6 minute read

f. Kiến trúc Parametricism

thì không thể quên được KTS tiên phong của giai đoạn này – Santiago Calatrava. Tiếp nối những công trình đã nổi tiếng từ những năm 1990, sáng tác của S. Calatrava những năm đầu thế kỷ 21 là hết sức ấn tượng với Bảo tàng Nghệ thuật Milwaukee ở Wisconsin, Auditorio de Tenerife ở Santa Cruz de Tenerife, Tổ hợp thể thao Olympic, Ga LiègeGuillemins ở Bỉ, Cầu Margaret Hunt Hill Bridge ở Dallas, Bảo tàng Ngày mai ở Rio de Janeiro, Ga tàu điện ngầm World Trade Center ở New York, Đại học Bách khoa Florida, Tòa nhà Ciudad de las Artes y las Ciencias ở Valencia. Những công trình Biểu hiện của Herzog & de Meuron cũng hết sức ấn tượng như Bảo tàng Nghệ thuật Tate Modern ở Luân Đôn, Sân vận động Quốc gia Bắc Kinh, Sân vận động Arena ở Munich, Bảo tàng Khoa học tự nhiên ở Barcelona, Phòng hòa nhạc Elbphilharmonie ở Hamburg. Ngoài ra còn phải kể đến Bảo tàng Nghệ thuật Graz ở Áo, The ArcelorMittal Orbit ở Luân Đôn, Selfridges Building ở Birmingham, Perth Arena ở Australia, Baku Flame Towers ở Azerbaijan, Tbilisi Public Service Hall ở Georgia, Bảo tàng Design Holon ở Tel Aviv, Sân vận động Soccer City ở Johannesburg, Nhà hát lớn Wuxi ở Giang Tô. Kiến trúc Biểu hiện ở đầu thế kỷ 21 chú trọng sử dụng các kết cấu và vật liệu hiện đại như hệ khung – sườn kim loại nhẹ, kết cấu khung – vỏ Diagrid, vỏ bê tông cốt thép siêu mỏng, vật liệu phủ siêu nhẹ như màng nhựa ETFE cho phép tạo ra những hình khối điêu khắc đầy ấn tượng vươn rộng ra không gian mà cần rất ít những điểm tiếp xúc với mặt đất. Bên cạnh đó là việc sử dụng các hệ thống thủy lực, hệ thống đèn LED trên toàn bộ bề mặt ở một số công trình tạo khả năng biến đổi cấu trúc và mặt đứng theo thời gian cũng làm tăng khả năng biểu cảm và gây ấn tượng mạnh.

f. Kiến trúc Parametricism

Advertisement

Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee, Wisconsin, Mỹ có thiết kế bên ngoài độc đáo với một cấu trúc bêtông có thể chuyển động, với “đôi cánh” là hai tấm chắn nắng mang hình dáng cánh chim hải âu có thể đóng mở. Thể hiện rõ nét của chủ nghĩa kiến trúc biểu hiện.

Kiến trúc Parametricism hay còn gọi là kiến trúc tham số, trào lưu kiến trúc xuất hiện khi sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học tự nhiên trong đó có ngành toán học với các dạng hình học mới xuất hiện như Lobachevsky, Fractal, Topology,…đã hỗ trợ cho các kiến trúc sư đương đại nhận thức về không gian và xây dựng nên các ý niệm, lý luận về thị hiếu thẩm mỹ, công năng cho thời đại mới. Những lý luận này sẽ không thể hiện thực hóa nếu như không có một cơ sở vững chắc là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và

công nghệ đồ họa máy tính. Những bước tiến mới của kỹ thuật đồ họa trong thập niên 90 của thế kỷ XX đã tạo ra những công cụ thiết kế hỗ trợ đắc lực cho các kiến trúc sư trong việc thể hiện các đường cong, bề mặt hay không gian phức tạp của hình học Topo. Và dạng kiến trúc tham số sẽ áp dụng những quy luật về toán học để cho ra đời các công trình kiến trúc độc đáo, điều này cũng đánh dấu cho sự phát triển mới trong kiến trúc nhất là trong thời kỳ công nghiệp 4.0 khi mà các ứng dụng về nền tảng kỹ thuật và công cụ tính toán máy tính cao cấp ra đời và áp dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực. Đồng thời sự phát triển của xu hướng kiến trúc Parametricism cũng dẫn đến sự phát triển theo của kỹ thuật xây dựng và các phương pháp kết cấu mới ra đời nhằm chịu lực cho công trình. Kiến trúc tham số có những nguyên tắc thiết kế bao gồm: Giải pháp tạo hình – những nguyên lý, quy định để hướng dẫn việc thiết kế và đánh giá hình thức bên ngoài của công trình; Giải pháp công năng - những nguyên lý, quy định để hướng dẫn việc thiết kế và đánh giá chất lượng công năng của thiết kế. Kiến trúc tham số được coi là một xu thế mang hơi thở của thời đại, cũng đánh dấu những thành quả tiến bộ của nền khoa học tự nhiên và nền khoa học máy tính, đây cũng đánh dấu cho việc kiến trúc đã làm được những điều mà con người thậm chí chưa từng nghĩ đến. Ngoài ra toán học hiện đại có vai trò cực kỳ quan trọng trong tạo hình của Kiến trúc Tham số. Hình học phi Euclide nói chung hay cụ thể là toán học Topo là cơ sở lý luận, logic và là nền tảng, cấu trúc ban đầu để phát triển những mô hình tham số phức tạp sau này, góp phần gỡ bỏ những nguyên tắc cứng nhắc trong tạo hình, thúc đẩy cho xu hướng Kiến trúc Tham số phát triển mạnh mẽ. Kiến trúc Tham số tạo ra một hình khối kiến trúc có sự khác biệt (sự thay đổi) một cách liên tục, tính mềm dẻo và tính linh hoạt. Nó cho phép tạo ra một hình thù phức tạp nhưng liền mạch, thanh lịch và hoàn toàn khả thi trong việc xây dựng trên thực tế. Do được mô hình hóa trên máy tính, Kiến trúc Tham số lập nên một chương trình nghiên cứu dự án thiết kế trước khi công trình được xây dựng. Nó trả lời các câu hỏi cái gì có thể làm được và không làm được trên thực tế từ ý tưởng ban đầu của các kiến trúc sư. Do đó nó cung cấp một sự hiểu biết tốt hơn đối với dự án thiết kế. Điều này cho phép kiến trúc sư xác định mục tiêu, phương pháp và các giá trị mới trong quá trình thiết kế. Sự ra đời của Kiến trúc Tham số đã làm thay đổi cách thức, chiến lược thiết kế của các kiến trúc sư như: việc sơ phác (sketch) hầu như sẽ làm việc với mô hình ba chiều nhiều hơn là vẽ bằng tay, làm việc nhiều hơn với các dạng toán học đương đại cũng như các đoạn mã, mọi đối tượng đều được Module hay Pattern hóa nhằm để tái sử dụng và chia sẻ ý tưởng thiết kế…. Để làm được điều này, các kiến trúc sư phải học những kĩ năng và những công cụ mới để hỗ trợ. Việc áp dụng các phương pháp sáng tác của xu hướng này tỏ ra hiệu quả đối với tất cả các quy mô của dự án thiết kế từ các chi tiết trang trí nhỏ cho đến thiết kế cả một không gian đô thị rộng lớn. Quy mô dự án thiết kế càng lớn thì Kiến trúc Tham số càng tỏ rõ tính hiệu quả của nó. Một đặc điểm quan trọng của xu hướng kiến trúc này là có sự tham gia một cách trực tiếp của máy tính vào quy trình thiết kế của kiến trúc sư. Máy tính không còn đóng vai trò hỗ trợ đơn thuần nữa mà có chức năng "gợi ý" cho Kiến trúc sư tìm kiếm các ý tưởng kiến trúc thông qua các hàm số hình học có chứa đựng tham số. Vai trò thiết kế của kiến trúc sư từ thế chủ động đã chuyển sang thế bị động khi tìm kiếm nét đẹp của các hình khối kiến trúc một cách ngẫu nhiên từ các mô hình được xây dựng trên máy tính. Tuy nhiên, điều này cũng không có nghĩa là kiến trúc sư ngày càng phụ thuộc vào máy

This article is from: