện viễn duyên đầu tiên của nhân loại (Malcom F. Farmer 1969) Từ hình thuyền trên trống đồng Đông-Sơn, các nhà nghiên cứu đã nhận ra tiền thân của những cây xiếm. Trên hình con thuyền không người chèo, cả đuôi lẫn mũi đều có những bộ phận đua ra như mảnh ván nhằm chống với sức giạt. Tổng hợp tác dụng của nước trên các trang cụ này giúp thuyền giữ được hướng đi ổn định, nhờ đó có thể chạy thẳng. Bè mảng ở Bắc và Trung Việt-Nam có tới 3 4 cây xiếm, thuyền buồm tiêu biểu ngày nay có bánh lái cùng cây xiếm đặt trong hai lỗ khoét ở cả mũi lẫn lái. Loại xiếm này không choán chỗ mà tỏ ra rất hữu hiệu trong vận chuyển. Cũng như bánh lái, tầm sâu của xiếm có thể điều chỉnh được dễ dàng nên thuyền có thể đi vào được nơi nông cạn. Cho đến nay, những nét khắc chìm trên trống
đồng Đông-Sơn vẫn là chứng tích cổ nhất về lái và xiếm trên bè mảng, ghe thuyền. Nhiều nhà nghiên cứu hàng hải Âu Mỹ cho rằng, bờ biển Việt-Nam, đặc biệt vùng vịnh Bắc Bộ là nơi quy tụ nhiều kiểu ghe thuyền phong phú ở mức hàng đầu thế giới. Trình độ kỹ thuật cao ngay từ thời cổ và sự phát triển hàng hải trước khi mở mang nông nghiệp có thể là nhân tố giúp nhận ra mối liên hệ văn hoá giữa bờ biển Á Đông với châu Mỹ; trong đó, văn hoá Đông-Sơn nổi lên đậm nét (Robert Heine Geldern 1972).Những chuyến vượt đại dương thành công và kinh nghiệm ghe thuyền Việt thời cổ đang thu hút sự quan tâm rộng rãi của các nhà hàng hải toàn cầu. Lần tìm những mốc cơ bản về hàng hải cổ, giới nghiên cứu đã phát hiện nhiều dấu tích còn ghi trên các trống đồng. Khác với người Hán sống trên thượng nguồn sông Hoàng ở cách xa biển; người Việt cổ sinh tụ ở vùng duyên hải gắn với sông, biển. Ngành khảo cổ học Trung Hoa phát triển từ rất sớm (vào thời nhà Tống), nhưng chưa quan tâm đến trống đồng, mà có ý cho rằng chưa văn minh, ít có giá trị tư liệu (viện Khảo cổ học 1987) Trên trống đồng Việt Nam, các nhà phân tích nhận thấy, những nét trạm trổ và hoạ hình đều toát lên giá trị lịch sử to lớn của ngành hàng hải. Trống đồng là bộ sử liệu quan trọng, đã lột tả được nhiều chi tiết còn xác thực hơn cả minh văn. Theo đó, thuỷ quân triều đại các Vua Hùng đã được diễn tả rõ ràng với những chiến thuyền lớn có bánh lái, chiến thuyền đi biển nhờ những cánh buồm có vũ khí tầm xa, tầm trung và cận chiến. Kết cấu chiến thuyền để lại trên trống đồng cũng rất đa dạng với thuyền lầu cao dùng như pháo tháp, thuyền thân cong chạy tốc độ cao; thuyền mũi thấp để quân đổ bộ dễ dàng. Phân tích sự phát triển kỹ thuật hàng hải cổ đại cho thấy: Nhân loại đã bắt đầu từ việc dùng những khúc cây nổi làm bè tiến tới đóng ghe thuyền, sáng tạo cánh buồm, cải tiến để chuyển hướng đi; lắp thêm các công cụ như bánh lái; kết hợp giữa buồm, lái và lưỡi xiếm để điều khiển thuyền di chuyển theo hướng định ra mà không cần người lái. Giới nghiên cứu nhận xét, người Việt đã đi tiên phong về kiến trúc ghe thuyền cổ ở ĐNA; những mốc bứt phá quan trọng nhất đã xẩy ra ở biển Đông với nôi phát triển là vịnh Bắc Bộ. Kết cấu ghe thuyền Việt Nam có thể được hình thành theo THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
61
PHAÁT TRIÏÍN BÏÌN VÛÄNG KINH TÏË BIÏÍN
Các loại chiến-thuyền thời Hùng-Vương,
trình tự :Từ dùng thân cây tự nổi, người xưa đã sử dụng nhiều cây đóng thành bè. Bè mảng với việc kết hợp nhiều thân cây tự nổi tạo khả năng ổn định cao khi di chuyển trên sông nước. Điều này được giải thích nhờ vào moment cân bằng gia tăng theo bội số của số thân cây. Vận dụng sức nổi bè mảng, người Việt đã đóng ghe thuyền với chủng loại đa dạng; từ thuyền độc mộc, thuyền nhiều thân cho đến những ghe bầu với những khoang kin nước nhằm gia tăng độ an toàn. Sau bè mảng, ghe thuyền; người Việt cũng là chủ nhân sáng tạo cánh buồm sử dụng cả 2 phía (fore and aft lugsail), giúp thuyền đi chếch được theo hướng gió. Trang cụ kiểu bánh lái và những lưỡi xiếm gắn với thuyền thời Hùng Vương cũng được khắc trên trống đồng Đông Sơn. Từ thời ấy, người Việt đã biết cách điều chỉnh độ sâu hành trình trên những địa hình sông nước khác nhau; đến nay, những công cụ kiểu này còn được sử dụng ở Thái Bình, dọc suốt bờ biển miền Trung và trên những ghe bàu, ghe nang trong cả nước. Có lẽ từ nguyên lý của những trang cụ này, Tim Severin cùng nhóm thám hiểm đã vượt biển thành công bằng bè mảng kiểu Sầm Sơn, Theo các nhà phân tích, đặc điểm quan trọng của kiến trúc tàu bè cổ Việt Nam là sự mềm dẻo. Francoise Aubaile Sallenave cho rằng, 2 đặc điểm tiên quyết cấu trúc ghe thuyền là sự nhẹ nhàng và sức chịu đựng cao. Trong khi kỹ thuật phương Tây 62
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
cố gắng cải tiến sao cho sườn và vỏ tàu được cứng hơn thì người Việt từ nhiều ngàn năm trước đã có truyền thống đóng tàu mềm dẻo. Theo bà, cấu trúc cứng cáp đòi hỏi vật liệu phải nặng, quán tính gia tăng và thuyền dễ bể vỡ vì sóng, gió. Ngược lại; thuyền bè nhẹ và mềm dẻo thì lực tác động sóng nước lại được phân phối đều trên toàn thân, tạo khả năng chịu đựng cao giúp sử dụng thuyền lâu bền (Francoise Aubaile Sallenave 1987). Từ quan niệm kiến trúc tầu thuyền độc đáo, người Việt đã phát triển nhiều loại thuyền không có cả khung hay sườn mà chỉ đơn giản là kết những mảnh ván gỗ bằng giây bên trong nên phía ngoài vỏ thuyền vẫn phẳng phiu. Nhiều du khách châu Âu trong thế kỷ thứ 17- 18 từng đề cập đến loại thuyền chạy biển hay cận duyên của Việt Nam làm bằng ván khâu, có khả năng chuyên chở tới 150 tấn hàng. Kỹ thuật đóng ghe loại này đã từng lan-truyền đến khắp các đảo Thái-Bình-Dương qua đường hàng hải. Ngoài thuyền ván khâu, thuyền nan tre có kết cấu thường gặp là đáy mê với mạn thuyền bằng ván be (thành gỗ) cũng rất phổ biến. Loại thuyền vỏ tre đan này nhẹ hơn gỗ, dễ thấm dầu chai, chịu đựợc sức dội của sóng cồn và không bị mọt, hà. Hơn thế nữa, tre rất dễ tìm và rẻ hơn gỗ tốt; mặt khác, đáy tre đan lại dễ thay, vừa nhanh lại vừa rẻ tiền. Kết cấu nan tre đan được sử dụng rộng rãi trên các cỡ ghe thuyền đủ loại, từ như thuyền thúng đến thuyền buôn và các cỡ thuyền đánh cá.Vỏ thuyền mê có độ bền tới 20 năm nếu được sử dụng và bảo trì đúng cách. Jean Yves Claeys nhận xét, có lẽ Việt-Nam là dân tộc duy nhất trên thế giới đã phát triển và hoàn thiện đủ mọi loại ghe thuyền bằng tre (Jean Yves Claeys 1942 ; Pierre Paris 1.955) Căn cứ vào chứng tích hiện còn, giới nghiên cứu cho rằng, không có nơi nào trên thế giới hội tụ
Cấu trúc thuyền ván khâu Việt-Nam
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
đầy đủ mọi loại ghe thuyền to, nhỏ; thân đơn, kép; mọi loại xiếm, bơi chèo mái chèo mũi, lái, giữa; mọi loại buồm vuông, tam-gác, đơn kép...cùng tồn tại như ở Việt-Nam. Từ trang cụ thô sơ nhất là cách ôm một cây tre bơi bắng tay, đạp bằng chân ra khơi đâm cá; người ta còn thấy được loại thuyền hoàn bị, phức tạp nhất là thuyền thân gỗ vỏ mê tre, trang bị năm buồm, có lái, có xiếm, phao phụ bên hông và không cần người bẻ lái thuyền vẫn giữ được hướng đi. Theo triết lý về thuyền bè và hải hành của dân tộc Việt, nhà nghiên cứu Vũ Hữu San đã rút ra tính cách nhân bản và thiên nhiên của Tổ tiên về hàng hải thời cổ đại. Theo ông, trong khi tung hoành dọc ngang trên biển, người Việt không hề làm hải tặc, không có bằng chứng nào về cướp bóc tài sản hoặc bắt nô lệ dù chỉ là để kéo thuyền. Với ý thức sáng tạo nhân bản và thuận theo thiên nhiên; những phát minh của Tổ tiên về cánh buồm, xiếm,lái đều nhằm vào lợi dung sức gió, sức nước thay cho lao lực qua mái chèo. Kết cấu ghe thuyền, bè mảng mềm dẻo cũng nhằm để thân thuyền, bè mảng hấp thụ bạo lực của sóng, gió; giúp thuỷ thủ đỡ mệt mỏi và thuyền bè hoạt động lâu bền. Qua kết cầu ghe thuyền, bè mảng cũng thể hiện tính cách thiên nhiên của con người. Người Việt xưa yêu nước và yêu cây cỏ; ghe thuyền, bè mảng đều dùng nguyên liệu thảo mộc bản địa. Cho đến ngày nay, tầu thuyền vỏ gỗ của người Việt cũng ít dùng kim loại hoặc hoá chất dù đó chỉ là chiếc đinh hay lớp sơn xảm khi chế tạo ghe thuyền.
Đôi dòng suy ngẫm thay cho lời kết
Nhìn nhận về văn hoá cổ truyền nước ta hiện còn có những khác biệt; không ít người nghĩ trình
độ dân ta thấp kém và cho rằng: chúng ta có nền văn minh phù sa muộn với dấu ấn con người cần cù, nhẫn nại; nhưng thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm hoặc Tổ tiên chúng ta nhiều ngàn năm sống bên cạnh biển, chỉ nhìn biển với cặp mắt sợ hãi, chưa từng sáng chế ra kỹ thuật hàng hải nào ( Nguyễn Gia Kiểng 2001). Ngược với nhận xét này, nhiều công trình nghiên cứu lại cho thấy, có thể là thế hệ chúng ta có những người “thủ cựu, thiếu sáng kiến, thiếu óc mạo hiểm, và sợ biển”, còn tiền nhân thì không. Từ xa xưa, Tổ tiên luôn chung sống, tìm cách chinh phục để khai thác lợi thế tự nhiên của biển và đóng góp to lớn vào kỹ thuật hàng hải cổ đại với những hải trình vượt qua biển lớn, đưa văn hoá Đông Sơn rực rỡ đến nhiều nơi trên thế giới. Nhiều nhà nghiên cứu từng nhấn mạnh, hầu hết các công trình phát minh hàng hải cổ đại đều được thực hiện bên bờ Biển Ðông, với chỉ dấu đậm đặc tại Vịnh Bắc bộ Việt-Nam Các nhà dân tộc học hàng hải thế giới cho rằng, cùng với ghe bầu, mảng tre Sầm Sơn là sản phẩm độc đáo của Việt Nam mà không có tại bất cứ nơi nào khác trên thế gian này. Sự kiện dùng bè mảng Sầm Sơn vượt biển thành công là dịp để khoa học đóng tàu và ngành hàng hải nước ta tìm về những giá trị truyền thống cội nguồn. Hy vọng từ đây, công nghệ dân gian trong đóng tàu thuyền được giới nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách hàng hải quan tâm tìm giải pháp, bảo tồn và phát triển nâng cao bằng phương pháp hiện đại nhằm phát huy giá trị đích thực của di sản Tổ tiên trong nghề tầu thuyền và hoạt động động hàng hải trước yêu cầu hội nhập ngày nay.
Tài liệu tham khảo
Viện Khảo cổ học (1987) - Trống đồng Đông Sơn - Hà Nội 1.987 Đỗ Thái Bình ( 2012 ) - 20 năm chuyền đi lịch sử vượt Thái Bình Dương của bè mảng Sầm Sơn - Biển toà cảnh 13/11/2012 Duy Tuyên (2014 ) - Gặp người Việt Nam duy nhất trên chiếc mảng vượt Thái Bình Dương - Báo Dân trí ngày 26 tháng 02 Trịnh Sinh (2012) - Bè mảng Sầm Sơn vượt Thái Bình Dương - Lao động ngày02/12/2012 Carl Sauer (1952) - Agricultural Origins and Dispersals, Series Two, New York 1952: 24-25. William Meacham (1984) - On the improbability of Austronesian origins in South China - Rewiew Asian Perspectiwe volume 25 Malcom F. Farmer (1969) - Origin and Development of Water Craft - Anthropological Journal of Canada 7(2) page 22-26 Robert Heine Geldern (1972) - American Metallurgy and the Old World, Early Chinese Art and its Possible influence in the Pacific Basin, Vol. 3, Taiwan,1972. Vũ Hữu San(1999) - Biển Đông nơi khai nguyên hàng hải - Lịch sử thuyền bè Việt Nam - Vuhuusan’s Water World 1999 Françoise Aubaile- Sallenave (1.987) - “Bois et Bateaux du Việtnam”. - Paris, 1987. Jean Yves Claeys (1942) - L’Annamite et la mer, Bulletins et Travaux,Institut Indochinois pour l’étude de l’homme, 5 1942 Pierre Paris (1955) - Esquisse d’une EthnographieNavale des Peuples Annamites, Rotterdam, Nguyễn Gia Kiểng (2001) - Tổ quốc ăn năn - Paris, 2001.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
63
SÛÅ KIÏåN / BÒNH LUÊÅN
64
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
65
VÙN HOÅC NGHÏå THUÊÅT
Thơ Xuân
MẸ NGỒI ĐỢI TRƯỚC MÙA XUÂN
Mùa xuân mùa của tình yêu, mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở. Tiết trời se lạnh với những hạt mưa xuân lất phất đáng yêu khiến con người ngây ngất và chìm đắm trong men say của đất trời. Tạp chí Thương mại Thủy sản trân trọng giới thiệu cùng độc giả những bài thơ ăm ắp sắc xuân.
Mẹ ngồi đợi trước thềm xuân Cọ trong vườn mở bao lần lá non Ngõ quê dốc sỏi đã mòn
XUÂN NƠI PHỐ NÚI
Thấp cao dáng núi mẹ con sum vầy.
Đi tìm lại nỗi nhớ ngày xưa
Năm qua rồi lại năm này
Nỗi nhớ đuổi mùa xanh lên xuống
Mẹ ngồi đếm ngọn heo may cuối mùa
Chợ tình không thấy người tình
Gió lùa chi mái liếp thưa
Khăn với áo nhập vai bé nhỏ
Ngoài kia sông Bứa thẫn thờ từng đêm. Hai mươi năm vẫn bậc thềm
Kìa bóng ai xoè ô
Buồng cau năm ngoái rụng trên mái nhà
Thị xã nói cười mưa bụi
Ðứa con yêu mẹ ở xa
Lễ hội mùa nào hoa cải trắng
Nhớ thương, thương nhớ chan hòa đất đai.
Trập trùng bay ngơ ngác chân đê
Mẹ tin con mẹ trẻ trai Trắng trong một buổi ban mai lại về
Kìa em, mắt xếch môi hồng nhạt
Rộn ràng một sớm ngõ quê
Váy đầy mây ngũ sắc đong đưa
Trầu cau hát khúc giao thề trăm năm...
Ta với núi thi gan hò hẹn
Mẹ ngồi vọng ước xa xăm
Biết làm sao có nhau?
Tụ vầng mây trắng, nắng hong bên hè
66
Khoảng trời mát bóng cọ xòe
Bỏ hết cả đồng bằng ở lại
Chở che dáng mẹ đi về nước non.
Trốn trên cao nghe gió hát mênh mang...
Hà Văn Thể
Lê Nguyệt Minh
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
NHỊP ĐÔNG Anh gánh.... Mùa đông đi em nhé Cho má hồng, gót không khô nẻ Lạnh giá ruộng đồng không làm cóng chân em
Anh giấu... Mùa đông vào bóng đêm Để gà gáy sang canh không lạc điệu Chim lẻ bạn gọi nhau ríu chíu Khắc khoải canh trường, “bắt cô trói cột” vọng nhau
Anh cõng... Mùa đông đi thật sâu Để mắt mẹ già không khắc khoải Hồng than ấm mong đứa con trẻ dại Mắt xa xăm tê tái phía con về Anh đưa... Mùa đông sang phía xa mờ Để tiếng sáo mục đồng ngẫu hứng Chiều nghiêng nắng đồng xa trâu lững thững Nhoẻn miệng cười không nợ với rạ rơm
Anh xua... Giá lạnh cho đào lại ngát hương Đèn lồng đỏ đung đưa trước ngõ Bầy trẻ nhỏ tung tăng áo đỏ Mừng xuân về nắng ấm rộn đường quê
Anh giữ lại mùa đông- giữ ước thề Khoảng trời lạnh đợi người về sưởi ấm Chén rượu giao bôi chưa uống vào đã ngấm Chuếnh choáng men say khao khát rót lại đầy. Nguyễn Tất Lâm THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
67
VÙN HOÅC NGHÏå THUÊÅT
DUYÊN MƯA Nghiêng nghiêng mưa đổ xuống chiều Sông giăng sóng nước, mái chèo nhẹ khua Bóng ai lặn lội thân cò Nhỡ nhàng vương mối tơ vò, ai hay?
Hỏi mưa duyên nợ đất này
NGHE CHỪNG XUÂN
Sao mưa giăng kín lối ngày em qua
Nghe chừng xuân đang đến
Thiếu gì nơi để mưa sa
Chồi non rạo rực
Mà nơi em đứng, mưa òa xuống vai?
Nắng tắt thong dong Đêm phương Nam nước lớn nước ròng..
Dấu mưa sau tiếng thở dài
Nhịp đời trôi , khua rơi mùa én đậu Phải phía cuối sông câu hò vướng bậu
Thương em rã cánh hoa lài dầm mưa
Điệu xê xàng
Lòng đâu vướng mắc vương tơ
điệu hò lý trong veo
Biết làm sao gặp giữa bờ mưa rơi.
ai quên vội mái chèo Để ra giêng đò trôi không dâu mới !
Xót em mưa rớt quanh người
nghe chừng xuân tới gọi khản đục tình tan
Má hồng ướt hạt mưa rơi càng nồng.
bông bí có còn vàng ?
Một tôi, bối rối tơ lòng
mà sao hát nỉ non điên điển tàn cuối bến !
Một em, với cả mông lung mưa trời!
xuân đi xuân đến nước đỗ về phía cửa tít mù khơi
Tựa mình vào tiếng mưa rơi Ước câu thơ lận giữa đời che em.. Tạ Thu Hà
gieo nhớ chơi vơi thuyền hoa vô tình về chốn lạ xuân về muôn ngả Người ngược chốn nao Ai ủ búp mai đào? Bỗng bên sông xuân rơi đầy trong gió...
Nguyễn Thị Huệ 68
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
GỞI XUÂN Xuân bẽn lẽn nép mình khung cửa nhỏ Tháng mười hai ai đánh mất đi rồi Tôi ở lại đón buồn hiu lá cỏ
KIM GIỜ KIM GIÂY
Lụa mềm xưa ai rước xa xôi
Kim giờ làm khổ kim giây Em đi một bước anh quay trăm vòng
Buổi trừ tịch sương sa đời năm cũ
Muốn làm kim phút cho xong
Vốc khói nhang rửa chút hồn mình
E khi giáp mặt chuông lòng lại kêu.
Thuở đắm đuối tình Xuân ta trú ngụ
Phạm Khải
Cây nêu già đêm tối lặng thinh Còn gì nữa Đào, Mai hay Hồng, Cúc Chìm trong tôi ảo giác xuân dài Tình tang... tình tang... cây gỗ mục
GIỮ RIÊNG EM
Hót vu vơ dăm khúc bi hài Vũ Hồng
Em giữ riêng mình một góc trời xanh mướt , một sáng hanh hao, một ngày đầy gió Giữ trong căn phòng nhỏ những ngụp lặn ngút ngàn chất chứa men yêu.. Em dấu nhẹm buổi chiều...
tay trong tay anh nghe hoàng hôn nhẹ tắt tiếng côn trùng im bặt... lắng nghe chừng đôi lứa đắm môi hôn Em giữ lại giây phút dỗi hờn khi vòng tay chưa tròn, cho ái ân nồng cháy giữ riêng mình mãi mãi nỗi nhớ chất chồng, nỗi nhớ chẳng thành tên Anh lại xa em , mọi thứ cứ bồng bềnh Trống vắng nghiêng nghiêng theo bước chân về nơi ấy.. Bức tranh em tô chẳng màu bóng bẩy! Em giữ riêng mình hoạ sắc đẫm màu yêu... Nguyễn Thị Huệ THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
69
PHOÁNG SÛÅ / KYÁ SÛÅ
Giờ thể dục của học sinh người Dao ở trường Sim San
Bể cá tầm và mái trường trong sương trắng BẢN SIM SAN CỦA NGƯỜI DAO Ở XÃ Y TÝ (HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI) LỌT THỎM GIỮA RỪNG NÚI TRẬP TRÙNG, QUANH NĂM MÂY SƯƠNG MỊT MÙNG BỦA VÂY. CUỘC SỐNG LẦM LŨI TRONG ĐÓI NGHÈO, KHÔNG ĐIỆN, KHÔNG NƯỚC SẠCH, KHÔNG SÓNG ĐIỆN THOẠI… MỘT ĐIỂM TRƯỜNG TIỂU HỌC XINH XẮN VÀ MẤY BỂ CÁ TẦM BÊN SÂN TRƯỜNG LÀ HAI “CÔNG TRÌNH” ĐẦU TIÊN ĐƯỢC LÀM BẰNG GẠCH VỚI XI MĂNG Ở BẢN. ĐÓ CŨNG LÀ NHỮNG “VIÊN GẠCH” ĐẦU TIÊN XÂY LỐI MỞ ĐƯỜNG QUA BIỂN MÂY MỜ, TÌM ĐẾN ÁNH SÁNG VÀ ẤM NO…
Xa xôi Sim San
Lần thứ hai vượt hơn 400 km từ Hà Nội lên xã Y Tý, tôi mới tìm được “thổ địa” dẫn vào bản Sim San. Cô giáo Nguyễn Thị Hằng Nga – phụ trách điểm trường Sim San (thuộc trường Tiểu học số 2
70
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
của xã Y Tý) – cẩn thận đón chúng tôi tại trung tâm huyện Bát Xát từ hơn 4 giờ sáng. Cô cười giòn tan: “Em đưa các anh lên ngắm bình minh Lũng Pô, nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt, lấy tinh thần vượt núi vào bản nhé”.
Cũng là lần thứ hai, cảm xúc vẫn dâng trào khi ánh ban mai điểm sắc hồng cho màn sương màu sữa còn quyến luyến ôm ấp những ngọn lau vút cao nơi địa đầu Tổ quốc. Mùa đông, nước sông Hồng cạn và trong hơn,
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Đường vào Sim San
nhưng vẫn đủ long lanh ánh đỏ trong nắng sớm, như ngại ngùng chạm vào dòng suối Lũng Pô xanh ngắt, e ấp sóng đôi thành một khúc sông dài hai màu nước… Được ngắm cảnh thần tiên thế mới bõ công mò mẫm đêm hôm, chứ vài chục cây số đường xấu còn lại thì đâu có là gì mà cô giáo bắt dậy sớm thế nhỉ(?!). Hằng Nga vẫn cười giòn, nhưng lắc nhẹ mái tóc dài: “Các anh đi nhiều rồi, em không lo, chỉ lo cái xe không qua được suối thôi”. Từ trung tâm xã Y Tý vào bản Sim San là 18 km đường “khủng”. Chiếc xe 2 cầu dò dẫm qua từng khúc cua tay áo khi bánh xe cận kề mép vực, rồi lại gầm rú nhảy chồm chồm trên đống đá hộc trơn tuột. Mất đứt cả buổi sáng mới vào đến bản, “bỏ lại” bìa rừng cả cái “bađờxốc” đã gãy tung khi xe vượt mấy con suối vắt ngang sườn núi. Hằng Nga an ủi: “Các anh đi như thế là giỏi lắm, lần đầu tiên em được ngồi ôtô về tận cổng trường đấy. Hồi mới lên đây, em vừa đi vừa đẩy xe máy mất cả ngày, vào đến nơi dân bản còn kinh ngạc hỏi:
Cô giáo có cách gì cho cái xe bơi qua suối được?” Bản Sim San với 49 hộ người dân tộc Dao, sống trong những căn nhà trình tường (nhà đất) rải rác gần bờ suối vắng. Những dãy núi sừng sững dài dằng dặc như thành lũy ngăn cách bản với “thế giới văn minh”. Núi cao chọc trời, quây kín đến nỗi mây cũng chẳng “thoát” nổi, khiến ở đây quanh năm ẩm ướt, mù mịt. Khi Hà Nội lạnh cỡ 15 -16 độ C thì ở Sim San nhiệt độ đã… về 0, năm nào cũng có những đợt rừng cây đông cứng vì băng giá, tuyết bay mù trời. Cuộc sống tách biệt, giao thông cách trở, thiếu thốn mọi bề, khiến đói nghèo và hủ tục trở thành điệp khúc triền miên. Hằng Nga kể, hồi mới lặn lội vào từng nhà để vận động phụ huynh cho con tới trường, không ít lần các thầy cô giáo nhận được câu trả lời thẳng thừng: “Mày phải biết hút thuốc phiện, biết phát nương, biết may áo thì tao mới cho con đi học”. Xác định phải kiên gan bám trụ mới có thể giúp bà con đổi đời, 6 thầy cô giáo ở điểm trường
Sim San, cũng như biết bao giáo viên cắm bản vùng sâu vùng cao, đã chấp nhận cống hiến cả tuổi thanh xuân cho núi rừng. Hàng chục năm đằng đẵng sống xa gia đình, ngoài giờ lên lớp chỉ biết quanh quẩn nhà tranh, bếp củi, chống chọi với muỗi vắt, bọ chó, ruồi vàng, lá ngón… Nhiều lúc ngắm rừng xanh núi đỏ mịt mùng, chạnh lòng nhớ lại lời ông Phàn Láo Ly – hồi đó là Chủ tịch UBND xã Dền Thàng (cũng là một xã vùng biên khó khăn của huyện Bát Xát) khuyên cô giáo trẻ mới lên bản: “Mày về đi! Con gái có thì, mày sẽ chôn vùi hết ở cái nơi khỉ ho cò gáy này thôi, không thay đổi được gì đâu, bao đời nay người ở đây có cần đến cái chữ bao giờ đâu”. Lời “tiên đoán” bi quan đó đã sai, khi các điểm trường cắm bản mọc lên ngày càng nhiều, bất chấp gian khó, và nhiều gia đình người Dao, người Mông, người Hà Nhì đã nhận ra giá trị của “cái chữ”. Nhưng ông “thầy bói” nghiệp dư ấy cũng phần nào dự đoán đúng, vì người chồng ở quê nhà Yên Bái của Hằng Nga không chịu nổi cảnh vợ cứ biền biệt trên vùng cao, nên đã bỏ đi, gửi con nhỏ cho ông bà ngoại. Và tất cả các đồng nghiệp của cô ở Sim San cũng đang “an phận” gối chiếc chăn đơn, cũng bởi bản quá xa xôi…
Từ nấu rượu thóc đến nuôi cá tầm
“Học cái chữ rồi mới thấy trong cái khó khăn của bản mình vẫn luôn có tiềm năng đấy” - Anh Tẩn Phù Tìn, Trưởng bản Sim San nói chắc nịch. Ở vùng cao, THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
71
PHOÁNG SÛÅ / KYÁ SÛÅ
lớp học cắm bản không chỉ đón lũ trẻ, mà còn “rộng cửa” mời cả đám thanh niên cho tới các cụ già tóc bạc. Cái chữ khiến đầu người Dao sáng hơn, nhìn thấy lợi thế từ sản vật quê nhà. Từ lâu, người vùng cao thường nấu rượu bằng mầm thóc ủ men lá, nhưng nhờ dòng suối mát trong veo, cộng với mây mù ẩm thấp quanh năm, chỉ có ở Sim San mới nấu được rượu mầm thóc đặc biệt thơm ngon. Rượu nặng đến 40 độ mà vị rất dịu, hương thơm nồng, uống say cũng không bị đau đầu. Người Dao Sim San vào rừng lấy các loại hạt mang về giã, bóc vỏ, xay, rồi trộn với trái rừng, nắm thành từng nắm, phơi khô để làm men rượu. Họ luộc thóc trong chảo gang, đậy vung đan bằng nan tre để dễ thoát hơi nước, từ lúc nổi lửa đến khi lấy thóc ra không mở vung lần nào. Thóc nấu xong phải chờ cho khô mới dỡ ra, tãi thật nguội trước khi ủ men 15 ngày, nếu ủ được 1 tháng thì rượu càng ngon. Sau đó, đổ cái rượu vào chõ để đồ cách thuỷ. Ba ba ngưng rượu và ống dẫn rượu đều được làm bằng gỗ và ống tre, rượu lấy ra trong suốt như nước lọc. Cứ 10 kg thóc thì nấu được 4 lít rượu. Vợ chồng anh Tẩn Phù Tìn có 3 bếp nấu rượu, là hộ đầu tiên trong bản đưa loại rượu đặc sản này ra thị trường từ năm 2008. Anh Tìn đã vận động được hầu hết các hộ trong thôn, tận dụng lúc nông nhàn nấu rượu bán để tăng thu nhập. Từ mô hình này, đến tháng 7/2010 Sim San đã thành lập Hợp tác xã nấu rượu 72
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Trò chơi của lũ trẻ người Dao
do anh Ly Giờ Lúy, nguyên Bí thứ Đảng uỷ xã Y Tý làm Chủ nhiệm. Với 25 xã viên, mỗi người góp cổ phần 10 triệu đồng, Hợp tác xã đứng ra đầu tư dụng cụ, cung ứng thóc và bao tiêu toàn bộ sản phẩm cho xã viên với giá 25.000 đồng/lít rượu. Lãi chưa nhiều, vì quy trình nấu rượu thóc Sim San đòi hỏi nhiều thời gian, nên rượu nấu ra đến đâu là bán hết ngay đến đó, bà con nhờ vậy cũng có thêm thu nhập ngoài việc làm nương, đi rừng... Từ mùa hè 2014, bản Sim San thêm hướng làm ăn mới, khi những bể nuôi cá tầm đầu tiên được xây dựng, góp phần hiện thực hóa chủ trương phát triển nuôi cá nước lạnh ở Lào Cai. Theo ông Nguyễn Văn Tuyển Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lào Cai, năm 2014, toàn tỉnh có gần 30 cơ sở nuôi cá nước lạnh, sản lượng ước đạt trên 250 tấn, tăng 20%
so với năm 2013. Từ khi đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai thông xe, nhiều cơ sở nuôi cá tại địa phương nhận đơn đặt hàng đầu mối tiêu thụ tại Hà Nội với giá từ 300.000 - 320.000 đồng/kg cá hồi, 250.000 đồng/kg cá tầm. Quy hoạch phát triển cá nước lạnh ở Lào Cai là đến năm 2020 sẽ có 54.500 m3 bể nuôi, sản lượng đạt 655 tấn, năng suất 12,2 kg/m3. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá hồi và cá tầm, vùng nuôi tập trung ở một số xã thuộc các huyện Sa Pa, Bát Xát, Văn Bàn, Bảo Yên. Trung tâm Nghiên cứu thủy sản nước lạnh Sa Pa, Công ty TNHH Du lịch và Thủy sản nước lạnh Thác Bạc chịu trách nhiệm cung cấp giống. Xác định nuôi thủy sản là mũi nhọn phát triển kinh tế nông nghiệp, từ năm 2011 huyện Bát Xát đã chuyển đổi hơn 10 ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi cá. Trong đó, hai xã là Ý Tý và
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Hàng ngày, cô giáo Nga phải dìu học sinh vượt suối đến trường
Dền Sáng đã nuôi gần 2 ha cá hồi, cá tầm, năng suất bình quân 37,5 tấn/ha, mỗi ha nuôi cá nước lạnh đạt giá trị kinh tế 2 - 3 tỷ đồng/ năm. Tiếp theo các bản trên núi cao cùng xã Y Tý như bản Chung Chải, bản Nhìu Cù San đã được coi là “địa chỉ đỏ” về nuôi cá nước lạnh, Dự án phát triển thủy sản tỉnh Lào Cai đã đưa giống cá tầm về nuôi trong bể ở Sim San. Dòng nước nguồn mát lành đã làm nên hương vị đặc biệt của rượu thóc, nay lại được dẫn về cho đàn cá tung tăng. Vợ chồng anh Đinh Bùi Ninh được giao trông nom chăm sóc đàn cá quý. Anh Ninh sinh năm 1982, quê ở xã Yên Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, mới cưới vợ người Yên Bái. Đôi vợ chồng son theo dự án lên lập nghiệp ở bản Sim San từ giữa năm 2014. Anh vui vẻ cho biết: “Cá tầm hợp với khí hậu và nước suối ở đây lắm, phát triển ổn
định, chưa thấy đau ốm gì. Nuôi giống này chỉ vất vả đêm hôm, vì chúng thích ăn khi trời tối, đêm nào cũng phải cho ăn 4 lần, mỗi lần cách nhau 3 tiếng. Thứ nữa là để ý nước vào ra cho phù hợp. Vợ chồng em cũng đã quen với nếp sống ở bản, tuy thiếu thốn đủ thứ nhưng bà con tốt bụng lắm. Chúng em sẽ theo hết 5 năm của dự án, sau đó nếu có dự án khác thì vẫn muốn tiếp tục nuôi cá ở vùng cao, vừa lo kinh tế gia đình, vừa góp phần hướng dẫn bà con cách làm ăn mới”.
Ươm thêm mầm hy vọng
Một cách hữu ý, khu bể nuôi cá tầm ở Sim San được xây dựng ngay bên sân trường ngày ngày líu lo tiếng trẻ. Không chỉ các thầy cô giáo ra đây thư giãn sau giờ lên lớp, mà dân bản cũng thường qua lại trầm trồ. Chỉ là những bể xi măng hình tròn với đàn cá “lạ mắt” nhưng có thể cho
thu nhập tiền tỷ, ngỡ là “chuyện trên trời” nay đã ở ngay trước mắt người Dao, thắp lên hy vọng đổi đời. Cả cô giáo Hằng Nga, 18 năm dạy học ở những bản xa xôi nhất thuộc các xã vùng cao huyện Bát Xát, bước chân đã trải khắp nẻo đường rừng từ Dền Thàng, Mường Hum, Sảng Ma Sáo, đến Y Tý... cũng chưa bao giờ thấy “công trình hiện đại” như thế cạnh các điểm trường cắm bản. 18 năm trước, Hằng Nga mới 16 tuổi (cô sinh năm 1980). Chẳng ai hiểu nổi vì sao học hết lớp 9, cô quyết đi học sư phạm theo hệ 9+1 rồi tình nguyện lên vùng cao dạy học, bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình. “Chắc số em nó hợp với núi rừng, càng ở lâu càng gắn bó, càng không nỡ rời xa mảnh đất đã lấy đi của em tất cả”, cô tâm sự với nụ cười cứng cỏi, làm tôi liên tưởng đến câu châm ngôn: “Một số người giấu vết thương lòng trong đôi mắt, một số khác thì lại THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
73
PHOÁNG SÛÅ / KYÁ SÛÅ
Dẫn nước suối vào bể nuôi cá tầm
giấu trong nụ cười”. Chỉ vài đồng nghiệp cùng ở bản, và những bóng cổ thụ chênh vênh đỉnh núi mới biết, khi màn đêm gọi gió buốt về hun hút, ngồi che ngọn đèn dầu leo lét, nhiều lần cô giáo giàu nghị lực ấy phải quay sang phía bóng tối cho những giọt lệ nóng hổi khỏi rớt xuống trang giáo án, rồi lấy điện thoại mò mẫm lên đỉnh núi “dò” sóng, gọi về quê để được nghe giọng con… Dẫn chúng tôi đi thăm suối, Hằng Nga bảo điều kiện vùng cao giờ cũng đỡ hơn trước nhiều rồi. Dọc đường từ xã vào bản, những hàng cột đã mọc lên, hy vọng Tết này sẽ có điện sáng trong bản. Ở Sim San, dù giáo viên còn phải ở nhà lá mái tôn, nhưng ít nhất lớp học cũng được xây bằng gạch, quan trọng hơn là lũ trẻ đã quen đến trường, hứng thú học cái chữ. Bấy nhiêu đó cũng đã phải đổi bằng công sức bao năm ròng các thầy cô giáo phải lần lượt đến từng bản, hàng ngày cần mẫn cùng đồng bào 74
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
lên nương gieo lúa, trổ bắp, tối về miệt mài bên khung cửi học dệt vải. Chỉ có “làm cùng nương, ăn cùng bếp” mới dần dà thuyết phục được bà con bỏ hủ tục, cho con em họ đến lớp với hy vọng cuộc đời chúng sau này sẽ bớt cơ cực hơn ông cha. Những ngày đầu, lũ trẻ gặp người lạ là khóc thét bỏ chạy, được đưa vào lớp rồi cũng chỉ biết tròn mắt ngơ ngác. Ngày qua ngày, các thầy cô giáo phải lấy cành cây, báo cũ dán làm đèn chơi với chúng, quen thân rồi thì cô dạy tiếng Việt cho trò, trò dạy tiếng địa phương cho cô… Thế mà thấm thoắt, những “lứa” học sinh đầu tiên đã rời bản xuống núi học cấp 2 - đó là phần thưởng ý nghĩa nhất đối với người giáo viên cắm bản. Vùng cao muôn sự đều thiếu, nhưng cái gì cần nhất? Nghe tôi hỏi vậy, Hằng Nga đáp ngay: “Một cây cầu treo anh ạ. Con suối chảy qua giữa bản, ngày thường hiền hòa thế, nhưng mưa
xuống là nước dâng thác đổ ghê lắm. Ngày nào bọn em cũng phải dậy từ mờ sáng, dắt học sinh qua suối, chứ không dám để các em vượt suối một mình. Nhiều bữa nước lớn, lũ về cuồn cuộn, cô trò chỉ biết đứng cách bờ nhìn nhau, rồi đành cho các em nghỉ học.” … Vạt nắng hiếm hoi chợt rẽ mây mù để nhuộm vàng sườn núi cùng lúc tiếng trống tan trường dóng dả. Lũ trẻ chân đất reo hò kéo ra khu bể cá xem lứa cá tầm mới thả còn nhút nhát, thường tụ thành đám đen đặc giữa bể. Một mái trường còn đơn sơ, những bể cá chưa to lắm, và rồi đây có thể thêm cây cầu treo nhỏ - tất cả đều đem đến niềm tin và hy vọng cho vùng đất nhiều gian khó này. Nhưng tôi tin, với dân bản, niềm hy vọng lớn nhất của họ đang đặt trên những đôi vai nhỏ nhắn mà kiên cường của Hằng Nga và các đồng nghiệp đang bám trụ ở Sim San. Bài và ảnh: Nguyễn Việt
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Bình minh trên hồ Cấm Sơn
Tình sử
20 năm nơi đảo Kỉn CHỊ TÊN LÀ VI THỊ THUYỀN, CÒN ANH LÀ NGUYỄN VĂN TRƯỞNG. 20 NĂM LẬP NGHIỆP TRÊN ĐẢO HOANG, ĐÁNH CÁ, TRỒNG CÂY, XÂY TỔ ẤM… CHUYỆN TÌNH CỦA HỌ ĐÃ VIẾT THÊM NHỮNG TRANG THẮM THIẾT CHO HUYỀN SỬ HỒ CẤM SƠN, NƠI NHẠC SĨ PHÓ ĐỨC PHƯƠNG SÁNG TÁC CA KHÚC ĐI CÙNG THÁNG NĂM: “HỒ TRÊN NÚI”.
Mênh mang mặt nước Cấm Sơn
Rời thị trấn Chũ của huyện Lục Ngạn, theo con đường nhỏ sâu hút mãi vào phía núi khoảng 20 km, từ đỉnh đèo Cạn nhìn xuống, hồ Cấm Sơn như viên ngọc xanh huyền ảo giữa trập trùng núi giăng. Đoạn đầu hồ khá nhỏ, chỉ rộng khoảng vài trăm mét, nhưng càng vào sâu phía trong, mặt nước càng mở ra mênh mông, có chỗ rộng tới 7 km. Mùa cạn, diện tích mặt hồ đã là 2.600 ha, còn vào mùa mưa, mặt nước Cấm Sơn trải rộng đến 3.000 ha, kéo THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
75
PHOÁNG SÛÅ / KYÁ SÛÅ
Anh Trưởng kiểm tra lưới sau buổi đánh cá
dài 30 km. Ngày hiếm hoi trời đông hửng nắng, nước hồ lóng lánh như rừng hoa bạc, sóng lấp lóa những mạn thuyền thong thả mái chèo khua sương mỏng, cảnh tựa trong thơ: “Áo chàm xuống núi bơi thuyền - Khăn nam phân phất như tiên dưới trần”... Cư dân vùng lòng hồ chủ yếu là người Nùng, bên cạnh một số ít người Sán Dìu, Cao Lan, Hoa, Tày và người Kinh. Cậu lái đò đưa tôi “xâm nhập” Cấm Sơn cũng người Nùng, ở thôn Đấp thuộc xã Sơn Hải, tên là Lâm Văn Tài. Khởi động con thuyền sắt gắn máy tháo từ xe Wave Tàu 76
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
cũ, chạy rề rề đến sốt ruột vì phải chở thêm cả chiếc Future vỡ yếm của tôi không biết gửi ai trên bến vắng ngắt, Tài cho biết: “Đường vào đây mới làm xong thôi anh ạ. Trước phải dắt xe lội 3 con suối mới vào đến đầu hồ, đi thêm nữa chỉ có dùng thuyền. Dân lòng hồ còn nghèo lắm, đến nay vẫn còn những thôn biệt lập chưa kéo được điện lưới.” Tài sinh năm 1979, có 3 con, nhà trồng sắn với ít gốc vải thiều, chỉ đủ ăn cũng khó. Con đò của Tài máy yếu, gặp hôm bão về, mưa lớn gió to là không chạy nổi, có ra hồ cũng bị gió đẩy lùi
dù “tăng hết ga”; đã thế lại ít khách, nên cậu ta thường thả câu quăng chài kiếm cá nuôi con. Cá hồ Cấm Sơn từ lâu đã nức tiếng nhiều, to và ngon. Tài bảo, hồi còn nhỏ nghe nói có mấy nhà khoa học người Nga đến vùng hồ này khảo sát, lặn xuống đáy hồ một lúc bỗng hốt hoảng bơi lên, la hét rằng nhìn thấy quái vật. Thủy quái thì dân lòng hồ chưa thấy, chứ cá to cỡ vài chục kg ở Cấm Sơn không hiếm, dù gần đây do đánh bắt quá mức nên tôm cá đã thưa thớt nhiều. Tài ghé thuyền vào nhà anh rể là Vi Văn Lợi cho tôi hỏi mua cá. Anh Lợi mới 38 tuổi (sinh năm 1977) mà tóc bạc quá nửa đầu, cuộc mưu sinh nhọc nhằn nuôi 4 đứa con đang tuổi đi học khiến anh gầy gò khẳng khiu trong tấm áo bạc phếch. Lợi cười hề hề: “Nhà em đông miệng ăn, đánh cá cũng chỉ tranh thủ lúc nông nhàn nên đâu có được nhiều mà bán. Anh muốn mua cá thì em đưa vào sâu trong lòng hồ, đến mấy nhà chỗ đảo Trung, đảo Kỉn mới có”. Vui chuyện cá tôm, Lợi kể, hồ Cấm Sơn còn nhiều cá lớn sót lại trong lứa cá được thả từ thời chiến tranh. Năm trước, ở xã Hộ Đáp có anh Vi Văn Quý bắt được con mè nặng 20kg, dài hơn 1 m. Sau đó không lâu, anh Trần Văn Tiến ở xã Tân Sơn cũng bắt được cá mè 19kg. Con cá lớn nhất bắt được ở hồ Cấm Sơn nặng tới 54kg, sa lưới hồi năm 1994, đường kính mỗi chiếc vảy cá khoảng 4cm, cái đuôi xòe to như nan quạt rộng chừng 50cm được một người trong vùng mua
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
về gắn trên cánh cửa nhà… Do tôm cá đánh bắt tương đối thuận lợi, một số người ở các xã ven hồ đã “chuyển nhà” ra ở các đảo giữa hồ để tiện sớm khuya thả lưới quăng chài. Nhất là đầu mùa mưa, nước thượng nguồn đổ về cũng nhằm mùa sinh sản của cá tôm, lũ cá tức trứng thường nổi lên hoặc dạt vào bờ dày đặc. Quang cảnh lòng hồ lúc này hệt như lời hát “Thuyền ta ngược, thuyền ta xuôi – Giữa dòng nước bạc nhịp chèo ta bơi…”. Ban ngày, rất nhiều thuyền độc mộc dàn hàng quăng chài bắt cá, đêm xuống lại khoan nhặt mái chèo thả lưới dưới trăng...
Chuyện tình trên hoang đảo
Núi Kỉn không cao lắm nhưng khá dài, nhiều đỉnh. Sau khi làm đập thủy điện, nước dâng, một phần núi bị nước chia cắt khỏi “núi mẹ”, người ta gọi là đảo Kỉn. Lòng hồ Cấm Sơn rất nhiều đảo nhỏ như thế, phần nhiều là đảo hoang, lác đác mấy đảo có ba bốn mái nhà của dân chài lưới. Riêng đảo Kỉn chỉ có duy nhất vợ chồng anh Nguyễn Văn Trưởng - chị Vi Thị Thuyền ra lập nghiệp. Thuyền chúng tôi cập đảo Kỉn đúng lúc anh Trưởng đang sửa lại tấm lưới sau buổi đánh cá, cười bẽn lẽn khi khách lạ bảo hâm mộ tình sử “một mái lều tranh hai trái tim vàng” của anh chị quá, nên đường đột đến nhà. Qua phút ngại ngùng, anh cho biết mình cùng tuổi Quý Sửu với vợ (1973), vốn dân thôn Mấn thuộc xã Tân Sơn. Dường như
Thuyền cập bến đảo Kỉn
duyên nợ ghép đôi của hai cái tên “Thuyền Trưởng” khiến họ không dứt được nhau, dù hai bên gia đình quyết liệt phản đối. Là bởi anh chị có chút quan hệ dây mơ rễ má, họ xa lắm và chẳng liên quan huyết thống gì, nhưng ở quê thế cũng đủ “to chuyện”, cứ dính đến họ hàng dù đã qua 5 đời vẫn bị cấm ngặt. Anh cười hiền lành: “Với lại nhà mình đông quá, mình là thứ hai mà sau mình còn 5 đứa em, mình ra đảo thì ở nhà càng đỡ chật”. Nói dễ vậy, chứ đảo Kỉn 20 năm trước hoang vu biệt lập giữa lòng hồ, um tùm bụi rậm với cỏ dại, trông ra tứ phía chỉ thấy gần thì nước bạc mênh mang, xa thì ngút ngàn núi vắng. Chị Vi Thị Thuyền tiếp lời chồng: “Thương nhau đến mức quyết bỏ làng đi với nhau, nhưng khi bước chân lên đảo, vợ chồng tôi cũng ngồi thẫn thờ cả ngày, không nói nổi với nhau câu nào”. Chẳng còn đường lùi, ngồi mãi rồi cũng phải đứng dậy phát bụi dọn cỏ, dựng tạm căn lều
lấy chỗ ở. Đôi tay người nông dân tưởng đã chai sạn, vẫn sưng phồng ứa máu sau từng ngày miệt mài khai phá đảo hoang. “Của hồi môn” có mỗi chiếc thuyền nhỏ, “Thuyền Trưởng” cùng nhau chài lưới mưu sinh. Anh Trưởng kể, hồi trước cá tôm ở Cấm Sơn nhiều và to lắm, có cả một xí nghiệp thủy sản của huyện Lạng Giang khai thác. Anh vẫn nhớ hồi tháng 5/1996, một con cá trắm khổng lồ sa lưới của Xí nghiệp Thủy sản. Những người có mặt lúc đó đều khẳng định, đó là con trắm đen nặng cỡ 100kg, họ không dám bắt mà chạy đi mượn súng để bắn, nhưng súng chưa về kịp thì cá đã vùng vẫy trốn thoát. Có người nhảy xuống ôm đầu con cá, nhưng nó chỉ cần quẫy nhẹ là đẩy người ra xa. Sau đó, nhiều người tìm mọi cách vây bắt lại con cá đó, nhưng trừ vài lần “tái ngộ thủy quái”, không ai đủ phương tiện và đủ sức bắt được nó, có người ở xã Tân Sơn còn suýt bị lật thuyền vì cá quẫy… THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
77
PHOÁNG SÛÅ / KYÁ SÛÅ
Thả lưới giữa lòng hồ
Vợ chồng trẻ biết nghề chài lưới, dù sống trên đảo hoang thiếu thốn đủ thứ, nhưng dưới nước sẵn cá tôm nên cuộc sống vẫn không thiếu tiếng cười. Vất vả thực sự tưởng chừng không vượt qua nổi khi 2 đứa con lần lượt chào đời trên đảo Kỉn. Chị Thuyền nhớ lại: “Các cụ bảo chửa là cửa mả, người ta sinh con ở bệnh viện còn lo, huống hồ mình sinh con ở đây. Nhưng từ đảo đi thuyền vào đến làng gần nhất cũng mất hơn nửa giờ, từ làng lên trạm xá còn cả chục cây số xuyên rừng vượt núi nữa, nếu cố đi có khi đến đẻ rơi giữa rừng”. Lũ trẻ đi chưa vững đã phải xuống thuyền theo bố mẹ đi bắt cá, vì để các cháu ở đảo cũng chẳng có ai trông nom. Thấy không ổn, anh Trưởng ít đi đánh cá hơn, chuyển sang đặt rọ tôm ven bờ các đảo hoang. Thời gian còn lại, anh chị cần mẫn trồng cây ăn trái, nuôi đàn gà… Hồ Cấm Sơn hào phóng ban tặng người hữu tình, mỗi ngày anh Trưởng đặt 400 rọ tôm, thế mà 78
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
chịu thương chịu khó tích cóp rồi cũng đến lúc đủ tiền xây nhà. Đảo Kỉn cũng chẳng phụ người bỏ công khai phá, những rặng cây trái dần dà phủ hết đất hoang bằng màu xanh hy vọng ấm no. “Thuyền Trưởng” tâm sự, một nhà một đảo, không thương yêu nhau thì chẳng làm nổi việc gì. Riêng việc học hành của 2 con đã cực khổ vô vàn, ngày nào anh Trưởng cũng kẽo kẹt mái chèo 4 chuyến đưa đón các cháu từ đảo vào bờ, rồi lại vượt hơn chục cây số đường núi mới đến được trường. Rồi đến đận anh chị xây nhà, chỉ chuyện vận chuyển vật liệu xây dựng ra đảo đã mất hơn hai tháng, từ lúc khởi công đến khi hoàn thành ngôi nhà mái bằng xinh xắn giữa đảo Kỉn mất đúng 1 năm ròng. Cũng may, thấy con cháu yêu thương nhau và quyết chí lập nghiệp, các cụ cũng chuyển ý dần, không hắt hủi nữa, bà con họ hàng còn ra đảo giúp xây nhà… 20 năm thấm thoắt, đảo Kỉn giờ
đã mang dáng dấp “vườn du lịch sinh thái” với lối đi lát gạch từ bến thuyền lên nhà xuyên giữa vườn cây trĩu quả. Bên cạnh những gốc xoài, gốc ổi trồng từ ngày đầu ra đảo nay đã tỏa bóng sum suê, anh chị còn có vài trăm cây bưởi da xanh đặc sản miền Nam đang bói quả. Cô con gái lớn học sư phạm mới lên xe hoa theo chồng về Hải Dương, cậu em trai cũng đang học dưới đó. Anh Trưởng xuề xòa: “Cháu nó 20 tuổi lấy chồng, ở lòng hồ thế cũng chẳng sớm sủa gì, tương đương hồi vợ chồng mình bắt đầu tìm hiểu vậy thôi”. Lại như “ngày đầu”, đảo Kỉn chỉ có “Thuyền Trưởng” sớm hôm ra đụng vào chạm, chỉ khác là đang chờ lên chức ông bà ngoại ở tuổi 42. Anh chị vẫn theo nghiệp cá tôm, mới đầu tư tấm lưới mới “hoành tráng” hết 40 triệu đồng, thêm mấy cái rọ bát quái. Anh Trưởng giơ mảnh lưới cho tôi xem: “Mình dùng lưới mắt to, chỉ bắt cả lớn thôi, con nào nhỏ phải để cho nó lớn, lâu dài còn bắt tiếp chứ không thì cạn kiệt mất. Tuần trước vừa được con chép hơn 9 kg đấy… Tiếc rằng dân quanh vùng ít ai chịu dùng loại này, họ đánh cá bằng lưới mắt nhỏ xíu, con tép cũng khó thoát, vì miếng cơm manh áo trước mắt mà hủy hoại cả tương lai”. Ngoài buổi thả lưới, anh chị còn đánh thuyền đi mua gom sắn ở các nương, mang về phơi và bán lại cho đầu mối trên bờ, rồi chăm tiếp đàn gà đông đúc… Hỏi sao không lên bờ ở với các con, chị Thuyền cười ý nhị: “Ở đâu thì đó là nhà, bao công sức tâm huyết
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
cả tuổi trẻ vợ chồng mình đã gắn với đảo Kỉn, chẳng muốn đi đâu nữa. Bây giờ đã kéo được điện từ bờ ra đảo, có nhà rộng, đủ cả ti vi, tủ lạnh với 2 cái thuyền máy, vào bờ lúc nào cũng tiện”. Anh Trưởng tủm tỉm liếc vợ: “Ở đảo có vợ với chồng nên chăm nhau kỹ lắm. Hôm nọ mình đau mắt nhẹ thôi, nhà mình đã cuống lên lôi đi khám tận Hà Nội, thuốc thang vác về cả đống, lại bắt nghỉ ở nhà không cho đi thả lưới, mấy hôm rồi chưa được gặp các em bán cá ở chợ(!)”. Cả khách lẫn chủ cười vang khi chị Thuyền dành cho chồng cái nguýt dài âu yếm như thuở mới “đò đưa”…
Để không mai một tiềm năng
Ngắm nước hồ Cấm Sơn mênh mang hiền hòa, sạch bong không một cọng rác, tôi thắc mắc sao vùng này không thấy ai nuôi cá lồng? Anh Trưởng lắc đầu: “Mấy phen tớ định nuôi mà rồi phải bỏ. Hồ Cấm Sơn thuộc 4 xã của huyện Lục Ngạn, gồm xã Hộ Đáp, xã Sơn Hải, xã Cấm Sơn và xã Tân Sơn. Một phần nhỏ phía đầu hồ giáp với xã Hòa Lạc và thị trấn Chi Lăng (thuộc huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn). Thế nên đánh cá thì ai cũng có phần, mà chẳng ai chịu quản lý, khiến nhiều người “ăn sổi” đánh bả thuốc sâu ven bờ, tôm cá lớn bé ngửa bụng từng đám. Như thế thì sao dám nuôi cá!”. Anh Trưởng khẳng định, nếu chính quyền dẹp được nạn đánh bả và xiết điện, thì chắc chắn nhiều gia đình trong vùng sẽ
Hạnh phúc bình dị của “Thuyền Trưởng”
nuôi cá lồng trên lòng hồ. Anh còn ấp ủ ý định nuôi cả giống cua đặc sản hồ Cấm Sơn, trông xù xì xấu mã nhưng rất ngọt thịt, bán được giá lắm. Đó là chưa kể đến tiềm năng du lịch. Bên cạnh cá Cấm Sơn, huyện Lục Ngạn còn nhiều đặc sản như mật ong hoa vải, quả hồng đỏ, hoặc món mì Chũ nổi tiếng của làng nghề truyền thống Nam Dương. Nhiều quả đồi, sườn núi ven hồ được người dân trồng vải thiều, mùa vải chín đỏ ối từng vạt như rừng soi bóng nước xanh, trên hồ tấp nập thuyền nan, thuyền mát chở quả về xuôi, nhộn nhịp như lễ hội, vô cùng ngoạn mục. Chẳng thế mà từ năm 1972, nhạc sĩ Phó Đức Phương được mời lên đây viết bài hát “Vịnh cảnh hồ Cấm Sơn” vốn chỉ định làm nhạc nền cho một bộ phim tài liệu, nhưng xúc cảm trước cảnh sơn thủy hữu tình đã nâng tầm một bản “địa phương ca” thành tình khúc “Hồ trên núi” nổi tiếng được rất nhiều người yêu thích.
Thực tế những năm gần đây, mùa hè nào cũng rất đông khách về Cấm Sơn, cắm trại trên các đảo hoang, bơi lội, đốt lửa trại, hát hò thâu đêm. Tiếc rằng đó chỉ là hoạt động tự phát, khách vào lòng hồ phải mang theo tất cả vật dụng, thực phẩm, do cả vùng không có dịch vụ gì. Địa phương cũng đã lập dự án quy hoạch xây dựng xung quanh khu vực hồ, với mục tiêu biến Cấm Sơn thành điểm tham quan nghỉ mát hấp dẫn với nhiều loại hình du lịch: bơi thuyền, leo núi, câu cá, đi thăm thôn bản của đồng bào dân tộc, đi chơi rừng... nhưng tất cả đang nằm trên giấy. Chính quyền chưa làm thì dân phải tính thôi. “Thuyền Trưởng” cho biết, sang năm cậu con trai học đầu bếp ở Hải Dương ra trường, có thể tính chuyện mở quán ăn phục vụ khách du lịch đến Cấm Sơn, với những món đặc sản chế biến chính từ cá tôm của lòng hồ… Bài và ảnh: Nguyễn Việt THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
79
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
XUÊËT KHÊÍU THUÃY SAÃN VIÏÅT NAM 11 THAÁNG ÀÊÌU NÙM 2014 Nguöìn: VASEP (theo söë liïåu Haãi quan Viïåt Nam)
Xuêët khêíu thuãy saãn chñnh ngaåch cuãa caã nûúác trong 11 thaáng àêìu nùm àaåt trïn 7,29 tyã USD, tùng 16,9% so vúái cuâng kyâ nùm ngoaái. Caác thõ trûúâng chñnh tiïu thuå thuãy saãn Viïåt Nam, nhû Myä, EU, Haân Quöëc, Trung Quöëc, ASEAN, Nhêåt Baãn…..duy trò töët sûác tùng trûúãng NK. XK töm tiïëp tuåc tùng maånh sang caác thõ trûúâng Myä, EU, Nhêåt Baãn vaâ Haân Quöëc, goáp phêìn tùng kim ngaåch XK cuãa caã nûúác. XK caá tra tiïën triïín khön g àaáng kïí. Cú cêëu thõ trûúâng vaâ nhoám saãn phêím XK chñnh nhû sau (GT: giaá trõ triïåu USD) Thõ trûúâng
Thaáng 10/2014 (GT )
Thaáng 11/2014 (GT)
Myä EU Àûác Haâ Lan Anh Bó Italia Nhêåt Baãn Haân Quöëc TQ vaâ HK Höìng Köng ASEAN Canaàa Öxtrêylia Braxin Nga Caác TT khaác Töíng cöång
157,447 155,198 25,270 22,560 27,561 15,752 14,737 132,208 68,506 56,604 13,437 45,718 41,447 26,555 14,069 25,590 99,081 822,423
143,668 106,006 17,654 17,082 15,415 13,159 6,923 119,903 66,211 43,602 13,037 40,323 26,074 23,139 8,924 9,348 82,913 670,110
Saãn phêím
Nhêåt Baãn 15,3%
Öxtrêylia 3,1%
Haân Quöëc 8,4%
EU 18,1%
1.607,110 1.317,993 220,822 207,727 169,808 138,448 133,528 1.114,692 609,686 582,361 137,354 414,770 247,077 223,238 118,320 96,842 961,513 7.293,603
+16,2 +22,7 +15,0 +76,1 +26,7 +41,0 +0,9 +6,3 +34,0 +12,2 +19,5 +16,6 +48,5 +18,6 +10,4 +12,3 +12,6 +16,9
417,807 248,342 143,103 181,775 45,791 26,214 19,577 107,205
327,339 197,592 106,977 146,489 36,236 19,004 17,232 96,380
-3,9 +3,7 -17,0 -0,6 +2,6 -21,9 +56,6 +24,7
3.681,000 2.154,801 1.291,519 1.604,754 444,989 214,274 230,715 928,925
+31,1 +54,1 +5,4 +0,6 -9,0 -7,9 -10,1 +19,6
52,681 44,870 7,485 17,165 822,423
49,308 42,427 6,308 14,358 670,110
+1,3 -1,2 +12,8 +16,5 +1,3
515,555 437,995 75,164 118,379 7.293,603
+9,3 +8,5 +12,9 +21,7 +16,9
Myä 22,0%
Trung Quöëc 8,0%
+1,2 -0,5 -15,1 +35,2 +4,8 +36,6 -28,4 +5,4 +9,2 -22,8 +15,4 +9,8 +34,4 +1,9 -38,5 -1,5 +4,3 +1,3
Thaáng 11/2014 (GT)
Thõ trûúâng NK chñnh 11 thaáng àêìu nùm 2014 (GT) Caác TT khaác 19,5%
So vúái cuâng kyâ 2013 (%)
Tûâ 1/1 àïën 30/11/2014 (GT)
Thaáng 10/2014 (GT)
Töm caác loaåi (maä HS 03 vaâ 16) trong àoá: - Töm chên trùæng - Töm suá Caá tra (maä HS 03 vaâ 16) Caá ngûâ (maä HS 03 vaâ 16) trong àoá: - Caá ngûâ maä HS 16 - Caá ngûâ maä HS 03 Caá caác loaåi khaác (maä HS 0301 àïën 0305 vaâ 1604, trûâ caá ngûâ, caá tra) Nhuyïîn thïí (maä HS 0307 vaâ 16) trong àoá: - Mûåc vaâ Baåch tuöåc - Nhuyïîn thïí hai maãnh voã Cua, gheå vaâ giaáp xaác khaác (maä HS 03 vaâ 16) Töíng cöång
ASEAN 5,7%
So vúái T11/2013 (%)
So vúái T11/2013 Tûâ 1/1 àïën 30/11/2014 (%) (GT)
Top 10 DN XKTS 11 thaáng àêìu nùm 2014
Saãn phêím chñnh 11 thaáng àêìu nùm 2014 (GT)
GT (tr.USD) MINH PHU SEAFOOD CORP STAPIMEX Cty TNHH CBTS Minh Phuá - Hêåu Giang CASES QUOC VIET CO., LTD VINH HOAN CORP HUNG VUONG CORP FIMEX VN Cty TNHH CB TS vaâ XNK Trang Khanh NAVICO Töíng cöång
477,037 230,267 211,730 195,318 194,642 184,984 127,783 123,923 117,543 99,019 1.962,247
So vúái cuâng kyâ 2013 (%)
Caá khaác 12,7 %
Nhuyïîn thïí 7,1%
Caá ngûâ 6,1%
Giaáp xaác khaác 1,6%
Töm 50,5%
Caá tra, basa 22,0%
Xuêët khêíu thuãy saãn Viïåt Nam 2012 - 2014
Triïåu USD 1200 750 500 250 0
1
2
3
4
5
2012 GT
80
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
6
7
2013 GT
8
2014 GT
9
10
11
12
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
XUÊËT KHÊÍU TÖM 11 THAÁNG ÀÊÌU NÙM 2014 Thõ trûúâng NK töm 11 thaáng àêìu nùm 2014 (GT) Caác TT khaác 14,6%
Trung Quöëc
XK töm 11 thaáng àêìu nùm, 2010 - 2014 (GT) Triïåu USD 4000 3500 3000 2500 2000 1500 1000 500 0 2010
Nhêåt Baãn 18,7%
10,6% Haân Quöëc 8,1% Öxtrêylia 3,9%
Myä
EU
2011
2012
2013
2014
Tûâ 1/1 àïën 30/11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
So vúái cuâng kyâ 2013 (%)
+32,3
26,9%
17,2%
Thaáng 10/2014 (GT)
Thaáng 11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
Myä
88,871
81,014
24,7
-9,2
990,534
26,9
Nhêåt Baãn
85,109
74,183
22,7
+3,9
688,940
18,7
+6,7
EU
84,818
53,866
16,5
+13,4
634,544
17,2
+71,7
Àûác
17,448
10,812
3,3
-10,6
129,287
3,5
+48,0
Haâ Lan
15,742
9,345
2,9
+49,0
121,897
3,3
+213,2
Anh
19,849
10,289
3,1
-0,2
105,263
2,9
+41,2
TQ vaâ HK
37,038
24,621
7,5
-37,2
389,360
10,6
+11,5
Höìng Köng
7,593
6,978
2,1
+18,6
79,939
2,2
+38,5
Haân Quöëc
32,860
32,489
9,9
-3,4
296,627
8,1
+56,8
Canaàa
35,469
20,742
6,3
+49,2
187,195
5,1
+73,6
Öxtrêylia
16,658
14,710
4,5
-4,0
142,536
3,9
+21,3
Àaâi Loan
6,689
6,324
1,9
-22,3
85,474
2,3
-2,5
Thuåy Sô
1,647
1,743
0,5
-65,2
57,602
1,6
+21,8
ASEAN
7,648
5,329
1,6
-20,0
57,441
1,6
+24,5
Xingapo
5,044
3,373
1,0
-11,7
35,888
1,0
+17,3
Philippin
1,091
1,092
0,3
-27,8
11,452
0,3
+67,2
Caác TT khaác
20,999
12,319
3,8
+15,9
150,747
4,1
+52,3
Töíng cöång
417,807
327,339
100
-3,9
3.681,000
100
+31,1
Thõ trûúâng
So vúái T11/2013 (%)
GT: Giaá trõ (triïåu USD) Töm caác loaåi (söëng/ tûúi/àöng laånh/ khö (thuöåc maä HS 03)) STT
Thõ trûúâng
Töm caác loaåi (chïë biïën, thuöåc maä HS 1605)
GT (triïåu USD)
Thõ phêìn (%)
STT
Thõ trûúâng
GT (triïåu USD)
Thõ phêìn (%)
1
Myä
538,282
22,24
1
Myä
452,252
35,87
2
Nhêåt Baãn
436,120
18,02
2
Nhêåt Baãn
252,820
20,05
3
Trung Quöëc & HK
371,331
15,34
3
Öxtrêylia
94,386
7,49
4
Haân Quöëc
213,901
8,84
4
Haân Quöëc
82,726
6,56
5
Canađa
113,208
4,68
5
Canađa
73,986
5,87
6
Àûác
85,342
3,53
6
Haâ Lan
49,444
3,92
7
Àaâi Loan
78,163
3,23
7
Àûác
43,945
3,49
8
Haâ Lan
72,453
2,99
8
Anh
42,802
3,39
9
Anh
62,461
2,58
9
Bó
29,150
2,31
10
Bó
62,200
2,57
10
Phaáp
28,925
2,29
2.033,461
84,02
Töíng 10 TT
1.150,436
91,24
386,645
15,98
Caác TT khaác
2.420,106
100,00
Töíng cöång
Töíng 10 TT Caác TT khaác Töíng cöång
110,458
8,76
1.260,894
100,00
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
81
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
XUÊËT KHÊÍU CAÁ TRA 11 THAÁNG ÀÊÌU NÙM 2014 Thõ trûúâng NK caá tra 11 thaáng àêìu nùm 2014 (GT) Caác TT khaác
XK caá tra 11 thaáng àêìu nùm, 2010 - 2014 (GT) Triïåu USD
EU
36,3%
19,5%
Cölömbia
2000
3,9%
1500 1000
Braxin 7,3%
500
ASEAN
Mïhicö
Myä
6,3%
Thõ trûúâng
0
7,9%
2010
18,9%
2011
2011
2013
2014
Thaáng 10/2014 (GT)
Thaáng 11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
So vúái T11/2013 (%)
Tûâ 1/1 àïën 30/11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
So vúái cuâng kyâ 2013(%)
EU
28,790
23,491
16,0
-23,6
313,310
19,5
-11,4
Têy Ban Nha
3,585
2,830
1,9
-57,3
67,078
4,2
-3,3
Haâ Lan
5,152
4,871
3,3
+4,8
54,096
3,4
-1,4
Anh
4,060
2,494
1,7
-16,3
36,783
2,3
-3,0
Àûác
3,195
2,123
1,4
-46,6
35,684
2,2
-14,2
Myä
32,490
29,207
19,9
+16,1
302,515
18,9
-13,9
ASEAN
11,595
12,477
8,5
+9,4
126,756
7,9
+11,0
Thaái Lan
3,233
3,524
2,4
+24,0
40,526
2,5
+25,0
Xingapo
3,254
3,502
2,4
+9,7
35,080
2,2
+6,5
Philippin
2,976
2,970
2,0
-9,1
26,766
1,7
+7,8
Braxin
13,876
8,653
5,9
-38,5
116,481
7,3
+9,8
Mïhicö
12,501
13,885
9,5
+64,9
101,031
6,3
+16,1
TQ vaâ HK
10,343
11,366
7,8
+33,2
98,855
6,2
+19,4
Höìng Köng
3,983
3,703
2,5
+22,2
36,392
2,3
+10,8
Cölömbia
7,441
5,606
3,8
-1,1
62,228
3,9
+18,7
Arêåp Xïut
7,126
4,585
3,1
+9,0
54,064
3,4
+20,2
Caác TT khaác
57,612
37,219
25,4
-4,9
429,515
26,8
+6,8
Töíng cöång
181,775
146,489
100
-0,6
1.604,754
100
+0,6
GT: Giaá trõ (triïåu USD) Caá tra chïë biïën (thuöåc maä HS 1604)
Caá tra söëng/ tûúi/ àöng laånh/ khö (thuöåc maä HS 03) STT
Thõ trûúâng
GT (triïåu USD)
Thõ phêìn (%)
STT
GT (triïåu USD)
Thõ phêìn (%)
1
Myä
302,227
19,01
1
Haâ Lan
5,598
36,57
2
Braxin
116,481
7,33
2
Thaái Lan
2,046
13,37
3
Mïhicö
100,877
6,35
3
Anh
0,887
5,79
4
Trung Quöëc & HK
98,091
6,17
4
Trung Quöëc & HK
0,764
4,99
5
Têy Ban Nha
66,602
4,19
5
Öxtrêylia
0,748
4,89
6
Cölömbia
62,228
3,92
6
Àûác
0,745
4,87
7
Arêåp Xïut
53,659
3,38
7
Xingapo
0,567
3,70
8
Haâ Lan
48,498
3,05
8
Thuåy Syä
0,551
3,60
9
Ai Cêåp
44,389
2,79
9
Têy Ban Nha
0,476
3,11
10
Öxtrêylia
39,190
2,47
10
UAE
0,440
2,87
932,242
58,65
Töíng 10 TT
12,820
83,76
657,206
41,35
Caác TT khaác
2,485
16,24
1.589,448
100,00
Töíng cöång
15,306
100,00
Töíng 10 TT Caác TT khaác Töíng cöång
82
Thõ trûúâng
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
XUÊËT KHÊÍU CAÁ NGÛÂ 11 THAÁNG ÀÊÌU NÙM 2014 Thõ trûúâng NK caá ngûâ 11 thaáng àêìu nùm 2014 (GT)
Canaàa
Ixraen
2,4%
4,4 %
XK caá ngûâ 11 thaáng àêìu nùm, 2010 - 2014 (GT) Triïåu USD
Caác TT khaác
Myä
17,1%
600
36,4%
500
ASEAN
400
7,0%
300 200 100
Nhêåt Baãn 4,8%
0
EU
2010
27,9%
2011
2012
2013
2014
Thaáng 10/2014 (GT)
Thaáng 11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
So vúái T11/2013 (%)
Myä
17,441
16,241
44,8
+11,7
161,817
36,4
EU
15,566
8,030
22,2
-6,6
124,118
27,9
-1,7
Àûác
2,644
2,694
7,4
+23,6
33,647
7,6
-12,8
Italia
3,157
0,075
0,2
-95,4
18,889
4,2
-23,5
Haâ Lan
0,423
1,235
3,4
+290,9
16,094
3,6
+71,9
ASEAN
3,340
2,197
6,1
+10,6
31,269
7,0
-5,8
Thaái Lan
2,513
1,670
4,6
+19,0
23,665
5,3
-0,05
Nhêåt Baãn
1,569
1,187
3,3
-37,2
21,553
4,8
-46,4
Ixraen
0,640
0,839
2,3
-69,7
19,417
4,4
+14,7
Canaàa
0,483
1,278
3,5
+147,5
10,759
2,4
+10,9
Tuynidi
0,443
0,258
0,7
-23,9
6,978
1,6
-31,6
Libùng
0,360
0,775
2,1
+26,7
6,070
1,4
+8,9
Caác TT khaác
5,948
5,429
15,0
+33,3
63,008
14,2
-9,4
Töíng cöång
45,791
36,236
100
+2,6
444,989
100
-9,0
Thõ trûúâng
Tûâ 1/1 àïën 30/11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
So vúái cuâng kyâ 2013 (%)
-8,9
GT: Giaá trõ (triïåu USD) Caá ngûâ chïë biïën (thuöåc maä HS 1604)
Caá ngûâ söëng/tûúi/àöng laånh (thuöåc maä HS 03) STT
Thõ trûúâng
GT (triïåu USD)
Thõ phêìn (%)
STT
Thõ trûúâng
GT (triïåu USD)
Thõ phêìn (%)
1
Myä
86,787
37,62
1
Myä
75,030
35,02
2
Italia
17,631
7,64
2
Àûác
30,130
14,06
3
Nhêåt Baãn
15,499
6,72
3
Thaái Lan
19,368
9,04
4
Trung Quöëc & HK
11,938
5,17
4
Böì Àaâo Nha
9,606
4,48
5
Haâ Lan
10,994
4,77
5
Ixraen
8,899
4,15
6
Ixraen
10,518
4,56
6
Tuynidi
6,583
3,07
7
Canaàa
8,707
3,77
7
Libùng
6,070
2,83
8
Têy Ban Nha
8,358
3,62
8
Nhêåt Baãn
6,054
2,83
9
Anh
7,890
3,42
9
Haâ Lan
5,100
2,38
10
Bó
6,327
2,74
10
Àaâi Loan
3,477
1,62
184,650
80,03
Töíng 10 TT
170,316
79,49
Töíng 10 TT Caác TT khaác
46,065
19,97
Caác TT khaác
43,957
20,51
Töíng cöång
230,715
100,00
Töíng cöång
214,274
100,00
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
83
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
Thõ trûúâng NK nhuyïîn thïí HMV 11 thaáng àêìu nùm 2014 (GT)
XUÊËT KHÊÍU NHUYÏÎN THÏÍ HAI MAÃNH VOÃ 11 THAÁNG ÀÊÌU NÙM 2014
ASEAN 4,0%
Myä
Öxtrêylia
Caác nûúác khaác
1,2%
3,9%
Nhêåt Bản 10,8%
8,6%
Haân Quöëc 3,1%
EU 68,5% Thaáng 10/2014 (GT)
Thõ trûúâng
4,508 1,605 1,548 0,731 0,998 0,737 0,281 0,157 0,479 0,070 0,102 0,067
EU Böì Àaâo Nha Têy Ban Nha Italia Nhêåt Baãn Myä ASEAN Malaixia Haân Quöëc Öxtrêylia TQ vaâ HK Àaâi Loan Mïhicö Caác TT khaác Töíng cöång
0,243 7,485
Thaáng 11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
So vúái T11/2013 (%)
Tûâ 1/1 àïën 30/11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
4,210 1,296 1,402 0,622 0,863 0,390 0,079 0,023 0,322 0,073 0,228 0,031 0,004 0,109 6,308
66,7 20,5 22,2 9,9 13,7 6,2 1,2 0,4 5,1 1,2 3,6 0,5 0,1 1,7 100
+22,8 +6,9 +36,7 +46,8 +13,7 -10,9 -65,3 -79,2 +44,5 -74,6 +739,7 -31,8 -90,9 -5,4 +12,8
51,484 17,158 11,935 11,102 8,094 6,459 3,002 2,068 2,311 0,905 0,688 0,398 0,099 1,725 75,164
68,5 22,8 15,9 14,8 10,8 8,6 4,0 2,8 3,1 1,2 0,9 0,5 0,1 2,3 100
So vúái cuâng kyâ 2013 (%)
+11,5 +21,3 +0,4 +26,6 +10,53 +35,6 +48,9 +95,0 +53,4 -43,0 +1,5 -34,5 +10,7 -4,3 +12,9
GT: Giaá trõ (triïåu USD)
XUÊËT KHÊÍU MÛÅC, BAÅCH TUÖÅC 11 THAÁNG ÀÊÌU NÙM 2014 Thõ trûúâng NK mûåc, baåch tuöåc 11 thaáng àêìu nùm 2014 (GT) ASEAN 12,9% Trung Quöëc 4,7%
Nga 1,0%
XK mûåc, baåch tuöåc 11 thaáng àêìu nùm, 2010 - 2014 (GT) Triïåu USD
Caác nûúác khaác 5,5% Nhêåt Baãn 22,8%
500 400 300 200 100
EU 17,6%
Thõ trûúâng
Haân Quöëc Nhêåt Baãn EU Italia Àûác Têy Ban Nha ASEAN Thaái Lan TQ vaâ HK Höìng Köng Myä Àaâi Loan Nga Öxtrêylia Caác TT khaác Töíng cöång
Haân Quöëc 35,5%
Thaáng 10/2014 (GT)
Thaáng 11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
17,591 9,101 8,813 6,174 0,926 0,589 5,041 4,141 1,241 0,515 0,902 0,559 0,468 0,328 0,828 44,870
16,935 10,009 6,047 3,433 0,549 0,475 4,969 4,226 1,498 0,830 0,928 0,481 0,544 0,635 0,382 42,427
39,9 23,6 14,3 8,1 1,3 1,1 11,7 10,0 3,5 2,0 2,2 1,1 1,3 1,5 0,9 100
GT: Giaá trõ (triïåu USD)
84
0
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
2010
So vúái T11/2013 (%)
+25,4 -20,9 +5,2 -16,9 +61,4 +135,8 -8,8 -3,0 -26,1 +14,8 +114,0 -25,1 -58,4 +61,5 -52,5 -1,2
2011
2012
2013
Tûâ 1/1 àïën 30/11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
156,435 100,988 75,316 48,549 5,065 4,808 56,571 45,882 20,372 5,988 5,753 5,581 4,319 3,634 9,026 437,995
35,7 23,1 17,2 11,1 1,2 1,1 12,9 10,5 4,7 1,4 1,3 1,3 1,0 0,8 2,1 100
2014
So vúái cuâng kyâ 2013 (%)
+26,8 -8,6 +10,2 -0,2 +35,8 +107,1 +16,4 +19,0 -3,4 -7,6 +120,4 +21,7 -41,1 -1,1 -32,7 +8,5
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
XUÊËT KHÊÍU CHAÃ CAÁ VAÂ SURIMI 11 THAÁNG ÀÊÌU NÙM 2014 Thõ trûúâng NK chaã caá, surimi 11 thaáng àêìu nùm 2014 (GT) Caác nûúác khaác 6,7%
ASEAN 22,5% Àaâi Loan 4,0%
Nhêåt Baãn 12,0%
XK chaã caá, surimi 11 thaáng àêìu nùm, 2010 - 2014 (GT) Triïåu USD 300 250 200 150 100
Trung Quöëc 15.1%
Thõ trûúâng
Haân Quöëc ASEAN Thaái Lan Xingapo Malaixia TQ vaâ HK Höìng Köng Nhêåt Baãn EU Phaáp Lit-va Têy Ban Nha Nga Àaâi Loan Myä Caác TT khaác Töíng cöång
50
Haân Quöëc 32,4%
EU 7,3%
0
2010
2011
2012
2013
Thaáng 10/2014 (GT)
Thaáng 11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
So vúái T11/2013 (%)
Tûâ 1/1 àïën 30/11/2014 (GT)
Tyã lïå GT (%)
10,200 5,866 4,063 1,338 0,464 4,685 0,156 4,064 1,620 0,890 0,176 0,063 1,210 1,497 0,095 0,771 30,007
9,769 6,929 4,674 1,478 0,777 3,599 0,138 3,891 2,641 2,127 0,289
31,3 22,2 15,0 4,7 2,5 11,5 0,4 12,5 8,5 6,8 0,9
+13,5 +65,7 +103,8 +24,9 +10,3 +4,0 -31,9 +15,7 +53,2 +58,0 +250,1
2,366 1,045 0,121 0,842 31,204
7,6 3,3 0,4 2,7 100
+675,0 +45,6 -33,8 +26,8 +34,5
86,705 60,268 39,943 13,402 6,879 40,267 1,232 32,090 19,491 10,793 3,362 2,219 11,602 10,622 0,937 5,308 267,291
32,4 22,5 14,9 5,0 2,6 15,1 0,5 12,0 7,3 4,0 1,3 0,8 4,3 4,0 0,4 2,0 100
2014
So vúái cuâng kyâ 2013 (%)
+6,3 +51,0 +52,1 +28,5 +128,6 +48,2 -27,9 +42,7 +26,0 +6,8 +120,5 +75,5 +133,3 +42,9 -28,8 +15,8 +30,4
XUÊËT KHÊÍU CUA, GHEÅ 11 THAÁNG ÀÊÌU NÙM 2014 Thõ trûúâng NK cua gheå 11 thaáng àêìu nùm 2014 (GT) Trung Quöëc 3,1%
ASEAN 2,5%
Àaâi Loan 0,7%
Caác nûúác khaác 5,1%
XK cua gheå 11 thaáng àêìu nùm, 2010 - 2014 (GT) Triïåu USD 120 90 60
EU 19,7%
Thõ trûúâng
Myä EU Phaáp Anh Haâ Lan Bó Nhêåt Baãn TQ vaâ HK Höìng Köng ASEAN
Inđônêxia
Xingapo Canaàa Öxtrêylia Àaâi Loan Caác TT khaác Töíng cöång GT: Giaá trõ (triïåu USD)
30
Myä 53,4%
0
Nhêåt Baãn 15,6%
2010
Thaáng 10/2014 (GT)
Thaáng 11/2014 (GT)
8,195 2,561 1,828 0,566 0,051 0,059 4,403 0,282 0,057 0,704 0,342 0,251 0,338 0,336 0,070 0,277 17,165
7,627 2,703 1,413 0,609 0,423 0,078 3,156 0,217 0,011 0,247 0,086 0,044 0,001 0,229 0,033 0,145 14,358
Tyã lïå GT So vúái T11/2013 (%) (%)
53,1 18,8 9,8 4,2 2,9 0,5 22,0 1,5 0,1 1,7 0,6 0,3 0,01 1,6 0,2 1,0 100
+12,9 +57,0 +41,1 +8,4 +1.247,0 +357,2 +23,2 -50,8 -95,1 +6,9 -69,8 -76,9 +18,7 -89,2 +34,5 +16,5
2011
2012
2013
Tûâ 1/1 àïën 30/11/2014 Tyã lïå GT
2014
(GT)
(%)
So vúái cuâng kyâ 2013 (%)
63,189 23,279 10,999 7,071 2,716 1,577 18,475 3,615 0,798 2,999 1,487 0,890 2,331 1,371 0,806 2,314 118,379
53,4 19,7 9,3 6,0 2,3 1,3 15,6 3,1 0,7 2,5 1,3 0,8 2,0 1,2 0,7 2,0 100
+38,4 +25,5 +17,1 +50,7 +14,9 +36,8 +15,7 -49,7 -47,6 -12,0 +99,1 -52,0 +74,8 -21,6 -20,4 -4,5 +21,7
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
85
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
Triển vọng ngành thủy sản toàn cầu đến năm 2022 TĂNG TRƯỞNG DÂN SỐ VÀ THU NHẬP CÙNG VỚI ĐÔ THỊ HÓA VÀ ĐA DẠNG HÓA CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG DỰ ĐOÁN SẼ LÀM GIA TĂNG NHU CẦU VỀ CÁC SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT, TRONG ĐÓ CÓ THỦY SẢN, TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN. FAO ĐÃ ĐƯA RA DỰ BÁO VỀ TRIỂN VỌNG NGÀNH THỦY SẢN TOÀN CẦU GIAI ĐOẠN 2013-2022, TRONG ĐÓ SẢN LƯỢNG THỦY SẢN TOÀN CẦU SẼ TĂNG 18% TÍNH ĐẾN NĂM 2022.
Sản xuất
Sản lượng thủy sản toàn cầu được dự đoán sẽ đạt 181 triệu tấn vào năm 2022, tăng 18% so với mức trung bình giai đoạn 2010-12 với mức tăng trưởng bình quân hằng năm là 1,3%, trong đó 161 triệu tấn dành làm thực phẩm. Sản lượng khai thác thủy sản dự kiến tăng 5%, đạt khoảng 96 triệu tấn vào năm 2022, nhờ sự phục hồi của một số nguồn lợi thông qua việc nâng cao quản lý chúng, tăng trưởng tại một số quốc gia không áp dụng hạn ngạch sản xuất nghiêm ngặt và việc tận dụng phụ phẩm từ sản xuất thủy sản do luật định hoặc do chi phí sản xuất ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, trong năm 2015 và 2020, hiện tượng El Niño có khả năng sẽ làm giảm sản lượng khai thác 3-4%. Nguồn cung thủy sản tăng chủ yếu là từ nuôi trồng thủy sản (NTTS), dự kiến đạt 85 triệu tấn năm 2022, tăng 35% so với mức trung bình giai đoạn 2010-12. Tuy nhiên, tốc độ tăng sản lượng trung bình hằng năm dự kiến sẽ chỉ đạt 2,5% trong giai đoạn 2013-
86
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Triệu tấn
Sản lượng thủy sản toàn cầu theo các kịch bản khác nhau, giai đoạn 2010-12 đến 2022 NTTS Khai thác
2010-12
Cơ sở
Trung bình
Lạc quan
Hỗn hợp
2022, thấp hơn nhiều so với mức thủy sản thế giới, tăng từ 68% 6,1%Nuôi trong giai giai đoạn 2010-12 71% trong trồng thủyđoạn sản là 2003-2012, nguồn cung chính dành làm thực phẩm lên từ năm 2015 Tổng sản lượng khai thác Tổng sản lượng NTTS Sản lượng khai thác làm thực phẩm nguyên nhân chính là do khan năm 2022, chiếm 55% sản lượng Triệu tấn hiếm nguồn nước ngọt, thiếu địa thủy sản khai thác và 89,2% sản điểm sản xuất phù hợp và giá lượng thủy sản nuôi toàn cầu. thành bột cá, dầu cá và thức ăn Trung Quốc vẫn sẽ là nhà sản chăn nuôi cao. Tuy nhiên, NTTS xuất chính, chiếm lần lượt 16% vẫn là một trong những ngành và 63% sản lượng khai thác và sản xuất thực phẩm tăng trưởng NTTS toàn cầu. Các nước OECD nhanh nhất. (Tổ chức Hợp tác & Phát triển Tỷ trọng NTTS đóng góp cho Kinh tế), trong đó Na Uy và sản lượng thủy sản toàn cầu sẽ Chilê là hai nhà sản xuất chính, tăng từ 41% giai đoạn 2010-12 chỉ đóng góp 27% và 8% trong lên 47% vào năm 2022. NTTS sản lượng khai thác và NTTS cũng đóng góp trên 50% cho sản toàn cầu năm 2022. xuất thực phẩm vào năm 2015 và Năm 2022, dự kiến khoảng đạt 53% vào năm 2022. 16% sản lượng thủy sản khai Xu hướng giá thủy sản danh nghĩa (trái) và thực tế (phải), 1992 - 2022 Châu Á sẽ Cá tiếp tục chiếm tỷ thác được sử dụng để Cá chế biến thực phẩm thực phẩm NTTS Dầu cá Dầu cá Khai thác trọng lớn trong tổng sản lượng bột cá và USD/tấn dầu cá, giảm 7% so với Bột cá Bột cá USD/tấn
NT Kha
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI 2010-12
Cơ sở
Trung bình
Lạc quan
Hỗn hợp
thấp hơn giá thủy sản nuôi.. Do cầu vượt cung, giá bột cá Tổng sản lượng khai thác Tổng sản lượng NTTS Sản lượng khai thác làm thực phẩm Triệu tấn và dầu cá sẽ tăng lần lượt 6% và 23% vào năm 2022. Nguồn cung Sản lượng thủy sản toàn cầu theo các kịch bản khác nhau, giai đoạn 2010-12 đến 2022 khan hiếm của hai sản phẩm này Triệu tấn sẽ góp phần làm tăng tỷ lệ giá NTTS cả giữa sản phẩm từ cá và hạt Khai thác có dầu. Với các sản phẩm bột, tỷ lệ giá cả tăng do bột cá được ưa chuộng hơn trong một số giai đoạn nuôi động vật (như lợn và cá hồi). Tỷ số giá giữa dầu cá và dầu lấy từ hạt có dầu dự kiến sẽ mức trung bình giai đoạn 2010tăng, do nhu cầu ngày càng cao Giá cả 12. Sản lượng bột cá và dầu cá dự Giá bình cả và chi phí sản xuất 2010-12 Cơ sở Trung Lạc quan Hỗn hợpđối với axit béo omega3 có trong kiến sẽ đạt lần lượt 7,0 triệu tấn dầu cá. trong giai đoạn này sẽ tăng do Xu hướng giá thủy sản danh nghĩa (trái) và thực tế (phải), 1992 2022 và 1,1 triệu tấn, tăng 15% và 10% Giá trung bình thủy sản làm một vài yếu tố khiến nhu cầu tăng Cá thực phẩm NTTS Cá thực phẩm NTTS Dầu cá Khai thác Dầu cá2010-12. Khainhư thác Nuôi trồng thủy sản là nguồn chính dành làm thực phẩm từ năm 2015 so với giai đoạn Gần cung thực phẩm sẽ tăng 30%, nhưng vẫn thu nhập và dân số tăng, giá Bột cá Bột cá USD/tấn USD/tấn Tổng sản lượng khai thác Tổng sản lượng NTTS Sản lượng khai thác làm thực phẩm 95% sản lượng bột cá tăng là nhờ dưới mức đầu những năm 1990. thịt tăng và đồng đôla yếu. Hơn Triệu tấn tận dụng phụ phẩm cá. Nhu cầu nữa, những yếu tố làm giảm ổn định và giá bột cá cao, cộng Tiêu thụ nguồn cung như hạn chế về khả thêm việc thiếu nguyên liệu và Tiêu thụ thủy sản trên đầu năng tăng sản lượng khai thác và các sản phẩm thủy sản giá trị người/năm dự kiến tăng từ 18,9 áp lực chi phí từ một số đầu vào gia tăng (GTGT) làm thực phẩm kg trong giai đoạn cơ sở lên 20,7 quan trọng (như năng lượng, bột ngày càng nhiều sẽ dẫn tới việc kg năm 2022. Tuy nhiên, tốc độ cá, dầu cá và các thức ăn chăn phụ phẩm thủy sản được sử tăng trưởng hằng năm sẽ giảm nuôi khác). Giá trung bình thủy dụng nhiều hơn trong sản xuất từ 1,8% trong giai đoạn 2003sản khai thác cũng được dự báo bột cá. Bột cá từ phụ phẩm cá sẽ 2012 xuống còn 0,6%. sẽ tăng nhanh hơn giá thủy sản chiếm 49% tổng sản lượng bột cá Tiêu thụ thủy sản trên đầu nuôi, với mức tăng lần lượt là trong năm 2022. người sẽ tăng tại tất cả các châu 39% và 33%. Tuy nhiên, mức giá lục, ngoại trừ châu Phi (giảm 10% thủy sản khai thác nhìn chung sẽ Nuôi trồng thủy sản là nguồn cung chính dành làm thực phẩm từ năm 2015
Xu hướng giá thủy sản danh nghĩa (trái) và thực tế (phải), 1992 - 2022 XK thủy sản làm thực phẩm, giai đoạn 2010-12 đến 2022 Cá thực phẩm Dầu cá Bột cá
USD/tấn
NTTS Khai thác
USD/tấn
Cá thực phẩm Dầu cá Bột cá
NTTS Khai thác
Các nước châu Á – Thái Bình Dương khác Trung Quốc EU Châu Mỹ-Latinh và Caribê Bắc Mỹ Châu Phi
Triệu tấn
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
87
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN 2010-12
Cơ sở
Trung bình
Lạc quan
Hỗn hợp
kiến sẽ tăng 22%. Tuy nhiên, tỷ so với kịch bản cơ sở nhưng vẫn do tăng trưởng dân số vượt quá Nuôi trồng thủy sản là nguồn cung chính dành làm thực phẩm từ năm 2015 lệ tăng trưởng XKSảnhằng năm sẽ thấp hơn mức 6,1%/ năm trong cung), và châu ÁTổng sẽ sản tăng trưởng lượng khai thác Tổng sản lượng NTTS lượng khai thác làm thực phẩm giảm từ 3,3% trong giai đoạn giai đoạn 2003-2012. Tuy nhiên, nhanh Triệu tấn nhất (+14%). Tiêu thụ 2003-2012 xuống còn 1,8% trong phát triển NTTS có thể gặp phải thủy sản dự kiến gần như không giai đoạn 2013-2022, một phần một số hạn chế do các quy định tăng trưởng tại nhiều nước phát do giá tăng, chi phí vận chuyển chặt chẽ hơn, tài nguyên nước triển, với tổng tăng trưởng chỉ cao hơn và tốc độ phát triển và đất ngày càng khan hiếm đạt 4% vào năm 2022. Các nước NTTS chậm hơn. và các vấn đề về nguồn cung đang phát triển sẽ chiếm tới hơn Những nước đang phát triển thức ăn chăn nuôi. Trong cả ba 91% tổng tăng trưởng tiêu thụ sẽ chiếm 67% tổng XK thủy sản kịch bản, thủy sản khai thác thủy sản toàn cầu. Mặc dù vậy, làm thực phẩm toàn cầu. Năm được giả định giữ nguyên mức tiêu thụ thủy sản trên đầu người 2022, các nước châu Á chiếm tới tăng trưởng như trong kịch bản tại các nước này vẫn thấp hơn 54% tổng khối lượng thủy sản cơ sở. so với các khu vực phát triển XK làm thực phẩm toàn cầu, và Trong kịch bản trung bình và hơn (19,8 kg so với 24,2 kg), tuy Trung Quốc là nước XK thủy sản lạc quan, tổng mức tăng trưởng sản nhiên, khoảng cách này sẽ dần lớn nhất thế giới. lượng NTTS toàn cầu được phân được thu hẹp. Xu hướng giá thủy sản danhTỷ nghĩa (trái) vàthủy thực tế (phải), 1992 -bổ 2022 trọng NK sản trong đồng đều giữa các quốc gia. Cá thực phẩm NTTS Cá thực phẩm NTTS tổng tiêu thụ thủy sản tại cácDầu cá Trong kịch bản trung bình, Thương mại Dầu cá Khai thác Khai thác Bột cá Bột cá USD/tấn USD/tấn nước phát triển sẽ tăng từ 64% sản lượng NTTS thế giới sẽ tăng Thủy sản và các sản phẩm từ trong giai đoạn cơ sở lên 69% 47% so với giai đoạn cơ sở với tốc thủy sản vẫn sẽ là mặt hàng được vào năm 2022, trong đó, NK thủy độ 3,4%/ năm, gây ảnh hưởng tới giao dịch nhiều nhất trên toàn sản làm thực phẩm sẽ giảm từ giá, khiến giá trung bình nhiều thế giới. Nhu cầu ổn định, chính 54% xuống 52%. Trong khi đó, tỷ mặt hàng (ngoại trừ bột cá và sách tự do hóa thương mại, toàn trọng NK thủy sản tại các nước dầu cá) tăng so với giai đoạn cầu hóa hệ thống thực phẩm, đang phát triển sẽ tăng lên 28%. cơ sở nhưng mức tăng vẫn thấp dịch vụ logistics được nâng cao hơn so với kịch bản cơ sở. Với sự cũng như tiến bộ công nghệ sẽ Các kịch bản phụ phát triển của NTTS, ngày càng tiếp tục đẩy mạnh thương mại Ngoài kịch bản chính nói nhiều áp lực đặt lên ngành bột cá thủy sản toàn cầu. trên, FAO cũng đưa ra ba kịch và dầu cá. So với giai đoạn 2010Khoảng 36% tổng sản lượng bản phụ (trung bình, lạc quan và 12, tổng sản lượng bột cá và dầu sản xuất thủy sản được XK vào hỗn hợp) với giả định mức tăng cá sẽ tăng lần lượt 21% và 11%. năm 2022. Khối lượng thủy sản trưởng sản lượng NTTS cao hơn Năm 2022, 51% sản lượng bột cá giao dịch để làm thực phẩm dự XK thủy sản làm thực phẩm, giai đoạn 2010-12 đến 2022
Các nước châu Á – Thái Bình Dương khác Trung Quốc EU Châu Mỹ-Latinh và Caribê Bắc Mỹ Châu Phi
Triệu tấn
88
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Nuôi trồng thủy sản là nguồn cung chính cho tiêu dùng trực tiếp từ năm 2015
sẽ được sản xuất từ phụ phẩm cá. Tiêu thụ thủy sản đầu người toàn cầu sẽ đạt 21,6kg năm 2022, tăng 14% so với giai đoạn cơ sở, trong đó tăng cao nhất là châu Á (+19%) và châu Âu (+14%), nhưng giảm 6,3% tại châu Phi. Năm 2022, 54% khối lượng thủy sản được tiêu thụ có nguồn gốc từ thủy sản nuôi. Kịch bản lạc quan giả định sản lượng NTTS thế giới tăng 58% vào năm 2022 (+4,3%/ năm). NTTS sẽ là nguồn cung chính cho sản xuất thực phẩm vào năm 2014 và cho tổng sản lượng thủy sản vào năm 2021. Năm 2022, thủy sản nuôi sẽ chiếm 57% tổng sản lượng thủy sản toàn
cầu dùng làm thực phẩm và 51% tổng sản lượng thủy sản. Tổng sản lượng thủy sản năm 2022 sẽ đạt 195 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn cơ sở. Sản lượng bột cá thế giới sẽ tăng 26% so với giai đoạn 2010-12, trong đó bột cá từ phụ phẩm cá chiếm tới 52%. Sản lượng dầu cá cũng sẽ tăng 11% trong cùng kỳ. Tiêu thụ thủy sản trên đầu người toàn cầu dự kiến sẽ đạt 22,4kg vào năm 2022, tăng trung bình 19%, nhưng giảm 2,6% tại châu Phi. Kịch bản hỗn hợp giả định tổng mức tăng trưởng sản lượng NTTS toàn cầu bằng kịch bản lạc quan, nhưng tăng trưởng chủ yếu diễn ra tại châu Á. Sản lượng
NTTS tại châu Á sẽ đạt 90,2 triệu tấn vào năm 2022, tăng 62% so với giai đoạn cơ sở và tăng 14 triệu tấn so với kịch bản cơ sở. Các nước châu Á dự kiến sẽ chiếm 91% tổng sản lượng NTTS toàn cầu vào năm 2022, trong đó Bănglađét, Thái Lan, Ấn Độ và Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng cao nhất. Tiêu thụ thủy sản đầu người toàn cầu dự kiến đạt 22,4kg, bằng với kịch bản lạc quan, nhưng có sự khác biệt nhỏ giữa các châu lục. Ngọc Tú lược dịch Theo The State of World Fisheries and Aquaculture của FAO, 2014
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
89
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
Ngành tôm Thái Lan
trước những thách thức năm 2014 ẢNH HƯỞNG CỦA HỘI CHỨNG TÔM CHẾT SỚM (EMS), EU NGỪNG ÁP DỤNG HỆ THỐNG ƯU ĐÃI THUẾ QUAN PHỔ CẬP (GSP), GIÁ TÔM THẤP VÀ CÁO BUỘC LẠM DỤNG LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH THỦY SẢN LÀ NHỮNG THÁCH THỨC KHÔNG NHỎ ĐỐI VỚI NGÀNH TÔM THÁI LAN TRONG NĂM 2014. DỰ BÁO NĂM NAY SẢN LƯỢNG TÔM NUÔI CỦA NƯỚC NÀY CHỈ ĐẠT KHOẢNG 200.000 TẤN, GIẢM HƠN MỘT NỬA SO VỚI MỨC 500.000-600.000 TẤN TRONG GIAI ĐOẠN TRƯỚC NĂM 2012.
N
gành tôm Thái Lan đã chuyển đổi hoàn toàn từ nuôi tôm sú sang tôm chân trắng chỉ trong ba năm, điều mà Chủ tịch Hiệp hội Tôm Thái Lan (TSA) Somsak Paneetatyasai gọi là “hiện tượng” ở Thái Lan. Trước đây, khi nuôi tôm sú, Thái Lan gặp
khó khăn về con giống do không thể gia hóa được tôm bố mẹ không bị dịch bệnh. Sản lượng nuôi vì vậy giảm dần. Vào thời điểm đó, Charoen Pokphand Foods (CPF) mang tôm chân trắng vào Thái Lan. Đây là công ty đầu tiên của Thái Lan NK tôm chân trắng bố mẹ và nuôi
thành công loài này với mật độ thả nuôi cao, hệ số thức ăn FCR thấp và tốc độ tăng trưởng nhanh. Người nuôi cũng ít gặp khó khăn vào thời điểm chuyển từ nuôi tôm sú sang tôm chân trắng, giúp sản lượng tôm của Thái Lan tăng trở lại trước khi sụt giảm mạnh từ năm 2013.
Dịch bệnh EMS gây ảnh hưởng nặng nề đối với ngành tôm Thái Lan, khiến các nhà chế biến trong nước lao đao vì thiếu hụt nguyên liệu.
90
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Sự bùng phát của EMS
Dịch bệnh EMS xảy ra ở khu vực Đông Thái Lan từ cuối 2012, sau đó lan rộng ra khu vực nuôi thủy sản ở miền Nam nước này. Trước năm 2012, Thái Lan có khoảng 30.000 trại nuôi tôm với sản lượng hàng năm đạt 600.000 tấn. Tuy nhiên, sự bùng phát EMS đã khiến số lượng trại nuôi giảm một nửa và sản lượng giảm mạnh chỉ còn khoảng 270.000 tấn vào năm ngoái. Sản lượng ước sẽ đạt 200.000 tấn trong năm nay do người nuôi vẫn chưa sẵn sàng thả nuôi do chưa thể kiểm soát triệt để dịch bệnh. Tuy nhiên, nhờ một số biện pháp đối phó EMS, tỷ lệ thả nuôi đang tăng dần kể từ Quý 3 năm nay. Trong đó, biện pháp phổ biến nhất là chuẩn bị thêm ao ương trước khi thả tôm giống trong giai đoạn đầu vào ao nuôi thương phẩm, đồng thời không thả trực tiếp vào ao nuôi thương phẩm như trước, người nuôi phải chuẩn bị thêm ao ương để ương tôm trong khoảng một tháng nhằm giúp tôm giống khỏe hơn
Chủ tịch Hiệp hội Tôm Thái Lan (TSA) Somsak Paneetatyasai
và tăng sức đề kháng với dịch bệnh trước khi thả vào ao nuôi thương phẩm. Với mô hình này, tôm có tỷ lệ sống cao hơn, nhờ đó ngày càng nhiều người nuôi đang cố gắng nuôi tôm trở lại.
EU ngừng áp dụng GSP đối với tôm Thái Lan
Do EU ngừng áp dụng GSP, từ 1/1/2014, thuế suất đối với tôm chế biến của Thái Lan NK vào EU đã tăng từ 7% lên 20%, từ 1/1/2015, các sản phẩm tôm đông lạnh sẽ chịu mức thuế 12% thay vì 4% như trước. Do đó, kim ngạch XK tôm của Thái Lan sang
EU có thể giảm 5% trong cơ cấu XK tôm của nước này. “EU là thị trường quan trọng đối với tôm Thái Lan, chiếm khoảng 50% tổng giá trị XK tôm của Thái Lan. Nếu chúng tôi bán tôm sang Mỹ nhiều hơn, chúng tôi sẽ gây áp lực với thị trường này. Do đó, chúng tôi đã cố gắng làm việc cùng Chính phủ để dành lại ưu đãi GSP từ EU, nhưng việc đó tốn rất nhiều thời gian – khoảng 7 năm. Với GSP cũ, chúng tôi XK 35.000 tấn tôm sang EU, nhưng khối lượng đã giảm mạnh xuống còn chỉ 5.000 tấn sau khi EU ngừng áp dụng GSP. Tuy nhiên, XK sẽ tăng lên 60.000 tấn khi chúng tôi được hưởng GSP trở lại,” Somsak nói. Mặc dù GSP có ảnh hưởng quan trọng đối với XK tôm của Thái Lan, nhưng việc đàm phán để được hưởng tiếp GSP lại rất khó khăn vì vậy nước này đang tập trung đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thay vì dành lại ưu đãi GSP. Nếu Thái Lan có thể đàm phán thành công FTA, tôm XK sang EU sẽ được hưởng mức thuế 0%. “Lẽ ra chúng tôi có thể kết thúc đàm phán vào năm tới, nhưng vì vấn đề chính trị của Thái Lan trong vài năm gần đây, EU đã tạm dừng đàm phán. Tôi nghĩ đàm phán sẽ kéo dài thêm một năm nữa,” Somsak cho biết.
Giá tôm biến động
Từ 1/1/2014, thuế suất đối với tôm chế biến XK sang EU đã tăng từ 7% lên 20%.
Năm nay, người nuôi tôm Thái Lan giảm mật độ thả nuôi để tránh dịch bệnh và tập trung hơn vào sản xuất tôm cỡ nhỏ. Tuy nhiên, các thị trường NK lại tăng nhu cầu tiêu thụ tôm cỡ lớn, THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
91
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
khiến giá tôm cỡ nhỏ giảm, ảnh hưởng đến người nuôi. Một trong những biện pháp hết sức hiệu quả của Chính phủ Thái Lan nhằm đối phó với tình trạng này là triển khai dự án PLUDT. Theo đó, khi giá tôm thấp, người nuôi sẽ mang tôm đến kho lạnh do Chính phủ quản lý. Khi giá tăng trở lại, họ sẽ đến nhận lại tôm và bán ở mức giá cao hơn. Dù kho lạnh chỉ có dung tích 10.000 tấn, bằng khoảng 2% tổng sản lượng tôm của Thái Lan, PLUDT được xem là dự án thành công với hiệu ứng giá tôm tăng ngay khi Chính phủ tuyên bố dự án. “Dự án chỉ quản lý được 10.000 tấn tôm, nhưng nó đã khiến hàng trăm nghìn tấn tôm tăng giá. Thực sự là rất nhạy cảm,” Somsak cho biết. Chính phủ Thái chọn các nhà chế biến phân bố theo các khu vực để tham gia vào dự án.
PLUDT thiết lập mức giá mục tiêu hay giá cố định mà người nuôi sẽ bán tôm cho các nhà chế biến trong dự án. Ví dụ, năm năm trước, khi tôm cỡ 70 con/kg giảm xuống còn 95 bạt/kg, người nuôi bị ảnh hưởng nặng nề. Dự án PLUDT khi đó cùng với người nuôi và các nhà chế biến đã ấn định mức giá mới cho tôm cỡ này là 125 bạt/kg để có thể đủ bù đắp được chi phí sản xuất. Tương tự, mức giá cho tôm cỡ 80 con/kg, 60 con/kg và 50 con/kg lần lượt là 115 bạt/kg, 135 bạt/kg và 150 bạt/kg. Người nuôi cảm thấy hài lòng khi bán tôm với các mức giá như vậy. Đến nay, dự án PLUDT đã được triển khai 5-6 lần ở Thái Lan.
Cáo buộc lạm dụng lao động trong ngành thủy sản
Tháng 6 vừa qua, ngay sau khi tờ Guardian của Anh đưa
Chính phủ Thái Lan triển khai dự án PLUDT nhằm đối phó với tình trạng giá tôm sụt giảm.
92
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
tin về việc tàu khai thác thủy sản của Thái Lan – chuyên cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến bột cá, trong đó có CPF – sử dụng lao động bất hợp pháp, Tập đoàn bán lẻ Carefour đã tuyên bố tạm ngừng mua hàng từ CPF cho đến khi sự việc được làm sáng tỏ. Sau một tuần tranh cãi về lạm dụng lao động trong ngành thủy sản Thái Lan, nước này đã phản đối nghị định thư chống lạm dụng lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) gây sốc và phẫn nộ trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, nghị định thư này sau đó đã được thông qua tại hội nghị ILO ở Geneva, Thụy Sĩ với 437 phiếu thuận, 27 phiếu trắng, và tám phiếu phản đối. Bốn trong số đó là từ Thái Lan. Ngoài vấn đề lạm dụng lao động, việc bị hạ bậc trong báo cáo về nạn buôn người của Mỹ công bố vào tháng 6 vừa qua cũng tác động không nhỏ tới XK tôm của Thái Lan, đặc biệt là XK sang Mỹ. Tuy nhiên, yếu tố gây ảnh hưởng nặng nề nhất đối với ngành tôm Thái Lan trong năm 2014 là dịch bệnh EMS, khiến các nhà chế biến trong nước lao đao do thiếu nguồn nguyên liệu. Bên cạnh việc chuyển hướng sang sản xuất nhiều mặt hàng GTGT hơn, nước này vẫn phải tăng cường NK tôm nguyên liệu để bù đắp cho nguồn cung thiếu hụt trong nước. Ước tính Thái Lan cần NK khoảng 40.000 tấn tôm trong năm nay. Phương Thảo
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Mặc dù khách hàng Nam Âu chưa đặt ra yêu cầu đối với chúng nhận ASC , nhưng ASC có thể là một cách để cải thiện hình ảnh và khả năng cạnh tranh của cá tra
Xuât khẩu cá tra sang Tây Ban Nha: Chưa thể phục hồi TÂY BAN NHA HIỆN VẪN ĐỨNG ĐẦU KHỐI EU VỀ NK CÁ TRA, NHƯNG DỰ ĐOÁN XK CÁ TRA SANG THỊ TRƯỜNG NÀY CHƯA THỂ PHỤC HỒI, KHI GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU TRONG NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM DỐC.
2014 LAO
Tiêu thụ còn nhiều khó khăn
Cá tra là một sản phẩm thủy sản khá phổ biến trong các bữa ăn gia đình của người Tây Ban Nha. Các hộ gia đình tiêu thụ tới 60% lượng cá tra nhập khẩu, tiếp theo là các ngành dịch vụ thực phẩm. Các trường học, trường đại học và các công ty khác chiếm khoảng 30% lượng tiêu thụ. Khoảng 40% sản phẩm thủy sản được phân phối qua các chợ trung tâm (các nhà bán buôn truyền thống và các đại lý lớn) trong đó 3 chợ tiêu thụ lớn nhất tại Tây Ban Nha là Mercamadrid (chiếm 34% tiêu thụ cá tra); Mercabana (19,5%) và Mercavalencia (14,5%). 40% tiêu thụ qua các chuỗi bán lẻ và 10% bán tại các siêu thị lớn. Trên thị trường bán lẻ, cá tra được bán chủ yếu dưới dạng phi lê cắt miếng lột da đông lạnh. Các cỡ thông dụng trên thị trường bán lẻ là 120 -170g; 170 – 220g và trên 220g/miếng. Một túi cá rã đông thường có 1-5 miếng philê, philê cá đông lạnh thường đóng túi 500g hoặc hộp 200 – 400g. Cá tra tươi thường được bán dưới dạng rã đông. Tây Ban Nha NK cá da trơn, cá tra philê đông lạnh từ Việt Nam, Trung Quốc và các nước nội khối, trong đó Việt Nam chiếm THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
93
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
Nhập khẩu philê cá da trơn của Tây Ban Nha từ năm 2010-2013 (triệu euro)
Triệu Euro
100 80 60 40 20 0
2010 Nguồn: Eurostat
2010
Phi lê tươi
2010
2010
Phi lê đông lạnh
Triệu USD
ăn cá từ lâu đời nhưng người tiêu dùng thường chuộng các sản phẩm thủy sản khai thác, vì vậy, đây là sự lựa chọn hàng đầu của họ. Giá philê cá minh thái Alaska đông lạnh - sản phẩm cạnh tranh với cá tra - được tiêu thụ rộng rãi hơn trong chuỗi bán lẻ và hệ thống dịch vụ thực phẩm công cũng như trong các nhà hàng phục vụ ăn nhanh không cao hơn nhiều so với cá tra. Ngoài ra, trong những năm gần đây, ngư dân Tây Ban Nha và các nhà nuôi trồng thủy sản đã tiến hành một số chiến dịch chỉ trích nghề nuôi và làm xấu hình ảnh cá tra trong lòng người tiêu dùng nước này. Thực tế đã có một số tập đoàn cung cấp thực phẩm dừng bán cá tra. Mặc dù doanh số bán lẻ cá tra dự kiến tăng, nhưng trong dịch vụ công, nhất là mảng nhạy cảm như trường học lại ít có triển vọng cho cá tra. Tuy vậy năm 2014, kinh tế Tây Ban Nha tăng trưởng khả quan hơn, chi tiêu hộ gia đình tăng mạnh, một dấu hiệu lạc quan về sự phục hồi kinh tế sau suy thoái. Yếu tố này hy vọng sẽ tạo điều kiện tăng NK các sản phẩm thủy sản khác vào Tây Ban Nha.
Xuất khẩu cá tra của Việt Nam sang Tây Ban Nha
tới 96%. Philê cá da trơn đông lạnh (cá tra chiếm 95%) có giá trị NK đứng thứ 3 sau cá tuyết đen và cá minh thái. Nhập khẩu phi lê cá da trơn của Tây Ban Nha đã có những thời điểm sụt giảm nghiêm trọng. Sau khi đạt mức kỷ lục năm 2011, khối lượng NK liên tục sụt giảm trong các năm 2012-2013. Năm 2013, Tây Ban Nha nhập khẩu 33.000 tấn cá da trơn đông lạnh, chiếm 21% tổng NK phi lê đông lạnh của EU trong năm, giảm mạnh so với 49,600 tấn của năm 2010. Có môt số nguyên nhân khiến tiêu thụ và NK cá tra vào Tây Ban Nha sụt giảm như tại nước này cá tra trên thị trường bán lẻ có vị trí thấpvà có lợi nhuận thấp. Người Tây Ban Nha có truyền thống 94
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Trong phân khúc sản phẩm philê cá, Việt Nam là nguồn cung cấp lớn thứ 2 tại thị trường Tây Ban Nha, chiếm 11,5% thị phần, sau Namibia với 20,8% thị phần. XK cá tra của Việt Nam sang Tây Ban Nha đã có cả một quá trình tăng trưởng đều đặn từ đầu những năm 2000. Đạt tốc độ tăng trưởng mạnh nhất về giá trị là giai đoạn 2006-2008. Trong giai đoạn suy thoái 2009-2011, NK chỉ giảm không đáng kể và đạt trên dưới 20 triệu USD/năm. Từ năm 2011-2013, XK cá tra sang thị trường này đang có những diễn biến tiêu cực và đáng lo ngại khi giá trị NK cá tra Việt Nam của nước này đã lao dốc khá mạnh qua các năm, như giá trị NK năm 2013 đã giảm tới 58,9% so với năm 2008. Tính đến tháng 11/2014, Tây Ban Nha vẫn là nhà NK cá tra lớn nhất của Việt trong khối EU và là thị trường đơn lẻ lớn thứ 3 về tiêu thụ sản phẩm cá tra Việt Nam. XK cá tra sang các thị trường chính trong EU liên tục giảm qua các tháng, khiến
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
tổng XK sang khối này trong 11 tháng giảm 11,4% so với cùng kỳ năm 2013. Riêng tháng 5, tháng 6 và tháng 7, XK cá tra sang Tây Ban Nha tăng trưởng khá tích cực, thậm chí tăng mạnh với mức tăng (17 – 28%). Tuy nhiên, đà tăng trưởng mạnh này không được duy trì trong các tháng cuối năm khi giá trị xuất khẩu trong tháng 10, tháng 11 liên tục sụt giảm khiến XK cá tra sang Tây Ban Nha trong 11 tháng đạt 67 triệu USD, giảm 3,3% so với cùng kỳ năm 2013. Dù Tây Ban Nha vẫn đứng đầu khối EU về NK cá tra, nhưng dự báo năm 2014 XK cá tra sang thị trường này sẽ chưa thể phục hồi.
Làm gì để thúc đẩy tiêu thụ cá tra tại thị trường Tây Ban Nha
Để gia tăng tiêu thụ cá tra tại thị trường Tây Ban Nha, trước hết, các doanh nghiệp (DN) cần đa dạng hóa sản phẩm. Hiện nay, tiêu thụ thủy sản của Tây Ban Nha đang hướng đến các sản phẩm ăn liền, trong khi cá tra vẫn được bán chủ yếu dưới dạng đông lạnh hoặc tươi. Vì vậy, việc đa dạng hóa các sản phẩm ăn liền cá tra có thể là một cơ hội trên thị trường này. Tiêu thụ cá tươi đang giảm do các sản phẩm đông lạnh và chế biến đang ngày càng phổ biến. Nếu được tiếp thị hợp lý, các sản phẩm cá tra có thể có lợi từ xu hướng này. Ngoài ra, các DN cần nỗ lực thông tin tuyên truyền để thuyết phục người tiêu dùng về việc áp dụng các quy trình thực hànhtốt
Cá tra là sản phẩm thủy sản khá phổ biến trong các bữa ăn gia đình của Tây Ban Nha.
và bền vững về mặt môi trường của nghề nuôi cá tra, trong bối cảnh nhu cầu thủy sản bền vững đang rất phát triển trong EU. Tại Tây Ban Nha, phát triển bền vững được công nhận trong khu vực bán lẻ: Eroski (một trong những chuỗi bán lẻ lớn nhất Tây Ban Nha) đã tiến hành một cuộc khảo sát trên 3.100 độc giả của mình về thói quen ăn thủy sản ở nước này. Cuộc khảo sát cho thấy hầu hết người dân thích ăn thủy sản đánh bắt bằng các phương pháp thân thiện môi trường và đánh giá cao tầm quan trọng của khai thác bền vững Hiện nay, một số công ty bán lẻ và dịch vụ lớn ở Tây Ban Nha đã bắt đầu quan tâm đến chứng nhận bền
vững, mặc dù hầu hết các công ty vẫn chưa yêu cầu giấy chứng nhận bền vững. Hiện tại, khách hàng Nam Âu chưa đặt ra yêu cầu đối với chứng nhận ASC, nhưng chứng nhận ASC có thể là một cách để cải thiện hình ảnh và khả năng cạnh tranh của cá tra trong tương lai không xa. Ngoài ra, các DN cần tìm cách cắt giảm chi phí sản xuất cá tra để có thể bán cá tra có chứng nhận với một mức giá phù hợp và có thể trở thành nhà cung cấp được ưa chuộng trong phân khúc bán lẻ Tây Ban Nha và có thể gia tăng xuất khẩu sang thị trường Tây Ban Nha. Hằng Vân tổng hợp
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
95
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
Vinh danh 15 DN thủy sản đạt kim ngạch XK cao nhất năm 2014
Xuất khẩu thủy sản 2014
Thắng lợi cho tôm và truân chuyên cho cá tra NĂM 2014, TÔM TIẾP TỤC GIỮ NGÔI VỊ SỐ 1 VỚI TỶ TRỌNG GIÁ TRỊ XK CHIẾM 50% (SO VỚI NĂM 2013 LÀ 45%), TRONG KHI CÁ TRA, CÁ NGỪ CHIẾM TỶ TRỌNG THẤP HƠN SO VỚI NĂM 2013 (CÁ TRA TỪ 25,5% XUỐNG 22,4%, CÁ NGỪ TỪ 7,6% XUỐNG 6,1%). CÁC MẶT HÀNG HẢI SẢN KHÁC NHƯ MỰC, BẠCH TUỘC, CUA, GHẸ.. NĂM 2014 CŨNG TĂNG VÀ VẪN GIỮ TỶ TRỌNG ỔN ĐỊNH.
96
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Vượt xa mục tiêu 7 tỷ USD
2014 là năm thắng lợi đối với ngành thủy sản. Theo báo cáo của Bộ NN-PTNT, tổng sản lượng thủy sản của cả nước 11 tháng đầu năm 2014 đạt 5,7 triệu tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng khai thác đạt 2,7 triệu tấn (tăng5,2 %); sản lượng nuôi đạt 3 triệu tấn (tăng 4,5% so với cùng kỳ). Bên cạnh đó, theo thống kê của Hải quan, năm 2014, XK thủy sản của cả nước đã đạt trên 7,92 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái và vượt 13% so với mục tiêu 7 tỷ USD đặt ra từ đầu năm. Trừ mặt hàng cá ngừ (giảm 9%), cá tra tăng nhẹ 0,6%, XK các sản phẩm chính khác đều tăng trưởng khả quan, trong đó XK tôm tăng mạnh nhất (28%) và chiếm tỷ trọng lớn nhất (57,3%) nhờ lượng sản xuất và NK nguyên liệu tăng, trong khi thị trường thế giới đang thiếu nguồn cung do dịch bệnh EMS.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
97 nước trên thế giới với giá trị đạt 953 triệu USD, trong đó tôm chiếm tỷ trọng cao nhất, gần 45,4% với trên 433 triệu USD, cá ngừ 167 triệu USD, chiếm gần 12,4%, cá biển 276 triệu USD, chiếm 33,9%. Ấn Độ là nguồn cung cấp lớn nhất, chủ yếu là các sản phẩm tôm, cá ngừ với tổng giá trị 321 triệu USD chiếm 34%. Tổng NK thủy sản của Việt Nam cả năm đạt trên 1 tỷ USD, tăng khoảng 44% so với năm 2013. Dự báo xu hướng tăng NK sẽ tiếp tục trong năm 2015 đạt khoảng 1,2 tỷ USD, tăng 20% so với 2014.
Thắng lợi cho tôm – truân chuyên cho cá tra
Chúc mừng thành tích đạt kim ngạch XK trên 7 tỷ USD của thủy sản Việt Nam 2014
Trong năm 2014, Việt Nam cũng đã XK thủy sản sang 166 thị trường và hầu hết đều tăng trưởng khả quan (9%- 47%) so với cùng kỳ năm ngoái. Mỹ vẫn là thị trường NK thủy sản lớn nhất trong năm, đạt khoảng 1,75 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2013 và chiếm 22% tổng giá trị XK thủy sản của Việt Nam. . EU đứng thứ 2, năm đạt khoảng 1,4 tỷ USD, tăng 21% và chiếm 18% giá trị XK thủy sản. Nhật Bản là thị trường NK lớn thứ 3, đạt khoảng 1,2 tỷ USD, tăng 6,3% và chiếm 15,5% tổng giá trị XK thủy sản của Việt Nam. Tuy nhiên, XK tôm sang thị trường này trong năm 2014 gặp nhiều khó khăn và đạt mức tăng trưởng nhẹ hơn so với năm
ngoài do các quy định kiểm tra OTC của Nhật. Ngoài ra, XK thủy sản Việt Nam năm 2014 cũng ghi nhận những khởi sắc từ các thị trường đầy tiềm năng và quan trọng như Trung Quốc và Hàn Quốc với kim ngạch tương ứng là 624 triệu USD, tăng 9% và 683 triệu USD, tăng 31% so với năm 2013. Để đáp ứng đơn đặt hàng của nhà NK về khối lượng cũng như chủng loại sản phẩm, đồng nắm bắt thời cơ thuận lợi trên thị trường, các DN Việt Nam cũng đã gia tăng NK nguồn nguyên liệu từ các nước để gia công và chế biến XK, góp phần đáng kể trong kim ngạch XK thủy sản của Việt Nam. 11 tháng đầu năm 2014, Việt Nam NK thủy sản từ
Tại buổi tổng kết XK thủy sản năm 2014 do Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) tổ chức tại Tp Hồ Chí Minh cuối tháng 12/2014 vừa qua, nhiều thành công cũng như thất bại của ngành thủy sản Việt Nam trong năm 2014 đã được phân tích nhằm định hướng cho sự phát triển của ngành trong năm mới 2015. Năm 2014 được xem là một năm tương đối thành công cho các DN chế biến XK tôm. Theo đó, XK tôm cả năm 2014 đã đạt trên 3,9 tỷ USD, tăng gần 28% so với năm 2013. Bắt đầu từ năm 2013 khi Thái Lan và Trung Quốc, hai nước sản xuất tôm lớn nhất thế giới, đương đầu với đại dịch EMS, sản lượng tôm của 2 nước giảm mạnh khiến nguồn cung tôm thiếu hụt. Mặc dù ngành tôm Việt Nam cũng phải đối mặt với EMS, tuy nhiên,
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
97
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
98
PGS, TS. Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch VASEP phát biểu chúc mừng thành tích của các DN thủy sản Việt Nam
Ông Lê Văn Quang – TGĐ Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú phát biểu
Bà Trương Thị Lệ Khanh - TGĐ Công ty CP Vĩnh Hoàn chia sẻ về những khó khăn của ngành cá tra
ảnh hưởng không quá nặng nề cùng với kiểm soát tốt dịch bệnh đã giúp Việt Nam nhanh chóng khôi phục sản xuất cũng như gia tăng sản lượng. Năm 2014, do giá tôm trên thị trường thế giới vẫn giữ mức cao trong khi nhu cầu NK từ một số thị trường chính tiếp tục tăng cùng với sản xuất nguyên liệu trong nước có nhiều thuận lợi đã góp phần đẩy mạnh XK tôm Việt Nam và tiến tới mốc lịch sử 4 tỷ USD. Dự báo cho năm 2015, các chuyên gia cho rằng nếu thời tiết thuận lợi cùng với nhu cầu thị trường được cải thiện và dịch bệnh tiếp tục được kiểm soát tốt thì năm 2015 sản lượng tôm Việt Nam sẽ đạt 650.000 tấn. Mặt khác, Việt Nam hiện đang có nhiều lợi thế sản xuất đối với tôm sú trên thế giới và nếu năm 2015, sản lượng tôm sú tiếp tục được duy trì, giá tôm chân trắng không lao dốc thì khả năng giá trị XK tôm năm tới hoàn toàn có thể đạt trên 4 tỷ USD. Trong khi đó đối với cá tra, năm 2014 kim ngạch XK đạt trên 1,7 tỷ USD, chỉ tăng 0,6% so với
năm 2013. Đây là một sự tiến bộ khá khiêm tốn. Đặc biệt, XK cá tra sang Mỹ năm 2014 đã có sự sụt giảm mạnh (-11,5%) sau khi tăng 6% trong năm 2013. Trong khi đó, thị trường EU cho cá tra cũng không có sự tiến triển khi tiếp tục sụt giảm sâu(-12,3%) và chưa hề có dấu hiệu phục hồi, thậm chí mức giảm của năm nay còn mạnh hơn so với năm 2013. Nguyên nhân của tình trạng trên chính là do những tác động tiêu cực từ thuế chống bán phá giá (CBPG) và Đạo luật Nông nghiệp của Mỹ tại thị trường này và xu hướng tiêu dùng thay đổi ở thị trường EU. Tuy nhiên, tại một số thị trường cũng ghi nhận những tăng trưởng đáng kể dành cho cá tra Việt Nam. Điển hình là các thị trường Ả Rập Xêut, Mêhicô và Braxin với các mức tăng trường đáng kể tương ứng là 19,4%, 21,8% và 3,7%. Ngoài ra, còn có một tín hiệu tích cực cho cá tra là năm 2014 thị trường Nga cũng đã chính thức gỡ bỏ lệnh tạm đình chỉ, cho phép 26 DN thủy sản Việt Nam được XK vào Nga
và 64 DN thủy sản nữa cũng đang được chờ cấp phép. Đây sẽ là cơ hội để thủy sản Việt Nam nói chung và cá tra nói riêng tăng tốc XK vào thị trường này trong năm tới.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Thách thức không hoàn toàn đến từ rào cản của thị trường
Tuy đạt được giá trị kim ngạch XK thủy sản vượt xa mong đợi trong năm 2014 nhưng theo các DN thủy sản, đây vẫn chưa phải là niềm vui trọn vẹn vì trước mắt sẽ vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức. Nhất là những khó khăn, thách thức này không hoàn toàn đến từ thương trường cạnh tranh khốc liệt mà chủ yếu lại đến từ chính những chính sách và cơ chế quản lý, kiểm soát còn nhiều bất cập từ các cơ quan Nhà nước. Trước tiên là việc gia tăng chi phí cho các hoạt động XNK đang tạo gánh nặng và áp lực rất lớn cho DN. Theo phản ánh của các DN, hiện có hàng chục phụ phí các loại đang đổ lên vai nhà XK như: phí dịch vụ container (THC), phí mất cân đối container (CIC),
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
phí vệ sinh container, sửa chữa vỏ container, đặt cược container (đối với hàng đông lạnh), phí tắc nghẽn cảng (PCS)... Theo tính toán, so với năm 2013, năm 2014 các loại phí này tăng 20-30% khiến lợi nhuận của DN giảm mạnh. Chưa kể, trong những năm gần đây, giá cước vận tải biển tại Việt Nam thường cao hơn so với các nước trong khu vực từ 10-15%/côngtenơ 20”. Ngoài ra, hoạt động XNK của các DN cũng thường xuyên bị ảnh hưởng do tắc nghẽn tại các cảng bốc dỡ. Các cơ sở hạ tầng cảng biển, hạ tầng giao thông tại Việt Nam thực sự chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Bên cạnh đó, đối với tôm XK, hiện nay vấn nạn lạm dụng kháng sinh, hóa chất và bơm chích tạp chất đã trở nên cực kỳ cấp thiết. Các thị trường đã liên tục cảnh báo nhưng Việt Nam vẫn chưa có biện pháp giải quyết triệt để. Thay vì tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động mua bán, sử dụng hóa chất, kháng sinh, bơm chích tạp chất, khuyến cáo
người nuôi tôm... thì ngược lại, các cơ quan quản lý hiện nay lại tăng cường hơn nữa việc siết chặt việc kiểm tra, giám sát các DN chế biến tôm XK khiến DN gặp rất nhiều khó khăn và bức xúc. “Cơ quan Nhà nước phải thông cảm, phải hiểu cho DN, không được hành DN. Và, đúng ra trách nhiệm của cơ quan Nhà nước là phải kiểm soát kháng sinh, tạp chất từ chính người nuôi, vùng nuôi, cơ sở nuôi... để cảnh báo cho DN, thông báo cho DN là ao tôm này, ao tôm kia có kháng sinh, có tạp chất.. không được mua làm nguyên liệu. Chứ không phải cứ nắm đầu DN và xem DN như tội đồ của mọi vấn đề”, ông Lê Văn Quang – TGĐ Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú phát biểu. Không chỉ đối với tôm, ngày 29/4/2014, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 36/2014/NĐ-CP về nuôi, chế biến và XK sản phẩm cá tra. Nghị định này ra đời thực sự là công cụ pháp lý cần thiết để chấn
chỉnh hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cá tra. Tuy nhiên, nhiều điểm bất cập và thiếu hợp lý, gây khó khăn cho hoạt động XK trong Nghị định này đã được cộng đồng các DN cá tra Việt Nam chỉ rõ và kiến nghị sửa đổi. Điển hình đó là việc cố định mức chất lượng quá cao của sản phẩm cá tra bằng các chỉ tiêu mạ băng, hàm lượng nước trong philê (độ ẩm).. khiến thị trường khó có thể đáp ứng ngay, hay như việc bắt buộc DN phải đăng ký và nộp phí XK cá tra thông qua Hiệp hội ngành nghề khiến gia tăng thủ tục hành chính và chi phí không đáng có cho DN trong hoạt động XK. Thực tế cuối tháng 12/2014 vừa qua, Công ty TNHH Công nghiệp Thủy sản Miền Nam (SouthVina), một trong top 10 DN XK thủy sản lớn nhất cả nước, đã tuyên bố sẽ phải đóng cửa nếu từ ngày 1-1-2015 không cấp chứng thư cho các lô hàng cá tra XK có độ ẩm cao hơn 83% và mạ băng nhiều hơn 10% (theo quy định của Nghị định 36). Hiện tại, Bộ trưởng NN&PTNT Cao Đức Phát vừa cho biết, Chính phủ đã đồng ý việc lùi thời gian áp dụng tỷ lệ độ ẩm và mạ băng trong cá tra phi lê XK đến hết năm 2015. “DN luôn vượt qua mọi khó khăn của thị trường để tồn tại, nhưng DN lúc này phải chết vì những chính sách không phù hợp của cơ quan quản lý”, ông Dương Việt Thắng, PGĐ Công ty SouthVina khẳng định. Trần Duy
Tổng kết xuất khẩu thủy sản 2014 THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
99
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
G
Cần kiểm soát dư lượng kháng sinh ngay từ khâu nuôi
Không ít khó khăn phía trước với xuất khẩu thủy sản năm 2015 TRONG SỐ 10 MẶT HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU TRÊN MỘT TỶ USD CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP, RIÊNG LĨNH VỰC THỦY SẢN ĐÃ ĐÓNG GÓP 2 MẶT HÀNG CHÍNH LÀ TÔM VÀ CÁ TRA. VỚI GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU ĐẠT 7,92 TỶ USD, THỦY SẢN LÀ LĨNH VỰC XUẤT KHẨU ĐEM LẠI NHIỀU NGOẠI TỆ NHẤT CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP TRONG NĂM 2014. TUY NHIÊN, NGÀNH CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VẪN CÒN ĐÓ NHỮNG NỖI LO.
100
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
ần 8 tỷ là con số ấn tượng về XK của ngành thủy sản trong năm nay, tăng 18,4% so với năm ngoái. Trong đó, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu thủy sản hàng đầu của Việt Nam, chiếm 21,81% tổng giá trị XK của toàn ngành. Mặt hàng tôm năm nay tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm khoảng một nửa kim ngạch XK của ngành thủy sản, với giá trị XK gần 4 tỷ USD, tăng 5,8%. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt nam (VASEP), XK nhiều nhưng DN và nông dân không vui là điều phải suy nghĩ! Mối quan tâm của người nuôi, nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi và nhà chế biến là được bao nhiêu lợi nhuận thu về chứ không phải sản lượng hay giá trị tăng cao... Nhận định về tình hình XK thủy sản trong năm 2015, ông Dũng cho rằng, các doanh nghiệp XK sẽ còn tiếp tục gặp khó khăn, thách thức. Nhiều doanh nghiệp đã có phần “đuối sức,” nhất là ngành cá tra.
Bất cập trong NTTS ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm XK
Nhiều chuyên gia cho rằng, xét tới cùng cái khó của thị trường thủy sản Việt Nam sâu xa vẫn bắt nguồn từ chính những yếu kém nội tại, nhất là những bất cập trong nuôi trồng, khiến chất lượng sản phẩm XK không đảm bảo. Ông Phạm Anh Tuấn –, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thủy
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Chế biến tôm XK tại FIMEX
sản,thừa nhận ngay cả trong năm 2014, công tác kiểm soát chất lượng giống, vật tư đầu vào vẫn còn hạn chế, gây nguy cơ mất an toàn, giảm hiệu quả sản xuất. Chất lượng sản phẩm thủy sản cả khai thác và nuôi trồng chưa ổn định, tồn dư kháng sinh còn cao, nhất là trong tôm nuôi nước lợ chưa được kiểm soát tốt,. Vụ Nuôi trồng thủy sản cho biết, sự phát triển mạnh tôm chân trắng làm phá vỡ quy hoạch ở một số địa phương và gây một số bức xúc nhất định về cơ sở hạ tầng, ảnh hưởng đến nguy cơ dịch bệnh cao hơn; một số nơi nuôi tôm ngoài quy hoạch, chuyển đổi vùng trồng dừa, mía sang nuôi tôm (như Bến Tre, Sóc Trăng).
Về sử dụng thuốc, hóa chất, thức ăn, chất xử lý cải tạo môi trường đúng cách, đúng quy định chưa được người nuôi ở một số nơi tuân thủ nghiêm túc. Bên cạnh đó, một số cơ sở sản xuất kinh doanh giống, thức ăn, chất xử lý cải tạo môi trường NTTS vi phạm về nhãn mác, chất lượng, công bố, kinh doanh sản phẩm ngoài danh mục lưu hành… gây ảnh hưởng đến an toàn dịch bệnh và an toàn thực phẩm (ATTP). Chất lượng giống tôm, cơ sở hạ tầng nhiều vùng nuôi thâm canh chưa đảm bảo, thiếu điện lưới và hạ tầng thủy lợi. Dưới góc độ của một doanh nghiệp XK tôm, ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội đồng quản
trị, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú chia sẻ, mặc dù nhiều DN mong muốn có nguồn nguyên liệu sạch để chế biến XK, song cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có một quy trình nuôi tôm hoàn thiện không dùng thuốc kháng sinh hay nuôi tôm sinh thái. Dẫn chứng từ chính công ty mình, ông cho biết, trong 2 vụ nuôi gần đây Minh Phú đã thiết kế và thử nghiệm quy trình nuôi tôm không sử dụng thuốc kháng sinh nhưng đều thất bại, trung bình mỗi vụ thua lỗ gần 100 tỷ đồng. Trong khi đó, có những lúc DN không thể kiểm soát được việc kiểm tra dư lượng kháng sinh ở tôm nguyên liệu thu THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
101
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
mua, khiến DN tốn khá nhiều chi phí. Một lô nguyên liệu đưa vào xét nghiệm phải mất 3 ngày mới có kết quả, DN không thể chờ đợi cht khoả thời gian để quyết định có nên mua lô, ao này hay không. Ông Nguyễn Hữu Dũng cho hay, để giải quyết căn cơ dịch bệnh ở thủy sản, cần kiểm soát thật tốt chất lượng con giống; đồng thời phải xây dựng được quy trình nuôi thủy sản trong môi trường tự nhiên, không sử dụng kháng sinh; thâm canh thật cao, kiểm soát môi trường, chất lượng nước…Mặt khác, cần có sự vào cuộc của cơ quan quản lý Nhà nước trong việc siết chặt việc kinh doanh thuốc kháng sinh trên thị trường.
Khó khăn về nguyên liệu chế biến
Thiếu nguyên liệu để chế biến là mối lo ngại thường trực của các DN, do trên thực tế, năng lực chế biến tăng nhanh hơn năng lực khai thác và nuôi. Năm 2014, chúng ta phải nhập khẩu 1 tỷ USD nguyên liệu, chủ yếu là mua tôm từ Ấn Độ. Để gia tăng giá trị kim ngạch, những năm tới việc nhập khẩu có thể sẽ còn nhiều hơn.
Khó khăn về thị trường
Theo VASEP, mặc dù đã mở rộng được thị phần XK sang những thị trường tiềm năng như: ASEAN, Trung Quốc, Hồng Công, Ôxtrâylia trong năm 2014, nhưng rủi ro sụt giảm thị phần từ các thị trường chính như Hoa Kỳ, EU và Nhật
102
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Sản phẩm cá tra XK
Bản sẽ là gánh nặng cho ngành trong 2015. Nguyên nhân chính do các quy định về vệ sinh ATTP như Luật Nông nghiệp mới của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đối với cá tra tại thị trường này, hay quy định dư lượng kháng sinh Oxytetracyline trong tôm Việt Nam tại thị trường Nhật Bản. Bên cạnh đó, chính sách bảo hộ tại thị trường Hoa Kỳ với các mức thuế chống bán phá giá trong các đợt rà soát hành chính đối với tôm (POR8) và cá tra (POR9) đều cao hơn so với quy định trước đó, làm giảm tính cạnh tranh của thủy sản Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Bà Trần Bích Nga - Phó cục trưởng Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản (Nafiqad), Bộ NN&PTNT, cũng lưu ý, trong năm 2015, thủy sản Việt Nam có thể sẽ gặp khó khăn tại hầu hết các thị trường lớn. Cụ thể, tại thị trường EU, năm 2014 không ít lần các DN XK
thủy sản bị cảnh báo về tồn dư kháng sinh trong sản phẩm, về tỷ lệ mạ băng và gian lận trong ghi nhãn hàng... Ngày 10-12 vừa qua, EU còn cảnh báo nếu DN không nghiêm túc xem xét nguyên nhân và đưa ra các biện pháp khắc phục hậu quả hợp lý, rất có thể EU sẽ dừng NK thủy sản từ các DN còn sai phạm và thậm chí là “cấm cửa” đối với sản phẩm thủy sản XK của Việt Nam nói chung. Tại thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, mặc dù chưa có những động thái nhắc nhở quyết liệt như EU nhưng thủy sản Việt Nam cũng đang bị cảnh báo có chứa kháng sinh, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn… Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám cũng nhấn mạnh, thách thức lớn nhất mà toàn ngành phải vượt qua chính là thị trường. Dự kiến, Việt Nam sẽ tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do FTA như: Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Sản phẩm tôm thẻ sushi của công ty TNHH Biển Việt (VINASEA)
định thương mại mậu dịch tự do với các nước châu Âu, với Liên minh Hải quan, với Hàn Quốc và khối Asean... Điều này sẽ mang lại lợi thế XK rất lớn cho các mặt hàng thủy sản, mở ra nhiều thị trường XK tiềm năng. Tuy nhiên, cũng sẽ có không ít thách thức, vì Việt Nam phải cạnh tranh về giá cả, chất lượng, những hàng rào kỹ thuật, nhất là trong đảm bảo vệ sinh ATTP. Trao đổi với phóng viên về biện pháp tháo gỡ khó khăn, ông Tám cho biết: “Về phía Bộ NN&PTNT, chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ các DN XK tập trung vào các thị trường truyền thống, cố gắng tháo gỡ những vướng mắc hiện có của họ. Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc đấu tranh với những rào cản thị trường bất hợp lý; tăng cường xúc tiến thương mại, mở thị trường mới. Tuy nhiên, rất cần sự chủ động tham gia của các DN, hiệp hội. Đặc biệt là, các hiệp hội phải cùng DN đấu tranh với những rào cản bất hợp
lý, giúp DN hiểu rõ hơn về nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, phải kiểm soát tốt dịch bệnh trên thủy sản”.
Bất cập của chính sách
Hiện nay ngành chế biến và XK cá tra đang phải đối phó với rất nhiều khó khăn, nhưng nổi cộm nhất trong đó là việc quy định về tỷ lệ mạ băng và hàm lượng nước trong philê cá tra xuất khẩu. Phần tích sâu về vấn đề này, ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó chủ tịch VASEP cho hay, việc quy định một cách cứng nhắc hàm lượng ẩm trong sản phẩm cá tra là 83% và tỷ lệ mạ băng (lượng nước trong sản phẩm) 10% là không có căn cứ và vi phạm pháp luật hiện hành.Theo quy định của nhà nước, những gì liên quan tới an toàn thực phẩm thì nhà nước quy định, còn chuyện gì liên quan tới chất lượng sản phẩm thì DN quyết định chứ không phải nhà nước áp đặt ra sao cũng được.
“Việc nhà nước đưa đưa ra hai chỉ tiêu 10% và 83% là không có cơ sở pháp luật trừ khi đó là yêu cầu về sản phẩm quốc gia” – ông Dũng nhấn mạnh. Bên cạnh tỷ lệ mạ băng, Nghị định cá tra còn có một quy định rất vô lý, gây phiền hà và tốn kém cho DN. Theo đó, DN sau khi ký hợp đồng với nhà nhập khẩu phải làm thêm một động tác nữa là đăng ký với Hiệp hội cá tra Việt Nam. Và Hiệp hội này sẽ xem DN có đáp ứng những tiêu chí trong nghị định hay không trước khi đồng ý để DN XK. Ngoài ra, Nghị định cũng nêu rõ những tiêu chí bắt buộc DN thủy sản phải tuân theo là phải có vùng nuôi cá ở trong khu vực được Bộ NN&PTNT, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt. Nói về vấn đề này, ông Dũng nhấn mạnh: “Quy định này không giúp ích gì cho DN và người quản lý. NAFIQAD biết hết DN và vùng nuôi của họ ở đâu. Hơn nữa cũng không có cơ sở pháp lý nào để quy định một hiệp hội thẩm định hợp đồng cho một nhóm các DN” Khó khăn của năm cũ, rất có thể sẽ tiếp tục là khó khăn của những năm tiếp theo, khi mà Nghị định 36/2014/NĐ-CP chỉ có quyết định lùi thời hạn thi hành 1 năm, trong khi một số quy định “khắt khe” trong Nghị định này vẫn chưa thực sự được thay đổi. Nguyễn Thị Hồng Hà
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
103
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
Thị trường và nhu cầu tiêu thụ tôm tại Mỹ tiếp tục tăng
2015, dự đoán thị trường tôm thế giới tiếp tục tăng trưởng tích cực THỊ TRƯỜNG TÔM THẾ GIỚI NĂM 2015 DỰ ĐOÁN SẼ TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG TÍCH CỰC, BỞI TRONG NĂM 2014, KHỐI LƯỢNG GIAO DỊCH ĐÃ TĂNG ĐÁNG KỂ SO VỚI NĂM 2013, NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ ĐÔNG Á TĂNG TRƯỞNG MẠNH MẼ.
104
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
T
hị trường tôm thế giới năm 2015 được cho là sẽ tiếp tục tăng trưởng tích cực, bởi trong năm 2014, khối lượng giao dịch đã tăng đáng kểso với năm 2013, nhập khẩu vào thị trường Mỹ và Đông Á tăng trưởng mạnh mẽ.
Nguồn cung
Theo ngân hàng Rabobank, tình trạng dịch bệnh EMS tồi tệ nhất hầu như đã qua đi trong năm 2013. Cả năm 2014, sản lượng tôm toàn cầu đã phục hồi ở hầu hết các khu vực nuôi, mặc dù không đều khắp. Rabobank dự đoán sản lượng tôm tại Thái Lan có thể sẽ không đạt đến 300.000 tấn trong năm 2014. Theo Poj Aramwattananont - Chủ tịch Hiệp hội Thực phẩm Đông lạnh Thái Lan, sản lượng sẽ chỉ ở mức 200.000 tấn với khối lượng XK giảm 25%. Trong 8 tháng đầu năm, giá trị XK của Thái Lan là 36,9 triệu bạt, giảm so với 41,8 triệu bạt cùng kỳ năm 2013.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Việt Nam có thể là thị trường NK tôm nuôi số 1 ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Trong khi đó, tại Trung Quốc, các trại sản xuất giống và trại nuôi tôm tại miền Nam bị thiệt hại nặng nề trước cơn bão Thần Sấm trong tháng 7, khiến sản lượng con giống và tôm bố mẹ tại Hải Nam giảm gần 50%. Rabobank ước tính, sản lượng tôm của Trung Quốc trong năm 2014 đạt khoảng 500.000 tấn và có thể tăng lên 600.000 tấn vào năm 2015. Việt Nam là khu vực chính đầu tiên bị ảnh hưởng của EMS, nhưng đã cho thấy sự phục hồi. Rabobank ước tính sản lượng của Việt Nam đã giảm từ mức đỉnh 496.000 tấn trong năm 2011 xuống khoảng 280.000 tấn trong năm 2013, nhưng năm 2014, sản lượng tôm của Viêt Nam sẽ khả quan hơn. Theo Tổng cục Thủy
sản Việt Nam tổng sản lượng tôm nuôi trong 11 tháng đầu năm là 593 nghìn tấn (tăng 21,2%), trong đó sản lượng tôm sú là 251 nghìn tấn, tôm chân trắng là 342 nghìn tấn. Tại Ấn Độ, sản lượng tôm chân trắng tăng nhẹ trong khi sản lượng tôm sú đang giảm dần. Tháng 9/2014 vừa qua, giá tôm giao tại trại nuôi tiếp tục tăng do mất cân đối cung-cầu và nhu cầu nhập khẩu cao từ Đông Á. Các dự báo chính thức tại Ấn Độ cho thấy sản lượng tôm nuôi, chủ yếu là tôm chân trắng, có thể tăng 10-20% trong năm tài chính này (tháng 4/2014tháng 3/2015). Nhưng sản lượng tôm sú có thể giảm ở mức tương tự khi nhiều người nuôi ở vành đai nuôi thủy sản phía đông
bắc đã chuyển sang nuôi tôm chân trắng trong năm nay. A J Tharakan, chủ tịch của Hiệp hội XK thủy sản của Ấn Độ cho biết, năm nay, sản lượng tôm nuôi dự kiến đạt 375.000 tấn. Sản lượng tôm của Êcuađo trong năm 2014 dự kiến đạt khoảng 320.000 tấn, trong khi sản lượng tại Inđônêxia ước đạt 385.000 tấn. Trong khi đó, Mêhicô khó có thể đạt 60.000 tấn tôm trong năm nay.
Xu hướng xuất nhập khẩu
Theo ước tính của Infofish, khối lượng NK trong thương mại tôm toàn cầu trong 6 tháng đầu năm 2014 tăng 5-6% so với cùng kỳ năm ngoái với giá cả ổn định. Mười nhà NK hàng đầu gồm EU, Mỹ, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
105
THÕ TRÛÚÂNG THUÃY SAÃN
Trung Quốc chủ yếu NK tôm cho tiêu dùng trong nước
Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Mêhicô, Canađa và Ôxtrâylia, đã nhập tổng cộng gần 850.000 tấn tôm trong kỳ. Xu hướng cung cầu ở các thị trường này có những diễn biến trái chiều. Trong khi, NK tôm tại Nhật Bản, Hồng Kông và Canađa giảm thì NK vào các thị trường khác vẫn khá tích cực. Êcuađo là nhà cung cấp hàng đầu, bám sát sau đó là Ấn Độ. Lượng XK trung bình từ 2 nước này là khoảng 24.000 tấn/tháng. Các nhà XK lớn khác là Việt Nam, Trung Quốc, Inđônêxia và Thái Lan. XK hàng tháng từ Trung Quốc và Inđônêxia là 106
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
khoảng 13.000 tấn. Khối lượng XK từ Việt Nam có thể là cao hơn so với Trung Quốc và Inđônêxia.
Diễn biến các thị trường chính
Thị trường Nhật Bản Nhật Bản, thị trường tôm lớn thứ ba trên thế giới, tiếp tục giảm NK tôm kể từ khi đồng yên mất giá hồi tháng 12/2012. Vào cuối tháng 9/2014, đồng yên đã giảm xuống mức thấp nhất trong 6 năm với tỉ giá 110 yên/1 USD. Giá tính theo đồng yên cũng đã bắt đầu tăng lên (khoảng 10%),gây khó khăn cho mùa tiêu thụ cao điểm cuối năm. Giá NK
tôm nuôi đã tăng lên 3USD/kg trong giai đoạn tháng 6-9. NK tôm vào Nhật Bản năm 2014 giảm mạnh so với năm 2013 với mức giảm 20%,trong khi năm 2013, NK chỉ giảm 3% so với năm 2012. Theo ITC, tổng giá trị NK trong 11 tháng đầu năm 2014 của Nhật Bản giảm 6,4% so với cùng kỳ năm 2013 đạt 2,5 tỉ USD. Thị phần tôm nước ấm tại Nhật Bản đang bị tôm nước lạnh rẻ hơn từ Achentina và Liên bang Nga thay thế. NK tôm nguyên liệu đông lạnh tăng 1,8% trong giai đoạn này đạt 405 triệu USD, nhưng NK tôm chế biến giảm 7,9%. Năm nhà cung
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
cấp tôm hàng đầu sang Nhật Bản trong giai đoạn này là Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Achentina và Trung Quốc. Thị trường Nhật rất nhạy cảm về giá nên nguồn tôm giá trị gia tăng, chủ yếu NK từ Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc, cũng bị ảnh hưởng. Từ tháng 7/2014, giá tôm ở Nhật Bản đã tăng mặc dù lượng hàng tồn kho vẫn thấp hơn so với các năm khác. Trong ngành bán lẻ, nhu cầu tôm nuôi dự đoán sẽ giảm do giá cả tăng cao. Các nhà kinh doanh đã xúc tiến bán tôm biển (Seabob) Achentina trong mùa Giáng sinh và năm mới. Mỹ Tổng nguồn cung tôm tại thị trường Mỹ dự kiến tiếp tục tăng. Mặc dù sản lượng và XK từ Thái Lan giảm, nhưng NK từ các nước châu Á và châu Mỹ Latinh khác tăng mạnh. Theo Rabobank, NK tôm vào Mỹ trong năm 2014 thậm chí cao hơn năm 2013 một phần nhờ kinh tế vĩ mô được duy trì ở mức ổn định hơn và đồng USD mạnh hơn so với các dồng tiền khác. Trong 11 tháng đầu năm 2014, NK tôm vào Mỹ tăng mạnh cả về khối lượng và giá trị, vượt xa nhiều dự đoán trước đó. Về giá trị, NK tôm vào Mỹ tăng mạnh 30% và đạt mức kỷ lục 6,1 tỉ USD do giá tôm cao mặc dù khối lượng cũng tăng nhưng ở mức thấp hơn với 518.974 tấn tăng 12% so với 2013. EU Việc NK tôm của EU vẫn mang tính chọn lọc. EU luôn yêu cầu các nhà chế biến châu Á sản xuất các sản phẩm đông
lạnh với tỉ lệ mạ băng 2030%. NK tôm từ Mỹ Latinh, như Êcuađo, Nicaragoa và Honđurat đều gia tăng nhờ các mức thuế suất ưu đãi. Trong 10 tháng đầu năm 2014, giá trị NK tôm vào EU đạt 5,5 tỉ USD, tăng 46% so với cùng kỳ năm 2013. Êcuađo là nhà cung cấp tôm hàng đầu, tiếp theo là Ấn Độ và Inđônêxia với nguồn cung và thị phần đều tăng, trong khi NK tôm của EU từ Thái Lan giảm mạnh do không còn được hưởng quy chế GSP từ tháng 1/2014. Tính theo thị trường đơn lẻ, Tây Ban Nha và Pháp là các nhà NK chính tiếp theo là Anh, Hà Lan, Italia, Bỉ và Đức. Theo Rabobank, lượng tôm NK vào EU năm 2014 không tăng mạnh như trên thị trường Mỹ tuy nhiên nó đã đạt mốc 300.000 tấn, thấp hơn một chút so với mức kỷ lục năm 2011 là 325.000 tấn. Như vậy, NK tôm vào EU đã được cải thiện đáng kể so với năm 2013, trong điều kiện giá tôm leo thang đã tác động mạnh đến nhu cầu tiêu thụ và các nhà kinh doanh rất khó khăn trong việc kích cầu tiêu dùng thậm chí đã sử dụng cả các chương trình khuyến mãi. Châu Á - Thái Bình Dương Các nhà NK tôm lớn trong khu vực Châu Á / Thái Bình Dương là Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông và Ôxtrâylia. Theo Infofish, Việt Nam có thể là thị trường NK tôm nuôi số 1 ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với ước tính NK tôm đông lạnh trong 6 tháng đầu năm 2014 ở mức 50.000 tấn và giá
trị NK tôm trong 11 tháng đầu năm đạt 432,996 triệu USD. Êcuađo và Ấn Độ là 2 nhà cung cấp lớn nhất. Hầu hết, lượng tôm NK chủ yếu dành cho tái chế biến và XK. Còn Trung Quốc chủ yếu NK cho tiêu dùng trong nước, nguồn cung tôm nước ấm và nước lạnh tăng trong 6 tháng đầu năm 2014 và có thể tiếp tục tăng trong các dịp lễ cuối năm.
Triển vọng trong năm 2015
Rabobank dự báo giá tôm sẽ giảm trong năm 2015 sau một năm đứng ở mức cao. Nhu cầu tôm toàn cầu đang tăng lên, nguồn cung tôm Êcuađo, Ấn Độ và Inđônêxia có thể không đáp ứng đủ nhưng, sản xuất tôm ở một số nước chịu tác động của EMS đang dần được cải thiện. Trung Quốc vẫn là nước XK tôm lớn trên thế giới mặc dù thống kê thương mại chính thức của nước này không có và không hoàn toàn đáng tin cậy. Thị trường Nhật Bản đang trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà XK tôm chân trắng, mặc dù nhu cầu tôm sú hạn chế nhưng vấn tiêu thụ được ở các khu vực thị trường cao cấp. Thị trường và nhu cầu tiêu thụ tôm tại Mỹ có triển vọng tăng tiếp. Tôm vẫn là món ăn được ưa thích trong các bữa ăn gia đình trong Lễ Tạ ơn, dịp Giáng sinh và Năm mới. Những dấu hiệu tích cực cho thấy một triển vọng khả quantrong năm 2015 tới. Hằng Vân tổng hợp
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
107
KHOA HOÅC / CÖNG NGHÏå
Sản phẩm mới Phi lê cá thu ngâm dầu oliu Phi lê cá thu ngâm dầu oliu của Riomare mang đến cho thực khách hương vị và nhiều thành phần dinh dưỡng tốt nhất của cá giàu chất béo, phù hợp với chế độ ăn tốt cho sức khỏe và cân bằng. Sản phẩm giàu omega 3, chứa axit béo cần thiết và giúp tim và trí não khỏe. Phù hợp để làm món chính ngon và nhanh. Khi dùng có thể rán áp chảo với tiêu, bí xanh và hành đỏ. Riomare
Bánh cua
Bánh cua của Beaver Street Fisheries được yêu thích trên toàn thế giới, bánh được làm từ nhiều loài cua như cua Dungeness, cua huỳnh đế, cua tuyết và cua đá. Có thể ăn kèm với salat và mayonaise, được tẩm gia vị tương ớt xoài hoặc phủ sốt cay tươi ở bên ngoài. Sản phẩm có nhiều loại với kích cỡ khác nhau từ loại nhỏ 4 aơxơ đến loại lớn 10 pao. Beaver Street Fisheries
Cá ngừ chuyên rã đông khi dùng
Sản phẩm cá ngừ chuyên rã đông khi dùng của Tristan International nằm trong dòng sản phẩm cá ngừ siêu đông lạnh. Công ty sử dụng quy trình đặc biệt cho việc rã đông cá ngừ. Sản phẩm mới có chất lượng và hương vị như cá tươi nhưng được quản lý và đảm bảo tính an toàn như đối với các sản phẩm đông lạnh. Cá ngừ chuyên rã đông khi dùng đạt phẩm cấp sashsimi, màu tự nhiên và hương vị tươi nhờ hệ thống ULT. Seafoodsource
108
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Dòng sản phẩm Signature Sea Best Beaver Street Fisheries ra mắt các mặt hàng với 5 hương vị mới nhất của dòng sản phẩm Signature Sea Best. Các sản phẩm mới gồm cá hồi rau thơm và cà chua rán, cá rô phi Florentina, cá tuyết bao khoai tây, cá bơn atiso và rau chân vịt. Chỉ cần 6 phút để làm món ăn giàu chất đạm và bổ dưỡng này. Seafood International
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Cá bao bột giòn đóng gói theo khẩu phần
Cá được tẩm loại bột có chất lượng cao, giúp sản phẩm giữ màu nâu vàng đẹp mắt. Sản phẩm được cấp đông nhanh và không chứa chất béo chuyển hóa. Mỗi khẩu phần có trọng lượng khoảng 3,2 aoxơ, rất tốt cho sức khỏe. Sản phẩm rất dễ chế biến và là một biện pháp hay giúp thanh niên ăn thủy sản. Matlaw
Tôm bao bột vị dừa
Tôm được chiên già với lớp bột nhẹ và giòn có hương vị dừa. Thưởng thức tôm bao bột vị dừa với nước sốt tương ớt xoài sẽ rất phù hợp, vì nó có hương vị tự nhiên. Sản phẩm được cấp đông rời và chỉ mất 8 phút cho vào lò vi sóng trước khi dùng. Matlaw
Bánh cua Real Calli
Patê cá hồi đỏ
Bánh cua của Oceanprime có hương vị rất ngon, được làm từ thịt cua xanh đánh bắt tự nhiên. Cácthành phần gia vị dùng để pha chế có sẵn trong nước và nhập khẩu. Sản phẩm được đóng gói theo cỡ lớn và bán lẻ. Gói bán lẻ có khay để đặt vào lò.
Thịt cá hồi mềm mịn và béo ngậy được chứa trong một tuýp nhựa để dễ sử dụng và dễ bảo quản trong tủ lạnh. Patê cá hồi dành cho những người thích thưởng thức những hương vị tinh tế. Dùng patê cá hồi ăn với bánh mì, rắc hạt tiêu, và nếu ăn kèm với một lát bí xanh nướng hoặc nước sốt trứng sẽ rất ngon.
Oceanprime
Riomare
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
109
KHOA HOÅC / CÖNG NGHÏå
Cá hồi Keta tự nhiên xông khói nguyên con Được làm từ cá hồi đạt chứng nhận Kossher, cá hồi xông khói nguyên con của Morey là sự lựa chọn tốt nhất cho một bữa ăn giàu dinh dưỡng. Sản phẩm được xông khói hoàn hảo và đã chín hoàn toàn. Sản phẩm này rất ngon khi dùng với nước sốt hoặc với những loại gia vị mà bạn thích. Sản phẩm không chứa Gluten. Morey’s
Tôm trộn sốt kem bơ Parmesa
Sản phẩm tôm có tính sáng tạo của Moreys mang đến 1 bữa ăn tiện lợi cho những người bận rộn. Tôm trộn sốt kem bơ Parmesa của Morey giúp bạn có một bữa ăn tối với sự chuẩn bị đơn giản bằng cách cho vào lò vi sóng, bếp lò hoặc lò nướng chỉ trong vài phút. Có thể dùng món này với cơm, mì hoặc kèm thêm rau. Morey’s
Cá hồi cay Thái Lan Philê cá tuyết giòn hấp dẫn
Được làm từ cá tuyết khai thác tự nhiên, cá tuyết philê có thịt mềm và hơi giòn và hương vị dịu nhẹ đặc biệt. Cá được bao bột vụn bánh mì, sau đó chiên giòn. Đây là món ăn hải sản rất phù hợp và ngon cho bữa ăn gia đình. Sản phẩm giàu dinh dưỡng được cấp đông nhanh với lượng chất béo thấp. SeaBest
110
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Một trong những món cá được chế biến theo kiểu Thái rất hoàn hảo,cá hồi cay Thái Lan không phải là một ngoại lệ. Sự kết hợp độc đáo của hạt tiêu ngọt và cay với tỏi và vị cam làm tăng thêm hương vị đặc trưng và khá dịu ngọt của cá hồi. Món ăn đã được tẩm ướp sẵn, khi dùng chỉ cần nướng hoặc cho vào lò vi sóng là có thể dùng ngay. SeaBest
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Cá cắt thanh bao bột
Cá cắt thanh bao bột giòn và đậm màu sắc có thể phù hợp với mọi thành viên trong gia đình, nhất là những người trẻ. Sản phẩm là sự lựa chọn tuyệt vời cho một bữa ăn thủy sản vừa ngon lại vừa chuẩn bị nhanh. Chỉ mất 5-6 phút áp chảo hoặc chiên, là có thể dùng được. Sản phẩm sẽ ngon hơn nếu dùng với Mayonnaise và salat tươi. Ledo
Cá cắt thanh và khoai tây chiên
Món ăn bao gồm khoai tây chiên và 100% philê cá tuyết meluc thơm ngon với lớp áo bao bột giòn, tạo nên sự kết hợp hoàn hảo cho tất cả những người yêu thích món ăn nhanh. Quy trình chế biến sản phẩm rất nhanh và dễ dàng do có thể rán khoai tây và cá tuyết meluc bao bột cùng lúc. Chỉ mất 4-8 phút chiên rán là có thể sử dụng được sản phẩm. Ledo
Bánh kẹp philê cá minh thái chứa omega 3
Philê cá tuyết meluc với nước sốt rượu trắng, mù tạt và hành lá
Bánh kẹp phi lê cá minh thái Alaska 100% được bao bột bánh mì giòn. Sản phẩm rất thơm ngon và được đóng gói hoàn chỉnh. Bánh kẹp mang đầy đủ những vị ngon của cá minh thái Alaska. Khi dùng có thể cho bánh vào lò vi sóng hoặc lò nướng.
Sản phẩm là sự kết hợp giữa philê cá tuyết meluc với nước sốt rượu trắng, mù tạt và hành lá. Phi lê cá được chế biến từ nguyên liệutươi ngon nhất. Toàn bộ sản phẩm được đóng túi hoàn chỉnh để có thể nướng trong lò. Sản phẩm cũng có nhiều kích cỡ và hình dạng khác nhau. Khi dùng chỉ cần cho vào lo vi sóng hoặc nồi nướng rất nhanh.
Birds Eye
Birds Eye
Hằng Vân lược dịch THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
111
KHOA HOÅC / CÖNG NGHÏå
Thiết bị mới Máy làm đá vảy
Tủ đông tiếp xúc nằm ngang
Hệ thống rã đông PolyDefrost
Máy nâng giỏ tiếp liệu
Công ty Tucal sản xuất máy làm đá vảy với nhiều công dụng như dùng để bảo quản thực phẩm hoặc phục vụ cho cácqui trình sản xuất khác nhau. Tucal cho ra nhiều loại máy với công suất khác nhau từ 1.000 đến 5.000 kg. Máy làm đá vảy của Tucal có thể sử dụng ở nhà máy trên bờ hoặc trên biển, máy nhỏ gọn có kèm theo dàn ngưng. Tucal
Hệ thống rã đông ngâm PolyDefrost giúp rã đông nhanh nhiều loại thủy sản trong đó có tôm và cá nguyên con. Mặt bằng tiếp xúc lớn giúp tăng sản lượng rã đông, tăng độ an toàn thực phẩm với nhiệt độ rã đông thấp. Hệ thống này ít phải bảo trì, an toàn cho người sử dụng, dễ làm sạch với chi phí hoạt động thấp. Meyer-industries
112
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Tủ đông tiếp xúc nằm ngang được sử dụng để cấp đông sản phẩm đóng trong khay hoặc hộp với chi phí năng lượng thấp nhất. Tủ đông của Tucal có một số phương án lựa chọn trong tiêu chuẩn sản xuất như: số điểm dừng, kích cỡ khay đặt sản phẩm và sử dụng trên biển hay trên bờ, loại môi chất cấp đông và hệ thống bơm môi chất. Tucal
Máy nâng giỏ tiếp liệu của Meyer được thiết kế để vận chuyển nhiều loại sản phẩm, chuyển động theo cả chiều ngang và chiều dọc mà không cần có điểm trung chuyển. Máy có thể vận chuyển hầu hết các sản phẩm khô, dạng hạt và cả các sản phẩm khác như cá, gia cầm, cà phê…Thiết bị này rất đáng tin cậy và dễ làm sạch. Meyer-industries
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Máy phân loại của Sterner
Máy phân loại của Traust Technology
Máy phân loại sử dụng con lăn phù hợp với các loài cá hồi, cá hồi vân, cá tuyết, cá tráp có trọng lượng từ 0,5-50 gram. Thiết bị được sản xuất bằng thép không gỉ 304. Máy có gắn 3 bánh xe và rất dễ để di chuyển trong nhà máy. Khi vận hành không gây ồn, rất dễ điều chỉnh cỡ phân loại và phù hợp với các cơ sở sản xuất giống vì độ chính xác cao. Sterner
Máy phân loại Easy Channel chỉ chiếmc diện tích nhỏ với mođun mở và dễ dàng làm sạch. Phù hợp cho việc phân loại cá cơm, cá thu, tôm, cá meluc, cá sadine, cá trích, đuôi tôm hùm, sò điệp, mực, cá hồi và cá thịt trắng. Chi phí vận hành thấp, dễ sử dụng và bảo trì. Traust Technology
Máy rút xương dăm
Máy rút xương dăm các loại phi lê cá cỡ lớn như cá hồi, cá hồi vân và cá tráp (tươi, rã đông hoặc xông khói). Máy sử dụng kỹ thuật độc đáo để rút xương hiệu quả nhất, không làm xương bị gẫy, phi lê không bị hút nước và nát. Thiết bị này ít phải bảo trì và dễ dàng với người sử dụng, tiêu hao năng lượng tối thiểu. Agk-kronawitter
Băng chuyền mạ băng
Hệ thống này giúp kéo dài thời hạn sử dụng phi lê cá và cá đã moi nội tạng. Sau khi cấp đông trong tủ đông, sản phẩm được chạy trên băng chuyền và được phủ đều một lớp nước trên toàn bộ bề mặt. Tốc độ của băng chuyền có thể điều chỉnh bằng nút kiểm soát. Sau khi rời băng chuyền, cá sẽ được phủ một lớp đá với độ dày tùy thuộc vào tốc độ chạy trên máy. Agk-kronawitter
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
113
KHOA HOÅC / CÖNG NGHÏå
Máy phân loại thủy sản bằng thủy lực
Máy lạng da tự động Steen ST700V
Máy đánh vẩy Steen ST521
Máy phân loại sò điệp
Máy được sử dụng để phân loại cá trích, cá sađin, cá thu, các loại cá nổi khác, cá minh thái Alaska, cá tuyết, cá haddock, cá meluc và cá tuyết khác. Máy phân loại thủy sản của Modori Corporation có thể phân loại cá từ 3-5 cỡ cùng một lúc, hoặc có thể điều chỉnh máy theo các yêu cầu phân loại khác nhau. Máy có thể sử dụng ở nhà máy trên bờ hoặc trên biển. MODORI Corporation
Phù hợp với tất cả các loại cá, máy đánh vảy Steen rất dễ sử dụng và bảo vệ người sử dụng khỏi các tia nước. Máy được thiết kế với khả năng sử dụng liên tục và có thêm đĩa để đánh sạch được các loại vảy lớn hơn. Thiết bị này có thể kết nối với ổ cắm điện nối đất hoặc không nối đất. Trụ đỡ có bốn lớp bảo vệ,với một lớp thép, một lớp hợp chất cách điện và một lớp nhựa. Máy đánh vảy an toàn khi sử dụng và có tuổi thọ lâu bền. STEEN
114
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Steen ST700V đã được thiết kế để cắt sâu hơn và loại bỏ thịt đen từ thân cá hồi và các loại cá khác như cá rô phi, cá chẽm, cá măng và cá da trơn, giúp phi lê cá đạt chất lượng cao hơn. Máy được chế tạo bằng thép không gỉ, giúp dễ dàng làm vệ sinh và giảm chi phí sử dụng nước. Thiết bị dễ sử dụng, tiện lợi và có thể lựa chọn theo nhu cầu của khách hàng. STEEN
Máy phân loại của TOMRA là giải pháp tối ưu để phân loại sò điệp. Máy phân loại có thể phân loại sò điệp tươi hoặc đông lạnh. Máy còn có thể phát hiện và loại bỏ nội tạng, vỏ, sò điệp có vỏ bị biến đổi màu và các thủy sản bị đánh bắt kèm. Các giải pháp trên giúp tăng năng suất, chất lượng và an toàn thực phẩm, giảm nhu cầu lao động. TOMRA
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Thiết bị rã đông loại DF4000 hoặc DFC 4000
Máy dò kim loại MD VARIC
Hệ thống rã đông có thể được thiết kế tùy theo nhu cầu dùng để rã đông các sản phẩm cá cắt miếng rời hoặc theo cá đóng khối. Thiết bị rã đông loại DF4000 hoặc DFC 4000là thiết kế tiêu chuẩn vì thế phù hợp nhiều kích cỡ với quy trình rã đông hoạt động hoàn toàn tự động. Quy trình được thực hiện trong nhiệt độ và thời gian phù hợp với các sản phẩm. Foodco
Hệ thống dò kim loại khép kín MD VARIC có thể phát hiện ra kim loại với độ chính xác cao; có thể chọn có hoặc không có tốc độ băng tải biến. Được làm bằng thép không gỉ, máy giúp phát hiện và loại bỏ các gói sản phẩm có chứa kim loại. Ngoài ra, các gói sản phẩm có chứa kim loại có thể được tách ra một cách tự động. Vận hành máyrất đơn giản. Bizerbausa
Hằng Vân chọn dịch
Nhà sản xuất máy hút chân không lớn nhất Châu Á
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN THƯỜNG TRÚ TẠI VIỆT NAM ĐC: 24-26 đường số 5, Cư xá Bình Thới, Phường 8, Quận 11, TP. HCM
ĐT: 08.39620009, 38582206, 39625467
Fax: 38584070
Email: newdiamond@vnn.vn
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
115
KHOA HOÅC / CÖNG NGHÏå
Giải pháp phát triển sản phẩm giá trị gia tăng cá tra QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN HƠN 15 NĂM VỪA QUA, NGÀNH CÁ TRA ĐÃ CÓ ĐÓNG GÓP LỚN CHO SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG ĐBSCL NÓI CHUNG CŨNG NHƯ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH THỦY SẢN CẢ NƯỚC NÓI RIÊNG. TUY NHIÊN, CƠ CẤU SẢN PHẨM CHẾ BIẾN TỪ CÁ TRA CÒN RẤT ĐƠN ĐIỆU, MẤT CÂN ĐỐI, CHỦ YẾU LÀ SẢN PHẨM PHILÊ ĐÔNG LẠNH TRONG KHI SỐ LƯỢNG SẢN PHẨM CHẾ BIẾN GIÁ TRỊ GIA TĂNG (GTGT) LẠI RẤT ÍT.
Sản phẩm cá tra tẩm bột của Công ty CP XNK Thủy sản Cửu Long An Giang
Còn nhiều hạn chế
Mặc dù so với các ngành chế biến những đối tượng thủy sản khác, ngành chế biến cá tra đã rất phát triển và đạt trình độ tiên tiến,tuy vậy, lĩnh vực này còn bộc lộ rất nhiều mặt hạn chế. Cơ cấu sản phẩm chưa thật sự hợp lý. Theo số liệu của Cục Chế biến Nông Lâm Thủy sản và Nghề muối, các sản phẩm chế biến từ cá tra nhìn chung rất đơn điệu, chủ yếu là sản phẩm philê đông lạnh - chiếm đến 92% (philê, nguyên con, cắt khúc…), trong số 8% còn lại cũng chỉ là các sản phẩm có hình thức khác hơn một chút so với philê. Loại sản phẩm GTGT như sản phẩm cao cấp, chế biến sâu, phối chế, làm sẵn ăn liền (cá kho tộ, viên, chả 116
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
cá, chà bông, bánh phồng, khô ăn liền…) tuy bước đầu đã được sản xuất nhưng với khối lượng còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, hiệu quả sản xuất sản phẩm GTGT chưa cao, thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp và rủi ro cao. Các nhà chế biến thực phẩm Việt Nam chưa mặn mà với việc sản xuất sản phẩm GTGT vì hiệu quả kinh doanh thấp hơn so với sản phẩm sơ chế - philê, nguyên nhân là do chi phí chế biến cao, vòng quay vốn chậm, khó vận chuyển, bảo quản, thời hạn sử dụng sản phẩm ngắn…. Bên cạnh sản xuất sản phẩm philê cá tra XK, ngành chế biến phụ phẩm đã có bước phát triển đáng kể. Hiện nay, phụ phẩm từ
chế biến philê cá tra đông lạnh như đầu, xương, da, vây, nội tạng, mỡ… đã được tận dụng để sản xuất ra các sản phẩm như dầu cá, bột cá, bong bóng, bao tử cá…., tuy nhiên những sản phẩm này chủ yếu ở dạng thô, trong khi những sản phẩm cao cấp dùng trong dược phẩm, mỹ phẩm như tinh dầu cá, galetine, thực phẩm chức năng chứa vi chất và sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ, GTGT cao chưa nhiều. Ngoài ra, thị trường tiêu thụ các sản phẩm nêu trên tương đối hạn chế, yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất sản phẩm GTGT rất cao, trong khi DN rất thiếu những trang thiết bị công nghệ cao để sản xuất sản phẩm này. Hiện nay, các thiết bị công nghệ chế biến tại hầu hết các nhà máy chủ yếu là để sản xuất philê cá tra đông lạnh. Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn như hiện nay thì việc đầu tư mua sắm máy móc và công nghệ mới từ các nước phát triển để phục vụ sản xuất sản phẩm GTGT thật sự là một khó khăn không nhỏ đối với khả năng tài chính của nhiều DN.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Thúc đẩy sản xuất sản phẩm GTGT
Theo ông Ngô Anh Tuấn Chuyên gia tư vấn của FAO (Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc)“Chúng ta chỉ cần tái cơ cấu được một đối tượng cá tra thôi, đưa tỉ lệ xuất khẩu đạt 50% là hàng GTGT và đưa giá trị philê xuống dưới 50% thì riêng một động tác tái cơ cấu một sản phẩm chế biến này, con cá tra đã mang lại một giá trị rất lớn cho ngành thủy sản nói riêng và cho ngành kinh tế cả nước nói chung”. Chính vì vậy, phát triển sản phẩm GTGT là một trong những hướng đi ưu tiên của ngành cá tra trong thời gian tới, với mục tiêu tăng dần tỷ trọng hàng GTGT trong cơ cấu sản phẩm toàn ngành, từ đó góp phần gia tăng kim ngạch XK cũng như xây dựng thương hiệu cá tra Việt Nam trên thị trường thế giới. Theo dự thảo qui hoạch nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu cá tra, trong giai đoạn 2014 – 2015 và những năm tiếp theo, bên cạnh sản phẩm philê truyền thống, ngành cá tra phấn đấu đẩy mạnh chế biến sản phẩm mới, sản phẩm GTGT, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm, phấn đấu đến năm 2015 các sản phẩm này đạt tỷ trọng 8-12% và đến năm 2020 là 15-20%. Để đạt được mục tiêu trên, ngành chủ trương tổ chức sản xuất cá tra theo chuỗi giá trị với việc bố trí, sắp xếp lại hệ thống các cơ sở chế biến và tiêu thụ phù hợp với vùng nguyên liệu, nhà máy chế biến phải có nguồn nguyên liệu ổn định bằng cách
Sản phẩm nước uống Collagen của Công ty CP Thủy sản Bình An ngày càng phổ biến trên thị trường.
tự đầu tư vùng nuôi hoặc liên kết với các cơ sở nuôi, không đầu tư mới cơ sở chế biến philê cá tra đông lạnh, mà tập trung đầu tư nâng cấp nhà xưởng, đổi mới dây chuyền thiết bị sản xuất đối với các nhà máy hiện có. Nông dân nuôi cá phải liên kết với nhau thành những vùng nuôi có quy mô lớn hơn. Duy trì và ổn định diện tích, sản lượng cá tra theo nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, ngành cá tra sẽ tổ chức lại khâu chế biến theo hướng đẩy mạnh sản xuất sản phẩm GTGT bằng cách áp dụng công nghệ tiên tiến vào trong sản xuất, đầu tư trang thiết bị công nghệ mới, nghiên cứu, chuyển giao hoặc mua công nghệ chế biến phụ phẩm nhằm tăng cường tỷ trọng cũng như đa dạng hóa sản phẩm GTGT như surimi cá, dầu cá tinh luyện, bột cá, chà bông, bánh phồng, collagen, gelatin…tận dụng toàn bộ con cá, nâng cao giá trị, giảm giá thành sản phẩm và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, ngành cá tra
cần có những chương trình điều tra, khảo sát, nghiên cứu các thị trường tiêu thụ chính sản phẩm loài này trên thế giới để nắm bắt thị hiếu tiêu dùng, cách thức chế biến, khẩu vị…của khách hàng ở từng thị trường khác nhau để DN trong nước sản xuất sản phẩm GTGT phù hợp, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thị trường. Đặc biệt, bên cạnh thị trường quốc tế, ngành cá tra cũng nên có những chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá để các sản phẩm cá tra được biết đến phổ biến hơn trên thị trường nội địa với hơn 90 triệu người tiêu dùng. Ngoài ra, để nâng cao GTGT của con cá tra, Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách đặc thù, nhấtlà về tín dụng, đầu tư để tạo điều kiện cho DN được hưởng chính sách tín dụng ưu đãi trong việc đầu tư vào những dự án chế biến phụ phẩm cá tra thành các sản phẩm GTGT hoặc chế biến các sản phẩm GTGT phi thực phẩm từ cá tra. Hiện nay, sản lượng XK cá tra philê rất lớn nhưng chủ yếu dưới dạng thô. Đây là một sự lãng phí nguyên liệu đáng quan tâm. Vì vậy, cần phải tổ chức lại cơ cấu sản phẩm trong chế biến cá tra nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất, đồng thờităng cường xúc tiến quảng bá sản phẩm GTGT chế biến từ cá tra. Hy vọngkim ngạch xuất khẩu cá tra Việt Nam trong tương lai sẽ còn lớn hơn hiện nay rất nhiều. Đỗ Văn Thông
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
117
KHOA HOÅC / CÖNG NGHÏå
Hỏi và đáp về Dịch vụ và giải pháp thu hồi nợ của Assurance Global Assurance Global cung cấp những dịch vụ và giải pháp nào? Assurance Global giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam thu hồi các khoản nợ từ nước ngoài. Việc thu hồi nợ của Assurance Global là hoàn toàn minh bạch và hợp pháp. Assurance Global có thu hồi các khoản nợ tại Việt Nam? Không, chúng tôi không thu hồi các khoản nợ giữa các doanh nghiệp tại Việt Nam. Assurance Global có những điểm nổi bật nào? Assurance Global đưa ra dịch vụ thu nợ chỉ tính phí khi thành công. Nếu không thu hồi được nợ, các nhà xuất khẩu sẽ không phải trả phí. Assurance Global có văn phòng tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Do đó, có nhiều khả năng thu được nợ từ nước ngoài về cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. Việc thu hồi nợ nước ngoài về đòi hỏi kiến thức chuyên môn về môi trường kinh doanh cũng như hệ thống pháp lý tại nước của khách nợ. Các đại diện pháp lý của Assurance Global có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng thu hồi nợ thành công tại các thị trường như Hoa Kỳ, Mêhicô, Braxin, Châu Âu, Nga, v.v… Các nhà xuất khẩu Việt Nam cần Assurance Global hỗ trợ khi nào? Khi các khoản tiền chưa được thanh toán đã chậm 10 ngày, các nhà xuất khẩu nên có những động thái phản ứng lại. Nghĩa là cần phải trực tiếp và thường xuyên liên lạc với khách mua hàng, đề cập thẳng vào vấn đề. Ngoài ra cũng cần đảm bảo là các cấp quản lý của khách nợ biết về vấn đề nợ, chứ không phải chỉ liên lạc với một người. Rất tiếc là nhiều nhà xuất khẩu thường không có hành động quyết liệt mặc dù các khoản cần thanh toán có khi đã chậm đến 6 tháng. Khi đó khả năng khách nợ không chịu thanh toán là rất cao. Vì vậy, lúc này các nhà xuất khẩu rất cần đến sự hỗ trợ của Assurance Global . 118
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Ông Keith Stillings, CEO - Assurance Global
Tình hình nước ngoài đang nợ Việt Nam như thế nào? Đáng tiếc là con số này khá lớn. Hiện tại, ước đoán con số nợ là từ 5%-10%. Với kết quả xuất khẩu thuỷ sản năm 2014 của Việt Nam, thì số tiền nước ngoài nợ các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể từ 360 đến 720 triệu USD. Tại sao các khoản chậm thanh toán lại cao như vậy? Có rất nhiều nguyên nhân khiến các khoản nợ chậm trả ngày càng tăng cao. Do những liên quan đến phát triển kinh tế toàn cầu, nhiều công ty ở nước ngoài đang phải đối mặt với khủng hoảng trầm trọng và họ thiếu tiền để chi trả cho các khoản bắt buộc. Nhiều công ty trong số này đã phá sản và không trả được nợ. Thêm vào đó, có bằng chứng cho thấy một số các doanh nghiệp nước ngoài lừa đảo đang nhắm vào các nhà xuất khẩu Việt Nam.
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Tập quán kinh doanh của một số nhà xuất khẩu Việt Nam cũng góp phần vào các khoản thanh toán chậm. Những công ty đó chưa có các quy trình và kinh nghiệm quản lý các khoản không thanh toán hoặc thanh toán chậm của khách hàng . Bên cạnh đó, các nhà xuất khẩu còn: 1. Không muốn làm mất mối quan hệ kinh doanh với những khách hàng đang nợ mình. 2. Không biết thu hồi nợ từ nước ngoài bằng cách nào. 3. Không tìm được một công ty luật có uy tín ở nước ngoài hỗ trợ. 4. Không muốn phải tốn kém thêm chi phí cho việc thuê các công ty luật. Những bài học Assurance Global đúc kết được từ thị trường Việt Nam trong năm 2014? Các nhà xuất khẩu Việt Nam để khách hàng nợ quá lâu rồi mới tìm cách giải quyết. Kết quả là không thu hồi được nợ. Ví dụ như nhiều công ty đã để khoản nợ kéo dài tới 6 tháng. Thời gian nợ càng dài thì khả năng thu nợ thành công càng thấp. Những nhà xuất khẩu bị rơi vào tình trạng nợ lâu ngày như vậy, nên tìm đến các đối tác có uy tín để nhờ thu hồi nợ giúp. Assurance Global còn rút ra được điều gì nữa từ năm 2014? Có một vài công ty chưa hiểu đúng về dịch vụ thu phí khi thu nợ thành công của Assurance Global. Ông có thể cho một ví dụ? Một số nhà xuất khẩu đã yêu cầu chúng tôi cung cấp các dịch vụ pháp lý cho các trường hợp không liên quan đến việc thu hồi nợ. Ví dụ như
khi một công ty xuất khẩu không giao hàng đúng như trong hợp đồng và bị bên mua từ chối thanh toán. Việc vi phạm các điều khoản trong hợp đồng thường là giao sai sản phẩm, hàng chất lượng kémvà sai số lượng, v.v… Trong trường hợp này, nếu các nhà xuất khẩu muốn thu tiền về bằng cách đưa ra toà thì có thể bị kiện ngược lại. Assurance Global không cung cấp dịch vụ thu hồi nợ dựa trên thành công cho những trường hợp vi phạm hợp đồng. Những biện pháp quản lý của Assurance Global đối với những trường hợp phức tạp như trên? Chúng tôi làm việc với các nhà xuất khẩu ngay từ đầu để xác định xem việc chậm thanh toán có liên quan đến các vấn đề về giao hàng hay chất lượng hàng hoá không. Nếu không, chúng tôi sẽ bắt đầu tiến hành đàm phán giữa hai bên để tìm cách giải quyết món nợ. Mối quan hệ với khách hàng là vô cùng quan trọng. Cách làm việc tích cực mang tính xây dựng trong quá trình thu nợ của Assurance Global sẽ giúp các nhà xuất khẩu gắn kết với khách hàng. Các nhà xuất khẩu có thể thu hồi món nợ mà không làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ kinh doanh của mình. Bộ phận pháp lý của Assurance Global tại nước của khách nợ có khả năng đàm phán, sẽ mang lại thành công trong việc thu hồi nợ. Những biện pháp mà các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể hạn chế việc bị thanh toán chậm hoặc không được thanh toán? Hiện nay trên thế giới có nhiều phương pháp phòng tránh nợ mà các công ty tại Việt Nam có thể áp dụng để hạn chế việc bị thanh toán chậm hoặc không được thanh toán. Cần xây dựng những phương pháp này thành các quy trình ở mỗi công ty. Các phương pháp gồm: 1. Tiến hành điều tra ban đầu về khách hàng mới. 2. Tìm hiểu kỹ càng những khả năng có thể xảy ra rủi ro ở các thị trường mới như Mexico Mêhicô, Braxin, Nga, Ả Rập Xê Út, v.v… 3. Tiến hành thẩm định lại các khách hàng đang giao dịch buôn bán. 4. Kiểm tra kỹ tất cả các thư tín dụng, bao gồm các thông tin như ngân hàng phát hành, địa chỉ THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
119
KHOA HOÅC / CÖNG NGHÏå
ngân hàng và các chứng từ thực tế. 5. Quản lý chặt chẽ các chứng từ liên quan đến giao dịch và các chứng từ trao đổi với khách hàng. 6. Tìm hiểu cẩn trọng hơn đối với những khách hàng yêu cầu các điều khoản thanh toán mở. 7. Xây dựng các quy trình, hệ thống nội bộ để tự động xác định các khoản nợ phải thu cũng như liên lạc thường xuyên hơn với khách nợ và liên lạc với các quản lý cấp cao của công ty nợ. 8. Trong hệ thống nội bộ cũng cần xây dựng một khung thời gian xác định để chuyển việc thu nợ cho một đối tác thứ ba khi tình trạng nợ kéo dài quá lâu. Những hỗ trợ của Assurance Global đối với các nhà xuất khẩu tại Việt Nam? Assurance Global dự kiến sẽ tổ chức nhiều hội thảo thông qua VASEP và các hiệp hội thương mại khác để chia sẻ thông tin về hoạt động thương mại quốc tế. Các hội thảo sẽ chú trọng đến những vấn đề sau đây: • Những sơ xuất các nhà xuất khẩu hay mắc phải. • Các loại hình công ty mua hàng lừa đảo điển hình. • Cách kiểm tra thông tin khách hàng hiện có và khách hàng mới. • Cách phát triển mạnh hệ thống nội bộ nhằm xác định các khoản trả chậm, hạn chế số lượng các hoá đơn chưa thanh toán và tránh việc bị đối tác không thanh toán. Những biện pháp Assurance Global giúp Việt Nam thu hồi nợ? Assurance Global luôn tuân thủ pháp luật khi thu hồi các khoản nợ. Mặc dù ở mỗi nước, hướng giải quyết vấn đề sẽ khác nhau, nhưng nhìn chung cách tiếp cận sẽ như sau: 1. Trước hết, Assurance Global tiến hành xem xét món nợ. 2. Việc này bao gồm xem xét các chứng từ như hợp đồng, đơn hàng, vận đơn, hoá đơn, email, … 3. Assurance Global sẽ tiến hành điều tra sơ bộ để xác định xem bên mua còn khả năng thanh toán không, có nợ những nơi khác không và còn tài sản để trả nợ không. 120
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
4. Sau đó, bộ phận pháp lý của Assurance Global tại nước của bên nợ sẽ tiếp cận khách mua hàng với thái độ tích cực nhằm tìm cách giải quyết món nợ. 5. Mặc dù bên mua có thể không phản hồi khi các nhà xuất khẩu Việt Nam cố gắng liên lạc để thu hồi khoản nợ, nhưng bên mua sẽ phản ứng khác đi khi bộ phận pháp lý tại đất nước của họ liên lạc. 6. Nếu bên mua không có thái độ tích cực khi đàm phán với bộ phận pháp lý, Assurance Global sẽ gửi thư yêu cầu thanh toán nợ đến bên mua. 7. Trong khuôn khổ luật pháp ở nhiều nơi, hai thư yêu cầu thanh toán cần được gửi đi trước khi thực hiện bước tiếp theo. 8. Nếu người mua vẫn từ chối thanh toán, Assurance Global sẽ xem xét khả năng mang vụ việc ra toà án. 9. Một khi chắc chắn được lợi thế chống lại bên mua, Assurance Global sẽ làm đơn khởi kiện. 10. Tại thời điểm này, Assurance Global sẽ chủ động liên lạc với bên mua để đàm phán lại về món nợ. 11. Nếu đàm phán thất bại, Assurance Global tiếp tục theo đuổi vụ kiện. 12. Sau khi thắng kiện với quyết định của toà án, Assurance Global sẽ tiến hành các bước để thực thi quyết định của toà và thu hồi khoản nợ. Assurance Global
PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH
Chế độ tạm quản hàng hóa
Giúp giảm thời gian làm thủ tục xuất nhập khẩu NHẰM GIÚP CÁC DOANH NGHIỆP NẮM BẮT ĐƯỢC NHỮNG BIỆN PHÁP NGHIỆP VỤ HẢI QUAN TIÊN TIẾN VÀ HIỂU RÕ HƠN NHỮNG PHƯƠNG TIỆN TẠO THUẬN LỢI CHO GIAO LƯU THƯƠNG MẠI NHƯ CHẾ ĐỘ TẠM QUẢN VÀ CÔNG ƯỚC ISTANBUL, TỔNG CỤC HẢI QUAN (BỘ TÀI CHÍNH) ĐÃ PHỐI HỢP VỚI PHÒNG THƯƠNG MẠI CHÂU Á TỔ CHỨC HỘI THẢO VỀ SỔ TẠM QUẢN VÀ CÔNG ƯỚC ISTANBUL VỀ CHẾ ĐỘ TẠM QUẢN TẠI HÀ NỘI.
Các đại biểu tại Hội thảo về Sổ tạm quản và Công ước Istanbul về chế độ tạm quản
P
hó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Vũ Ngọc Anh cho biết: Trong thực tiễn thương mại, không chỉ có việc xuất khẩu (XK), nhập khẩu (NK) đơn thuần mà còn có hình thức NK trong một thời gian ngắn rồi lại XK hoặc XK rồi lại tái NK. Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, nhu cầu tạm nhập tái xuất hàng hóa ngày
càng lớn. Để đáp ứng nhu cầu này, hải quan các nước trên thế giới đã hình thành một hệ thống quản lý hải quan có tên gọi chế độ tạm quản hàng hóa để xử lý hàng tạm nhập tái xuất hoặc tạm xuất tái nhập qua một hoặc nhiều quốc gia. Nội dung của chế độ tạm quản hàng hóa là hàng hóa được phép tạm nhập vào hoặc tạm
xuất ra khỏi một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện chủ hàng tạm nhập hoặc tạm xuất phải đảm bảo tái xuất hoặc tái nhập trong khoảng thời gian nhất định, đồng thời phải chấp hành các quy định quản lý của các nước mà hàng hóa đi và đến. Chế độ tạm quản cho phép giảm thiểu tối đa các thủ tục THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
121
PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH
Chế độ tạm quản giúp giảm thời gian làm thủ tục xuất nhập khẩu
liên quan khi xuất NK (khai báo, nộp, hoàn thuế, xử lý giấy phép) vì các yêu cầu này đã được thực hiện từ trước tại quốc gia của chủ hàng thông qua việc sử dụng sổ tạm quản. Đây là một trong những biện pháp nghiệp vụ hải quan tiên tiến nhằm mục đích tạo thuận lợi tối đa cho một số hoạt động thương mại như hàng triển lãm, hội chợ, phục vụ các sự kiện, thiết bị chuyên ngành.
Sổ ATA là hộ chiếu quốc tế cho hàng hóa
Sổ Tạm quản (ATA - từ viết tắt của cụm từ tiếng Pháp và tiếng Anh: Admission Temporaire/ Temporary Admission) hiện được sử dụng ở 66 quốc gia. Sổ ATA là chứng từ hải quan quốc tế do Phòng Thương mại có thẩm quyền phát hành nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động tạm quản hàng hóa qua một hoặc một số quốc gia được miễn thuế NK, các khoản thuế và thủ tục hải quan. Sổ tạm quản ATA đơn
122
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
giản hóa thủ tục hải quan đối với thuế NK/các khoản thuế/phí đối với một số lượng lớn hàng hóa di chuyển qua một quốc gia nước ngoài là thành viên của Chuỗi bảo lãnh quốc tế ATA. Sổ ATA được sử dụng cho các nhóm hàng: Các trang thiết bị phục vụ triển lãm, vật liệu quảng cáo, hàng mẫu, thiết bị chuyên ngành. Việc sử dụng Sổ ATA cho phép những hàng hóa này được miễn thuế NK với điều kiện hàng hóa đó hoàn toàn được tái xuất hoặc tạm nhập đúng thời gian cơ quan Hải quan đã quy định đối với thời gian tạm nhập, tái xuất.
Nhiều lợi ích
Do có hiệu lực tại 66 quốc gia, việc sử dụng Sổ ATA sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các đối tượng tham gia. Trong đó, Sổ ATA loại bỏ thanh toán thuế và các khoản thuế, đồng thời tránh việc bắt buộc nộp tiền đặt cọc hoặc bảo lãnh dưới một số hình thức khi đưa hàng vào nước tạm nhập.
Người sử dụng Sổ ATA sẽ không phải kê khai tờ khai hải quan tại điểm kiểm tra mà chỉ cần xuất trình hàng hóa đối với mỗi lần thông quan. Sổ ATA cũng cho phép sử dụng một chứng từ duy nhất với tất cả các giao dịch hải quan, người du lịch có thể sử dụng một Sổ ATA với hàng hóa di chuyển qua nhiều quốc gia trong suốt một hành trình, đem lại sự thuận lợi và nhanh chóng cho người dùng cũng như cơ quan quản lý. Đơn cử như tại Singapore, chế độ tạm quản và Sổ ATA cho phép người du lịch thương mại làm thủ tục hải quan một cách nhanh chóng ở một hoặc nhiều quốc gia mà hàng hóa chuẩn bị di chuyển qua, với một mức phí đã được xác định. Chế độ này tạo thuận lợi cho miễn thuế tái xuất từ các quốc gia sẽ di chuyển qua và miễn thuế tái nhập với hàng hóa di chuyển qua Singapore. Việc sử dụng sổ ATA do Phòng Thương mại các quốc gia thành viên quản lý dưới một thỏa thuận quốc tế được gọi là Chuỗi bảo lãnh quốc tế ATA do Phòng Thương mại quốc tế/Liên minh Phòng Thương mại thế giới (ICC/ WCF) tại Paris quản lý. Tại Singapore, điều kiện để được chủ sở hữu Sổ ATA giám sát là sau khi người đăng ký được cấp Sổ ATA, người có sổ phải đăng ký kiểm tra hải quan trước khi xếp hàng để XK qua internet (tại địa chỉ www.customs.gov.sg). Nếu không tuân thủ yêu cầu của cơ quan Hải quan, họ sẽ bị phạt. Yêu cầu kiểm tra hải quan trước khi xếp hàng gồm: Địa điểm kiểm
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
tra trước khi xếp hàng (Hải quan Singapore - đội Tạm nhập), trụ sở Hải quan (Newton) hoặc trụ sở chủ sở hữu Sổ ATA. Tại trang bìa đầu màu xanh lá cây, cán bộ Hải quan Singapore sẽ xác nhận vào mục “Cơ quan Hải quan chứng nhận” khi xuất hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp yêu cầu kiểm tra hải quan trước khi xếp hàng bị từ chối phải xuất trình văn bản từ chối của Hải quan cho cán bộ Hải quan Singapore tại cửa khẩu xuất; tùy từng trường hợp XK, cán bộ Hải quan Singapore sẽ xác nhận vào mục “Cơ quan Hải quan chứng nhận ”. Hàng hóa được NK theo Giấy phép ATA không được phép bán mà người sử dụng sổ phải tái xuất/tái nhập toàn bộ (trong cùng một quốc gia nơi hàng được NK/XK) trong thời gian cơ quan Hải quan cho phép việc NK/XK tạm thời. Thời gian tạm nhập/tạm xuất được cơ quan Hải quan của quốc gia NK/quá cảnh và xuất cảnh cho phép. Hải quan quy định thời gian này không được gia hạn, nếu vi phạm sẽ phải nộp phí/thuê/tiền phạt mặc dù hàng hóa thực sự đã được tái xuất/tái nhập. Tại Việt Nam, tháng 9-2014, Bộ Tài chính đã thành lập nhóm liên bộ do lãnh đạo Tổng cục Hải quan làm trưởng nhóm và xây dựng đề án “Nghiên cứu đề xuất gia nhập Công ước Istanbul về tạm quản hàng hóa” và dự thảo tờ trình Thủ tướng Chính phủ đề xuất khả năng gia nhập Công ước. Căn cứ chức năng và nhiệm vụ, Phòng Thương mại và Công
Cảng Hải Phòng
nghiệp Việt Nam (VCCI) sẽ chủ trì xây dựng cơ chế cấp phát sổ tạm quản và bảo lãnh. Tổng cục Hải quan cũng đã có công văn đề nghị VCCI xúc tiến các công việc liên quan, thông qua các kênh hợp tác để nghiên cứu, nắm bắt các vấn đề về cơ chế cấp phát sổ tạm quản, chế độ bảo lãnh, cơ chế hợp tác giữa các cơ quan cấp sổ... để có đủ thông tin trình Chính phủ trong tháng 12-2014. Theo bà Lee Ju Song, Giám đốc ICC khu vực châu Á, quá trình toàn cầu hóa cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Internet đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thêm sức hấp dẫn và mang tính cạnh tranh mạnh hơn. Việc tạo thuận lợi hơn cho hoạt động thương mại sẽ mở ra cơ hội kinh
doanh mới cho DN và giúp Việt Nam hội nhập tốt hơn trong môi trường quốc tế. Phát biểu tại hội thảo, ông Vũ Ngọc Anh cũng cho biết việc gia nhập Công ước Istanbul sẽ là một phương tiện tạo thuận lợi thương mại mới đối với Việt Nam, hướng tới cân bằng giữa kiểm soát tốt và tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại, đầu tư, văn hóa và du lịch quốc tế. Việc tham gia vào chế độ tạm quản theo chuẩn mực quốc tế cũng là một trong các khuyến nghị của Hiệp định Tạo thuận lợi thương mại của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà các thành viên WTO có nghĩa vụ thực hiện. Nguyễn Minh Thư
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
123
PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH
Quản trị chuỗi giá trị toàn cầu, An toàn thực phẩm và Tiêu chuẩn chứng nhận đối với tôm Việt Nam (tiếp theo và hết) Trần Nhương, Conner Bailey, Norbert Wilson và Michael Phillips
Nuôi tôm công nghiệp ở huyện Đầm Dơi, Cà Mau
c) Quyền của các nhà bán lẻ và công tác quản lý Các thị trường tôm thường bị những tập đoàn bán lẻ lớn thuộc các nước phía Bắc chi phối. Đó là do có rất nhiều nhà cung cấp tôm tiềm năng ở châu Á và Mỹ Latinh, nhưng lại có một số lượng tương đối nhỏ khách mua hàng. Các tác giả của công trình nghiên cứu này đã nhận định Chuỗi giá trị toàn cầu tôm đối với Việt Nam là theo sự chi phối của người mua. Chính phủ Việt Nam đã xây dựng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm tối thiểu, nhưng các khách hàng lại ở vị trí thiết lập nên các tiêu chuẩn chất lượng bổ sung hoặc tuân thủ theo các chương trình chứng nhận mà người mua lựa chọn. Tại thời điểm này, khả năng cung cấp tôm có chứng nhận cho 124
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
thị trường quốc tế của các nhà chế biến và xuất khẩu tôm Việt Nam đã bị hạn chế do có một số lượng lớn các nhà sản xuất, nhưng lại có hệ thống thu mua rất manh mún giữa nhà sản xuất và các nhà chế biến/xuất khẩu. Những yếu tố này làm cho việc rạo ra một chuỗi quản lý cần thiết để có thể lấy được chứng nhận càng thêm phức tạp. Do các nhà bán lẻ lớn ngày càng tin rằng nếu bán các sản phẩm có chứng nhận sẽ mang lại cho họ nhiều lợi ích nhất (Washington&Ababouch, 2011), chắc chắn các nhà chế biến/ xuất khẩu Việt Nam sẽ tìm ra giải pháp để đáp ứng yêu cầu này. Các nhà chế biến/xuất khẩu Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng và khả năng truy xuất nguồn
gốc xuyên suốt chuỗi giá trị từ cửa trang trại đến cổng nhà máy, nhất là khi sản phẩm ra khỏi các cơ sở nuôi nhỏ lẻ. Họ cũng có thể chấp nhận hoặc từ chối lô hàng từ các đại lý bán buôn - những nhà cung ứng nguyên liệu chính cho họ, nhưng những đại lý bán buôn này lại phụ thuộc vào các thương lái nhỏ lẻ, những người này nhiều khi mua tôm từ những thương lái thậm chí còn nhỏ hơn. Phần chân tháp cung ứng này có đến hàng trăm nghìn hộ nuôi tôm, phần lớn trong số họ là những người nuôi nhỏ lẻ. Các nhà sản xuất này lại phụ thuộc vào hàng loạt các nhà cung cấp đầu vào khác, các thương lái địa phương, các nhà cung cấp dịch vụ cho vay vốn. Các đại lý bán buôn có thể cho các thương lái vay vốn và đưa ra yêu cầu toàn quyền đối với lượng tôm mà thương lái thu mua được. Các thương lái sau đó dùng vốn vay được cho các thương lái khác vay. Những khoản vốn vay có thể ràng buộc các nhà sản xuất tôm với những thương lái nhất định. Nhưng những mối ràng buộc này chỉ có ý nghĩa về quyền sở hữu sản phẩm chứ không có tác dụng gì đến chất lượng sản phẩm. Ngoại trừ một số rất ít dự
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
án điểm với quy mô và sự tham gia hạn chế, các chương trình chứng nhận tôm hoặc thậm chí cả các tiêu chuẩn vệ sinh chung khác cũng không phải là những yếu tố có ý nghĩa trong việc quyết định các quy trình quản lý cơ sở nuôi. Đây chính là do sự quản lý Chuỗi giá trị toàn cầu đối với tôm còn yếu và manh mún. Hầu hết trong số 330.000 cơ sở nuôi tôm của Việt Nam là của các hộ nuôi ở nông thôn xuất phát từ những sinh kế ở vùng nông thôn trước đây như trồng lúa, làm muối và đánh cá với trình độ kỹ thuật rất hạn chế. Khả năng liên kết các nhà sản xuất của Chính phủ còn rất hạn chế, đối với các nhà chế biến tôm cũng vậy. Nhiều cơ sở nuôi tôm nằm trong các cộng đồng dân cư, ở đây thậm chí không có cả đường xá. Trong điều kiện này, các nhà chế biến không thể đến trực tiếp được với các nhà sản xuất tôm, nhưng họ tổ chức và kết nối các chuỗi tôm thông qua nhiều cấp thương lái trung gian khác nhau.
8. Thảo luận và các đề xuất
Thương mại toàn cầu là việc tổ chức các Chuỗi giá trị toàn cầu xuyên suốt các nước về mặt địa
lý giữa và do các đối tác, tổ chức có tiềm lực thực hiện liên kết và điều phối theo chức năng ở từng khâu xuyên suốt chuỗi (Gereffi, 1999, Gereffi và các cộng sự, 2001). Các tác giả công trình cho rằng công tác quản lý Chuỗi giá trị toàn cầu đối với tôm sản xuất ở Việt Nam là manh mún ở cấp các nhà sản xuất và các thương lái địa phương, nhưng giữa các nhà chế biến/xuất khẩu và khách mua hàng ở nhiều nước phương Bắc lại có nhiều mối quan hệ được tổ chức tốt hơn. Các cơ quan quản lý của Nhà nước ở Việt Nam và ở các nước nhập khẩu là các đối tác quan trọng trong Chuỗi giá trị toàn cầu tôm do họ đề ra, giám sát và bắt buộc thi hành các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, lại chính là các nhà nhập khẩu đòi mua sản phẩm ở một mức giá thỏa thuận nhất định với những tiêu chuẩn đã được chấp thuận. Những khách hàng này đang hướng đến việc chấp nhận các tiêu chuẩn chứng nhận của bên thứ ba, do các tiêu chuẩn này mang đến cho họ những đảm bảo chắc chắn về chất lượng và khả năng chấp nhận của công chúng. Tại thời điểm này, ở Việt Nam các hệ thống chứng nhận do tổ chức
Nuôi tôm quảng canh ở Cà Mau, Ảnh của Báo ảnh Đất Mũi
phi chính phủ xây dựng nên chỉ có tác động hạn chế ở cấp độ cơ sở nuôi, nhưng trong tương lai có thể nó sẽ thay đổi. Vấn đề ở đây là các hệ thống quản lý manh mún có thể tổ chức lại được không nếu có thể xây dựng các hệ thống chứng nhận dựa vào các chuỗi quản lý từ cơ sở nuôi đến các nhà chế biến/xuất khẩu. Sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều đối tác là sự chuyển biến và sắp xếp lại cơ cấu, chức năng và cách quản lý của Chuỗi giá trị toàn cầu đối với tôm ở Việt Nam và thế giới. Ở đây, một mặt là các quyền được tiêu thụ những sản phẩm an toàn và có chứng nhận ở các nước công nghiệp phương Bắc, mặt khác là các quyền của các nhà sản xuất nhỏ trong việc tìm cách mưu sinh ở những nước đang phát triển phương Nam. Người tiêu dùng có sức ảnh hưởng ở các nước công nghiệp phương Bắc chắc chắn sẽ được lợi từ những tiêu chuẩn an toàn thực phẩm ngày càng nghiêm ngặt. Các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm có thể không là những trở ngại nghiêm trọng đối với các nhà sản xuất nhỏ lẻ. Vì phần lớn, tôm do các nhà sản xuất nhỏ lẻ nuôi có tiếp xúc hạn chế với các loại kháng sinh và các loại hóa chất bị cấm vì mức độ thâm canh thấp trong các hệ thống sản xuất của họ không cần đến các đầu vào đó. Vấn đề chỉ có thể nảy sinh khi tôm từ các hệ thống nuôi thâm canh thấp bị các thương lái trộn lẫn với tôm từ các hệ thống nuôi công nghiệp và bán thâm canh, những hệ thống này thường dùng kháng sinh nhiều hơn THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
125
PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH
thông thường do mật độ nuôi cao gây stress trong ao nuôi với mật độ thả giống cao. Kiểm tra an toàn thực phẩm bắt buộc áp dụng tại cổng các nhà máy chế biến/xuất khẩu và sau đó tiếp tục tại cửa khẩu của nước nhập khẩu, do vậy tiêu điểm của quản lý Chuỗi giá trị toàn cầu có thể là ở những vị trí này. Tuy nhiên, khi các tiêu chuẩn xã hội và môi trường của các tổ chức phi chính phủ được đưa vào trong quá trình đánh giá lấy chứng nhận, các vấn đề quản lý trở nên phức tạp hơn và cần phải mở rộng Chuỗi giá trị toàn cầu xuống đến các nhà sản xuất. Ở đây, tính chất manh mún hiện nay của việc quản lý Chuỗi giá trị toàn cầu cho thấy là một trở ngại lớn. Đó là việc mà tổ chức phi chính phủ phải xây dựng một dự án điểm cho một nhóm các nhà sản xuất trong một cộng đồng và một dự án khác về xây dựng hồ sơ về sự tuân thủ các tiêu chuẩn xã hội và môi trường của hàng trăm nghìn nhà sản xuất nhỏ lẻ và hàng ngàn thương lái mua tôm của họ. Các tiêu chuẩn chứng nhận do các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức ngành xúc tiến như ASC và GLOBAL G.A.P được xây dựng nhằm cải thiện các hoạt động nuôi thủy sản toàn cầu. Nhưng điều trớ trêu là các tiêu chuẩn chứng nhận này có thể lại giúp cho việc co hẹp các nhà sản xuất nhỏ lẻ và các thương lái địa phương, những thành phần đang là nền tảng cho ngành thủy sản hiện tại. Việc không thể truy xuất nguồn gốc tôm được đưa đến 126
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
cửa các nhà máy chế biến và khả năng chúng đã qua tay nhiều tầng cấp, cũng như khối lượng lớn tôm đã bị xử lý không đúng cách khiến chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm bị ảnh hưởng đã làm cho chính một số nhà máy chế biến phải giám sát quá trình sản xuất tôm hoặc xúc tiến liên kết dọc như đã thấy ở Thái Lan (Goss và các cộng sự, 2000), liên kết này cần nhiều sự kiểm soát hơn trong quá trình sản xuất. Cả hai biện pháp đều tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khả năng truy xuất nguồn gốc và một số nhà chế biến cho rằng biện pháp này sẽ đảm bảo tốt hơn chất lượng và sau đó sẽ đạt được giá cả cao hơn. Theo quan điểm của các nhà chế biến/xuất khẩu, hệ thống hiện nay chưa được quản lý tốt và thể hiện sự bất ổn đáng lo ngại. Mua từ một lượng tôm nhỏ từ các nhà sản xuất lớn sẽ hạn chế được nhiều hơn rủi ro thua lỗ nếu lô hàng bị từ chối ở của khẩu nước nhập khẩu. Kết quả thực tế của logic này là sự co hẹp dần các cơ sở nuôi tôm và thương lái nhỏ lẻ, buộc họ chỉ có thể phục vụ cho các thị trường nhỏ trong nước và các thị trường ít lợi nhuận hơn và biến động mạnh của các nhà nhập khẩu khu vực như Trung Quốc và Hàn Quốc. Còn các cơ sở sản xuất lớn và các nhà chế biến/xuất khẩu có công nghệ hiện đại hơn lại được tiếp cận các thị trường có lời hơn như EU, Nhật Bản, và Mỹ. Các thương lái tôm cho thấy một mối liên kết phức tạp trong quản lý Chuỗi giá trị toàn cầu đối với tôm ở Việt Nam, nhưng
lại đóng vai trò quan trọng trong hệ thống sản xuất, họ di chuyển bằng thuyền nhỏ đến các địa điểm xa xôi để mua những lô tôm nhỏ. Mối quan hệ kinh tế giữa các cơ sở nuôi tôm nhỏ lẻ và khách hàng của họ mang sắc thái các mối quan hệ xã hội. Như Ruddle (2011) nêu ra rằng các thương lái mua hải sản ở Việt Nam chính là những người cung cấp các dịch vụ có giá trị cho các nhà sản xuất mà hiện tại chưa có ai làm. Họ nắm rõ các cộng đồng nuôi thủy sản, sẵn sàng nằm vùng ở nông thôn, có thể trao đổi thông tin và thực hiện những giao dịch thành công với các bên đối tác sống ở các thành phố. Giải quyết các vấn đề quản lý chất lượng liên quan đến các thương lái này là vấn đề hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo cả từ phía Bộ NN&PTNT và ngành. Nếu ngành nuôi tôm Việt Nam tiếp tục dựa vào các nhà sản xuất nhỏ lẻ hoạt động ở các vùng xa xôi ven biển Việt Nam, thì họ vẫn cần sự phục vụ của các thương lái nhỏ lẻ. Các hệ thống chứng nhận nuôi trồng thủy sản của bên thứ ba có thể hỗ trợ các hệ thống sản xuất phi công nghiệp (nhỏ lẻ) nếu chúng được áp dụng một cách linh hoạt hơn và dựa trên cơ sở nắm rõ những đặc thù của các điều kiện địa phương. Có thể phát triển những hệ thống quản lý địa phương dựa trên các hợp tác xã hoặc các hiệp hội nuôi thủy sản để chia đều chi phí chứng nhận cho nhiều nhà sản xuất quy mô nhỏ lẻ và hợp lý hóa việc thu mua và bán tôm. Các hệ thống quản lý
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
dựa vào cộng đồng nên được tổ chức theo cách như vậy để chúng có thể đạt được các mục đích của chứng nhận, đạt được các kết quả tích cực về môi trường và xã hội, duy trì được sản xuất tôm ở Việt Nam là vùng nuôi tôm của các hộ gia đình nhỏ lẻ.
9. Kết luận
Nhóm tác giả công trình đã vận dụng khuôn khổ chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) để nắm bắt sự quản lý của ngành nuôi tôm Việt Nam, nguồn cung cấp việc làm và thu ngoại tệ quan trọng của Việt Nam. Các nhà sản xuất nhỏ lẻ chiếm đại đa số trong sản xuất tôm ở Việt Nam. Phần lớn sản lượng tập trung ở ĐBSCL. Hàng ngàn thương lái đi tới các các cơ sở nuôi tôm xa xôi bằng các thuyền nhỏ tạo mối liên kết đầu tiên giữa người sản xuất và thị trường thế giới. Các tác giả thấy được tính đặc trưng của mối liên kết này mang tính nhỏ lẻ manh mún ở chỗ không có sự quản lý tập trung trong Chuỗi giá trị toàn cầu. Các tác giả nhận định rằng Chuỗi giá trị toàn cầu đối với tôm ở Việt Nam là do khách hàng chi phối, theo đó khách mua hàng ở các nước phương Bắc thường giữ vị trí là người đặt ra các tiêu chuẩn đối với sản phẩm mà họ mua. Thông lệ, chính phủ các nước nhập khẩu thường chủ động trong việc phát triển các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Để đáp ứng, Chính phủ Việt Nam đã phải rất nỗ lực nhằm đảm bảo các lô hàng xuất khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn của các
nhà nhập khẩu. Mới đây, các tiêu chuẩn bổ sung đã bắt đầu tác động đến thị trường tôm quốc tế, nhất là ở Mỹ và EU. Các tiêu chuẩn mới này do các tổ chức phi chính phủ xây dựng và giải quyết một loạt các mối quan ngại về môi trường, kinh tế và xã hội. Đến nay, các tiêu chuẩn và chứng nhận của các tổ chức phi chính phủ trao cho những nhà sản xuất tuân thủ theo những tiêu chuẩn này đã hạn chế được những tác động lên Chuỗi giá trị toàn cầu tôm ở Việt Nam. Các tác giả tin rằng có thể sau này các chứng nhận của tổ chức phi chính phủ sẽ là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự tiếp cận các thị trường mang lại nhiều lợi nhuận ở Mỹ và EU, nhưng với tính chất manh mún của nền sản xuất và mới là sự tiếp thị ban đầu nên việc lấy được chứng nhận còn khó khăn đối với các nhà sản xuất nhỏ lẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở Thái Lan, lại hoàn toàn khác do chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng có tính liên kết dọc. Vì vậy, trong thực tế chứng nhận của bên thứ ba trở thành cần thiết trong việc tiếp cận thị trường, các nhà sản xuất nhỏ ở Việt Nam và các thương lái phục vụ họ có khả năng bị co hẹp trước các thị trường có nhiều lợi nhuận nhất. Theo đánh giá của các tác giả, một số tương đối ít các nhà sản xuất thâm canh quy mô lớn sẽ nổi lên, với những đối tượng này những lý luận của quản lý Chuỗi giá trị toàn cầu có thể được áp dụng. Nhưng các tác giả cho rằng kết quả này lại trái với những mục tiêu đã được một số mà không phải là tất cả các
chương trình chứng nhận nuôi trồng thủy sản của bên quốc tế thứ ba khẳng định, như vậy các hậu quả không chủ đích này cần được xem xét sâu hơn nữa.
Lưu ý:
1. Về ngành nuôi tôm ở Việt Nam, các tác giả sử dụng định nghĩa qui mô nhỏ (nhỏ lẻ) theo Nghị định 56/2009/ND-CP của chính phủ. Một cơ sở nuôi tôm được coi là nhỏ lẻ nếu hoạt động trên diện tích nhỏ hơn 2 hecta ao đầm, sử dụng hạn chế đầu vào hoặc hoạt động trên diện tích nhỏ hơn một hecta, có sử dụng các đầu vào một cách chuyên sâu hơn. Như mô tả chi tiết trong công trình, hầu hết các cở sở nuôi ở Việt Nam sử dụng hạn chế các đầu vào, việc thả giống và thức ăn thường là ở các hệ thống nuôi quảng canh hoặc quảng canh cải tiến. Còn một số cơ sở khác sử dụng các quy trình nuôi thâm canh hoặc bán thâm canh với mật đội thả giống cao hơn vì vậy nhu cầu thức ăn cũng cao hơn. Vì vậy định nghĩa qui mô nhỏ lẻ sẽ có hai khía cạnh, diện tích dành cho sản xuất và tính chuyên sâu tương đối trong sử dụng đầu vào. Mật độ thả giống cao và cho ăn tăng cường cho thấy những khoản đầu tư tài chính đáng kể, có tầm quan trọng tương đương như diện tích dành cho sản xuất, đây là cách phân biệt giữa các nhà nuôi tôm từ sản xuất quảng canh đến thâm canh. Phương Mai dịch Theo ELSEVIER, World Development THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
127
PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH
T
Dự luật “ ạo sân chơi bình đẳng” và động cơ bảo hộ ngành sản xuất nội địa của Mỹ THÁNG 12/2014, DỰ LUẬT “TẠO SÂN CHƠI BÌNH ĐẲNG”(LEVELING THE PLAYING FIELD ACT) ĐƯỢC THƯỢNG NGHỊ SĨ (TNS) MỸ SHERROD BROWN ĐỀ XUẤT VỚI QUỐC HỘI, TRONG ĐÓ QUY ĐỊNH MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ CỦA LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ (CBPG) VÀ CHỐNG TRỢ CẤP (CTC). HƯỚNG ĐẾN VIỆC TĂNG HÀNG RÀO BẢO HỘ CHO CÁC NHÀ SẢN XUẤT NỘI ĐỊA, DỰ LUẬT NÀY KHÔNG CHỈ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC NHÀ XUẤT KHẨU (XK) THỦY SẢN VÀO MỸ MÀ CÒN TÁC ĐỘNG ĐẾN TOÀN BỘ NỀN KINH TẾ MỸ, NẾU ĐƯỢC THÔNG QUA.
TNS Sherrod Brown – người đề xuất dự luật “Leveling the Playing Field Act” với động cơ tăng hàng rào bảo hộ cho các nhà sản xuất nội địa của Mỹ.
Những lập luận ủng hộ dự luật “Tạo sân chơi bình đẳng”
Ngày 1/10/2014, TNS Đảng Dân chủ bang Ohio Sherrod Brown, người được mệnh danh là “nghị sĩ với những đề xuất quan trọng nhất cho sản xuất của Mỹ”,
128
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Daniel R. Pearson, nguyên Chủ tịch và Ủy viên của ITC, cho rằng dự luật có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Mỹ.
đã tới Tập đoàn thép Byer Steel ở Cincinnati để tham quan cơ sở và công bố dự luật mới nhằm tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà sản xuất Mỹ thông qua việc tăng cường khả năng ngăn chặn sự cạnh tranh không công bằng của các doanh nghiệp (DN) nước
ngoài do vi phạm luật pháp thương mại. Byer Steel là nhà sản xuất thanh cốt thép và thép kết cấu hàng đầu của Mỹ. “Khi sản xuất của Mỹ ổn định trở lại, chúng ta cần thực thi các điều luật thương mại quốc gia một cách toàn diện nhằm đảm bảo các công ty
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Theo Pearson, nếu các nghị sĩ Quốc hội thực sự quan tâm đến việc sửa đổi luật CBPG và CTC thì họ nên đề xuất một dự luật cân bằng giữa lợi ích của các nhà sản xuất trong nước và lợi ích của người tiêu dùng Mỹ.
của Mỹ – như Byer Steel – có thể cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng,” Brown nói. “Đó là lý do dự luật “Leveling the Playing Field Act” (Tạo sân chơi bình đẳng) có ý nghĩa quan trọng. Chúng ta phải đấu tranh ngăn chặn việc các DN nước ngoài cố gắng hạn chế ảnh hưởng của các điều luật thương mại và tận dụng các lỗ hổng trong luật pháp của chúng ta. Tôi đang chờ làm việc với các nghị sĩ của cả hai đảng để thông qua dự luật này.” Brown cho rằng: “Tình hình sản xuất ở Mỹ đang có những tín hiệu phục hồi tích cực, nhưng sự hồi phục đó có thể sẽ mất đi nếu các điều luật thương mại của chúng ta không đủ mạnh để tạo ra một sân chơi bình đẳng.” “Các DN nước ngoài không tuân thủ luật pháp đang cố gắng
làm giảm hiệu quả của các điều luật thương mại của chúng ta. Dự luật này sẽ giúp khôi phục sức mạnh của các điều luật đó và đảm bảo các DN Mỹ có thể cạnh tranh trên một thị trường công bằng.” Đề xuất của Brown có mục đích hỗ trợ các nhà sản xuất không nằm trong ngành thủy sản. Trong đó chỉ đề cập đến các công ty ở Ohion như Allied Tube ở Hebron, Byer Steel ở Cincinnati, JMC ở Warren, New Page ở Miamisburg, và TMK Ipsco ở Brookfield. Tuy nhiên, Hiệp hội Chế biến Tôm Mỹ (ASPA) cũng lên tiếng ủng hộ dự luật này và coi đâylà một phương tiện giúp đỡ các nhà sản xuất tôm trong nước. “Dự luật “Leveling the Playing Field Act” giúp đảm bảo rằng các
công ty Mỹ sẽ có đủ nguồn lực cần thiết để ngăn chặn các hành vi ngoại thương không công bằng,” Tiến sĩ David Veal, Giám đốc ASPA nói. “Tôm NK bán phá giá và trợ cấp đã chiếm được thị phần, khiến giá giảm và ngành tôm của chúng ta liên tục rơi vào suy thoái.”
Một số điểm quan trọng liên quan đến luật CBPG và CTC
Dự luật quy định một số biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả của luật CBPG và CTC, với những điểm quan trọng sau: 1. Tiếp tục duy trì quyền sử dụng thông tin bất lợi hiện có của Bộ Thương mại Mỹ (DOC) khi bị đơn bắt buộc không hợp tác điều tra, và tuyên bố rõ DOC không có quyền quyết định mức THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
129
PHAÁP LUÊÅT KINH DOANH
Nếu được thông qua, dự luật có thể thắt chặt các quy định về thuế đối với các nhà sản xuất tôm nước ngoài và các nhà NK thủy sản của Mỹ, khiến các DN này dễ bị tác động hơn bởi luật CBPG và CTC.
thuế nếu bị đơn đó đã tham gia. Theo quan điểm của nhà nhập khẩu (NK), “thông tin bất lợi” là một trong các công cụ nguy hiểm nhất trong một cuộc điều tra, vì nó cho phép DOC không phải sử dụng các nguồn dữ liệu thực tế trong một số trường hợp nhất định, và được phép xây dựng bất kỳ mức thuế nào hậu thuẫn cho các kết luận của họ. Trong lĩnh vực thủy sản, các luật sư bảo vệ ngành tôm nội địa đã yêu cầu DOC sử dụng thông tin bất lợi bất cứ khi nào DN nước ngoài không hiểu hoặc không tuân thủ yêu cầu cung cấp thông tin từ phía cơ quan này. 2. Tăng số lượng yếu tố xem xét và thời gian Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (ITC) đánh giá thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đối với các nhà sản xuất Mỹ nhằm đảm bảo quyết định đưa 130
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
ra dựa trên đánh giá toàn diện về tình hình của ngành. Một trong những lý do Mỹ không thể áp thuế CTC đối với tôm NK ba năm trước là do các nguyên đơn không thể chứng minh bất kỳ thiệt hại nào trong thời gian xem xét. 3. Khắc phục lỗ hổng “nhà XK mới” mà các DN sử dụng để tránh bị áp thuế CBPG hoặc CTC; tăng mức phạt nếu không cung cấp chứng nhận xuất xứ đối với hàng hóa đang bị điều tra CBPG hoặc CTC hoặc làm giả các thông tin trên giấy chứng nhận đó 4. Tuyên bố rõ DOC có quyền quyết định đưa các bị đơn tự nguyện vào điều tra hay không 5. Tuyên bố rõ DOC không phải tiến hành điều tra bổ sung để chứng minh giá trị sản phẩm không được xem xét – đã sử dụng trong các cuộc điều tra nền
kinh tế phi thị trường – được trợ cấp hoặc bán phá giá nếu hồ sơ đã chỉ rõ giá trị sản phẩm bị bóp méo. 6. Tuyên bố rõ sẽ tiếp tục giữ các quy định hiện hành được sử dụng để đánh giá nền kinh tế phi thị trường
Có thực sự tạo sân chơi bình đẳng?
Daniel R. Pearson, với 10 năm kinh nghiệm làm Chủ tịch và Ủy viên của ITC, cho rằng dự luật có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Mỹ, và ông đã đưa ra một số đề xuất thay đổi đối với dự luật này. Về vấn đề tăng thời gian ITC đánh giá thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại, dự luật quy định Ủy ban có thể kéo dài thời gian điều tra – bắt đầu ít nhất một
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
năm trước khi ngành sản xuất nội địa rơi vào suy thoái, qua đó có thể so sánh hoạt động của ngành trước và sau suy thoái. Thực tế, ITC có quyền điều chỉnh thời gian điều tra trong những trường hợp đặc biệt, nhưng điều này ít khi cần thiết. Việc tăng thêm một hoặc hai năm điều tra sẽ gây khó khăn hơn cho cả DN trong và ngoài nước trong việc cung cấp thông tin cho ITC, đồng thời thông tin cũng sẽ không có tác dụng nhiều như kì vọng. Nhu cầu đối với hàng hóa thường có xu hướng giảm trong thời kì suy thoái, khiến khối lượng NK cũng như khối lượng sản xuất nội địa giảm. Do đó, việc kéo dài thời gian điều tra có thể sẽ không cung cấp được nhiều thông tin trừ khi cả ngành sản xuất nội địa và các nhà sản xuất nước ngoài đều bị tác động mạnh bởi suy thoái. Dù Brown chỉ đề xuất những thay đổi nhỏ đối với việc xác định thiệt hại của ITC, nhưng Pearson cũng không ủng hộ những đề xuất đó vì một lý do đơn giản: nguy cơ kiện tụng. “Các luật sư có kinh nghiệm lâu năm đại diện cho các ngành sản xuất nội địa trong các vụ kiện CBPG hoặc CTC sẽ lại có thêm một cơ sở nữa để khiếu nại các phán quyết của ITC mà họ không đồng ý. Việc nói rằng ITC không xem xét đầy đủ các quy định mới có thể sẽ là lời biện minh cho việc khiếu nại. Tại sao lại tự mua thêm rắc rối như vậy?,” Pearson nói. Theo ông, nếu các nghị sĩ Quốc hội thực sự quan tâm đến việc sửa đổi luật CBPG và CTC
để phục vụ tốt hơn lợi ích của các nhà sản xuất Mỹ thì họ nên đề xuất một dự luật cân bằng giữa lợi ích của các nhà sản xuất trong nước và lợi ích của người tiêu dùng Mỹ. Hiện tại, việc xác định thiệt hại của ITC chỉ giới hạn đến ảnh hưởng của hàng hóa NK “đối với các nhà sản xuất trong nước của các sản phẩm tương tự trong nước.” Trong trường hợp hạn chế NK, ITC bỏ qua tất cả các chi phí mà người sử dụng sản phẩm phải chịu, trong khi các chi phí này thường có thể rất lớn, thậm chí vượt quá các lợi ích tiềm năng mà các nhà sản xuất trong nước có thể được hưởng. Ông lấy dẫn chứng ví dụ việc áp thuế CBPG hoặc CTC (hoặc cả hai loại thuế này) đối với thép cán nóng NK từ Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Nga, Đài Loan, Thái Lan và Ukraina. Thép cán nóng là một dạng thép cuộn nguyên liệu dùng để sản xuất các sản phẩm như thép cán nguội, thép chống ăn mòn, thép bọc thiếc, và ống thép hàn. Tiếp đó, các sản phẩm này được sử dụng để sản xuất ô tô, máy nông nghiệp, thiết bị, ống thông gió và một loạt các sản phẩm khác. Sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng này tạo số lượng việc làm và đóng góp cho nền kinh tế Mỹ có giá trị lớn hơn rất nhiều so với riêng ngành thép cán nóng. Thuế CBPG và CTC rất có thể sẽ khiến giá thép cán nóng ở Mỹ cao hơn nhiều nước khác. Do đó, việc bảo vệ các nhà sản xuất thép cán nóng sẽ làm tăng chi phí cho tất cả các DN khác của Mỹ sử dụng sản phẩm này.
Nếu dự luật “Leveling the Playing Field Act” đạt được mục đích tăng hàng rào bảo hộ cho các công ty sản xuất các sản phẩm cơ bản, điều đó chắc chắn sẽ mang lại những hậu quả không mong muốn, như làm suy yếu nền kinh tế và cắt giảm việc làm ở Mỹ. Việc các nhà sản xuất Mỹ sử dụng thép làm nguyên liệu đầu vào phải chịu chi phí cao hơn sẽ khiến các DN này giảm khả năng cạnh tranh so với các DN nước ngoài. Những người ủng hộ dự luật nên xem xét điều chỉnh luật CBPG và CTC để có thể quan tâm đến cả lợi ích của người sử dụng. Theo đó, ITC sẽ đánh giá không chỉ ảnh hưởng của hàng hóa NK đối với các nhà sản xuất mà còn cả chi phí mà người sử dụng phải chịu do hạn chế NK. “Đây sẽ là bước quan trọng đầu tiên nhằm đảm bảo các biện pháp CBPG và CTC không vô tình gây thiệt hại đến toàn bộ nền kinh tế Mỹ,” Pearson nói. Xét trong ngành thủy sản, nếu được thông qua, dự luật có thể thắt chặt các quy định về thuế đối với các nhà sản xuất tôm nước ngoài và các nhà NK thủy sản của Mỹ, khiến các DN này dễ bị tác động hơn bởi luật CBPG và CTC. Tôm vỏ vùng Vịnh của Mỹ hiện có giá bán cao hơn gần 3 USD so với tôm chân trắng cùng loại NK. Nếu dự luật này được thông qua, chẳng khác nào sẽ có thêm một vòng thu phí CBPG tôm khác từ các nhà sản xuất nội địa Mỹ. Phương Thảo tổng hợp
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
131
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN
Bè cá lăng bên bến đò
Phú Hậu
NGHỀ NUÔI CÁ LỒNG, NUÔI CÁ TRONG LƯỚI VÂY ĐÃ TỪ LÂU QUEN THUỘC VỚI NGƯỜI HÀ NAM. TRƯỚC ĐÂY NGƯỜI TA CHỦ YẾU NUÔI CÁ TRÊN SÔNG ĐÁY, SÔNG CHÂU, NƠI DÒNG CHẢY HIỀN HÒA, VÀ CŨNG CHỈ NUÔI CÁC LOẠI CÁ “BÌNH DÂN” NHƯ TRẮM, TRÔI, MÈ, RÔ PHI… NHƯNG GIỜ ĐÂY, NHỮNG BÈ NUÔI CÁ LĂNG ĐẶC SẢN ĐANG KHÔNG NGỪNG ĐƯỢC MỞ RỘNG TRÊN DÒNG SÔNG HỒNG MÊNH MANG GẦN BẾN ĐÒ PHÚ HẬU (XÃ PHÚ PHÚC, HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM), MỞ RA HƯỚNG LÀM ĂN MỚI, TÁO BẠO NHƯNG ĐẦY TIỀM NĂNG.
Anh Trần Văn Võ kiểm tra cá lăng mới tách đàn
132
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
A
nh Trần Trọng Sản, như tôi đã được giới thiệu trước một cách hóm hỉnh, là một “Paparazzi của huyện Lý Nhân”, thâm niên cầm máy ảnh cũng đến ngót nghét hai chục năm. Với hình dung mơ hồ về nét lãng tử của một “tay săn ảnh”, tôi hơi bất ngờ khi sau cái bắt tay xuề xòa đậm chất “Hai Lúa”, anh kéo tôi xuống bè cá, bước thoăn thoắt qua những thanh gỗ dập dềnh trên phao, như một ngư phủ thực thụ. Anh Sản cho biết, nghề nuôi thủy sản trên sông Đáy, sông Châu trước thời điểm năm 2005 khá phát triển, tuy nhiên những năm sau đó hai con sông từng rất thơ mộng này lại thường xuyên bị ô nhiễm, khiến cả cá sông lẫn cá nuôi chết hàng loạt, nhiều người phải bỏ nghề. Một số hộ gắng gượng cầm cự, tiếp tục vay vốn ngân hàng để nuôi cá lồng, nuôi cá lưới vây, với hy vọng chuyện ô nhiễm chỉ là “nhất thời”. Nhưng đến hồi tháng 10/2013, hàng chục tấn cá chết nổi trắng mặt nước Châu Giang, phần lớn các hộ nuôi bị phá sản, không nuôi thả được nữa. Còn trên sông Hồng, từ bao đời nay người Hà Nam chẳng ai dám nghĩ đến chuyện nuôi cá, dẫu cho dòng nước nặng phù sa ấy có hàm lượng các chất dinh dưỡng rất cao, các yếu tố thủy hóa đều rất thích hợp cho cá tôm sinh trưởng, phát triển. Nguyên nhân là dòng chảy sông Hồng rất mạnh, mùa cạn nước đã khá xiết, mùa mưa lũ thì sóng dữ cuồn cuộn, chẳng lồng bè nào chịu nổi… Anh Sản kể: “Những năm
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Ngày thu hoạch lứa cá lăng đầu tiên
gần đây, do người ta xây nhiều đập thủy điện phía thượng lưu sông Hồng nên dòng chảy đã chậm hơn nhiều, vào mùa mưa lũ cũng không dữ dằn như trước nữa. Thế nên mình mới dám học theo ông Võ đầu tư làm lồng nuôi cá lăng – ông ấy đi tiên phong làm được việc chưa ai dám làm ở đây đấy!”. Anh Trần Văn Võ sinh năm 1962, quê gốc ở huyện Lý Nhân, nhưng như anh tự bạch, cả đời chỉ biết khoác áo lính, phục vụ trong Quân chủng Phòng không – Không quân “mới có 35 năm thôi”. Xuất ngũ về quê với vợ và 3 con trai, ruộng đất không có, phải mày mò kiếm cách mưu sinh. Một lần lên Lai Châu thăm bạn, anh Võ được giới thiệu mô hình nuôi cá lăng. Cá lăng được xếp vào tốp đầu danh sách đặc
sản cá nước ngọt (cùng với cá anh vũ, cá chiên, cá dầm xanh và cá bỗng), bị săn lùng ráo riết nên ngày càng hiếm gặp trong tự nhiên. Rất nhiều nơi người ta mở quán chưng biển bán cá lăng, nhưng kỳ thực phần lớn đó là cá nhập từ Trung Quốc, chất lượng thua xa cá lăng Việt Nam. Vừa mạnh dạn tìm hướng thoát nghèo vừa ấp ủ mong muốn cung cấp cho thị trường một món đặc sản “thuần chủng”, anh Võ quyết tâm về thu xếp rồi quay lại Lai Châu mua cá giống và học cách nuôi cá ở nước chảy. Thực tế, tại nhiều nơi trong nước, bà con nông dân đã thành công với hình thức nuôi bán thâm canh hoặc thâm canh cá lăng trong ao hoặc trong bè. Do “xuất thân” là cá sông, nên nếu nuôi trong bè cá lăng sẽ lớn nhanh hơn nuôi
ao, và bè cũng cho phép nuôi với mật độ dày hơn. Cụ thể, nếu nuôi trong ao bán thâm canh thì mỗi m2 chỉ thả 4-5 con (cá lăng chiếm 20-30% tổng số cá thả), nuôi thâm canh cũng chỉ được 6-8 con/m2. Còn nuôi trong bè, có thể thả cá lăng với mật độ 6070 con/m3. Lứa cá lăng giống đầu tiên được anh Võ chọn rất kỹ: cá còn nguyên nhớt, đuôi và râu tươi màu, cỡ đồng đều, mua với giá 6.000 đồng/con, đã cùng anh lên xe chuyên dụng vượt gần 600 km từ vùng biên về đến xã Phú Phúc. Những bè nuôi cá lăng đầu tiên của tỉnh Hà Nam được anh Võ, anh Sỹ (anh rể anh Võ) và gia đình dựng lên bên bến đò Phú Hậu, nơi có dòng chảy vừa phải, tương tự những đoạn sông cá lăng thường sinh sống. Anh Võ cười chất THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
133
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN
phác: “Anh em tôi là Võ – Sỹ thật, nhưng không đánh nhau với ai, mà chỉ thử nghiệm cái “võ” mới trên sông Hồng với mong muốn phát triển kinh tế”… Chuyện năm cũ thôi mà đã như xa lắc, bởi lúc ấy từ bà con làng xóm cho tới những người buôn bán hàng ngày qua lại bến đò Phú Hậu nối huyện Lý Nhân của tỉnh Hà Nam với huyện Hưng Hà của tỉnh Thái Bình, chẳng ai dám tin việc nuôi cá lăng ở đây sẽ thành công. Nhất là trong cơn bão số 8 năm 2013, sông Hồng cuộn sóng mịt mờ, có lúc sóng trùm tới mái căn nhà canh cá dựng trên bè. Anh Võ nhớ lại: “Lúc ấy cả làng đã chắc mẩm chắc anh em mình phải trắng tay, đến mình cũng tưởng công sức và vốn liếng trôi theo dòng nước. Nhưng hóa ra lũ cá biết trốn bão, lúc sóng to gió lớn chúng lặn cả xuống đáy lưới quây, nên không bị cuốn đi”. Cũng nhờ tác phong người lính, làm gì cũng chu toàn, khu lồng bè được anh Võ bố trí rất chắc chắn, đã chiến thắng bão lũ mà không bị hư hỏng nặng. Nhà bè lắp ghép bằng khung thép kiên cố, cùng loại với hệ thống khung thép làm lồng nuôi cá. Anh Võ làm hệ thống neo cực chắc, dùng cả thuyền cũ, đổ cát vàng xi măng rồi đánh đắm làm trụ neo dưới đáy sông. Dây chão neo bè là loại dây buộc tàu biển ở các cảng, khó lòng đứt nổi dù bão lớn… Hết thiên tai lại đến “nhân họa”. Các bãi bồi ven sông người ta trồng rất nhiều ngô, thu hoạch bẻ bắp xong rồi, nhiều khi họ vứt 134
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Cá lăng thương phẩm
luôn thân và lá xuống sông. Thân ngô cuốn vào đáy lồng nhiều đến mức có hôm làm đội lồng cá lên đến gần 1m, suýt lật. Cả nhà anh Võ phải lặn xuống, hì hục gỡ đám “rác nhân tạo” này… Khi mới thả nuôi, cả nhà thấp thỏm theo dõi liên tục để nếu phát hiện cá mắc bệnh là xử lý lập tức, lo nhất là bệnh thối mang thường khiến cá chết rất nhanh. Được cái, cá lăng chỉ “yếu ớt” lúc mới nở, sau khi đạt 3 tháng tuổi thì có thể yên tâm, hầu như không còn cá chết, hiện tỷ lệ hao hụt cá tính từ lúc thả nuôi đến khi xuất bán chỉ khoảng 10%. Nuôi được tròn 1 năm, anh Võ bán lứa cá lăng đầu tiên cho một người mua về nuôi vỗ. Mặc dù thời gian này được anh xác định là thử nghiệm, nhưng tính ra vẫn có lãi. Giá cá lăng mua tại bè của anh Võ hiện là 120.000 đồng/kg, đó là do cá chưa to lắm, mới đạt khoảng 0,7 kg/con. Như
anh tính toán, nuôi thêm 1 năm nữa, cá lăng sẽ đạt tầm 2 đến 2,5 kg/con, thì giá bán sẽ từ 200 – 250 nghìn đồng/kg. Tín hiệu vui nhất là môi trường phù hợp nên cá lăng nuôi trên sông Hồng tại Phú Phúc không chỉ phát triển ổn định mà chất lượng thịt cũng được đánh giá khá cao. Anh Võ tâm sự: “Hiện chủ yếu tôi mới bán cá giống, cũng là cách lấy ngắn nuôi dài. Với số lượng đã lên đến 110.000 con, nếu nuôi cả thì khi cá lớn, mỗi ngày phải có 20 triệu đồng tiền thức ăn đổ xuống lồng bè, tức là phải trường vốn lắm, mà nông dân thì không thể có nhiều vốn thế. Nên tôi phải tính toán để trong bè lúc nào cũng có cá thịt, “túc tắc” xuất bán cho khách để có thu nhập thường xuyên, và nhất là có tiền đầu tư cho hệ thống nhà bè, lồng nuôi, thức ăn và đàn cá”. Khu bè nuôi cá của anh Võ hiện đã mở rộng được hơn 20 ô
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Toàn cảnh bè nuôi cá lăng ở Phú Hậu
lồng. Anh rất nhiệt tình hướng dẫn, động viên các hộ gia đình trong khu vực muốn học theo nghề nuôi cá lăng trên sông Hồng, sẵn sàng phổ biến các kinh nghiệm tích lũy được sau một thời gian vất vả “đi tiên phong”: Thời gian thả cá giống tốt nhất từ 8 - 11 giờ sáng. Trước khi thả nên sát trùng bằng muối ăn (tỷ lệ 1 muỗng canh muối pha 1 lít nước) hoặc BKS, Sanmolt F theo liều hướng dẫn, để phòng bệnh cho cá. Cá lăng bé được cho ăn cám công nghiệp, thức ăn viên độ đạm ít nhất 35%. Đến khi trọng lượng đạt hơn 4 lạng/con thì cho ăn cá tạp cắt khúc vừa cỡ miệng. Có thể tự chế thức ăn cho cá lăng theo tỷ lệ 50% cám + 50% cá tạp, hoặc mua lòng lợn về băm nhỏ nấu lên… Cá lăng ăn mạnh lúc sáng sớm và chiều tối, cần thường xuyên theo dõi hoạt động ăn mồi của cá, nhất là vào lúc nước đứng, nước đổ. Nên treo túi vôi ở đầu bè
để phòng bệnh và thường xuyên khử trùng bè… Anh Võ đoan chắc: Nuôi cá lăng trên sông Hồng sẽ cho hiệu quả hơn nhiều so với nuôi các loại cá truyền thống khác, như: trắm, chép, mè, trôi… Môi trường nước chảy rất thích hợp thả cá với mật độ dày, mỗi ô lồng của anh hiện đều trên 1 tấn cá. Nhà bè của anh Võ thu hút cả những tay khoái câu sông, cuối tuần tụ tập. Khúc sông này khá nhiều cá chày, cá chép, chúng thường xúm lại kiếm thức ăn “lọt lưới”, lắm con mải ăn tới mức có thể dùng vợt mà xúc. Anh Võ mời chúng tôi và cả hội câu uống rượu với mớ cá chép sông vừa bắt được, mấy con nặng trên 2 kg. Ông chủ bè hiếu khách hứa chắc nịch: “Lần tới các chú về mình sẽ nhắm cá lăng trên 1 kg/con”… Sông Hồng mùa cạn dòng chảy hiền hòa, bến Phú Hậu vắng vẻ vốn chỉ có tiếng con đò
máy cần mẫn đưa khách qua lại đôi bờ, tiếng máy hút cát từ mấy sà lan phía xa... nhưng đã thấp thoáng những tín hiệu về một ngày không xa bến sông sẽ sầm uất hơn, khi những khung thép và ô lưới quây nuôi cá lăng đang từng ngày mở rộng. Như ông Phạm Anh Tuấn, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi – Thủy sản Hà Nam đã nhận định: Do đặc tính nước chảy, giàu ô xy và dinh dưỡng nên nuôi cá lồng, nuôi cá lưới vây cho năng suất, sản lượng cao. Năng suất nuôi cá lồng trung bình từ 2530 kg/m3, năng suất nuôi cá lưới vây đạt 10-15 tấn/ha, cao gấp nhiều lần so với nuôi cá nước tĩnh trong ao. Mặt khác nuôi cá lồng, đặc biệt là nuôi cá lưới vây còn tận dụng được nguồn thức ăn tự nhiên vốn rất phong phú tại các sông. Việc cần làm của các cơ quan chức năng là nghiên cứu kỹ hơn về quy trình công nghệ, đối tượng, thời vụ nuôi. Đặc biệt, cần phải có đề án cụ thể để xác định mục tiêu, năng suất, sản lượng, số lượng lồng nuôi cho từng giai đoạn, cũng như các cơ chế, chính sách hỗ trợ, trên cơ sở khảo sát, quy hoạch địa điểm, vị trí phù hợp, không ảnh hưởng đến giao thông, thủy lợi và các tác động khác đến môi trường, dân sinh. Có như vậy, nghề nuôi cá lồng trên sông Hồng mới phát triển bền vững, hiệu quả kinh tế cao và mở ra hướng đi mới cho phát triển nuôi trồng thủy sản của Hà Nam. Bài và ảnh: Nguyễn Việt Ảnh: Thanh Hội THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
135
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN
Cá chình Khánh Hòa Từ nuôi trên sông đến trang trại SO VỚI NHIỀU LOẠI CÁ KHÁC, NUÔI CÁ CHÌNH LÂU HƠN, TỪ KHI THẢ GIỐNG ĐẾN LÚC THU HOẠCH MẤT ĐẾN 1 NĂM RƯỠI. TUY NHIÊN, CÁ CHÌNH RẤT KHỎE, NGƯỜI NUÔI ÍT TỐN CÔNG CHĂM SÓC, LẠI TẬN DỤNG ĐƯỢC NGUỒN THỨC ĂN DỒI DÀO Ở ĐỊA PHƯƠNG. GIÁ TRỊ CÁ CHÌNH GẤP 6 LẦN CÁ TRẮM CỎ, HIỆN BÁN ĐƯỢC 400.000 – 450.000 ĐỒNG/KG, QUAN TRỌNG HƠN LÀ KHÔNG BAO GIỜ “Ế HÀNG”.
Nuôi chình hoa trên sông Cái
Sông Cái lớn nhất trong tổng số hơn 40 con sông nội tỉnh Khánh Hòa, chiều dài tính từ đầu nguồn tại Hòn Gia Lê
(huyện Khánh Vĩnh) đến khi về với biển tại Đại Cù Huân (Cửa Lớn, Thành phố Nha Trang) là 79 km. Sông ngắn, lại khởi nguồn từ độ cao 1.812 m, nên rất nhiều thác ghềnh: thác Đồng Trăng,
Lồng cá chình trên sông Cái của anh Nguyễn Lê Thanh Giang
136
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
thác Ông Hào, thác Đá Lửa, thác Nhét, thác Mòng, thác Võng, thác Dằng Xay, thác Tham Dự, thác Ngựa, thác Hông Tượng, thác Trâu Đụng, thác Giang Ché, thác Trâu Á, thác Nai, thác Rùa,
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Cá chình được giữ sống trong bao nilon để chuyển tới nhà hàng
thác Hòm... Thế nhưng về đến xã Diên Phú (huyện Diên Khánh) cửa ngõ phía Tây thành phố Nha Trang, dòng nước sông Cái lững lờ như quá mỏi sau hành trình liên tiếp băng ghềnh vượt thác. Gốc gác lâu đời ở thôn 1 xã Diên Phú, ngay bên đoạn sông giàu cá tôm, nhưng gia đình anh Nguyễn Lê Thanh Giang lại chuyên nghề chăn nuôi gia súc gia cầm. Anh Giang bảo, nếu không dính đợt dịch bệnh năm trước khiến từ đàn bò đàn lợn đến bầy gà đều “lử khử”, trong khi giá vật tư, thức ăn chăn nuôi thì cứ leo thang mãi, chắc chẳng
bao giờ anh nghĩ đến chuyện nuôi cá. “Cánh cửa này đóng lại, cánh cửa khác sẽ mở ra”, khi thua lỗ nặng với bầy vật nuôi “trên bờ”, anh Giang lại nhận ra tiềm năng của một giống đặc sản “dưới nước”. Quyết định vay vốn để chuyển sang nuôi cá chình trên sông Cái, anh Giang đặt làm những chiếc lồng chắc chắn bằng nhôm để chống ôxy hóa, lại có thể sử dụng lâu dài. Mỗi chiếc lồng rộng khoảng 1m, dài hơn 3m, được đặt nửa nổi, nửa chìm gần bờ, trong đó phần chìm dưới nước khoảng 1 m, trên thân lồng có các
lỗ nhỏ để nước lưu thông, bên trong đặt một số đoạn ống nhựa làm chổ trú ẩn cho cá chình. Vạn sự khởi đầu nan. Ban đầu, việc tìm con giống khá mất công, do phải thu mua các con cá chình nhỏ của những người đánh bắt trên sông về thả vào lồng. Cá chình là loài di cư, cá mẹ đẻ trứng ngoài khơi, cá con sau khi nở trôi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nước ngọt kiếm mồi, phát triển đến khi trưởng thành, cá lại di cư trở lại biển. Tất cả cá giống đều dựa vào việc khai thác từ tự nhiên tại các cửa sông thuộc các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa, giá hiện là 4.000 đ/con nhưng không phải lúc nào cũng sẵn. Có lúc anh Giang phải theo dân khai thác cá giống mò mẫm ngoài cửa sông hoặc ven biển. Anh kể: “Người ta thường phải đi ban đêm, dùng đèn soi tập trung để thu hút cá chình con, rồi lấy vợt để vớt; hoặc giăng lưới ở những cửa sông vốn nhiều cá chình. Cũng có lúc phải dong thuyền dùng lưới vây từ cửa sông ra biển, cá gì cũng bắt, rồi mới chọn cá chình giống để riêng”. Thời gian đầu, thấy chình nuôi chậm phát triển, ngỡ cá ốm, anh lo đến mất ăn mất ngủ. Theo dõi một thời gian mới hiểu đặc tính của cá chình là từ lúc có trọng lượng 70 - 100g/con thì chúng lớn khá nhanh, nhưng đến lúc nặng 300g trở lên thì tốc độ sinh trưởng chỉ bằng 1/10 so với trước đó. Khi còn nhỏ, tốc độ phát triển của cá trong đàn tương đối đồng đều, nhưng khi dài cỡ 2 gang tay thì con đực lớn chậm hơn con cái. Và cũng phải nuôi đến 18 tháng, anh Giang THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
137
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN
mới “xuất chuồng” được lứa cá chình thương phẩm đầu tiên, với giá 400.000 đồng/kg. Điều khiến anh vững tâm nhất là từ lúc cá còn nhỏ đã có nhiều thương lái, chủ nhà hàng không chỉ ở Khánh Hòa, mà cả một số tỉnh lân cận… đặt trước, hẹn sẽ đánh xe về tận nhà mua với giá cao, vì là “cá sạch” nuôi trong môi trường tự nhiên nên được dân nhậu rất chuộng, ví von là “thủy sâm”. Thêm vào đó, theo anh Giang thì cá chình ăn tạp nên cũng dễ nuôi, thức ăn chủ yếu là cá, tôm nhỏ xắt vừa miệng cá, có thể tận dụng được nguồn tôm cá đánh bắt ngay chính trên dòng sông Cái đoạn qua xã Diên Phú. Đến nay, trong lồng nuôi của anh Giang lúc nào cũng có vài trăm con cá chình lớn, nhỏ các loại; cá nuôi không kịp bán. Căn nhà gạch xinh xắn đang hoàn thiện của gia đình anh Giang thay cho mái tranh xưa bên bờ sông Cái quê hương, đó là bằng chứng cụ thể nhất về hiệu quả của việc nuôi cá chình. Anh Giang tâm sự: “Trước nhà nghèo quá, đến khi chăn nuôi có chút vốn rồi mới dám thành gia thất, nên gần 40 tuổi mới có cháu gái đầu lòng. Chỉ mong môi trường đừng ô nhiễm để an tâm mở rộng bè nuôi cá, chứ nghe nhiều nơi cá nuôi trên sông chết hang loạt, cũng ớn.” Được biết, ở Diên Phú cũng đã có một số hộ nuôi cá, chủ yếu là trắm cỏ, cá trê, giờ đây học tập thành công của anh Giang, họ cũng đang chuyển hướng sang nuôi cá chình. Ông Nguyễn Hoàng 138
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Nuôi cá chình trong bể xi măng tại Suối Cát
- Trưởng thôn 1, xã Diên Phú cho hay: “Chúng tôi đang vận động những gia đình có điều kiện ở hai bên bờ sông nhân rộng mô hình nuôi cá chình trên sông Cái”.
Trang trại nuôi cá chình xuất khẩu
Anh Hoàng Văn Duật – Giám đốc Trung tâm tư vấn, sản xuất và dịch vụ KHCN thủy sản (thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III) cũng là “chủ trang trại” nuôi cá chình xuất khẩu theo kiểu công nghiệp đầu tiên của tỉnh Khánh Hòa. Trang trại được lập từ 2010 trên diện tích hơn 4ha gần khu du lịch Thạch Lâm, thuộc xã Suối Cát, huyện Cam Lâm. Anh Duật cho biết, nuôi chình cần nước lưu thông thường xuyên, nên phải có nguồn nước lớn. Khu vực Suối Cát được gọi là “rốn mưa” của Khánh Hòa, chỉ cách nhau hơn 20 km, nhưng thường khi giữa lúc thành phố Nha Trang nắng to thì ở đây vẫn mưa, lại có hồ chứa nên có thể
chủ động nguồn nước. Anh cười: “Trở ngại duy nhất cũng đã được khắc phục, đó là nước ở Suối Cát nhiều nhưng bị nhiễm phèn, mà cá chình lại ưa nước trong, nên phải lọc bằng xơ dừa. Anh lên thăm trại sẽ tưởng tụi tôi buôn dừa chứ không phải nuôi cá”. Quả vậy, chúng tôi thấy xơ dừa chất đống trong khuôn viên trang trại. Cậu nhân viên kỹ thuật của trại cá chình tên là Ngô Minh Khang giải thích cụ thể hơn: “Nuôi công nghiệp nên mật độ dày, 1 bể xi măng có khi 500 – 700 con, mỗi ngày cho cá chình ăn 2 lần, đồng nghĩa với việc cũng phải thay nước 2 lần sau khi cá ăn. Cần rất nhiều xơ đừa để lọc nước anh ạ”. Khang sinh năm 1984, quê ở thị xã Ninh Hòa, đã theo nghề nuôi cá chình công nghiệp được 6 năm, nằm trong số gần 30 thành viên của trang trại, trong đó 12 người thay phiên túc trực chăm sóc đàn cá. Đưa chúng tôi tham quan từng khu vực của trang trại, Khang cho biết, mỗi
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Anh Ngô Minh Khang thay nước cho bể nuôi cá chình
bể nuôi cá chình được xây bằng xi măng có diện tích từ 10 – 20 m2 và sâu 1,5 m, thành bể cao hơn mặt nước khoảng nửa mét, trên bể có mái che và mắc thêm cả lưới để giảm bức xạ, xung quanh che chắn kỹ để hạn chế ánh sáng, vì cá chình ưa bóng tối, trong bể đặt ống nhựa cho cá trú ẩn. Khi xây bể xong, phải ngâm phèn chua, chà kỹ bằng bẹ chuối, xả nước nhiều lần kết hợp phơi nắng 1 tháng trước khi thả cá vào nuôi. Cẩn trọng thế cũng không thừa, vì tuy cá chình khỏe nhưng có tới hơn 30 loại bệnh có thể mắc, tại trại đã phát hiện và khắc phục được 15 bệnh. Giai đoạn từ cá bột đến lúc lớn bằng ngón tay phải chăm rất kỹ, sau đó cá chình phát triển tương đối ổn định. Cá giống phải nhập từ nước ngoài, vì thu mua của dân thì bấp bênh, lúc nhiều lúc ít, không chủ động. Trước khi thả phải cho cá tắm khoảng 5 phút bằng thuốc tím nồng độ 5 - 10 mg/lít hay nước muối 15 - 30 %,
sau đó ngâm bao nilon chứa cá xuống bể 15 phút rồi mới thả ở nơi đầu nguồn nước vào, cách thành bể 2 m. Cá chình có thể sống được ở nhiệt độ từ 1 - 380C, nhưng trên 12oC cá mới bắt đầu ăn mồi, nhiệt độ thích hợp nhất cho chình sinh trưởng là 25 - 270C. Việc bảo quản thức ăn cũng rất cần được chú ý, thường là không trữ thức ăn đủ dùng quá 2 tháng, để tránh ẩm mốc. Cho cá chình ăn 2 lần/ngày, vào lúc trời chưa sáng và sau hoàng hôn, lượng thức ăn bằng 5% trọng lượng cá. Mỗi ngày dùng bàn cào gom và dọn sạch phân thải, thức ăn thừa lắng ở đáy bể, kết hợp kiểm tra máng ăn hàng ngày để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Theo Khang, cá chình nuôi từ cá bột mất khoảng 20 tháng để đạt trọng lượng 1 – 1,5 kg/con, nuôi đến 4 năm thì có thể đạt 5 kg/con. Cứ sau mỗi tháng phân cỡ một lần, tách con lớn, con nhỏ nuôi riêng để cá đồng đều và
chóng lớn. Nếu không, con lớn thường cắn con nhỏ để giành ăn, nên nuôi chung thì cá nhỏ càng chậm lớn do chỉ được ăn đồ thừa của cá lớn. Trước khi phân cỡ để cá nhịn ăn 1 ngày, khua nước cho cá bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cá, dùng vợt bắt cá. Sau khi phân loại xong nửa tiếng cho cá ăn lại như bình thường. Sản lượng cá chình thương phẩm của trại hiện khoảng 20 tấn/năm. Người ta thường thu hoạch cá chình vào ban đêm, sau khi cho cá nhịn ăn một ngày, thắp đèn sáng cho cá tập trung lại rồi dùng vợt vớt cá sang bể nước sạch có sục khí, để cá khỏe, chịu đựng được mật độ cao, thuận tiện cho việc vận chuyển sống. Giám đốc Hoàng Văn Duật cho biết thêm, hiện trại đang nuôi cả chình hoa và chình mun, phục vụ cả thị trường nội địa cũng như xuất khẩu sang Nhật Bản và Trung Quốc. Người Nhật thích ăn cá chình mun, còn Trung Quốc lại chuộng chình hoa, giá cả tùy thời điểm hơn kém nhau khoảng vài chục ngàn đồng, nhưng lúc nào cũng trên 400.000 đồng/kg. Cá xuất khẩu là loại nhỏ, vì người Nhật chỉ ăn cá cỡ 200 – 300 gram/con, Trung Quốc cũng chỉ ăn loại 500 gram/con. Cá chình to được bán nội địa cho các nhà hàng. Anh Duật tự tin: “Mình đang thuê ủi đất san nền để tiếp tục mở rộng diện tích nuôi cá chình. Tiềm năng thị trường này còn lớn lắm!” Bài và ảnh: Nguyễn Việt THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
139
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN
Đối phó với bệnh đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp ở tôm nuôi: 3 nhóm giải pháp quan trọng ĐỂ PHÒNG BỆNH TRÊN TÔM, CẦN NGHIÊN CỨU THAY THẾ THUỐC KHÁNG SINH, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KHUYẾN NGƯ VÀ THAY ĐỔI PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT TÔM GIỐNG.
Đ
ây là những giải pháp trọng tâm mà các nhà nghiên cứu, khoa học đưa ra tại hội thảo khoa học Bệnh đốm trắng và bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm nuôi nước lợ do Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức ngày 10/12/2014 tại Hà Nội.
Tình hình dịch bệnh trong năm 2014
Trong những năm gần đây, bệnh đốm trắng thường xuyên
xuất hiện trong các khu vực nuôi tôm ven biển ở Việt Nam, hầu hết các tỉnh khi bị nhiễm bệnh đốm trắng, tôm bị chết hàng loạt và gây tổn thất cho người nuôi tôm. Bệnh thường xuất hiện vào mùa xuân và đầu hè khi thời tiết biến đổi nhiều như biên độ nhiệt độ trong ngày biến thiên quá lớn (> 5 °C) gây sốc cho tôm. Bệnh đốm trắng thường gây chết tôm rảo, tôm nương, cua, ghẹ. và tôm sú nuôi. Năm 2014, dịch bệnh đốm
Bệnh trên tôm nuôi lây lan qua cả hai con đường từ bố mẹ sang con và môi trường
140
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
trắng xảy ra tại 250 xã, 69 huyện thuộc 22 tỉnh, thành phố với tổng diện tích nuôi tôm bị bệnh là 22.624 ha, chiếm 3,3% tổng diện tích thả nuôi của cả nước. Trong đó, diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh bị bệnh là 13.329,4 ha. Diện tích nuôi tôm quảng canh, quảng canh cải tiến bị bệnh là 9.294,64 ha. Bệnh xảy ra trên tôm thẻ và tôm sú ở độ tuổi từ 10-110 ngày sau thả. Tôm sú là đối tượng nuôi bị thiệt hại lớn nhất với 13.529, 47 ha chiếm
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
59,8% diện tích, còn lại là diện tích tôm thẻ chân trắng bị bệnh. Năm 2014, diện tích bị bệnh lớn hơn 1,85 lần so với năm 2013, 2,6 lần so với năm 2012. Năm 2014, cả nước có 3 tỉnh công bố dịch là Sóc Trăng, Nghệ An và Quảng Ninh. Sóc Trăng là tỉnh bị thiệt hại lớn nhất với 10.933,82 ha, chiếm tới 48,33% tổng diện tích bị bệnh đốm trắng trong cả nước. Dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp tính cũng gây không ít tổn thất cho ngành nuôi thủy sản Việt Nam. Hai nguyên nhân chính là yếu tố con giống và yếu tố môi trường. Năm 2014, dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp xảy ra tại 233 xã thuộc 22 tỉnh, thành phố. Tổng diện tích tôm bị bệnh là 5.591,7 ha, chiếm 0,82% tổng diện tích thả nuôi tôm của cả nước chủ yếu là ở hình thức nuôi tôm thâm canh. Bệnh xảy ra cả trên
Tôm sú nhiễm virus đốm trắng WSSV
tôm chân trắng và tôm sú có độ tuổi từ 10-103 ngày sau thả, trong đó diện tích thiệt hại trên tôm chân trắng chiếm 63,61%. Năm nay dịch bệnh gan tụy cấp xảy ra trên tổng diện tích tương đương năm 2013. Cơ quan Thú y vùng VI - Cục Thú y nhấn mạnh, môi trường là yếu tố cần được giám sát liên tục trong suốt quá trình nuôi. Nhiều địa phương chưa có kế hoạch phòng chống và giám sát dịch bệnh, hoặc có nhưng kế hoạch chưa đầy đủ và kinh phí không có hoặc có rất ít không thực hiện giám sát được các nguồn bệnh trong môi trường nuôi. Ông Bùi Quang Tề, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II cho hay, các nghiên cứu chỉ rõ, trong năm 2014 do lo sợ bệnh, người dân đã sử dụng nhiều chất diệt khuẩn để xử lý định
kỳ nước nuôi. Chính việc này đã làm cho tôm sốc và bùng phát bệnh đốm trắng trên tôm. Dùng nhiều kháng sinh phòng bệnh cũng làm giảm sức đề kháng của tôm với bệnh. Mặt khác, do ý thức người nuôi về xử lý bệnh chưa tốt, nước từ ao nuôi bị bệnh đốm trắng được thải ra ngoài môi trường mà không được xử lý triệt để đã khiến mầm bệnh quay trở lại gây hại với mức độ nguy hiểm hơn.
Những giải pháp thiết thực
Một số giải pháp thiết thực nhằm hạn chế và đẩy lùi dịch bệnh trên tôm đã được các nhà khoa học đưa ra. Ông Bùi Quang Tề cho hay, Bệnh vi rút đốm trắng (WSSV) là loại bệnh phân bố rộng, có nhiều loài giáp xác mang mầm bệnh. Do đó, bệnh lan truyền chủ yếu qua nước và thức ăn. Bệnh rất dễ bị bùng phát khi tôm bị sốc do môi trường biến đổi xấu. Do đó, khi nuôi tôm cần duy trì môi trường ổn định bằng các biện pháp cơ học (quạt nước, sục khí đáy và xi phông đáy ao); hóa dược (dùng các loại vôi ổn định pH, tăng độ kiềm…); sinh học (chế phẩm vi sinh cải tạo môi trường). Bên cạnh đó, cần tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng việc sử dụng các biện pháp quản lý chăm sóc tốt, cho tôm ăn thức ăn có chất lượng cao và ăn thêm các enzyme, vitamin, khoáng vi lượng giúp tôm tiêu hóa tốt, tăng sức đề kháng cho tôm. Ông Tề cũng nhấn mạnh vai trò của việc áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến trong công THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
141
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN
tác phòng chống bệnh dịch đốm trắng như nuôi tôm theo công nghệ biofloc. Hệ thống biofloc là kết quả của quá trình thử nghiệm và phát triển hệ thống ao nuôi được sục khí và khoấy đảo thường xuyên giúp nâng cao an toàn sinh học, hạn chế tối đa sự nhiễm bệnh, đặc biệt là bệnh do vi rút gây ra trên tôm. Ông Ngô Thanh Long, Cơ quan Thú y vùng VI cũng cho biết, đối với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính thì yếu tố môi trường có tác động rất lớn. Do đó, vấn đề đầu tiên là con giống phải đảm bảo sạch bệnh và môi trường, chất lượng nước phải đạt yêu cầu trước khi thả nuôi. Sau khi thả nuôi phải kiểm tra chất lượng nước nuôi thường xuyên và giám sát chặt chẽ tôm sau từ 11 đến 25 ngày thả, sử dụng kháng sinh theo hướng dẫn của nhà sản xuất và ngưng sử dụng trước khi thu hoạch tối thiểu 15 ngày. Bên cạnh đó, các tỉnh cần có chương trình giám sát vùng nuôi nhằm chủ động các giải pháp xử lý môi trường phù hợp; tăng cường kiểm tra, giám sát cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc thú y thủy sản và việc lưu hành sản phẩm ngoài thị trường. Đại diện trường Đại học Nha Trang nhấn mạnh, bên cạnh việc xây dựng quy hoạch chi tiết các vùng nuôi, cần phải đẩy mạnh việc xây dựng và mở rộng các mô hình nuôi tôm áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp, nuôi luân canh, nuôi xen ghép... Theo ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, bệnh trên tôm lây lan 142
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Màu sắc gan tụy của tôm giống khỏe (bên phải) và tôm giống yếu hay nhiễm bệnh EMS (bên trái) (nguồn ảnh Internet)
qua cả hai con đường từ bố mẹ sang con và môi trường. Do vậy, giải pháp đầu tiên để phòng bệnh trong nuôi tôm nước lợ là phải có tôm giống sạch bệnh và môi trường nuôi sạch. Để có nguồn con giống sạch bệnh phải có sự thay đổi trong cách quản lý nhà nước. Cụ thể, các trại giống hoạt động phải có điều kiện. Công tác kiểm dịch hiện nay cần được thay thế bằng việc kiểm soát hệ thống sản xuất. Thứ trưởng Vũ Văn Tám cũng cho biết, cần nâng cao ý thức của người nuôi bằng cách tập huấn, truyền thông các mô hình nuôi tôm hiệu quả, những quy định về an toàn sinh học và cách thiết kế ao đầm khoa học. Nên xây
dựng và áp dụng kết hợp cả 2 mô hình giám sát bệnh thụ động và chủ động nhằm đưa ra được bản đồ dịch tễ về bệnh và những cảnh báo sớm về tình hình dịch. Các Viện cần nghiên cứu mô hình nuôi bền vững, có thể theo hướng nuôi kết hợp tôm với các loại cá, nghiên cứu các dòng vi khuẩn có tính kháng khuẩn đối với vi khuẩn gây bệnh, nghiên cứu các chất hỗ trợ nâng cao sức đề kháng của tôm. Ngành thú y phải quản lý tốt các loại thuốc dùng trong nuôi thủy sản. Nguyễn Thị Hồng Hà
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Sự lên ngôi của “Gà nước”
Thách thức và cơ hội trong ngành cá rôphi SẢN LƯỢNG CÁ RÔPHI TOÀN CẦU TĂNG 11% HẰNG NĂM TRONG SUỐT THẬP KỶ QUA, TRỞ THÀNH LOÀI CÁ NUÔI ĐỨNG VỊ TRÍ THỨ HAI TRÊN THẾ GIỚI. MỸ LÀ THỊ TRƯỜNG NK LỚN NHẤT TRÊN THẾ GIỚI, VỚI GIÁ TRỊ NK HẰNG NĂM ĐẠT XẤP XỈ 1 TỶ USD. TRUNG QUỐC LÀ NƯỚC XK LỚN NHẤT. TUY NHIÊN, CHI PHÍ GIA TĂNG VÀ SỰ THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ TRUNG QUỐC CÓ THỂ SẼ LÀM GIẢM LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA CÁC NHÀ SẢN XUẤT NƯỚC NÀY, CÂN BẰNG SỰ TĂNG TRƯỞNG VÀ BUỘC CÁC NHÀ SẢN XUẤT TẬP TRUNG HƠN VÀO THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA. ĐÂY SẼ LÀ CƠ HỘI CHO CÁC NHÀ SẢN XUẤT CÁ RÔPHI KHÁC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG TOÀN CẦU. RABOBANK DỰ ĐOÁN MỸ LATINH SẼ ĐẨY MẠNH NGUỒN CUNG TRONG THẬP KỶ TỚI, VỚI SẢN LƯỢNG DỰ KIẾN TĂNG LÊN 2 TRIỆU TẤN VÀO NĂM 2025.
Rabobank - Thực phẩm & Kinh doanh nông nghiệp Nghiên cứu và Tư vấn
Giới thiệu
Minh Phú dùng cá rô phi kiểm soát EMS nhất cử lưỡng tiện
Hình 1: Cá thịt trắng nuôi tiếp tục tăng trưởng Triệu tấn
Trung Quốc Các nước châu Á khác Châu Phi Châu Mỹ
Cá rôphi
Cá tra
Cá da trơn (trừ cá tra)
Nguồn: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, 2014
Hình 2: Sự tăng trưởng mạnh mẽ trong sản xuất cá rôphi Triệu tấn
Nhu cầu thủy sản toàn cầu đang tăng và sản lượng khai thác không thể tăng trưởng cùng nhịp độ, nghĩa là nuôi trồng thủy sản (NTTS) đang dần trở thành nguồn cung cấp prôtêin thủy sản quan trọng. Do việc nuôi thủy sản – nhất là các loài nước ngọt – đang ngày càng phổ biến trên toàn thế giới, cơ hội đến ngày càng rộng mở đối với cả người nuôi và các ngành công nghiệp phụ trợ. Các loài thủy sản nuôi nước ngọt như cá chép, cá da trơn và cá rôphi… chiếm hơn một nửa trong tổng 66 triệu tấn sản lượng thủy sản nuôi năm 2012. Mặc dù cá chép hiện là phân nhóm lớn nhất (chiếm 38% trong tổng sản lượng NTTS), loài cá này chủ yếu được tiêu thụ nội địa tại các nước trên thế giới. Giống với cá rôphi, cá tra cũng có một mặt hàng XK chính và được người tiêu dùng phương Tây ưa chuộng, nhưng thị phần loài cá này vẫn tương đối nhỏ. Không giống với các loài khác, cá rôphi có sự tăng trưởng mạnh nhất về sản lượng và có sức hút thị trường rộng khắp toàn cầu. Cá rôphi dễ nuôi và dễ cho ăn, đồng thời có hương vị trung tính hấp dẫn nhiều thực khách, do đó, loài cá này thường được so sánh với thịt gà. Sản lượng cá rôphi toàn cầu tăng từ 100.000 tấn năm 1980 lên 4,5 triệu tấn năm 2012, và tổng giá trị THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
143
Châu Phi Châu Mỹ
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN Cá rôphi
Cá tra
Cá da trơn (trừ cá tra)
Nguồn: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, 2014
ngành sản xuất ước tính đạt 6,7 tỷ USD. Trung Quốc hiện chiếm lĩnh thị trường XK, trong khi Mỹ là thị trường NK lớn nhất. Dự đoán trong vài năm tới, Trung Quốc sẽ tập trung nhiều hơn vào thị trường nội địa, tạo cơ hội cho các nhà sản xuất khác nổi lên và cung cấp nhiều hơn cho các thị trường lớn, bao gồm cả Mỹ. Các nhà sản xuất Mỹ Latinh có lợi thế lớn nhờ vị trí thuận lợi, tiếp cận với nguồn thức ăn và tài nguyên thiên nhiên. Với sản lượng tăng gấp đôi trong giai đoạn 2007-2012, khu vực này được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng.
Cá rôphi tăng trưởng mạnh nhờ công nghệ và sinh học
Ngành cá thịt trắng có mức tăng trưởng đáng kinh ngạc trong vài năm qua. Cá rôphi là một trong những động lực chính cho sự tăng trưởng này, hoạt động nuôi đã lan rộng ra hơn 80 nước và sản lượng toàn cầu đã tăng trung bình 11%/ năm. Cá rôphi được nuôi ở các ao nuôi nhỏ của gia đình cũng như tại những khu công nghiệp do các công ty đa quốc gia điều hành. Phương thức sản xuất cũng đa dạng từ các hệ thống lồng nuôi đơn giản cho tới các cơ sở nuôi tái tuần hoàn phức hợp trong nhà. Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành sản xuất cá rôphi, và những cải tiến như công nghệ thay đổi giới tính cho phép người nuôi chỉ nuôi siêu đực tăng trưởng nhanh hơn đã đóng góp rất lớn vào các qui trình nuôi tốt hơn và cho sản lượng lớn hơn. Hơn nữa, các đặc tính sinh học của cá rôphi cũng tạo ra những lợi thế vượt trội cho người nuôi trên toàn thế giới: cá có sức chịu đựng tương đối tốt, chế độ ăn ít tốn kém, cần ít ôxi hòa tan trong nước và đạt kích cỡ thương phẩm nhanh. Trung Quốc là nước sản xuất cá rôphi chính, chiếm 1/3 tổng sản lượng thế giới (1,5 triệu tấn hằng năm). Chương trình nuôi của Chính phủ Trung Quốc – đi cùng trợ cấp và các chương trình hỗ trợ tập trung vào công nghệ tiên tiến và di truyền học – đã tạo nên một ngành sản xuất cá rôphi phát triển. Các trại nuôi gia đình chiếm thị phần sản xuất lớn nhất. Mặc dù sản lượng của Trung Quốc lớn hơn của bất kỳ quốc gia nào, nhưng phần lợi nhuận lại rất thấp, và ngành sản
144
Hình 2: Sự tăng trưởng mạnh mẽ trong sản xuất cá rôphi Triệu tấn
* Trung Quốc
Các nước châu Á khác
Châu Phi
*
*
Châu Mỹ
Nguồn: Tổ chức Lương thực phẩm và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, Rabobank, 2014 * Ước tính
xuất vẫn phải thua lỗ. Trợ cấp đã Hình 3: nói NK cá chung rôphi vào Mỹ duy trì ở mức chịu cao, 2008-2013 Triệu USD Nghìn tấn tạo ra mức giá cạnh tranh cho sản phẩm của Trung 1.500 Quốc, được bán dưới dạng philê đông lạnh tại1.300 Mỹ (chiếm gần một nửa tổng XK cá rôphi của Trung 1.100 Quốc). Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đứng trước 900 nguy cơ nếu trợ cấp hay sự hỗ trợ bịgián đoạn700thì 500 cũng có thể làm gia tăng chi phí. Sản lượng ngành 300 sản xuất cá rôphi toàn cầu có sự tăng trưởng mạnh 100 mẽ và có tiềm năng tăng gấp đôi lên 9 triệu -100 tấn (tương đương trọng lượng cá sống) vào năm 2025 Cá rôphi Cá tra Tổng giá trị –Nguồn: vớiCơ quan giảKhíđịnh không nổ dịch bệnh nghiêm Quyển và Đại dương Hoa Kỳbùng (NOAA), 2014 trọng hoặc các trường hợp bất lợi khác.
Sẽ thành mặt hàng thủy sản hàng đầu của Mỹ
Mỹ là thị trường quan trọng nhất của cá rôphi. Với khối lượng NK trên 228.000 tấn (hơn 600.000 tấn - tương đương trọng lượng cá sống), Mỹ tiêu thụ nhiều hơn cả các nước tiêu thụ cá rôphi lớn như Ai Cập hay Trung Quốc. Cá rôphi nổi lên rất Hình 4: Cá rôphi thống trị tiêu thụ cá thịt trắng tại Mỹ, 2000-2012 nhanh trong nhóm hàng thủy sản và hiện chỉ đứng Pao/đầu người 5 sau cá hồi, tôm và cá ngừ trong số những mặt hàng 4,5 4 thủy sản được ưa chuộng nhất tại Mỹ. Ban đầu, cá 3,5 rôphi chỉ được coi là một lựa chọn thay thế giá rẻ 3 2,5 cho cá thịt trắng khai thác, tuy nhiên, mặt hàng 2 này hiện lại được tiêu thụ nhiều hơn cá tuyết và 1,5 1 cá minh thái, và chi phối cả nhóm cá thịt trắng. Cá 0,5 rôphi vẫn có giá tương đối cao so với thịt gà (trung 0 bình gấp đôi giá ức gà phi lê), nhưng nếu so sánh Cá dẹt Cá tuyết Cá da trơn Cá minh thái Cá rôphi Cá tra sản phẩm này với các mặt hàng thủy sản khác thì Nguồn: Cơ quan Khí Quyền và Đại dương Hoa Kỳ (NOAA), 2014 giá vẫn hợp lý. Về lâu dài, mặt hàng này cũng sẽ có tác động tới việc tiêu thụ các loài trong phân khúc prôtêin vật – nhất làcủa thịt gà –XKnhờ hương Hình 5: NK cáđộng rôphi của Mỹ cho thấy vị thế các nước khác nhau, 2013 vị CAGR 2008-2013 xét theo khối lượng
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Cá tra
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
trung tính tương đồng. Cá rôphi không phổ biến tại châu Âu như tại Mỹ. NK phi lê cá rôphi đông lạnh chỉ đạt 19.000 tấn năm 2013 – gần 12% tổng NK phi lê đông lạnh của Mỹ - loài cá này chưa thành công tại châu Âu. Cá tra đã thiết lập được vị trí vững chắc hơn hẳn cá rôphi tại khu vực này, với NK phi lê đông lạnh đạt 142.000 tấn năm 2013. Đó là do giá cả thấp hơn và các nhà sản xuất cá rôphi cho tới giờ vẫn ít chú trọng vào khu vực này. Hình 1: Cá thịt trắng nuôi tiếp tục tăng trưởng Trong một vài năm tới, tiêu thụ cá thịt trắng Triệu tấn nước ngọt sẽ tiếp tục tăng trưởng tại Mỹ. Việc chú trọng tới chế độ ăn uống lành mạnh hơn sẽ đẩy Trung Quốc Các nước châuvà Á khác mạnh nhu cầu về cả cá rôphi cá tra. Tuy nhiên, Châu Phi những đặc điểm này hiện không được tận dụng Châu Mỹ trong các chiến dịch quảng bá khi mà mức giá thấp vẫn là điểm then chốt. Tăng trưởng tiêu thụ tại châu Âu sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, do nuôi thủy sản gần đây đã phải hứng chịu một số ý kiến trái chiều từ phương thông. Từ năm Cá rôphi Cá tra tiện truyền Cá da trơn (trừ cá tra) Nguồn: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, 2014 2011, sự phổ biến của cá tra đã giảm phần nào do danh tiếng xấu xung quanh việc Việt Nam bị cáo Hình 2:về Sự tăng mẽ trong sản xuất cá rôphi buộc cáctrưởng tiêumạnh chuẩn nuôi kém. Triệu tấn
Vị thế của Trung Quốc vấp phải nhiều thách thức
Các nhà sản xuất châu Á – nhất là Trung Quốc – đã thống trị ngành sản xuất cá rôphi toàn cầu trong vài thập kỷ qua. Với gần 74% thị phần philê đông lạnh Mỹ và vẫn tiếp tục tăng trưởng (tốc độ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) đạt 5% trong * * * Châu Mỹ giai đoạn Trung 2008-2013), đang giữ vị Quốc Các nướcTrung châu Á khác Quốc Châu Phivẫn Nguồn: Tổ chức Lương thực phẩm và Nông nghiệp Liêncó Hợp một Quốc, Rabobank, 2014 thế vững chắc. Tuy nhiên, số nguyên nhân * Ước tính Hình 3: NK cá rôphi vào Mỹ duy trì ở mức cao, 2008-2013 Triệu USD
Nghìn tấn
1.500 1.300 1.100 900 700 500 300 100 -100 Cá rôphi
Cá tra
Nguồn: Cơ quan Khí Quyển và Đại dương Hoa Kỳ (NOAA), 2014
Tổng giá trị
khiến sản phẩm của Trung Quốc có thể trở nên kém cạnh tranh, như giá đầu vào tăng, giá tiền tệ, khí hậu, nguồn tài nguyên hạn chế và an toàn thực phẩm. - Chi phí đầu vào bị đẩy lên cao do chi phí thức ăn và nhân công tăng nhanh. Điều này có nghĩa chi phí sản xuất sản phẩm sẽ trở nên đắt đỏ hơn. Chi phí nhân công trung bình tại Trung Quốc tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn 2007-2012. Trong những năm qua, giá bán lẻ trung bình thức ăn dạng viên tăng từ 3.260 NDT/tấn năm 2006 lên 4.140 NDT/ tấn năm 2012. - Tiền tệ sẽ không làm tăng tính cạnh tranh của Trung Quốc, khi mà đồng NDT đã tăng giá tới 24% kể từ năm 2005 lên 6,14 NDT/USD năm 2014. - Trung Quốc hạn chế về nguồn tài nguyên nước sạch. Ô nhiễm là một vấn đề quan trọng, hơn nữa còn có sự gia tăng cạnh tranh nguồn nước từ các sản phẩm NTTS và nông nghiệp khác như gạo và tôm. - Các vấn đề an toàn thực phẩm xung quanh sản phẩm của Trung Quốc đã khiến thị trường Mỹ có nhận thức tiêu cực hơn , giúp các sản phẩm không có nguồn gốc Trung Quốc có thể bán với giá cao hơn 1 USD/pao. Nếu vấn đề về hình ảnh sản phẩm vẫn tiếp diễn, philê đông lạnh Trung Quốc có thể sẽ ít được ưa chuộng hơn. Những khó khăn này cho thấy triển vọng về tính cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hơn nữa, khí hậu cũng là một trở ngại do cá rôphi cần nhiệt độ nước thấp nhất là 270C, trong khi đó Trung Quốc lại không có các điều kiện lý tưởng như các khu vực nhiệt đới khác trên thế giới. Do ngành sản xuất Trung Quốc hiện phụ thuộc quá nhiều vào trợ cấp để sản xuất hàng hóa với chi phí thấp, những thay đổi trong chính sách sẽ có tác động tiêu cực. Do đó, Trung Quốc có thể sẽ XK cá rôphi ít hơn và buộc phải phát triển thị trường nội địa. Cá rôphi tại Trung Quốc hiện chủ yếu được tiêu thụ tại các tỉnh sản xuất loài này và nó phải cạnh tranh với các loài cá thực phẩm truyền thống như cá chép. Truyền thống văn hóa vùng miền mạnh mẽ trong chế độ ẩm thực đã biến Trung Quốc thành một thị trường rất khó phát triển. Cá rôphi tại Trung Quốc có tiềm năng lớn nhất dưới THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
145
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN
Hình 4: Cá rôphi thống trị tiêu thụ cá thịt trắng tại Mỹ, 2000-2012 Pao/đầu người 5 4,5 4 3,5 3 2,5 2 1,5 1 0,5 0 Cá dẹt
Cá tuyết
Cá da trơn
Cá minh thái
Cá rôphi
Cá tra
dạng phi lê và chủ yếu được bán thông qua các nhà bán lẻ, nhất là ở phía nam nước này nơi mọi Hình 5: NK cá rôphi của Mỹ cho thấy vị thế của các nước XK khác nhau, 2013 CAGR 2008-2013 xét theo khối lượng người sống gần các trang trại. Thị trường cá tươi/ sống khó thâm nhập hơn, do người dân sẽ chọn mua các loài cá truyềnCáthống trước. tra Một thách thức lớn khác đối với sự thống trị thị trường XK cá thịt trắng nuôi của Trung Quốc Côlômbia là cá tra. NK cá tra từ Việt Nam với mức giá thấp Inđônêxia Trung Quốc Côxta Rica hơn cá hơn khoảng 25% – đang tăng trưởng nhanh Hon-đu-rát rôphi Trung Quốc, và XK cá tra sang Các nướcMỹ khác trong giai Êcuađo đoạn 2008-2012 cao hơn nhiều khối lượng NK cá USD/kg rôphi từ Mỹ Latinh, cho thấy nhu cầu cá tra đang Nguồn: USDA, Rabobank, 2014 tăng cao. Việt Nam hiện sản xuất khoảng 1 triệu tấn cá tra mỗi năm, với mục tiêu tăng thêm 20% sản lượng để đến năm 2015 đạt 1,2 triệu tấn. Hơn nữa, nhiều khả năng các nước khác như Inđônêxia và Ấn Độ sẽ bắt đầu nuôi cá tra trên diện rộng. Loài cá này được cho là rất giống với cá rôphi, mặc dù màu sắc phi lê trắng hơn. Giá thấp và nỗ lực quảng bá có thể kích thích người tiêu dùng Mỹ lựa chọn cá tra nhiều hơn, mặc dù cá rôphi vẫn có lợi thế rõ ràng là mặt hàng đi đầu và được người tiêu dùng biết đến rộng rãi hơn.
Cơ hội cho các khu vực khác trên thế giới
Các thách thức trên tạo cơ hội cho các nhà sản xuất khác vừa trở thành nhà XK vừa có khả năng tự cung tự cấp hơn. Mêxicô là một ví dụ khi hiện là nhà NK cá rôphi lớn, do nước này sản xuất 70.000 tấn trong khi tiêu thụ tới 130.000 tấn cá rôphi. 60.000 tấn còn lại được NK từ Trung Quốc. Mêxicô có cơ sở vật chất và khả năng sản xuất tốt, nhưng
146
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
người nuôi nước này cảm thấy khó khăn khi phải cạnh tranh về giá với từ Trung Quốc - thấp hơn khoảng 30% so với giá cá rôphi Mêxicô. Châu Phi có thể đầu tư nhiều hơn vào ngành nuôi thủy sản nhằm đáp ứng nhu cầu nội địa. Ghana là một ví dụ điển hình với tốc độ tăng trưởng trung bình 39%/năm trong vòng 5 năm qua. Từ xuất phát điểm rất thấp, sản lượng nuôi đã đạt 26.000 tấn năm 2012. Nhu cầu nội địa đang tăng lên và có nhiều sáng kiến áp dụng vào nuôi cá rôphi quy mô nhỏ như một cách giảm nghèo. Nước tiêu thụ và sản xuất chính tại châu Phi là Ai Cập, cũng là nước sản xuất lớn thứ hai trên thế giới, với sản lượng 768.000 tấn năm 2012 và tiếp tục tăng trưởng nhanh khoảng 15%/năm (dựa trên CAGR trong giai đoạn 2008-2012). Các nhà sản xuất châu Á khác như Ấn Độ, Thái Lan và Malaixia cũng đang phát triển (mặc dù từ xuất phát điểm thấp) và có tiềm năng XK. Inđônêxia đã là một nhà XK sang Mỹ có tầm cỡ với 11.000 tấn trong năm 2013 (trong tổng sản lượng 717.000 tấn) và có vị thế độc tôn là nước châu Á duy nhất bán sản phẩm giá trị cao, sản xuất với tiêu chuẩn chất lượng cao. Nước này cũng là nơi đặt cơ sở sản xuất lớn nhất của công ty sản xuất cá rôphi hàng đầu thế giới là Regal Springs.
Mỹ Latinh sẵn sàng gia nhập cuộc chơi
Có một số yếu tố thuận lợi giúp các nhà sản xuất Mỹ Latinh có được thị phần lớn hơn trong thị trường cá rôphi thế giới: khu vực này có chi phí thức ăn thấp hơn (giá bột đậu tương tại Brazil thấp hơn tại Trung Quốc khoảng 11% từ năm 2010); chi phí nhân công ngày càng cạnh tranh với Trung Quốc; khu vực này gần thị trường tiêu thụ lớn hiện nay; khí hậu phù hợp; và nguồn nước ngọt và nước lợ dồi dào. Năm 2012, Mỹ Latinh chỉ sản xuất khoảng 453.000 tấn cá rôphi, chiếm khoảng 10% sản lượng toàn cầu. Mặc dù chỉ bằng một phần nhỏ so với sản lượng châu Á, nhưng nước này vẫn có nhiều tiềm năng phát triển. Trong những năm gần đây, ngành sản xuất cá rôphi tại Mỹ Latinh đã cho thấy tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, gấp đôi về quy mô trong giai đoạn 2007-2012 – và XK sang Mỹ gia
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
tăng. Sản phẩm cá rôphi từ Mỹ Latinh được bán tại Mỹ dưới dạng tươi đạt mức giá cao (cao hơn khoảng 1 USD/pao so với hàng đông lạnh). Để phát triển ngành này, các ngành phụ trợ như chế biến, thức ăn chăn nuôi và dịch vụ hậu cần tại Mỹ Latinh cần phát triển mạnh hơn nữa. Rabobank dự đoán sản lượng cá rôphi Mỹ Latinh có thể tăng lên ít nhất 2 triệu tấn vào năm 2025, trong đó Braxin sẽ chiếm hơn một nửa sản lượng sản xuất. Nước này đã là nhà sản xuất lớn nhất tại Mỹ Latinh,đặc biệt là rất giàu nguồn tài nguyên. Các nước như Mêxicô và Côlômbia cũng được kỳ vọng sẽ tăng trưởng sản xuất mạnh mẽ. Tuy nhiên, tại một số nước, cá rôphi đang phải đối mặt với cạnh tranh từ các loài khác, giống như trường hợp tại Êcuađo. Do giá tôm cao (do dịch bệnh tại châu Á và Mêxicô), nhiều người nuôi Êcuađo đã từ bỏ nuôi cá rôphi để chuyển sang nuôi tôm, khiến XK sụt giảm.
Kết luận
Ngành sản xuất cá rôphi đã cho thấy tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc. Tại tất cả các khu vực sản xuất, sản lượng ít nhất đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 2007-2012. Dĩ nhiên, bất cứ loại hình nuôi nào cũng đều có những mối nguy về sinh học, bên cạnh đósự biến đổi khí hậu và bùng nổ dịch bệnh có thể làm tổn hại nghiêm trọng tới ngành và kéo tụt sản lượng sản xuất. Tuy nhiên, đặc trưng của ngành sản xuất cho thấy những lý do để lạc quan. Cá rôphi là một trong những loài dễ nuôi nhất, và – ít nhất cho tới nay – không có dịch bệnh nào bùng phát toàn cầu. Hơn nữa, cá rôphi đòi hỏi đầu tư tương đối thấp trong cơ cấu nuôi. Do chi phí thức ăn nuôi thấp, cá rôphi có mức giá cạnh tranh trên cả thị trường phát triển và đang phát triển. Cá rôphi có sức chịu đựng tốt, lớn nhanh và ngày càng phổ biến đối với người tiêu dùng. Thị trường tiêu thụ hàng đầu hiện nay là Mỹ vẫn còn xa mới đạt tới mức bão hòa, và tiêu thụ trên thị trường nội địa dự đoán cũng sẽ tăng. Trong khi Trung Quốc vẫn là nhà sản xuất chính trong thời gian trước mắt, các nhà sản xuất Mỹ Latinh như Braxin, Côlômbia, Êcuađo và
Cá rô phi phát triển tốt trong nuôi đa loài.
Mêxicô có vị thế tốt để sản xuất sản lượng cao, có thể cung ứng cho cả thị trường nội địa và quốc tế. Các nhà sản xuất châu Á khác như Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ và Malaixia cũng được kỳ vọng sẽ gia tăng mạnh mẽ sản lượng cá rôphi trong vài thấp kỷ tới. Mặc dù không có một ngành nuôi thủy sản nào lại không gặp rủi ro, nhưng tương lai cho cá rôphi rất rộng mở. Là nguồn prôtêin động vật có giá cả phải chăng, cá rôphi có thể làm nguồn thực phẩm cho đại đa số người dân và trở thành mặt hàng chính trong thị trường prôtêin động vật. Vai trò của cá rôphi trong NTTS cũng quan trọng như vai trò của thịt gà trong ngành sản xuất thịt gia cầm. Thức ăn giá rẻ, cơ cấu nuôi đơn giản và tăng trưởng nhanh khiến người nuôi ngày càng quan tâm tới loài này, với hương vị trung tính khiến mặt hàng này được người tiêu dùng ưa chuộng. Ngành sản xuất “ Gà nước” sẽ tiếp tục tăng trưởng, mang lại nhiều cơ hội kinh doanh cho người nuôi, đồng thời cho cả các công ty trong ngành s phụ trợ như thức ăn chăn nuôi và chế biến. Ngọc Tú dịch Theo Báo cáo ngành của Rabobank, sô 471, tháng 1-2015
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
147
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN
Nuôi và tiêu thụ cá rôphi:
Phải là ngành sản xuất kinh doanh có điều kiện ĐIỀU KIỆN NUÔI THUẬN LỢI, ĐỒNG THỜI NHU CẦU THỊ TRƯỜNG TĂNG CAO ĐÃ CHO THẤY CÁ RÔPHI LÀ ĐỐI TƯỢNG NUÔI TIỀM NĂNG, MANG LẠI GIÁ TRỊ KINH TẾ CAO. TUY NHIÊN, CŨNG NHƯ ĐỐI VỚI NGÀNH CÁ TRA, ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐỐI TƯỢNG NÀY CẦN PHẢI CÓ NHỮNG CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ HOẶC CẦN PHẢI COI ĐÂY LÀ NGÀNH SẢN XUẤT KINH DOANH CÓ ĐIỀU KIỆN.
Nuôi cá rôphi thương phẩm tại ĐBSCL
Thị trường rộng mở
Thị trường cá rôphi trên thế giới tăng nhanh trong 2 thập kỉ qua, nhất là ở thị trường Mỹ. Sản xuất cá rôphi toàn cầu cũng bùng nổ với sản lượng tăng từ 830.000 tấn năm 1990 lên 1,6 triệu tấn năm 1999, năm 2008 đạt 3,5 triệu tấn và đến năm 2013 tăng trên 4,5 triệu tấn. Từng được coi là một trong những đối tượng nuôi với mục đích chính là cung cấp và cải thiện dinh dưỡng cho người nghèo, con cá rôphi đã tạo ra bước đột phá và ngày càng đóng vai trò quan trọng, tạo ra sản phẩm hàng hóa với giá trị và khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. “Là loài cá nuôi phổ biến trên thế giới, sản lượng cá rô phi tăng
148
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
liên tục từ năm 2000 đến nay và dự báo nhu cầu thị trường tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Chính vì vậy, cá rôphi được xem là đối thủ cạnh tranh trực tiếp đối với con cá tra”, ông Trương Đình Hòe – Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết. Theo ông Hòe, Việt Nam và các nước đang gia tăng mạnh sản xuất cá rôphi. Con cá rôphi Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều quốc gia trong đó lớn nhất là Trung Quốc. Thị trường xuất khẩu cá rôphi của chúng ta là hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ với giá trị trong10 tháng đầu năm 2014 ước đạt 27 triệu USD tăng 180% so với cả năm 2013. Trong đó, Mỹ là thị trường hàng
đầu chiếm 20%, tiếp theo là Tây Ban Nha, Côlômbia….”. Mặc dù có bước tăng trưởng đáng kể, tuy nhiên, giá trị xuất khẩu cá rôphi Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, chưa bằng 1% so với Trung Quốc, trong khi, nhu cầu thị trường, nhất là thị trường Mỹ rất lớn. Nhập khẩu cá rôphi của Mỹ không ngừng tăng trong những năm qua. Nếu như năm 2000 Mỹ NK rôphikhoảng 40.469 tấn thì đến năm 2013 tăng lên 232.773 tấn với giá trị lên đến 1 tỷ USD, 10 tháng đầu năm 2014 Mỹ nhập khẩu 184.297 tấn cá rôphi, trị giá 901,701 triệu USD tăng 26% về khối lượng và tăng 9,83% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Theo dự báo, trong năm 2015, Mỹ sẽ chi hơn 1 tỷ USD để NK sản phẩm loài này. “Sự tăng trưởng của thị trường, nhất là thị trường Mỹ, cùng với xu thế chuyển hướng của khách hàng thế giới khi nhắm vào con cá rôphi Việt Nam là một tín hiệu đáng mừng. Nhà nhập khẩu không muốn lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc và muốn đa dạng hóa nguồn cung, hơn nữa chất lượng là một trong những yếu tố quyết định. Nhà nhập khẩu đánh giá rất cao chất lượng cá rôphi của chúng ta, nhất là đối với
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
cá được nuôi ở vùng lợ mặn có cơ thịt chắc, thơm, mang mùi vị đặc trưng”, ông Lê Văn Quang – Tổng giám đốc Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú cho biết. Điều kiện phát triển nuôi thuận lợi, nhu cầu thị trường tiềm năng đã và đang đưa con cá rôphi trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thủy sản của nước ta. Theo ông Quang, “Trong bối cảnh thị trường cá tra biến động và ngành tôm đang chật vật với dịch bệnh thì con cá rôphi sẽ là lựa chọn khôn ngoan. Nếu có chiến lược phát triển, quản lý phù hợp, giá trị mà con cá rôphi mang lại sẽ rất lớn”.
Cần cơ chế chính sách đặc thù
Giá trị mà con cá rôphi mang lại đã quá rõ ràng, chính vì thế trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã tăng cường mở rộng đầu tư nuôi trồng, sản xuất và tiêu thụ đối tượng này, trong đó có không ít doanh nghiệp là những tên tuổi lớn trong ngành thủy sản cả nước, như công ty TNHH MTV Hoàng Long, Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, công ty Nam Việt…. Theo ông Trương Đình Hòe, hiện tại, cả nước có 5 doanh nghiệp (DN) tham gia chế biến cá rôphi XK với công suất đạt 230 tấn nguyên liệu/ngày. Trong đó đã có DN đạt tiêu chuẩn ASC cho nuôi và tập trung ở ĐBSCL. Đây là thông tin tốt dự báo cho sự phát triển của con cá rôphi trong tương lai. Về nuôi, theo Tổng cục Thủy
sản, tính đến hết tháng 11/2014, diện tích nuôi cá rôphi trong ao, hồ đạt 15.992 ha, nuôi lồng bè đạt 410.732 m3, ước sản lượng cá rôphi, điêu hồng cả nước năm 2014 đạt 125.000 tấn tăng 25% so với cùng kỳ trong đó tập trung chủ yếu tại ĐBSCL như Tiền Giang, Cần Thơ, An Giang….. Theo tốc độ phát triển này, dự kiến đến năm 2020 diện tích và sản lượng cá rôphi tiếp tục gia tăng và đạt 25.000 ha với sản lượng 200.000 tấn, XK khoảng 80.000 tấn. Con cá rôphi cả nước nói chung cũng như ĐBSCL nói riêng đang đứng trước những cơ hội phát triển hết sức thuận lợi. Tuy nhiên, đầu tư phát triển sản xuất, tiêu thụ đối tượng này cần phải có những bước đi hết sức thận trọng để tránh lặp lại vết xe đổ như đã từng xảy ra đối với con cá tra. Vì vậy để phát triển ổn định và bền vững ngành hàng cá rôphi, các nhà quản lý, DN chế biến, người nuôi… kiến nghị Nhà nước nên có những cơ chế chính sách với những qui định riêng phù hợp và coi đây là ngành sản xuất kinh doanh có điều kiện. “Chúng ta cần phải tổ chức khâu sản xuất, tiêu thụ con cá rôphi sao cho tiếp cận thị trường nhanh hơn, hiệu quả hơn theo hình thức tăng cường liên kết DN chế biến, người nuôi theo chu trình khép kín. Từ đó tránh sự xung đột về giá, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, đồng thời hạ giá thành sản xuất, kiểm soát cả về sản lượng lẫn chất lượng. Song song với đó là lựa chọn mô hình XK phù hợp theo hướng tăng cường
chất lượng, nâng cao giá trị chứ không đặt nặng vấn đề sản lượng”, ông Hòe kiến nghị. Thực tế đã cho thấy rằng, con cá tra rơi vào tình cảnh khó khăn như hiện tại là do khâu quản lý chất lượng sản phẩm XK chưa tốt. “Một sản phẩm ngon như thế, có giá trị như thế nhưng khi chế biến chúng ta lại hủy hoại nó bằng cách bơm nước, mạ băng quá nhiều… làm chất lượng, giá xuất liên tục sụt giảm. Hành động đó chẳng khác nào chúng ta lấy thuyền chở vàng ra biển mà đổ. Nếu làm không khéo, con cá rôphi cũng không tránh khỏi tình trạng tương tự. Tuyệt đối chúng ta không được chở vàng ra biển đổ nữa”, ông Lê Văn Quang cảnh báo. Đồng quan điểm như trên, ông Nhữ Văn Cẩn – Phó giám đốc Sở NN&PTNT Đồng Tháp cho biết, nước ta đặc biệt là vùng ĐBSCL có tiềm năng lợi thế về diện tích mặt nước ngọt và lợ mặn, nhiều hệ thống sông ngòi, nhiều vùng nước ven biển với độ mặn thấp là những vùng nước có thể nuôi cá rôphi, có khả năng mở rộng diện tích, sản xuất với sản lượng lớn. Tuy nhiên, để phát triển bền vững đối tượng này, ngành hàng sản xuất và kinh doanh cá rôphi phải là ngành sản xuất kinh doanh có điều kiện, với như qui định rõ ràng cụ thể như Nghị định 36 của Chính phủ đối với con cá tra. Có được như vậy thì con cá rôphi với có thể tránh vết xe đổ mà con cá tra đã và đang trải qua. Đỗ Văn Thông
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
149
NUÖI TRÖÌNG THUÃY SAÃN
Nước có độ mặn thấp giúp kiểm soát Vibrio trên tôm giống CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐÃ TIẾN HÀNH KHẢO SÁT VỀ MẬT ĐỘ VIBRIO TRÊN TÔM CHÂN TRẮNG GIỐNG (PL)TẠI HAI TRẠI NUÔI. , TÔM GIỐNG ĐƯỢC THÍCH NGHI TRONG MÔI TRƯỜNG NƯỚC CÓ ĐỘ MẶN GIẢM TỪ 30 PPT XUỐNG 5 PPT (PHẦN NGHÌN), SAU ĐÓ XUỐNG 2 PPT TRƯỚC KHI ĐƯỢC ĐƯA SANG CÁC TRẠI NUÔI. MỘT TRẠI NUÔI THẢ TÔM GIỐNG XUỐNG AO ƯƠNG, VÀ TRẠI CÒN LẠI THẢ TRỰC TIẾP XUỐNG AO NUÔI THƯƠNG PHẨM. MẬT ĐỘ VIBRIO GIẢM SAU GIAI ĐOẠN THÍCH NGHI, VÀ VI KHUẨN BỊ LOẠI TRỪ KHỎI TÔM GIỐNG TRONG NHỮNG NGÀY NUÔI ĐẦU.
TS. Carlos A. Ching
C
ác trại nuôi trong đất liền tại miền nam Êcuađo đã tiến hành nuôi tôm với độ mặn thấp bằng cách bơm nước ngầm vào các ao rộng 0,51,0 ha trong nhà kín có bao bờ và lợp tôn nhựa. Sục khí bằng quạt nước chạy liên tục trong toàn bộ chu trình sản xuất, mang lại sản lượng 7-10 tấn/ha trong vòng 90120 ngày. Trước khi cung cấp tôm giống cho các trại nuôi này, các trại giống cho tôm thích nghi với nước có độ mặn giảm từ 30 ppt xuống 5 ppt. Khi đưa sang trại nuôi, tôm giống tiếp tục được cho thích nghi với nước có độ mặn 2 ppt trong các bể cạnh hồ để sau đó thả giống trực tiếp vào ao nuôi thương phẩm hoặc thả
Hậu ấu trùng tôm không còn mang vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus trong ao ương có độ mặn thấp chỉ vài ngày sau khi thả nuôi
tôm giống vào các ao ương trước khi thả nuôi thương phẩm.
Theo dõi và kết quả
Bộ phân tích vi khuẩn đầu tiên gồm ba mẫu được lấy từ hai bể cung cấp tôm giống cho các trại nuôi, các bể này chứa nước có độ mặn 30 ppt. Các mô của PL6 được nuôi trong môi trường
agar và các Vibrio trong các cụm hình thành cụm khuẩn trên 1 gam mẫu (CFU/g) thu được là các cụm khuẩn màu vàng (dương tính với đường sucrose) hoặc cụm khuẩn màu xanh lá cây (âm tính với đường sucrose). Bộ phân tích thứ hai được lấy trước khi thả giống khi hậu ấu trùng PL12 được đưa tới các trại nuôi có nước có độ mặn 5 ppt. Bộ phân tích cuối được lấy tại ao ương hoặc tại ao thương phẩm trong những ngày nuôi đầu. Cụm khuẩn Vibrio xanh lá cây sau đó được xác định là V. parahaemolyticus. Tôm giống từ bể ương được thả trực tiếp có trung bình tổng khuẩn vàng là 442.400 CFU/ gamloại và tổng khuẩn xanh lá
Qui trình cho tôm giống thích nghi áp dụng tại các trại giống cung cấp tôm giống cho các trại nuôi trong đất liền có độ mặn thấp tại Êcuađo
Độ mặn 20-30 ppt 15-20 ppt 10-15 ppt 5-10 ppt 150
Thời điểm cho thích nghi Cứ sau 20 phút cho giảm 2 ppt Cứ sau 30 phút cho giảm 2 ppt Cứ sau 30 phút cho giảm 1 ppt Cứ sau 1 giờ cho giảm 1 ppt
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
Mật độ trung bình các loài Vibrio trên tôm giống từ khi ở trại giống
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
trong vòng 5 ngày tại ao ương và tổng khuẩn lạc xanh lá cây là 102 cây là 29.933 CFU/g , trong khi trong vòng 10 ngày tại ao thương CFU/g. tôm giống có qua giai đoạn ương phẩm. Sự khác nhau giữa các kết có tổng khuẩn vàng là 390.000 Giai đoạn nuôi ban đầu quả đối với hai trại này có thể là CFU/g loại và tổng khuẩn xanh Việc giám sát các loài khuẩn do mức ôxi tối thiểu tại ao ương lá cây là 20.993 CFU/g cây.. Vibrio trên tôm giống vẫn được (5,0 mg/L) cao hơn tại ao thương Khi được chuyển tới các trại Qui trình cho tôm giống thích nghi áp dụng tại các trại giống cung cấp tôm giống tiến hành trong suốt giai đoạn phẩm (4,0 mg/L). nuôi, ba mẫu PL12 chọn ngẫu cho các trại nuôi trong đất liền có độ mặn thấp tại Êcuađo nuôi đầu, tại ao ương đối với Việc giám sát các trại nuôi nhiên từ ba túi vận chuyển với Độ thấy mặntại Thời điểm trại nuôi hai giai đoạn (ương vẫn cho đượcthích duy nghi trì trong suốt giai nước có độ mặn 5 ppt cho 20-30 ppt Cứ sau 20 phút cho giảm 2 ppt nuôi trước rồi mới thả xuống ao đoạn nuôi thương phẩm cho tới trại nuôi thả giống trực tiếp, tổng 15-20xuống ppt phút giảm nuôi thương phẩm) hoặcCứ tại sau ao 30khi độcho mặn đạt2 3ppt ppt tại thời khuẩn Vibrio vàng giảm 10-15 ppt Cứ sau 30 phút cho giảm 1 ppt thương phẩm đối với trại nuôi điểm thu hoạch. Kết quả cho trung bình còn 1.236 CFU/g và 5-10 lá pptcây Cứhai sau 1thấy giờ cho giảm 1 ppt thả giống trực tiếp. Trong cả V. parahaemolyticus không tổng khuẩn Vibrio xanh trường hợp, các cụm khuẩn V. bao giờ xuất hiện trở lại trên các giảm xuống dưới 100 CFU/g. parahaemolyticus xanh lá cây của mẫu lấy từ máu và các mô gan Tại trại còn lại, tổng khuẩn vàng đã bị loại trừ khỏi tôm giống tụy của tôm, hay thậm chí cả từ giảm xuống còn 3.000 CFU/g, và các mẫu nước. Mật độ trung bình các loài Vibrio trên tôm giống từ khi ở trại giống cho tới những ngày nuôi đầu tại trại nuôi với việc thả giống trực tiếp
Triển vọng
500.000 Vibrio vàng
Tổng khuẩn Vibrio (CFU/g)
450.000
Vibrio xanh lá cây
400.000 350.000 300.000 45.000 30.000 Không còn Vibrio xanh lá cây
15.000
Trại giống Thả giống trực tiếp Nuôi thương phẩm, Nuôi thương phẩm, (Độ mặn 30 ppt) (Độ mặn 5 ppt) Ngày thứ 5 (Độ mặn 2 ppt) Ngày thứ 10 (Độ mặn 2 ppt)
Mật độ trung bình các loài Vibrio trên tôm giống từ khi ở trại giống cho tới những ngày nuôi đầu tại ao ương 450.000 Vibrio vàng
400.000 Tổng khuẩn Vibrio (CFU/g)
Vibrio xanh lá cây 350.000 300.000 250.000 200.000 150.000 Không còn Vibrio xanh lá cây
100.000 0
Trại giống (Độ mặn 30 ppt)
Trước khi thả xuống ao ương (Độ mặn 5 ppt)
Vibrio là vi khuẩn ưa mặn, nghĩa là chúng sinh trưởng tốt trong môi trường nước có độ mặn cao, sự tăng trưởng của chúng chỉ bị ức chế khi tiếp xúc với môi trường nước có độ mặn thấp. Tuy nhiên, khi tôm giống nhiễm vi khuẩn Vibrio gây bệnh với mật độ rất cao ngay từ trong trại giống thì khó có thể kiểm soát được dịch bệnh. Mức độ nhiễm bệnh của tôm giống sẽ quyết định khả năng sống sót của tôm giống tại các trại nuôi, giống như trường hợp Hội chứng tôm chết sớm (EMS) do chủng Vibrio parahaemolyticus gây ra. Thậm chí nếu tôm giống nhiễm bệnh được nuôi trong nước ngọt, tôm vẫn có thể chết trong những ngày nuôi đầu. Ngọc Tú dịch Theo The Global Aquaculture Advocate, Tập 17, Số 6
Ương nuôi, Ngày 5 (Độ mặn 2 ppt)
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
151
Tổng diện tích mặt bằng chợ Bình Điền khoảng 65ha, với 120.000m2 cho 07 nhà lồng theo ngành hàng như hải sản, cá đồng, thực phẩm công nghệ, rau củ quả, trái cây, hoa tươi và thủy sản khô. Chợ có trên 1.700 ô vựa kinh doanh, mỗi vựa có diện tích từ 40-50m2 với khoảng 7.500 người hoạt động thường trực
CHỢ THỦY SẢN
BÌNH ĐIỀN CHỢ NÔNG SẢN BÌNH ĐIỀN Ở TP HỒ CHÍ MINH LÀ CHỢ ĐẦU MỐI KINH DOANH ĐA NGÀNH HÀNG BAO GỒM THỦY HẢI SẢN, RAU CỦ QUẢ, TRÁI CÂY, THỊT GIA SÚC, GIA CẦM, GẠO, HOA TƯƠI… THÔNG QUA VIỆC DI DỜI NHIỀU CHỢ ĐÊM TRONG NỘI THÀNH RA NGOẠI THÀNH, ĐÂY ĐƯỢC XEM LÀ CHỢ ĐẦU MỐI QUY MÔ LỚN VÀ HIỆN ĐẠI NHẤT CẢ NƯỚC.
Trần Duy
152 152THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015 152
Chợ Bình Điền hoạt động thâu đêm và luôn nhộn nhịp từ 20h cho đến 6h sáng hôm sau, cung ứng và phân phối thực phẩm cho Tp Hồ Chí Minh với trên 9 triệu dân. Hàng hóa tại chợ phải chấp hành các quy định về ATVSTP và việc ghi chép nguồn gốc hàng hóa nhập - xuất hằng ngày
Hầu hết thương nhân không kinh doanh hàng nông sản có xuất xứ từ Trung Quốc mà chủ yếu từ các tỉnh miền Nam Trung Bộ, miền Đông và Tây Nam Bộ.
Những ngày cuối năm lượng hàng hóa tập trung luân chuyển tại chợ rất lớn
Tại chợ luôn có đầy đủ mọi chủng loại thủy hải sản từ các tỉnh đưa về giao dịch
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
153
ÀÊËT VIÏåT / NHÛÄNG NEÃO ÀÛÚÂNG
Độc đáo cá nướng ủ trấu
Cá nướng rơm mùa gặt Ninh Bình (nguồn ảnh Internet)
154
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN - XUÊN ÊËT MUÂI
Sản phẩm cá nướng ủ trấu bỏ lò
C
uối năm, khi cái rét đang len lỏi trên khắp phố phường, thật dễ chịu khi lui cui trong căn gác trọ của một người bạn lâu ngày không gặp. Mâm cơm được dọn ra. Bạn tôi bưng từ dưới bếp lên một đĩa cá nướng còn nóng hổi rồi cẩn thận xếp từng miếng cá kho vàng ươm ra đĩa. Bữa cơm đạm bạc mà sao ngon lạ. Cái vị ngon ngọt bùi ngậy, thịt cá săn chắc, xương cá xốp mềm, từng miếng cá tan dần trong miệng mà có lẽ chỉ có “bí quyết gia truyền” mới nấu được. Bạn tôi chia sẻ: “Món cá này nướng theo kiểu dân gian. Ở bất cứ vùng quê nào trên khắp đất nước Việt Nam này đều có thể chế biến món cá nướng đơn giản
bằng cách đốt rơm và trấu sau đó xiên cá, thường thì cá được xiên thẳng từ miệng vào trong bụng bằng que tre tươi hoặc những cành cây tươi... sau đó được cắm thẳng đứng trong đống lửa và nướng cho tới khi chín. Thuở ấu thơ, mình thường cùng lũ bạn rủ nhau ra đồng chăn trâu. Mỗi khi may mắn bắt được vài ba chú cá, lại cùng nhau vun rơm để đốt, vừa sưởi ấm, vừa nướng cá. Món cá nướng đã đi vào tuổi thơ, vào nỗi nhớ của mình, để khi lớn lên, dù bay đi đến phương trời nào cũng không sao quên được.” Món cá nướng ủ trấu nổi tiếng nhất đến từ các tỉnh Nam Định và Thái Bình. Tại xã Phương Định, huyện Trực Ninh,
tỉnh Nam Định, “đặc sản” có món cá nướng úp chậu với phần da cá vàng ươm, giòn dai như mực nướng, phần thịt chắc nịch, thơm phức được úp chậu và nướng bằng rơm và trấu. Món cá nướng đã trở thành món ăn không thể thiếu của người dân nơi đây. Trong ngày Tết, mọi gia đình đều có đĩa cá vàng ươm quện mùi rơm rạ đồng quê cúng ông bà, tổ tiên. Cánh chế biến món ăn cũng khá kỳ công: Sau khi mua cá ở chợ hoặc đánh dưới đầm lên, gia chủ cắt cá làm đôi, làm ba (tùy theo kích cỡ của cá), rửa sạch, cho cá vào một chiếc chậu nhỏ, ướp bột canh, sả, gừng với thời gian khoảng 30 phút cho THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
155
ÀÊËT VIÏåT / NHÛÄNG NEÃO ÀÛÚÂNG
cá ngấm gia vị. Khi đã kiểm tra chậu úp cá chắc chắn, bắt đầu trải rơm đốt xung quanh thành chậu, phía trên chậu liên tục trong 30 phút. Rồi phủ kín chậu bằng một lớp trấu dày đốt trong khoảng 5 tiếng. Sau đó, gạt hết lớp trấu và rơm trên chậu, dùng kẹp tre mở chậu để lật cá. Cẩn thật lật mặt sau của cá và tiếp tục ủ trấu nóng trong 5 - 6 tiếng. Khi cá chín vàng, thơm lừng ấn vào thấy khô là hoàn tất. Khi ăn chấm cá với nước mắm pha gừng, vừa cay, vừa bùi, thơm mùi rơm nếp. Hiện nay, món ăn này được khá nhiều người lấy làm nghề kinh doanh, và chế biến thành dạng ăn liền cho mọi gia đình, với cách làm cũng công phu hơn, có bí quyết, có quy trình chế biến 156
THÛÚNG MAÅI THUÃY SAÃN / SÖË 181-182 / THAÁNG 1+2/2015
hẳn hoi. Nguyên liệu là cá tươi được chọn lọc kĩ, có thể là cá rô phi, cá vược, cá trắm đen.. Sau khi làm sạch, tẩm ướp gia vị, cá được bỏ trong lò nướng ủ trấu từ 16-18 tiếng. Sau đó, lấy ra để nguội, đóng trong túi ni lông và dán chân không. Người dân cho biết, làm món cá nướng ủ trấu kiểu này nếu để nơi thoáng mát tránh nhiệt độ cao thì để đến 15 ngày ăn vẫn thơm ngon, nếu để trong tủ lạnh thì thời gian còn lâu hơn. Anh Sâm- một trong những người đầu tiên nghiên cứu và biến món ăn cổ truyền của quê mình thành món ăn liền cho mọi nhà bật mí cá được nướng trong các lò ủ có rất nhiều ưu điểm như: Cá nướng kiểm soát được
nhiệt độ suốt từ đầu cho đến khi hoàn thành (có đồng hồ kiểm soát nhiệt) trong suốt quá trình ủ, toàn thân cá ngấm đều những gia vị tẩm ướp, khi hoàn thành đem ra ăn không cần phải chấm thêm gia vị, xương cá dừ, thịt chắc, màu cá vàng đều cả 2 mặt vì nhiệt trải đều quanh thân cá; Cá được nướng bằng trấu, nên khi ăn cảm nhận được hương vị trấu cháy thơm lừng… Món cá nướng ủ trấu dân gian đã bay qua lũy tre làng để đến các miền khác trên Tổ quốc như Sài Gòn, Hà Nội… Hi vọng, một ngày không xa, món ngon dân gian Việt Nam sẽ vươn xa hơn nữa ra thị trường thế giới. Nguyễn Thị Hồng Hà