NHỮNG NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO
CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU PHẬT GIÁO QUẬN 3 LẦN THỨ X, NHIỆM KỲ 2021-2026
BAN BIÊN TẬP Cố vấn và chỉ đạo: Hòa thượng THÍCH MINH HIỀN (Trưởng Ban Trị sự GHPGVN Quận 3)
Ban Biên soạn: Đại đức THÍCH THIỆN CHÂU (Trưởng ban) Đại đức THÍCH MINH ÂN Đại đức CHÂU HOÀI THÁI Tiến sĩ PHAN ANH TÚ Hình ảnh và Trình bày: Tâm Nguyên Minh Ngộ Đăng Huy
MỤC LỤC LỜI CHỨNG MINH....................................................................................................13 LỜI GIỚI THIỆU........................................................................................................17 LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................19 Phần I..........................................................................................................................23 KHÁI QUÁT HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂNPHẬT GIÁO QUẬN 3.................23 Phần II.........................................................................................................................29 GIỚI THIỆU NHỮNG NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO QUẬN 3...................................29 Phường 1.....................................................................................................................30 CHÙA ĐẠI HẠNH......................................................................................................31 CHÙA LINH CHƯỞNG..............................................................................................36 NIỆM PHẬT ĐƯỜNG LIÊN TRÌ...............................................................................42 Phường 2.....................................................................................................................45 CHÙA LIÊN QUANG.................................................................................................46 CHÙA PHƯỚC HÒA..................................................................................................51 CHÙA TRÚC LÂM.....................................................................................................64 Phường 3.....................................................................................................................72 CHÙA KỲ VIÊN.........................................................................................................73 CHÙA QUẢNG ĐỨC.................................................................................................80
Phường 4.....................................................................................................................84 CHÙA HUỆ QUANG..................................................................................................85 TỔ ĐÌNH PHẬT BỬU................................................................................................88 CHÙA PHẬT ĐÀ........................................................................................................99 CHÙA TỪ MINH......................................................................................................108 Phường 5...................................................................................................................112 CHÙA NGUYÊN HƯƠNG.......................................................................................113 CHÙA PHỔ HIỀN.....................................................................................................118 CHÙA THIÊN BẢN..................................................................................................121 Phường Võ Thị Sáu..................................................................................................127 CHÙA TÒNG LÂM..................................................................................................128 CHÙA VĨNH NGHIÊM............................................................................................133 CHÙA CHĂNTARĂNSÂY (CANDARASI)...........................................................150 CHÙA XÁ LỢI..........................................................................................................161 CHÙA LINH XUÂN.................................................................................................181 CHÙA HUYỀN TRANG..........................................................................................184 THIỀN VIỆN QUẢNG ĐỨC....................................................................................187 CHÙA VẠN THIỆN..................................................................................................198 CHÙA HUỆ ĐĂNG..................................................................................................202 NI VIỆN KIỀU ĐÀM................................................................................................206 TỊNH XÁ NGỌC DIỆP.............................................................................................213 Phường 9...................................................................................................................217 CHÙA MINH ĐẠO...................................................................................................218 CHÙA VIÊN THÔNG...............................................................................................236 Phường 10.................................................................................................................238 CHÙA TRUNG HÒA................................................................................................239 CHÙA VẠN QUỐC..................................................................................................244 Phường 11.................................................................................................................248 CHÙA KHÁNH HƯNG............................................................................................249 CHÙA HƯNG PHƯỚC.............................................................................................260 CHÙA BÁT NHÃ......................................................................................................276
CHÙA VĨNH XƯƠNG..............................................................................................280 CHÙA PHƯỚC QUANG..........................................................................................286 CHÙA BỬU LONG...................................................................................................296 Phường 13.................................................................................................................299 CHÙA HẢI TUỆ.......................................................................................................300 Phường 14.................................................................................................................309 CHÙA PHÁP HOA...................................................................................................310 CHÙA THÍCH CA....................................................................................................324 CHÙA LONG VĨNH.................................................................................................328 CHÙA PHÁP VÂN...................................................................................................336 CHÙA KIM CƯƠNG................................................................................................343 CHÙA VĨNH PHƯỚC...............................................................................................352 CHÙA PHƯỚC HUỆ................................................................................................356 CÔNG VIÊN TƯỢNG ĐÀI BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC.................................360 PHỤ LỤC...................................................................................................................376 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................378
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
13
LỜI CHỨNG MINH Lịch sử Nam Bộ ghi: Năm Mậu Dần 1698, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh - một vị danh tướng thời chúa Nguyễn Phúc Chu đã thiết lập chế độ hành chính chính thức ở vùng đất phương Nam có tên gọi phủ Gia Định. Về sau, vùng đất Nam Bộ này được gọi là Gia Định Thành và đến sau năm Tân Mão 1832, Gia Định là vùng đất rộng lớn thuộc Nam Kỳ Lục Tỉnh, bao gồm: thành phố Hồ Chí Minh và một số huyện thuộc tỉnh Tây Ninh, Long An ngày nay. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế quan trọng của cả nước. Ngay từ những buổi đầu khai hóa, Tăng lữ Phật giáo đã cùng những lưu dân vùng Thuận - Quảng khai khẩn vùng đất hoang sơ, mở rộng và giữ ổn định biên giới. Những bậc cao Tăng, Thiền sư ra sức giúp đỡ người dân, chữa bệnh, bốc thuốc, chăm lo đời sống tinh thần,v.v… từng bước đã hình thành nên quan niệm viên dung giữa Đạo và Đời - Phật giáo đồng hành cùng Dân tộc, trở thành những nét văn hóa riêng đặc sắc, nhưng vẫn giữ sự liên kết với truyền thống của Phật giáo. Có thể nói, từ những buổi đầu khai hóa cho đến hiện nay, Đạo Phật giữ một vị trí văn hóa quan trọng trong đời sống của người dân Nam Bộ. Phật giáo ảnh hưởng sâu rộng đến quan niệm sống, các phong tục tập quán của nhân dân. Với sự xuất hiện của nhiều thế hệ các bậc cao Tăng thạc đức tiếp
14 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
nối hơn 3 thế kỷ, Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh giờ đây có vị trí đặc biệt quan trọng, là trung tâm cho các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử hình thành và phát triển thành phố Hồ Chí Minh. Quận 3 là một trong những quận trung tâm của Thành phố, với nhiều đặc điểm nổi bật và hết sức đa dạng. Quận 3 cũng là địa danh lưu lại biết bao dấu tích lịch sử hung tráng của Phật giáo Việt Nam, đặc biệt tiêu biểu là sự kiện Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân phản đối chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm năm Quý Mão 1963. Địa điểm này hiện nay đã trở thành Công viên Tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức - là nơi nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và cả nước tôn vinh công đức của Ngài, là biểu tượng cho trái tim bất diệt, từ bi, trí tuệ, vô ngã, vị tha và tinh thần đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo Việt Nam. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ca ngợi: “Vị pháp thiêu thân vạn cổ hùng huy thiên nhật nguyệt; Lưu danh bất tử bách niên chính khí địa sơn hà”. để rồi hôm nay chỗ ngài ngồi một thiên thu tuyệt tác, trong vô hình ẩn chứa nét từ bi. Ngoài ra, với đặc thù là nơi giao thoa giữa nhiều nền văn hóa, với vị trí trung tâm, Phật giáo Quận 3 có nhiều Tự viện nổi tiếng như: chùa Khánh Hưng - ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Quận 3, chùa Phật học Xá Lợi - Trụ sở của Hội Phật học Nam Việt; chùa Vĩnh Nghiêm: trụ sở Hệ phái Vĩnh Nghiêm; chùa Phật Bửu: Tổ đình của tông phái Thiền Tịnh Đạo Tràng; Chùa Kỳ Viên: trụ sở Trung ương Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam; Thiền viện Quảng Đức: trụ sở Văn phòng II, Trung ương GHPGVN; Chùa Chantarangsay: ngôi Chùa Khmer tiêu biểu tại Thành phố Hồ Chí Minh, v.v… Với sự gắn bó Phật sự tâm huyết của nhiều thế hệ danh Tăng của Phật giáo Việt Nam, nơi trú xứ hành đạo của nhiều Giáo phẩm tôn túc lãnh đạo của Trung ương Giáo hội qua các thời kỳ như: HT. Chơn Như - Minh Trực, HT. Thích Thiện Hào, HT. Thích Pháp Lan, HT. Thích Thiện Minh, HT. Bửu Chơn, HT. Giới Nghiêm, HT. Ẩn Lâm, HT. Siêu Việt, HT. Lâm Em, HT. Tâm Giác, HT. Thanh Kiểm, HT. Hiển Pháp, v.v...
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
15
Đây là một công trình nghiên cứu có giá trị lịch sử về quá trình hình thành phát triển Phật giáo Quận 3, đồng thời giúp cho Tăng ni Phật tử, những học giả nhà nghiên cứu có thêm nguồn tư liệu quý giá về thông tin hình ảnh, đặc điểm kiến trúc, hệ thống hoành phi, câu đối, và các hoạt động Phật sự của 44 ngôi Tự viện trên địa bàn Quận 3. Ngoài ra, tác phẩm còn giới thiệu tổng quát về quá trình hành đạo của một số Quý Tôn đức tiêu biểu trú xứ tại Quận 3. Từ đó giúp người đọc có nhiều thông tin hữu ích, giá trị về Phật giáo, là cẩm nang giới thiệu Phật giáo Quận 3 tới mọi tầng lớp xã hội. Chúng tôi rất hoan hỷ với thành quả này và tán thán công đức của Ban Trị sự GHPGVN Quận 3, Ban biên soạn. Tôi mong rằng, quý Tăng Ni, Phật tử, thông qua cuốn sách này, không chỉ hiểu biết về lịch sử Phật giáo của quận nhà mà từ đây, nỗ lực hết sức, kế thừa truyền thống của các bậc Tổ sư và phát huy thành quả Phật sự của Phật giáo Quận 3. Tất cả cùng giữ vững sự đoàn kết, ổn định và phát triển, đóng góp cho ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển. Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát!
Chùa Minh Đạo, ngày 03 tháng 3 năm 2021 Hòa thượng Thích Thiện Nhơn (Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN)
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
17
LỜI GIỚI THIỆU Cuốn sách “Lịch sử những ngôi chùa Phật giáo Quận 3” mà chư Tôn đức và quý đọc giả đang cầm trên tay là một khảo cứu do Ban Trị sự GHPGVN Quận 3 chủ trương thực hiện từ năm 2017. Hơn 3 năm nghiên cứu, sưu tầm và biên soạn, sau khi nhận được bản thảo cuốn sách từ Đại đức Thích Thiện Châu, với tư cách là Trưởng ban Trị sự GHPGVN Quận 3, tôi vô cùng hoan hỷ với việc làm của Ban biên soạn và trân trọng ghi nhận công đức của Đại đức Thiện Châu với nhiều tâm huyết cho Phật giáo Quận nhà. Đây là một món quà nhỏ nhưng giá trị lại rất lớn lao, là thành quả Phật sự chào mừng Đại hội Phật giáo Quận 3 nhiệm kỳ 2021-2026. Ban biên soạn đã dựa trên những khảo sát thực tế những ngôi chùa, tìm hiểu sử liệu về hành trạng của các bậc Tôn đức trú xứ các Tự viện để thực hiện công trình nghiên cứu này. Đây là tài liệu giới thiệu tổng quan về nguồn gốc, kiến trúc và giá trị lịch sử. Đặc biệt là hành trạng các bậc Tôn đức đã đóng góp tích cực cho sự phát triển của Phật giáo Quận nhà trong tinh thần “ôn cố tri tân” nên rất có giá trị đóng góp một phần nào xây dựng sử liệu Phật giáo của địa phương, để thế hệ trẻ noi gương của các bậc tiền bối có công với Dân tộc và Đạo pháp, khẳng định giá trị của Phật giáo đồng hành cùng Dân tộc qua các thời kỳ.
18 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Vì vậy, tác phẩm này không chỉ là một cuốn sách nghiên cứu đơn thuần mà là cả tâm huyết và niềm tự hào, tri ân sâu sắc với những công đức của các bậc tiền bối qua các thời kỳ, sự đóng góp của các Tự viện nói chung và chư Tôn đức trú xứ Quận 3 nói riêng, đó là những đóa hoa đạo lý tỏa ngát hương thơm, làm mô phạm cho thế hệ tương lai trên bước đường thừa hành Phật sự “Hoằng pháp lợi sanh vi bổn hoài” của người con Phật. Tôi tin rằng, các Tăng Ni trẻ, hàng hậu học tại các trú xứ quận nhà, cũng như những ai quan tâm về lịch sử Phật giáo quận 3 sẽ cảm nhận được giá trị từ cuốn sách này. Với những giá trị thiết thực đó, tôi xin có mấy lời tri ân và đánh giá cao về công trình nghiên cứu “Lịch sử những ngôi chùa Phật giáo Quận 3” của Ban biên và xin trân trọng giới thiệu tác phẩm này đến chư Tôn đức và quý vị độc giả.
Trân trọng! Chùa Phật Đà, mùa An cư Phật lịch 2564 Hòa thượng Thích Minh Hiền (Trưởng ban Trị sự GHPGVN Quận 3)
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
19
LỜI NÓI ĐẦU
B
an Trị sự GHPGVN Quận 3, trải qua nhiều nhiệm kỳ, với tâm huyết phải cho ra đời một bộ sách tổng hợp về lịch sử văn hóa và truyền thống của các ngôi Tự viện thuộc địa bàn Quận, nhằm mục đích giới thiệu, giáo dục truyền thống, phục vụ cho nhu cầu hoạt động Phật sự của Ban Trị sự. Đặc biệt là xây dựng nguồn sử liệu bản địa, giúp các cấp quản lý chính quyền Nhà nước, các tổ chức xã hội và đông đảo Tăng Ni, Phật tử, nhân dân địa phương có một cẩm nang để tham khảo, tra cứu và nghiên cứu phục vụ hữu hiệu cho sự hiểu biết cơ bản, chuẩn xác của từng cá nhân, tổ chức về vị trí, vai trò cũng như đóng góp của Phật giáo Quận 3 đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam và phong trào Cách mạng, trải qua nhiều hoàn cảnh lịch sử nhất định. Có thể nói, một trong những Phật sự quan trọng nhất của Ban Trị sự GHPGVN Quận 3 nhiệm kỳ IX (2016 - 2021) đó là biên soạn thành công cuốn sách “Lịch sử những ngôi chùa Phật giáo Quận 3”. Bước đầu, Ban biên soạn đã thu thập thông tin từ nguồn tài liệu sẵn có, qua các vị Trụ trì và qua lời của các bậc cao Tăng đương thời. Có thể nói rằng, đối với tất cả Tăng Ni, tuy đồng hạnh nguyện “Hoằng pháp lợi sanh” nhưng mỗi cá nhân đều có những nét riêng, mỗi Tự viện có cách làm và thể hiện khác nhau dưới nhiều hình thức, cho nên sự trình bày giới
20 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
thiệu về những ngôi chùa cũng trở nên đa dạng về thông tin và nội dung thể hiện, với những ngôi chùa có bề dày lịch sử đồ sộ, đã được nghiên cứu và phổ biến rộng rãi. Ban biên soạn cũng trích dẫn lại từ một số nguồn tin cậy, tham khảo tài nguyên internet, tuy nhiên có chỉnh lý, thêm vào một số phụ chú và cập nhật thêm thông tin cho đến thời điểm hiện tại. Để thuận tiện trong việc tra cứu và đối chiếu, phần trình bày từng Tự viện, Ban biên soạn chia làm 3 phần, xuyên suốt từ khi thành lập đến thời điểm hiện nay: 1- Lược sử hình thành và phát triển; 2- Kiến trúc văn hóa; 3- Các thế hệ Trụ trì và hoạt động Phật sự; 4- Thông tin liên lạc. Bên cạnh đó, Ban biên soạn cũng cố gắng bổ sung một phần nhỏ nhưng quan trọng và mang nhiều ý nghĩa về hành trạng của một số danh Tăng có nhiều công đức tại các Tự viện đó. Trong quá trình biên soạn, Ban biên soạn trải qua nhiều cảm xúc hết sức tự hào bên những trang sử rực rỡ của Phật giáo quận nhà: Quận 3 là một trong những quận trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh anh hùng, hội tụ đầy đủ các hệ phái Phật giáo đang truyền thừa, nhiều ngôi Tổ đình, danh lam thắng cảnh, trú xứ của các bâc cao Tăng thạc đức, lãnh đạo Phật giáo Việt Nam xưa cũng như nay. Niềm tự hào đó cũng là sự thách thức lớn vì Ban biên soạn phải nghiên cứu một lượng tài liệu đồ sộ gắn với nhiều sự kiện quan trọng và thông tin cần xác minh liên quan đến hành trạng của chư vị Tiền bối Tổ Sư. Tuy nhiệt huyết luôn tràn đầy nhưng năng lực còn hạn chế cùng với nguồn tư liệu sử và khuôn khổ của cuốn sách còn hạn chế. Ban biên soạn rất nỗ lực đưa ra nhiều thông tin chính xác dựa trên các tham khảo có khoa học, đối chiếu nhiều nguồn tư liệu chính thống và giá trị. Đây là lần xuất bản đầu tiên, Ban biên soạn và các thành viên đã cố gắng hết sức để hoàn thiện nội dung, nhưng chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Kính mong chư Tôn đức, quý thiện hữu tri thức và bạn đọc hoan hỷ chỉ dạy và góp ý, để trở nên hoàn thiện trong các lần xuất bản sau, vì mục đích cao cả của Phật giáo nói riêng và lịch sử văn hóa nước nhà nói chung. Ban biên soạn cũng xin trân trọng cảm niệm công đức của chư Tôn
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
21
đức lãnh đạo Ban Trị sự Phật giáo quận 3 qua các thời kỳ và Tăng Ni Trụ trì các Tự viện, đã cung cấp cho chúng tôi những nguồn sử liệu quý giá. Tri ân sự hợp tác nhiệt thành của các thành viên Ban biên soạn đã tham gia đóng góp, xây dựng, hình thành cuốn sách “Lịch sử những ngôi chùa Phật giáo Quận 3”. BAN BIÊN SOẠN
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
23
PHẦN I KHÁI QUÁT HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO QUẬN 3
T
rong lịch sử Phật giáo Nam Bộ, suốt từ buổi đầu khai hoang mở đất đến cuối thế kỷ XIX Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa và tín ngưỡng nói chung của đất Sài Gòn - Gia Định. Sài Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh là một vị trí trung tâm của giao lưu kinh tế - văn hóa, nên có sự thay đổi, biến chuyển không ngừng. Chính vì vậy, những trào lưu cách tân, chấn hưng Phật giáo cũng như những cải cách xã hội, quan điểm chính trị và cách mạng đều phát khởi mạnh mẽ từ đây. Suốt thời kỳ chống thực dân và đế quốc xâm lược, Phật giáo Thành phố đã hoạt động tích cực, góp phần trong công cuộc Cách mạng, nhằm đem lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc. Trong lịch sử, những thành tích của phong trào đấu tranh bảo vệ đạo pháp và dân tộc của Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh trong thế kỷ
24 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
XX, bắt nguồn từ quan niệm truyền thống “Đạo pháp và Dân tộc”, lịch sử truyền thừa Phật giáo tại đây đã lưu lại những bước chân hoằng hóa của các bậc Tổ sư đã cùng dân chúng tiến hành khai hoang, để lại bao tấm gương đạo hạnh sáng ngời của các bậc danh Tăng, với từ bi và trí tuệ dấn thân tích cực vì mục đích “Cứu nhân độ thế”: mở đường, xây cầu, dựng chùa, bốc thuốc, v.v...Đây là những mốc son hào hùng, lập lại những ánh đạo vàng thời cực thịnh triều đại Lý-Trần của Phật giáo Việt Nam. Quận 3 là địa điểm thuộc trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh, cũng được kế thừa bề dày lịch sử tốt đẹp đó, không những thế, đây còn là địa danh gắn liền với lịch sử của nhiều ngôi cổ tự, già lam nổi tiếng, trú xứ của nhiều bậc tòng lâm thạch trụ của Phật giáo Việt Nam thời cận đại cho đến ngày nay. Với đặc thù là một trong số các quận nội thành trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh, diện tích 4,92 km2. Quận 3 có địa giới hành chính: phía Bắc giáp quận Phú Nhuận và Tân Bình, phía Đông giáp quận Nhất, phía Tây giáp quận 10. Phật giáo Quận 3 hình thành và phát triển song hành cùng với dòng lịch sử 300 năm của vùng đất Sài Gòn - Gia Định. Trong buổi đầu khai phá vùng đất mới, Phật giáo với truyền thống “hộ quốc an dân”, lại mang đặc điểm của một tôn giáo bình dị, gần gũi, thân thiện và hài hòa với đời sống tinh thần của người lưu dân nơi miền viễn xứ, nên từ đó Phật giáo đã sớm được người dân làm chỗ dựa tinh thần, nương tựa cho những cuộc đời truân chuyên dưới bóng từ bi của đức Phật. Niềm tin này dần trở thành một truyền thống, một sức sống mãnh liệt vững bền cho những người lưu dân trên bước đường mưu sinh, lập nghiệp. Trong buổi đầu đến với vùng đất mới, các bậc tiền bối đã chọn lối hoằng pháp cho đại chúng bằng phương thức đơn giản nhất, lối thuyết giảng dễ hiểu, dễ đi vào lòng người đã nhanh chóng đưa Phật giáo thấm sâu vào tâm thức của các cộng đồng cư dân trên vùng đất Sài Gòn - Gia Định xưa. Đó chính là nền tảng quan trọng để Phật giáo gắn bó với mảnh đất Quận 3 cho đến ngày nay.
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
25
Trước mọi biến cố của lịch sử nước nhà, Phật giáo Quận 3 luôn đồng hành cùng dân tộc, chia sẻ những giai đoạn lịch sử của đất nước. Bằng tinh thần từ bi, nhẫn nại và phi bạo lực, Phật giáo miền Nam đã từng thực hiện sứ mệnh đấu tranh bảo vệ tinh thần Đạo pháp và Dân tộc Việt Nam vào năm 1963. Chính cuộc đấu tranh của Phật giáo đã làm chấn động đến thế giới đương đại, làm thức tỉnh lương tri nhân loại. Đặc biệt trên địa bàn Quận 3 đã từng diễn ra một sự kiện lịch sử quan trọng: HT. Thích Quảng Đức, vị Pháp thiêu thân chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Sài Gòn dưới thời Ngô Đình Diệm. Để kỷ niệm sự kiện trọng đại này, một bảo tháp tôn vinh Ngài được xây dựng vào ngày 20 tháng 03 năm 1967 tại góc ngã tư đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu. Ngày nay một tượng đài uy nghiêm về Bồ Tát Thích Quảng Đức cũng đã được lãnh đạo chính quyền và nhân dân Thành phố xây dựng vào năm 2008, giữa một công viên đầy hoa và cỏ nằm đối diện với tòa tháp cũ, hình thành một quần thể tưởng niệm sự kiện lịch sử năm 1963 mang tên: Công viên tượng đài Bồ Tát Thích Quảng Đức. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử phát triển, Phật giáo Quận 3 hiện có 44 ngôi Tự viện bao gồm 41 Tự viện thuộc hệ phái Bắc tông, một Tịnh xá hệ phái Khất sĩ, một Tự viện của Phật giáo Nam tông Khmer và một niệm Phật đường. Với bề dày lịch sử rực rỡ: Khánh Hưng cổ Tự: Ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Quận 3 Chùa Phật học Xá Lợi: Trụ sở Hội Phật học Nam Việt Tổ đình Vĩnh Nghiêm: Trụ sở Hệ phái Vĩnh Nghiêm (miền Bắc) Tổ đình Phật Bửu: Tổ đình của Tông phái Thiền Tịnh Đạo Tràng Chùa Kỳ Viên: Trụ sở Trung ương Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam Thiền viện Quảng Đức: Trụ sở Văn phòng II, Trung ương GHPGVN Chùa Phước Hòa (Bàn Cờ): Nguyên là trụ sở Hội Phật học Nam Việt Chùa Changtarasay: Ngôi Chùa Khmer tiêu biểu tại Tp. HCM Có thể nói, Phật giáo Quận 3 còn là nơi lưu giữ nhiều dấu chân hành
26 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
đạo của các bậc Cao tăng đã đi vào lịch sử Phật giáo Việt Nam điển hình như: HT. Thanh Thạnh, HT. Chơn Như - Minh Trực, HT. Thích Thiện Hào, HT. Bửu Chơn, HT. Giới Nghiêm, HT. Ẩn Lâm, HT. Siêu Việt, HT. Lâm Em, HT. Tâm Giác, HT. Thiện Minh, HT. Thích Pháp Lan, HT. Tuệ Hải, HT. Tuệ Đăng,, HT. Thanh Kiểm, HT. Hiển Pháp, Ni trưởng Thích Nữ Đàm Hướng, Ni trưởng Thích Nữ Tịnh Bích, Ni trưởng Thích Nữ Tràng Liên v.v... Đương thời, Quận 3 là trú xứ của các bậc tôn túc lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam như: HT. Đức Nghiệp, HT. Hiển Tu, HT. Tịnh Hạnh, HT. Thiện Nhơn, HT. Thiện Bảo, HT. Danh Lung, HT. Giác Liêm, TT. Thanh Phong, TT. Thọ Lạc v.v... Với số lượng Phật tử đông đảo hàng trăm ngàn người sinh hoạt tại các Tự viện, trên địa bàn Quận 3 hiện còn có nhiều Đạo tràng Bát Quan Trai cùng bốn Gia đình Phật tử duy trì kết nối trong sinh hoạt Phật pháp giữa các chùa và cộng đồng. Công tác Giáo dục đào tạo Tăng Ni của Phật giáo Quận 3, với số lượng Tăng sinh đang theo học các lớp Sơ cấp, Trung cấp Phật học lưu trú trên địa bàn quận có số lượng giao động từ 500 - 600 Tăng sinh trong mỗi năm. Trường Trung cấp Phật học Thành phố Hồ Chí Minh (đặt tại Tổ đình Vĩnh Nghiêm từ năm 1990 đến năm 2002); Lớp Sơ cấp Phật học đặt tại chùa Phước Hòa, trải qua 13 khóa đào tạo, đã có gần 1000 Tăng Ni sinh tốt nghiệp, tiếp tục theo học các cấp học cao hơn. Ngoài ra, trên địa bàn Quận 3 còn có những giảng đường lớn của Thành phố Hồ Chí Minh Tổ chức, đặt tại chùa Xá Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm, Chùa Minh Đạo, Chùa Hưng Phước, Tổ đình Phật Bửu, Chùa Phật Đà, v.v...Hoạt động hoằng pháp diễn ra hàng tuần bao gồm các khóa tu thiền thất, đạo tràng trì chú Đại bi, các buổi pháp đàm, pháp thoại, thuyết giảng Phật pháp cho đồng bào Phật tử có nhu cầu tìm hiểu về đạo Phật và thực hành theo đường lối tu tập của đức Phật trong cuộc sống thường nhật và quan hệ xã hội. Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 nay là Ban Trị sự Giáo hội Phật
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
27
Giáo Việt Nam Quận 3 được thành lập năm 1983 trải qua 9 nhiệm kỳ với sự điều hành Phật sự (Trưởng ban Trị sự) như: HT. Thích Thiện Đức, HT. Thích Tịnh Hạnh, HT. Thích An Ngộ, HT. Thích Phổ Chiếu và HT. Thích Minh Hiền đều luôn sách tấn và tạo điều kiện thuận lợi để Tăng Ni trong quận tham gia tu tập trong các mùa An cư kiết hạ, tham gia các khóa học bồi dưỡng Trụ trì, tham gia Đại giới đàn do Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức… Trong công tác Phật sự, Ban Trị sự Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Quận 3 đã đề xuất với các cấp lãnh đạo Phật giáo Thành phố và các cơ quan hữu quan, bổ nhiệm Trụ trì cho các chùa trên địa bàn Quận, đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khuôn dấu tròn cho các Tự viện, Tổ chức và kêu gọi các chùa trong Quận trang nghiêm tổ chức những ngày lễ lớn của Phật Giáo và lễ hội dân tộc như: Đại lễ Phật đản, lễ Vu Lan báo hiếu, Tết Nguyên Đán, lễ tưởng niệm các bậc tiền bối hữu công, v.v … Công tác An sinh xã hội cũng là một nét son nổi bật của Phật giáo Quận 3, thể hiện tinh thần từ bi cứu khổ ban vui của đạo Phật. Hằng năm Ban trị sự Phật giáo Quận 3 đã cùng Tăng Ni, Phật tử và các nhà hảo tâm tổ chức nhiều hoạt động nhân đạo, cứu giúp người nghèo, cấp dưỡng cho các gia đình liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình có công với cách mạng bằng nguồn kinh phí hàng trăm tỷ đồng huy động từ nguồn kinh phí xã hội. Bên cạnh đó, Phật giáo Quận 3 cũng đã triển khai nhiều hoạt động từ thiện hữu ích cho cộng đồng như khoan giếng cho đồng bào ở vùng sâu vùng xa, trao tặng nhà tình thương, khám chữa bệnh, mổ mắt từ thiện, tặng quà cho người nghèo, ủng hộ chương trình xóa đói giảm nghèo của nhà nước, cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo hiếu học trên mọi miền đất nước, cung cấp suất ăn chay miễn phí, v.v…Kinh phí đóng góp cho các hoạt động từ thiện đều xuất phát từ Phật tử, các nhà hảo tâm thông qua lời kêu gọi của chư Tôn đức, Tăng Ni Phật giáo Quận 3. Đồng hành cùng dân tộc trong suốt những chặng đường lịch sử của
28 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
đất nước, Phật giáo Quận 3 đã luôn thể hiện vai trò nhập thế của mình trong mọi hoạt động nhằm đạt được những thành tựu Phật sự . Ngày nay, trong xu thế hội nhập với thế giới, Phật giáo Quận 3 luôn tiên phong trong hoạt động từ thiện - xã hội, thực hiện chính sách ngoại giao Phật giáo, góp phần nâng cao hình ảnh của đất nước Việt Nam hòa bình, thân thiện và đáng tin cậy trong mắt bạn bè thế giới. Phật giáo Quận 3 đã tiếp nối những di sản lớn lao của lịch sử Phật giáo Việt Nam, hòa nhập với nền văn hóa dân tộc hình thành nên một hệ giá trị quan trọng, thể hiện tinh thần vì Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội. Mùa An cư năm Canh Tý, PL. 2564 Kính ghi Tỳ kheo Thích Thiện Châu
PHẦN II GIỚI THIỆU NHỮNG NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO QUẬN 3 Lịch sử hình thành, văn hóa và kiến trúc
30 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
PHƯỜNG 1 1. CHÙA ĐẠI HẠNH..................................................25 2. CHÙA LINH CHƯỞNG..........................................30 3. NIỆM PHẬT ĐƯỜNG LIÊN TRÌ...........................36
Phường 1 - Chùa Đại Hạnh
31
CHÙA ĐẠI HẠNH Chùa Đại Hạnh tọa lạc tại số 268 bis, đường Lý Thái Tổ, phường 1, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
C
hùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, được cố Hòa thượng Thích Thiện Hòa xây dựng vào năm 1965. Năm 1986, cố Hòa thượng Thích Phổ Chiếu được đề cử về Trụ trì. HT. Thích Phổ Chiếu (1938 - 2013), nguyên Phó ban Kiểm soát Trung ương GHPGVN, Ủy viên Kiểm soát Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN Quận 3, nguyên Chánh đại diện Phật giáo Quận 3, nguyên đại biểu HĐND Quận 3, nguyên Ủy viên UBMTTQVN Quận 3, Trưởng Tông môn Tổ đình Linh Nguyên - Phước Tường. HT. Thích Phổ Chiếu người gốc Thủ Đức - Sài Gòn, được sinh trưởng trong gia đình có truyền thống Cách mạng. Từ thuở thiếu niên, noi theo ý chí của song thân, Hòa thượng tích cực tham gia Cách mạng tại địa phương và sau đó giác ngộ Phật pháp, xuất gia tu học với Hòa thượng Bửu Ngọc - Trụ trì Tổ đình Phước Tường, Quận Thủ Đức. Từ đây, Hòa thượng dốc lòng tham học, công phu giới luật tinh chuyên. Sau khi được giao trách
32 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
nhiệm Trụ trì, Hòa thượng luôn tâm niệm trùng hưng ngôi Tam Bảo và phát triển giáo dục Phật pháp, Ngài đã lần lượt mở các lớp giáo lý, giảng dạy Hán Nôm dành cho Tăng Ni và thiện tín hữu duyên, được tiếp nối cho đến ngày nay. Sinh thời, HT. Thích Phổ Chiếu là người có uy tín lớn, Hòa thượng được Tăng Ni tín nhiệm suy cử Chánh Đại diện Phật giáo Quận 3, Ủy viên Thường trực Ban Trị sự Thành hội Hồ Chí Minh qua nhiều nhiệm kì, Phó Ban Kiểm soát Trung ương GHPGVN, Chứng minh Ban Trị sự Phật giáo Quận 3. Trong giai đoạn 2002 - 2007, Chùa Đại Hạnh là nơi đặt trụ sở Văn phòng Phật giáo Quận 3. Đến năm 2013, Hòa thượng Thích Phổ Chiếu viên tịch, giao trách nhiệm Trụ trì cho Pháp tử là ĐĐ. Thích Phổ Đạo. KIẾN TRÚC MỸ THUẬT Hiện nay, trải qua 3 đợt trùng tu vào năm 1989, 1994 và 2003, Chùa Đại Hạnh có kiến trúc ba tầng với mái cong đầu đao trang trí hoa. Từ phía đường Lý Thái Tổ nhìn vào sẽ dễ dàng nhận thấy tấm bảng ghi
Phường 1 - Chùa Đại Hạnh
33
dòng chữ Chùa Đại Hạnh. Ngôi Tam Bảo tại Chánh điện được bày trí tượng thờ mang rõ nét phong cách chùa Nam Bộ với pho tượng Đức Phật Thích Ca ngự trên tòa sen, bên trái là Quan Thế Âm Bồ Tát, bên phải là Địa Tạng Vương Bồ Tát, phía trước là bàn thờ Thất Phật Dược Sư. Phía trước chánh điện có trang trí đại hồng chung và trống cổ. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn nhà hậu Tổ, bàn thờ Tổ, bàn thờ Di Lặc, bàn thờ Già lam Thánh chúng, Tiêu diện đại sĩ, tháp thờ Bồ Tát Quán Thế Âm, Bảo tháp của chùa và Vãng sanh đường dùng làm nơi để Phật tử để gửi di cốt của người đã quá vãng vào nương nhờ Tam Bảo. Một số hoành phi câu đối chữ Hán tại chùa GIẢNG ĐƯỜNG 法演真詮三界聖凡同信受 堂宣貝葉十方壇信共皈依 Pháp diễn chơn thuyên tam giới thành phàm đồng tín thọ Đường truyền bối diệp thập phương đàn tín cộng quy y TỔ ĐƯỜNG 祖道重興喜祝法音常演唱 殿堂再造慶求道脈永流通 Tổ đạo trùng hưng hỷ chúc pháp âm thường diễn xướng Điện đường tái tạo khánh cầu đạo mạch vĩnh lưu thông CHÁNH ĐIỆN (NGOÀI) 大行宏深一切含靈蒙濟度 知光普照十方萬類仰皈依 Đại hạnh hoằng thâm nhứt thiết hàm linh mông tế độ Trí quang phổ chiếu thập phương vạn loại ngưỡng quy y CHÁNH ĐIỆN (TRONG) 兜率降神惟一大緣最勝 娑婆出聖開示悟入真如 Đâu suất giáng thần duy nhứt đại duyên tối thắng Ta bà xuất Thánh khai thị ngộ nhập chơn như.
34 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Chùa Đại Hạnh là ngôi Tự viện có đông đảo Phật tử đến chiêm bái lễ Phật vào ngày vía Đức Quan Âm (19/2, 19/6 và 19/9 Âm lịch), lễ Vu Lan Báo Hiếu, Lễ Phật đản, Tết Nguyên Đán… cùng các ngày lễ lớn của dân tộc. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Chùa Đại Hạnh là trú xứ của cố Hòa thượng Thích Phổ Chiếu, nguyên Chánh Đại diện Phật giáo Quận 3 nhiệm kỳ 6 (2002 - 2007), trên cương vị này, Hòa thượng đã tiếp nối các hoạt động Phật sự, nối kết các Tăng Ni sinh hoạt theo tổ chức Giáo hội, góp phần vào sự đoàn kết, hòa hợp trong Phật giáo Quận. Với tâm huyết Phật sự, Hòa thượng luôn quan tâm, nâng đỡ, tạo điều kiện cho Tăng Ni trẻ, có năng lực tham gia vào công tác của Phật giáo Quận, đó là những hạt giống trí tuệ giờ đây đã trở thành những trụ cột của Quận nhà, gánh vác Phật sự, đáp lại tấm lòng của cố Hòa thượng. ĐĐ. Thích Phổ Đạo kế thừa sự nghiệp của Ngài, xây dựng Đạo tràng chùa Đại Hạnh có nề nếp, quy củ, ổn định và có chiều sâu trong tu học, thường xuyên mở những Lớp gia giáo dạy Hán văn, nghi lễ thiền môn, bổ túc cho Tăng Ni về truyền thống của Phật giáo miền Nam.
Phường 1 - Chùa Đại Hạnh
35
Hàng năm, vào các dịp lễ lớn như Tết, Phật Đản, Vu Lan,.....chùa Đại Hạnh phối hợp cùng Phường sở tại tổ chức các chương trình chia sẻ yêu thương, tặng quà, trao học bổng cho các gia đình diện khó khăn,.... đạt được nhiều ghi nhận và bằng khen của chính quyền các cấp. Chùa Đại Hạnh là một trong các đơn vị Tự viện tham gia tích cực trong mọi công tác Phật sự của Quận, đóng góp một phần trong thành tựu chung của GHPGVN Quận 3 ngày càng vững mạnh, xây dựng Quận 3 ngày một phát triển, văn minh. THÔNG TIN LIÊN HỆ Địa chỉ: Chùa Đại Hạnh, số 268 đường Lý Thái Tổ, phường 1, quận 3, Tp. Hồ Chí Minh Điện thoại: 028.38322509 Người sáng lập: Hòa thượng Thích Thiện Hòa Hệ phái: Bắc Tông Năm thành lập: 1965 Năm trùng tu: 1989, 1994, 2003 Trụ trì tiền nhiệm: HT. Thích Phổ Chiếu Trụ trì hiện nay: ĐĐ. Thích Phổ Đạo
36 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA LINH CHƯỞNG Chùa Linh Chưởng tọa lạc tại địa chỉ 788 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 1, Quận 3, TP.HCM do HT.Thích Quảng Viên (thế danh Lý Văn Còn) khai sơn năm 1952. Ngôi Tam bảo ban đầu lợp bằng ngói, xi măng và vật liệu nhẹ, dân cư và tín đồ Phật tử ở vùng Bàn Cờ thường lui tới sinh hoạt và tu học tại chùa rất đông tạo nên đạo tràng tu học trang nghiêm, thanh tịnh. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
N
gười sáng lập: cố HT.Thích Quảng Viên vào năm 1952. Chùa ban đầu là một thất nhỏ do gia đình của HT.Thích Quảng Viên (thế danh Lý Văn Còn) lập nên để cung thỉnh Ngài về tu tập, gieo duyên đến bà con trong vùng Bàn Cờ. Sau thời gian hành đạo hoằng hóa của Hòa thượng, đạo tràng ngày càng đông tín đồ. Vào thập niên 60, HT. Thích Quảng Viên thỉnh Hòa thượng Trường Lạc (tục danh Nguyễn Thiện Thọ), là người uyên thâm Nho học và Phật học, một trong những vị Pháp sư lỗi lạc thời bấy giờ, về Trụ trì giảng dạy Phật pháp ở nơi đây một thời gian dài. Từ đó, ngôi già lam Linh Chưởng
Phường 1 - Chùa Linh Chưởng
37
hội tụ nhiều thế hệ Tăng Ni và Phật tử đến theo học Phật pháp. Các Ni sư Trụ trì tiếp theo là ba chị em ruột, quê ở Sa Đéc (Đồng Tháp), được Hòa thượng cho phép, lần lượt đến chùa Linh Chưởng ở để đi học và trông nom chùa gồm: Ni sư Thích Nữ Chơn Thành (1930 - 1982); Ni sư Thích Nữ Chơn Ngọc (1927 - 1991); Ni sư Thích Nữ Phước Viên (1934 - 1999). Năm 1999, Ni trưởng Thích Nữ Như Dụng là đệ tử xuất gia của Hòa thượng Quảng Viên về hành đạo tại chùa Linh Chưởng, tiếp nối mạng mạch Tổ sư, Ni trưởng Thích Nữ Như Dụng lãnh trách nhiệm Trụ trì và được bổ nhiệm chính thức vào năm 2006, gánh vác Phật sự cùng chư Ni pháp lữ. Theo dòng thời gian, ngôi Tam bảo dần xuống cấp. Được sự ủng hộ của chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử xa gần, nhờ sự gíúp đỡ của các ngành chức năng và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Tp. Hồ Chí Minh, Ni trưởng Thích Nữ Như Dụng phát nguyện khởi công đại trùng tu, với sự hỗ trợ đắc lực của Ni sư Như Hoàng. Lễ đặt đá đại trùng tu vào ngày 25 tháng 2 năm Mậu Tý (2008), chính thức khởi công ngày 29 tháng 6 âm lịch cùng năm: mở rộng xây dựng mới khang trang với Tổng diện tích xây dựng là 535m2, do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thiết kế.
38 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Đặc biệt, các đường nét mỹ thuật Phật giáo hoàn toàn do các nghệ nhân Huế đảm trách thi công, mang lại tổng thể hài hòa truyền thống và hiện đại. Tổng kinh phí xây dựng chùa là 7 tỷ 600 triệu đồng, trong đó, được sự tùy hỷ cúng dường của chư Tôn đức Tăng Ni và quý Phật tử xa gần tổng cộng là 6 tỷ 300 triệu. Đến năm 2013, sau 5 năm chùa hoàn thành xây dựng. Từ đó đến nay đáp ứng đầy đủ điều kiên tốt nhất cho các đạo tràng Phật tử tu niệm
được đều đặn. Có thể nói đến nay, ngôi bảo điện chùa Linh Chưởng đã thập phần viên mãn, thỏa nguyện mong ước xiển dương Phật pháp của bao tấm lòng thiện tín xưa nay. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC Chùa Linh Chưởng thiết kế theo phong cách kiến trúc Đông Tây kết hợp, vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa đáp ứng được sinh hoạt Phật sự mà còn thể hiện được bản sắc văn hoá Việt Nam, tạo đươc một thắng tích cho địa phương, đáp ứng nhu cầu tu học Phật pháp cho hàng Phật tử tại gia.
Phường 1 - Chùa Linh Chưởng
39
Chùa có ba tầng với phối cảnh hài hòa: Tầng trệt: nổi bật là sân chùa được bài trí kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian; sân chùa thờ Bồ-tát Quán Thế Âm lộ thiên, bức phù điêu Bồ-tát Di Lặc, hương án, và đặc biệt tại một góc chùa có một án nhỏ thờ Thánh mẫu nương nương đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Ngoài ra còn có khu nhà bếp có thể phục vụ các lễ hội quy mô lớn, thẳng lối đi cửa chùa là phòng phát hành kinh sách. Tầng 1: Trai đường, phòng khách; giữa trai đường có trưng bày tượng Phật Thích Ca ngồi kiết-già, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Địa Tạng. Đây là những bức tượng được trưng bày trong chùa trước khi được trùng tu, được Ni sư Trụ trì giữ lại trong chùa để các thế hệ tri ân công đức chư Tổ và tín chủ. Tầng 2: Nhà Tổ: thờ Tổ sư Đạt Ma và Hòa thượng khai sơn Thích Quảng Viên ở bàn thờ trung tâm. Bên phải bàn thờ Tổ là bàn thờ chư Tôn đức Ni Trụ trì tiền nhiệm. Bên trái bàn thờ Tổ là bàn thờ chư vị hương linh quá vãng. Ngoài ra, chuông mõ được sử dụng tại chùa được bảo tồn từ thập niên 80 (thế kỷ trước), được giữ lại từ chùa cũ. Tầng 3: Chánh điện: phụng thờ tôn tượng Phật Thích Ca và thất
40 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Phật (7 Phật Dược Sư) trên bàn. Tượng Phật Thích Ca được thiết kế bao quanh với 7 vị Phật Dược Sư. Các chùa Nam Bộ thường thờ Phật Dược Sư vì cư dân trong vùng có nhu cầu mở đàn Dược Sư cầu an, đặc biệt trong dịp đầu năm. Ngoài ra, tại bàn thờ Phật Thích Ca còn có thờ xá-lợi Phật. Kế bên Chánh điện là phòng kinh sách, lưu giữ các kinh điển Đại thừa như bộ Đại bát Niết-bàn, Diệu pháp Liên hoa, Kinh A Di Đà...
Phường 1 - Chùa Linh Chưởng
41
HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ VÀ AN SINH XÃ HỘI Từ khi được bổ nhiệm Trụ trì Ni trưởng Thích Nữ Như Dụng rất chú tâm chăm lo công tác Phật sự, và các hoạt động từ thiện, đạo tràng tại chùa luôn được duy trì và phát triển qua từng năm. Ni trưởng đã cùng Ni sư Như Hoàng đồng tâm hiệp lực một lòng xây dựng nên ngôi chùa Linh Chưởng uy nghiêm, tráng lệ tại vùng đất Bàn Cờ. Để tiếp nối các công tác Phật sự, gìn giữ nề nếp sinh hoạt của Ni chúng tại chùa, Ni trưởng Như Dụng đã trao trách nhiệm Trụ trì chùa Linh Chưởng cho pháp tử là Ni sư Thích Nữ Như Phước - Ủy viên Thủ quỹ Ban Trị sự GHPGVN quận 3, Ni trưởng được cung thỉnh là Viện chủ chùa Linh Chưởng, an tâm tịnh tu. Từ năm 2014 đến nay (2018), chùa Tổ chức bếp cơm từ thiện, 2 lần/1 tháng vào ngày rằm và mồng 1, phát cơm từ 10g30 - 11g30 tại sân chùa, với hơn 1.000 suất cơm/1 lần phát. Từ năm 2015, mỗi năm chùa Tổ chức một chuyến đi đến vùng sâu vùng xa để phát quà với hơn 300 phần quà, mỗi phần trị giá 300 ngàn đồng gồm mì, gạo, nước tương, đường, quần áo, tiền mặt. Chùa và Phật tử đã gieo duyên được cho các tỉnh Bến Tre và Sóc Trăng. Các ngày vía trong năm: vía Quán Thế Âm (19-2 ÂL, 19-6 ÂL, 19-9 ÂL) kết hợp lễ quy y Tam bảo cho Phật tử, Lễ Vu lan (4-7 ÂL) tặng 1.000 phần quà cho hộ nghèo địa phương (gồm gạo, mì gói, dầu ăn, nước tương). THÔNG TIN LIÊN HỆ Địa chỉ: Chùa Linh Chưởng, số 788 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 1, Quận 3. Điện thoại: 028.38397328 Năm thành lập: 1952 Người sáng lập: Hòa thượng Thích Quảng Viên Hệ phái: Bắc Tông Trụ trì tiền nhiệm: HT. Trường Lạc, NS. TN Chơn Thành, NS.TN Chơn Ngọc, NT. Như Dung Viện chủ: Ni trưởng Thích Nữ Như Dụng Trụ trì hiện nay: Ni sư Thích Nữ Như Phước.
42 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
NIỆM PHẬT ĐƯỜNG LIÊN TRÌ Niệm Phật đường Liên Trì thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, tọa lạc tại số 306 lô G, lầu 3, chung cư Nguyễn Thiện Thuật, phường 1, quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
N
guồn gốc của cơ sở thờ tự này xuất phát từ một ngôi nhà nằm trong chợ Bàn Cờ. Chủ nhân của ngôi nhà là ông Nguyễn Trí Phương, với tín tâm Phật pháp, gia đình ông đã hiến cúng ngôi nhà cho Thượng tọa Thích Minh Cảnh cải biên ngôi nhà riêng thành niệm Phật đường, nhưng đến năm 1969, khu vực Niệm Phật đường tọa lạc bị giải tỏa, chính quyền đương thời đã đền bù cho thầy Minh Cảnh một căn hộ trong chung cư Nguyễn Thiện Thuật để di dời cơ sở Phật giáo đến nơi tái định cư mới. Đó chính là vị trí của Niệm Phật đường Liên Trì ngày nay.
Phường 1 - Niệm Phật Đường Liên Trì
43
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO Đứng từ phía đường Nguyễn Thiện Thuật có thể thấy một tấm biển lớn ghi tên Niệm Phật đường Liên Trì nằm trải rộng giữa hai lô chung cư. Do Niệm Phật đường có diện tích nhỏ hẹp nên việc bày trí tượng thờ được sắp đặt chung trên một bàn thờ chính đặt giữa chánh điện. Nơi cao nhất của bàn thờ đặt tôn tượng Thích Ca Mâu Ni, Quán Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Vương Bồ Tát; phía dưới là các tượng Phật A Di Đà, Chuẩn Đề Bồ Tát, Di Lặc, Thích Ca Sơ Sinh; hai bên là tượng Hộ pháp và Tiêu Diện Đại sĩ, phía trước là nhóm tượng Thất Phật Dược Sư; hai bên bàn thờ bố trí một chiếc quả bằng đồng và độc bình theo phương thức đông bình tây quả; các loại pháp khí như chuông mõ bày trí hai bên để thực hiện các khóa lễ tụng niệm của chư Ni. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Trụ trì hiện nay là Ni Sư Thích Nữ Như Thông - Trưởng phân ban Ni giới GHPGVN Quận 3. Dưới sự hướng dẫn của Ni sư nhiều thế hệ Ni
44 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
trẻ đã và đang tu học tại các cấp giáo dục Phật giáo, tham gia Phật sự tại các địa phương, đóng góp cho sự phát triển của Ni giới quận 3 và thành phố Hồ Chí Minh. Chung cư Nguyễn Thiện Thuật là một trong số những chung cư cũ của vùng đất Sài Gòn với mật độ dân số cư trú dày đặc trong các lô. Đa số những người ở chung cư là thành phần lao động phổ thông nên sự hiện diện của Niệm Phật đường Liên Trì đã góp phần quan trọng mang đến một đời sống tinh thần an lạc cho những người dân lao động tìm đến với Phật pháp. THÔNG TIN LIÊN HỆ Địa chỉ: 306 lô G, lầu 3, chung cư Nguyễn Thiện Thuật. Điện thoại: 028.38325246 Năm thành lập: 1969 Người sáng lập: Thượng tọa Thích Minh Cảnh Hệ phái: Bắc Tông Trụ trì hiện nay: Ni Sư Thích Nữ Như Thông Các ngày lễ lớn trong năm: Lễ Phật đản 8/4 AL, Giỗ TT. Minh Cảnh 14/4 AL, Lễ Vu Lan - Báo Hiếu 12/7 AL.
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
PHƯỜNG 2 1. CHÙA LIÊN QUANG.............................................38 2. CHÙA PHƯỚC HÒA..............................................43 3. CHÙA TRÚC LÂM.................................................56
45
46 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA LIÊN QUANG Chùa Liên Quang thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, tọa lạc tại số 609/13 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 2, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
N
guyên chùa là ngôi tịnh xá nhỏ được Hòa thượng Thích Quảng Liên1 thành lập vào năm 1970 và được trùng tu vào năm 1997. Kế thừa Trụ trì đời tiếp theo là Ni trưởng Thích Nữ Chơn Hiền. Hiện nay, Ni trưởng Thích Nữ Chơn Hiền là Chứng minh phân ban Ni giới Tp. Hồ Chí Minh, một bậc trưởng lão Ni của Phật giáo Quận 3, Ni trưởng cũng tham gia nhiều Phật sự của Phân ban Ni giới Trung ương GHPGVN, được cung thỉnh vào Giới sư nhiều Giới Đàn Ni. Với công đức tu hành thâm niên, Ni trưởng lại có duyên độ chúng, đệ tử xuất gia và y chỉ của Ni trưởng rất đông, dưới sự dạy bảo của NT. Chơn Hiền, đều đang hành đạo và tham gia Phật sự tại Tp. Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh Thành phố khác. 1 - HT. Thích Quảng Liên (1926-2009), Viện chủ khai sơn Tu viện Quảng Đức (Q. Thủ Đức)
Phường 2 - Chùa Liên Quang
47
Ngôi chùa nhỏ bé, nằm yên bình trong ngõ nhỏ, hiện là nơi tu hành của trên 20 hành giả Ni đang hành đạo hoặc học các trường Phật học trên địa bàn Thành phố. Sức khỏe suy yếu, Ni trưởng trao vai trò Trụ trì cho đệ tử là Ni
sư Thích Nữ Như Thiện, tuy nhiên, vẫn đảm nhiệm vai trò Viện chủ để làm chỗ nương tựa vững chắc cho hậu học an tâm hành đạo. KIẾN TRÚC MỸ THUẬT Là một ngôi chùa nhỏ nằm cách đường Nguyễn Đình Chiểu khoảng 30 mét, ngay tại vị trí đầu hẻm 609 nhà chùa có đặt một tấm biển lớn vừa làm cổng chào cho khu phố, vừa ghi chùa để hướng dẫn khách thập
48 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
phương đến thăm viếng.. Do diện tích nhỏ hẹp nên phần kiến trúc được xây dựng thành nhiều tầng để đủ chỗ làm chánh điện, vãng sanh đường, nhà Tổ và chỗ ở cho chư Ni trú xứ. Bên trong chánh điện, bày trí tượng thờ theo phong cách chùa Nam Bộ bao gồm tôn tượng Thích Ca Mâu Ni, Quán Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Vương Bồ Tát; phía dưới có tượng Thích Ca Sơ Sinh làm bằng cẩm thạch trắng; ngoài cùng là bộ tượng Thất Phật Dược Sư. Hoành phi, câu đối * Tầng trệt : 蓮花臺上見佛悟無生 光明普照覺悟衆生靈 Phiên âm: Liên hoa đài thượng, kiến Phật ngộ Vô sinh. Quang minh phổ chiếu, giác ngộ chúng sinh linh. Dịch nghĩa: Trên đài hoa sen, thấy Phật chứng ngộ Vô Sinh. Ánh sáng rộng soi, giác ngộ linh tánh của chúng sinh
Phường 2 - Chùa Liên Quang
49
* Tầng lầu: Chánh Điện Hoành phi: 1. 大 雄 寳 殿 – Đại hùng bảo điện 2.上 弘 下 化 - Thượng hoằng hạ hóa 3. 功 德 莊 嚴 - Công đức trang nghiêm 4. 極 樂 花 開 - Cực Lạc hoa khai Câu đối: 佛 陀 廣 大 愍 念 衆 生 無 差 別 法 力 甚 深 轉 迷 開 悟 證 無生 Phiên âm: Phật Đà quảng đại, mẫn niệm chúng sinh vô sai biệt. Pháp lực thậm thâm, chuyển mê khai ngộ chứng Vô Sinh. Dịch nghĩa: Phật Đà quảng đại, thương xót chúng sanh không phân biệt. Pháp lực thẳm sâu, chuyển mê khai ngộ chứng Vô Sinh. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Vào mỗi dịp lễ hội lớn của dân tộc và Đạo Pháp, như Tết cổ truyền, Lễ Phật Đản, Vu Lan - Báo hiếu,.v.v...Chùa luôn tích cực tham gia hỗ trợ Giáo hội, góp phần cùng Ban Trị sự Tổ chức thành công nhiều Phật sự quan trọng, đặc biệt là sự ổn định và đoàn kết của Phân ban Ni giới Quận 3 cũng nhờ các vị Tôn đức Ni cố gắng giữ gìn truyền thống giới luật, chưa từng có sai sót, nhận được đánh giá và uy tín cao đối với các quý Hòa thượng lãnh đạo Giáo hội. Chùa Liên Quang còn phối hợp với chính quyền địa phương Tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa như trang trí đường phố, giữ gìn vệ sinh, hỗ trợ các hoàn cảnh khó khăn, trao học bổng,....bên cạnh đó còn chăm lo đời sống tinh thần của cư dân sở tại, tạo không khí gần gũi giữa chùa và xã hội, xây dựng đạo tràng, là nơi lễ bái tụng niệm hàng ngày cho Phật tử hữu duyên. Đạo tràng Phật tử tại chùa còn Tổ chức nhiều chuyến hành hương,
50 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
chiêm bái, cứu trợ thiên tai các tỉnh thành, khiến các hoạt động Phật sự trở nên đa dạng, tạo nhiều sinh khí trong quá trình tu học của các Phật tử. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Liên Quang, số 609/13 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 2, Quận 3. Điện thoại: 08.38358477. Năm thành lập: 1970 Người sáng lập: Hòa thượng Thích Quảng Liên Hệ phái: Bắc Tông Năm trùng tu: 1997 Viện chủ: Ni trưởng Thích Nữ Chơn Hiền Trụ trì hiện nay: Ni sư Thích Nữ Như Thiện
Phường 2 - Chùa Phước Hoà
51
CHÙA PHƯỚC HÒA Chùa Phước Hòa có thể nói là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời nhất Quận 3 nói riêng và TP.Hồ Chí Minh nói chung. Chùa trải qua nhiều đời Viện chủ rất tâm huyết và tài năng, trong đó đặc biệt là Bồ tát Thích Quảng Đức đã lưu dấu hành đạo, đảm nhiệm Trụ trì ngôi chùa Phước Hòa đặc biệt này. NHỮNG BƯỚC THĂNG TRẦM
N
ơi đây từng là trụ sở của Hội Phật học Nam Việt do cụ Mai Thọ Truyền làm Hội trưởng. Tháng 1/1955, cụ Mai Thọ Truyền cho mượn một số phòng của chùa Phước Hòa làm trụ sở liên lạc của chư vị Tăng Ni. Tháng 8/1957, Hội VNPG cử Sư bà Đàm Hướng làm phó Hội VNPG kiêm Giám viện chùa Phước Hòa, sau đó Ni trưởng khai sơn Trụ trì chùa Phước Hòa, rồi Viện chủ đầu tiên của chùa Phước Hòa. Ni trưởng sinh thời rất tích cực trong việc vận động để đưa các Ni sinh đi du học nước ngoài. Trong số những vị được đi du học đó có cố Ni sư Thích Nữ Tịnh Bích1, người sau này thay Ni trưởng Đàm Hướng đảm nhiệm vai trò Trụ trì chùa Phước Hòa. Khi Sư bà Đàm Hướng lâm trọng bệnh, cố Ni trưởng Thích Nữ Tịnh Bích đang giữ chức vụ Hiệu trưởng ở Cô nhi viện Lâm Tỳ Ni (cũng là 1 - du học ở Đức về Công tác từ thiện xã hội và nuôi dạy trẻ
52 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
một ngôi trường do Sư bà Đàm Hướng xây dựng), được gọi về trông nom Phật sự chùa. Ngày 17-4 năm Mậu Ngọ (23-8-1978), Sư bà viên tịch. Hiện nay, hài cốt Sư bà được tôn trí tại bảo tháp 7 tầng ở khuôn viên chùa Phước Hòa. Cố Ni trưởng Thích Nữ Tịnh Bích vốn xuất gia đầu Phật vào năm 16 tuổi tại chùa Quy Hồn, Nam Định. Năm 1962, Ni trưởng được Giáo hội Phật giáo cử về cùng lo Phật sự với cố Sư bà Đàm Hướng tại chùa Phước Hòa. Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ, cố Ni trưởng Tịnh Bích đã tích cực trong việc phát triển và tu bổ chùa. Ngày 24-2 năm Canh Dần (2010), cố Ni trưởng Thích Nữ Tịnh Bích viên tịch, linh cốt và xá lợi lưu tại bảo tháp chùa Phước Hòa. Từ năm 1951 đến 1958, chùa là nơi đặt trụ sở của Hội Phật học Nam Việt2, chùa do Sư bà Đàm Hướng đảm trách. Nơi đây là nơi trực tiếp hoạt động Phật sự của giáo hội như vận động tài chính, giúp đỡ Tăng Ni sinh tu học, giúp đồng bào tiếp cư, phát tặng phẩm, đón tiếp các chư tôn thiện đức cũng như phái đoàn Phật tử đến viếng thăm quý tự, v.v... 2 - Trụ sở của Hội sau được chuyển về chùa Xá Lợi, Quận 3.
Phường 2 - Chùa Phước Hoà
53
Chùa Phước Hòa ban đầu được xây dựng với nhiệm vụ là trung tâm liên lạc với các đạo hữu, hội viên cũng như đồng bào Phật giáo di cư từ Bắc vào Nam của Hội Phật học Nam Việt. Sau ba lần yêu cầu, tháng 6-1956, Tổng ủy Di cư mới trợ cấp cho một ngân khoản hai trăm năm chục ngàn đồng bạc, món tiền này do Sư bà Đàm Hướng lúc bấy giờ làm đại diện nhận lãnh. Với số tiền trên, Ủy ban Trung ương nhận thấy không thể xây cất được một ngôi chùa có thể dùng làm Hội quán trung ương được, vả lại tìm được một khu đất trong đô thành cũng không phải là việc dễ dàng. Nhưng cũng may lại gặp đúng thời kỳ Hội Phật học Nam Việt đang xây cất chùa Xá Lợi và sẽ dời trụ sở về chùa mới nên Ủy ban đã điều đình với Hội Phật học nhượng lại nơi cũ để dựng chùa. Việc nhận ngôi chùa Phước Hòa, bởi lẽ Ủy ban không có tư cách pháp nhân nên phiên họp năm 1956, hội đồng đã ủy quyền cho Sư bà Đàm Hướng đại diện ký nhận với Hội Phật học Nam Việt, đồng thời thỉnh Sư bà đảm nhiệm chức Giám viện. Sau khi nhận, Ban giám viện tiến hành ngay công tác xây dựng lại ngôi nhà Tổ. Đến ngày 17-8-1956 (nhằm ngày 12 tháng 7 năm Bính Thân), Ủy ban Trung ương đã chính thức cử hành lễ nhận chùa Phước Hòa trước sự hiện diện của chư Tăng trong hai Giáo hội Tăng-già Bắc và Nam3 , đại diện Hội Phật học Nam Việt, đại diện Phủ Tổng ủy Di cư và một số khá đông hội viên và thập phương Phật tử. Kế tiếp việc xây dựng ngôi Tổ đường, Ban giám viện làm lại hai dãy hành lang để lập văn phòng và trường học, bắc máy nước, máy điện thoại, sắm dụng cụ văn phòng như tủ, bàn ghế,… Sau khi kiến thiết xong ngôi nhà Tổ và hai dãy hành lang thì công cuộc định cư của đồng bào đến thời kỳ này đã tạm ổn định, công tác của ủy ban cũng đã bớt dần, nhưng công việc khác của hội mỗi ngày một phát triển, nhất là công việc kiến tạo lại ngôi chánh điện thờ Phật thì cần có sự điều hành trực tiếp của Hội nên trong phiên Đại hội đồng Hội Việt Nam Phật giáo họp ngày 28-4-1957, Sư bà Đàm Hướng đã nhân danh Ủy ban trao lại mọi công tác đã thực hiện 3 - Tức Giáo hội Tăng già Bắc Việt và Giáo hội Tăng già Nam Việt: là 2 trong các tổ chức tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất Phật giáo cả nước (năm 1981).
54 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
được, để sự điều hành của Hội trở thành một mối và đến đây ủy ban đại diện đã chấm dứt nhiệm vụ. Hoài bão chung của toàn thể hội viên cũng như đồng bào Phật giáo di cư là có được một ngôi chùa khả dĩ làm tâm điểm cho sự hoạt động của Hội tại miền Nam giống như chùa Quán Sứ là Hội quán Trung ương của Hội tại miền Bắc. Bởi vậy cho nên ngay sau khi nhận được ngôi chùa này, Ban giám viện đã cố gắng lo xây dựng ngay những cơ sở cần thiết cho công việc tiến hành của Hội vì tất cả những căn nhà phụ thuộc cũng như chánh điện đã lâu ngày nên hư nát cả. Nhưng khi dự trù công việc xây dựng thì tình hình tài chính của hội gặp nhiều khó khăn. Việc quyên góp ủng hộ tiền để xây chùa khá vất vả, tiếp đến là việc lập bản thiết kế cũng vô cùng khó khăn, theo đó - khi bản thiết kế đã được vẽ xong thì có rất nhiều ý kiến trái chiều nên phải sửa đi sửa lại. Nhưng nhờ sự gia trì của Tam bảo và với lòng nhiệt tình của kiến trúc sư và nhân viên trong Sở Bảo tồn Cổ tích nên việc thiết kế đã được hoàn thành. Bản thiết kế đã xong nhưng một vấn đề nữa lại được đặt ra. Đó là việc chọn ban hưng công, sau những lần đấu thầu thì cuối cùng người thi
Phường 2 - Chùa Phước Hoà
55
công chính là những hội viên, đạo hữu có khả năng chuyên môn và giàu kinh nghiệm trong việc xây cất đảm nhiệm. Đến đúng 11 giờ ngày mùng 1 tháng 3 năm Mậu Tuất (19-5-1958) được diễn ra lễ hạ móng. Nhưng khi móng chùa lên khỏi mặt đất thì tiền lại hết. May nhờ được một số đạo hữu tận tâm hoạt động, hoặc tự mình xuất tiền cho Hội mượn, hoặc hy sinh thì giờ lui tới nói chuyện với các đạo hữu hoặc những thân bằng quyến thuộc biết đến công đức làm chùa để tự mỗi người phát tâm cúng dường hoặc giới thiệu người vào Hội. Chính nhờ những hoạt động đầy thiện chí này cho nên phước quả mới được thành tựu nhanh chóng. Ngày 21/07/1987 (ngày 24 tháng Giêng năm Đinh Mão), cố Ni trưởng Tịnh Bích lại một lần nữa cho khởi công trùng tu toàn bộ chùa Phước Hòa, trên cơ sở gìn giữ những nét cổ kính ban sơ. Cố Ni trưởng đã cho xây dựng lại nhà Tổ, giảng đường và các nhà phụ thuộc lên hai tầng, sàn bằng bê-tông cốt thép, bố trí thành nhiều phòng riêng biệt, để tiện khi chư Ni về an cư kiết hạ hoặc các Phật tử tu Bát quan trai - đồng thời là cư xá cho Ni sinh ngoài Bắc vào học tập. Bên cạnh đó, còn thếp vàng rồng lại ba pho tượng trên chánh điện chùa Phước Hòa; sơn, thếp lại toàn bộ đồ thờ, hoành phi, câu đối trên chánh điện và bàn thờ Tổ,…; xây một ngôi bảo tháp bảy tầng ở bên phải cổng, để tôn thờ Sư bà Đàm Hướng và các vị Viện chủ kế tiếp. Trong thiết kế xây dựng có dành giảng đường chùa Phước Hòa và một phòng riêng biệt cho Ban giám hiệu, để Giáo hội Phật giáo Quận 3 mở một Lớp Sơ cấp Phật học cho Tăng Ni sinh tham học4 . Hiện nay, Trụ trì chùa Phước Hòa là Ni sư Thích Nữ Viên Hạnh. KIẾN TRÚC VÔ CÙNG ĐỘC ĐÁO Trước 1958, chùa xây cất theo kiểu địa phương miền Nam (cột gỗ, vách ván, mái lợp tôn kẽm), xung quanh chánh điện có ba dãy nhà phụ thuộc. Ngày 20-2-1960 (ngày 24 tháng Giêng năm Canh Tý), cử hành lễ lạc thành. Kiểu chùa do kiến trúc sư Nguyễn Gia Đức họa kiểu, theo kiểu chùa miền Nam, được Bộ Kiến thiết chấp nhận. 4 - Cho đến nay, Lớp Sơ cấp Phật học Quận 3 đã trải qua 13 khóa đào tạo, với gần 1000 Tăng Ni tốt nghiệp
56 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Nếu đứng từ xa sẽ nhìn thấy cổng chùa xây bằng gạch lợp ngói đỏ, có lối kiến trúc đơn giản. Nơi cổng tam quan, phía trên là tên chùa 福和寺 (Phước Hòa tự) và hai câu đối bằng chữ Hán theo lối lệ thư ngay hai bên cổng chính:
福地舊缘開望北興基歷世系 和心新景嚴居南宏道寺莊嚴 Phiên âm: Phước địa cựu duyên khai vọng bắc hưng cơ lịch thế hệ Hòa tâm tân cảnh nghiêm cư nam hoành đạo tự trang nghiêm. Dịch nghĩa: Đất phước duyên xưa mở, trông về phương Bắc làm cho Phật pháp được hưng thịnh các thế hệ Tâm hòa cảnh mới đẹp, ngụ chốn trời Nam mở rộng chùa chiền được trang nghiêm. Mặt phía sau cổng chùa là đôi câu đối: 福𣑨雙北派南宗歸壹統 和有六西歐東亞樂同人
Phường 2 - Chùa Phước Hoà
57
Phiên âm: Phước vô song Bắc Phái Nam Tông quy nhất thống Hòa hữu lục Tây Âu Đông Á lạc đồng nhân Dịch nghĩa: Phước đức vô cùng, Bắc phái, Nam tông quy về một mối. Hòa có sáu, Tây Âu, Đông Á vui vẻ cùng người. Sau cổng chùa là một khoảng sân nhỏ lát đá, trồng và đặt nhiều cây cảnh. Tầng hầm dưới Chánh điện, hai bên chùa là gác chuông và gác tháp. Điểm đặc biệt của ngôi chùa này chính là chánh điện với lối kiến trúc độc đáo và được lưu truyền gần như nguyên vẹn qua nhiều đời. Chánh điện gồm ba gian, nổi bật bởi ba bức tượng bằng gỗ mít do nghệ nhân tạc tượng nổi tiếng Nguyễn Đức Thống kết hợp với cụ Tuệ Đăng Nặng Như Lan họa kiểu và trang trí. Gian giữa thờ tượng Phật Thích Ca ngồi kiết-già trên đầu sư tử cao 1,5m. Tượng tạc theo lối mặc áo phủ cả hai vai, diện không sơn màu da người, thếp toàn vàng. Phía sau là hào quang cao 2,5m, chạm khắc cảnh Tam thế Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai). Bên phải thờ tượng Quan Thế Âm nghìn mắt nghìn tay, theo kiểu chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), phía sau là hào quang chạm khắc thiên thủ thiên nhãn. Bên trái là Bồ-tát Địa Tạng theo kiểu chùa Quán Sứ (Hà Nội), phía sau là hào quang chạm khắc cảnh Thập điện Diêm Vương. Phía trước điện thờ có đèn kiểu chùa Nhất Trụ (chùa Một Cột) nhắc lại cho mọi người nhớ đến ngôi chùa lịch sử dựng lên từ triều Lý. Ngoài ra, trước tượng Phật Thích Ca cũng có thờ tượng bảy vị Dược Sư (Thất Phật Dược Sư) cùng với hương hoa cúng dường. Ngước mắt nhìn lên là một cửa võng chạm trổ hoa, lá sen chạy suốt ba gian điện thờ. Phía sau tượng Phật Thích Ca còn lưu giữ bảng công đức của thập phương thiện tín (những tín đồ hảo tâm) đóng góp xây dựng “Tượng đức Bổn sư ngồi trên tòa sư tử thuyết pháp” (được thành tựu do cố Ni trưởng Thích Nữ Đàm Hướng phát tâm thực hiện) hoàn thành mùa Đông năm Nhâm Dần (1962). Trên trần phía đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni có hình tượng đóa hoa
58 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
sen được thếp vàng hình tròn với các dòng chữ Phạn chạy tròn quanh đóa sen và trong các cánh sen. Phía sau tượng Phật Thích Ca có đôi câu đối bằng chữ triện màu đen hiện lên trên nền hoa văn tinh tế được thếp vàng. Phía trước là đôi câu đối thếp vàng chữ Hán màu đen nhằm nổi bật công đức của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni: 菩提樹下證真空人稱覺受 忉利宮中開妙法天讚雄師 Phiên âm: Bồ-đề thụ hạ chứng chân không, nhân xưng giác thụ Đao lợi cung trung khai diệu pháp thiên tán hùng sư.
Ở giữa điện thờ là dòng chữ 大雄寶殿 (Đại hùng bảo điện). Phía bên phải, nơi thờ Quan Thế Âm Bồ-tát có bức hoành phi 慈航普渡 (Từ hàng phổ độ). Phía bên trái, nơi thờ Địa Tạng Bồ-tát là bức hoành phi 誓 願弘深 (Thệ nguyện hoằng thâm). Hai bên tả hữu có hai vế đối tán dương công đức và sự nghiệp của đức Quán Thế Âm Bồ-tát và đức Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ-tát:
Phường 2 - Chùa Phước Hoà
59
臂捧盒瓶淨水洒塵消業果 手持寶杖明珠照處变香林 Phiên âm: Tý bổng hạp bình tịnh thủy sái trần tiêu nghiệp quả, Thủ trì bảo trượng, minh châu chiếu xứ biến hương lâm. Hai bên tường còn có các bức phù điêu mô phỏng cuộc đời Đức Phật. Một điểm riêng khác của chùa Phước Hòa là thay vì thờ Tiêu Diện Đại sĩ (tên dân gian thường gọi là Ông Ác) cùng với Vi Đà Hộ pháp (tên dân gian thường gọi là Ông Thiện) thì chùa thay Tiêu Diện Đại sĩ là đức A-nan để biểu tỏ sự kính trọng và nhớ ơn (theo lịch sử Ni giới Phật giáo). Nếu hướng mặt vào chánh điện thì nơi thờ Tiêu Diện Đại sĩ ở bên phải và đức A-nan ở bên trái. Hướng mặt về phía bàn thờ đức A-nan, phía trên là bức hoành: 德懋流芳 Đức Mậu Lưu Phương Dịch nghĩa: Đức tốt để lại tiếng thơm, Phía dưới là đôi câu đối bằng chữ Quốc ngữ: Phật hỷ xả từ bi, người có thiện tâm, tâm tức Phật, Người tham lam mê muội, Phật khuyên chánh đạo, đạo làm người. Đối diện là chỗ thờ vị Vi Đà Hộ pháp, phía trên có bức hoành: 福德歸厚 Phước Đức Quy Hậu Dịch nghĩa: Phước đức gom lại thêm nhiều Phía dưới có đôi câu đối bằng chữ Quốc ngữ: Đạo Phật cao siêu, bi trí dũng tiêu trừ khổ não, Lòng người tu nguyện, tham sân si chuyển hóa bồ-đề. Quay ra hướng cửa chánh điện dưới bức hoành bốn chữ: 福慧雙圓 Phước Huệ Song Viên
60 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Dịch nghĩa: Phước đức và trí huệ đều tròn đầy Phía dưới có câu đối bằng chữ Hán: 福址重修慧燭晶煌開覺路 和風普徧慈忼飃𦕈渡迷津 Phiên âm: Phước chỉ trùng tu, tuệ chúc tinh huỳnh khai giác lộ, Hòa phong phổ biến, từ khảng phiêu diệu độ mê tân. Các cột giữa có chép rất nhiều câu đối bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Phía tiền điện có một bức tượng Phật Di Lặc bằng gỗ đặt chính giữa. Chùa còn có Đông lang và Tây lang. Đông lang dùng làm phòng học cho lớp Sơ cấp Phật học. Tây lang dùng làm văn phòng, phòng ở cho chư Ni. Ở khoảng giữa Tây lang còn có một khu vườn nhỏ, rất thanh tịnh, trên vách tường của vườn có treo một phiến gỗ nhỏ, viết hai bài thơ chữ Hán. Trên sân thượng Tây lang có đặt một đại hồng chung. Trên sân thượng Đông lang thì đặt một bảo tháp bảy tầng. Trong khuôn viên chùa ta sẽ thấy một đặc trưng riêng của chùa nữa là chùa không thờ Bồ-tát Quan Thế Âm lộ thiên như nhiều chùa Nam Bộ
Phường 2 - Chùa Phước Hoà
61
khác, mà thờ tượng Bồ-tát ngồi ẩn khuất trong hang động - hòn non bộ. Xung quanh là một số cây kiểng bao quanh (hoa lan, tre, cây kiểng,…), tạo nên một vẻ an lạc cho khách tham quan và quý Phật tử chiêm bái. Kế đến là nhà Tổ, được tách riêng thành một gian riêng biệt, có nền thấp hơn Chánh điện, nơi thờ các vị Viện chủ đời trước và những người có công trong việc xây dựng và phát triển chùa. Bàn thờ hội viên quá cố ở hai bên tả hữu cũng có một lối trình bày đặc biệt tuy giản dị nhưng trang nghiêm bởi một khung hoa sen giống như huy hiệu của gia đình Phật tử nhưng thếp vàng, trên nền đỏ, chạy quanh bàn thờ thay cho cửa võng và hai bên viền. Trên có các tấm Hoành phi lớn: 1. 四恩總報 Tứ ân Tổng báo 2. 三有齊思 Tam hữu tề tư Trên hai cột trụ là đôi câu đối chữ Hán: 般 若 燈 傳 續 熖 西 東 前 以 後 優 曇 花 發 遺 馨 河 岳 北 而 南 Phiên âm: Bát Nhã đăng truyền, tục diệm Tây Đông tiền dĩ hậu. Ưu Đàm hoa phát, di hinh hà nhạc Bắc nhi Nam. Dịch nghĩa: Truyền đèn Bát Nhã, mồi lửa từ Tây Trúc sang Đông Độ5 , trước đến sau. Nở hoa Ưu Đàm để lại mùi thơm khắp núi sông, Bắc đến Nam. NƠI ƯƠM MẦM NHỮNG THẾ HỆ TĂNG NI TƯƠNG LAI Hằng năm chùa Tổ chức lễ hội vào ba Rằm lớn (tháng giêng, tháng tư và tháng bảy) phục vụ Phật tử dùng cơm chay tại chùa như các chùa khác, ngoài ra còn có lễ Vía Di Đà (17-11 âm lịch), lễ dâng y, lễ giỗ của các vị khai sơn chùa,... 5 - Tây Trúc: chỉ Ấn Độ nơi phát sinh Đạo Phật; Đông Độ: chỉ Trung Hoa.
62 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Hoạt động nổi bật nhất của chùa đó chính là việc tổ chức các lớp học cho cả Tăng Ni và Phật tử. Vốn có truyền thống từ thời cố Ni trưởng Thích Nữ Đàm Hướng với Hội Phật giáo Nam Việt. Xưa, tôn chỉ và mục đích của hội là không chỉ chú trọng đến việc truyền bá giáo lý mà còn đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục cho lớp mầm non tương lai nữa. Tôn chỉ này có từ khi hội còn hoạt động tại miền Bắc, nhằm mục đích đem Phật pháp giáo dục cho thanh thiếu niên hy vọng các em trở thành những người Phật tử chân chính, sáng suốt. Muốn thực hiện được tôn chỉ và mục đích ấy của hội, nên mặc dù hội còn ở trong hoàn cảnh thiếu thốn về mọi phương diện, nhưng ban học vụ do đạo hữu Nguyễn Ngọc Huỳnh làm trưởng ban cũng đã cố gắng cùng với đạo hữu Nguyễn Vạn Tòng làm hiệu trưởng và sự giúp đỡ của Sư bà Đàm Hướng, Trưởng ban Xã hội, đã gây dựng được một tư thục trung học khai giảng vào tháng 7-1957. Công cuộc này không những có lợi ích cho nền giáo dục, mà còn là một hình thức không kém phần quan trọng trong công cuộc hoằng dương Chánh pháp của hội nữa. Sau khi Hội Phật giáo Nam Việt ngưng hoạt động, việc hoằng dương Chánh pháp tạo nhân duyên cho Phật pháp trường tồn là công cuộc Phật sự vẫn tiếp tục không gián đoạn. Tiếp nối truyền thống đó, thuở còn tại thế, cố Ni trưởng Tịnh Bích với tâm nguyện hoằng pháp độ sinh cũng đã mở lớp tạo điều kiện cho ban phiên dịch mở lớp phiên dịch Tam tạng kinh điển tại chùa. Cố Ni trưởng còn dành trọn giảng đường và một văn phòng ban Giám hiệu phục vụ cho việc do Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 Tổ chức. Hoạt động Phật sự của Ni trưởng góp phần tạo điều kiện cho việc dìu dắt hậu thế - đào tạo Tăng tài - truyền thừa Phật ấn - phát huy đạo pháp. Từ khi, hai cố Viện chủ viên tịch đã truyền lại cho Ni trưởng Thích Nữ Viên Hạnh tiếp tục duy trì bổn tự, cũng như tiếp tục những công việc Phật sự mà hai vị Viện chủ tiền nhiệm đã dốc tâm gầy dựng vì công cuộc hoằng pháp lợi sinh. Lớp Sơ cấp Phật học Quận 3 trực thuộc Giáo hội Phật giáo Quận 3 hiện đã đến khóa thứ XIII (2019 - 2021) dành cho những vị đã xuất gia, hoặc đang tập sự xuất gia ở các chùa, có khả năng tiếp thu, có đạo đức tốt, được Bổn sư cho phép và Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam quận/
Phường 2 - Chùa Phước Hoà
63
huyện nơi Tăng Ni sinh cư trú chấp thuận (được miễn phí hoàn toàn trong suốt khóa học và đối với các Tăng Ni sinh ở xa còn có thể xin tá túc tại bất cứ một chùa nào trong Quận 3). Gần đây, dưới sự chỉ đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chùa Phước Hòa là trường hạ tập trung cho chư Ni an cư kiết hạ, mỗi năm quy tụ gần 100 hành giả. Ngoài Lớp Sơ cấp Phật học này thì Lớp Giáo lý Phật tử của Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 cũng được mở tại chùa Phước Hòa vào tháng 6-2010. Ban đầu chỉ có 30 học viên, đến nay vẫn được duy trì và đã thu hút được đông đảo Phật tử tham gia, có đến hàng trăm học viên theo học thường xuyên mỗi buổi tối các ngày Chủ nhật trong tuần. Như vậy, đủ để thấy việc Tổ chức những lớp Giáo lý như thế này đã đáp ứng phần nào tinh thần học hỏi Phật pháp của hàng Phật tử tại gia. Ngoài ra, công tác thiện nguyện của chùa cũng được chú trọng, khi các Ni sư trong chùa thường có những chuyến thiện nguyện giúp đỡ cho những người bất hạnh (đài thọ chương trình mổ mắt từ thiện hàng năm lên đến hàng trăm ca, đi cứu trợ, phát tặng phẩm cho học sinh nghèo, tặng quà cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn,…) ở khắp nơi từ Nam chí Bắc. Ngoài ra, chùa hiện đang tạo điều kiện ăn ở, hỗ trợ cho các sinh viên được học tập. Sinh viên tốt nghiệp, chùa lại tiếp tục nhận thêm lớp sinh viên khác vào. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: chùa Phước Hòa, 491/14/5 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 2, Quận 3 Điện thoại: 028.38331057 - 38391074 Năm thành lập: 1958 Người sáng lập: Sư bà Thích Nữ Đàm Hướng và Hội Việt Nam Phật Giáo Bắc Việt tại Miền Nam Hệ phái: Bắc Tông Năm trùng tu: 1994. Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: NT. Thích Nữ Đàm Hướng, NT. Thích Nữ Tịnh Bích Trụ trì hiện nay: Ni sư Thích Nữ Viên Hạnh
64 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA TRÚC LÂM Chùa Trúc Lâm thuộc hệ phái Bắc tông, tọa lạc tại số 16/47/25 Nguyễn Thiện Thuật, Phường 2, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh RỪNG TRÚC ĐỌNG HƯƠNG
T
heo dòng lịch sử cách đây hơn 2500 năm, Trúc Lâm là ngôi tinh xá đầu tiên của Tăng đoàn thời đức Phật còn tại thế, được vua Tần Bà Sa La hiến cúng, trở thành nơi an cư của Phật cùng các Thánh đệ tử và là nơi đào tạo, giảng dạy các vị tân học Tỳ kheo trọng yếu, tiền đề cho sự phát triển của Tăng đoàn, góp phần xây dựng Giáo hội và công cuộc hoằng truyền giáo lý giải thoát miên viễn, trường tồn cho đến nay. Đối với Phật giáo Việt Nam, dòng thiền Trúc Lâm do Phật hoàng Trần Nhân Tông khai mở, Thiền phái Trúc Lâm là cầu nối giữa Phật giáo với đất nước, một mốc son chói lọi của dân tộc, nơi sản sinh các vị danh Tăng nổi tiếng của nước ta. Nhờ đây đã khiến Phật giáo đi sâu và đồng hành cùng dân tộc, là minh chứng và nền tảng văn hóa Việt Nam- “Đạo
Phường 2 - Chùa Trúc Lâm
65
Pháp gắn liền với Dân tộc”. Với tâm niệm đó, ngôi chùa Trúc Lâm hiện nay, được tạo dựng gắn bó với tâm huyết Phật sự của vị Đại đức trẻ. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH Năm 2012, được thiện duyên, Đại đức Thích Thiện Châu nhận nhiệm vụ Chánh Thư ký Ban Đại diện Phật giáo Quận 3, được sự giúp đỡ của thiện tín, Đại đức đã mua một căn nhà nhỏ tại hẻm 16/47 đường Nguyễn Thiện Thuật. Dưới sự chứng minh của HT. Thích Minh Hiền - Chánh đại diện Phật giáo Quận 3, được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp, ĐĐ. Thích Thiện Châu thành lập Tịnh thất Trúc Lâm. Năm 2013, ĐĐ. Thích Thiện Châu được bổ nhiệm Trụ trì, sau đó đổi bảng hiệu Chùa Trúc Lâm. Năm 2014, ĐĐ. Thích Thiện Châu đã vận động tài chánh, mở rộng ngôi chùa, xây dựng ngôi Tam Bảo được trang nghiêm, nhằm tiếp nối hạnh nguyện tiếp Tăng độ chúng, tham gia các công tác Phật sự và từ thiện - xã hội,.....
66 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
KIẾN TRÚC Chùa Trúc Lâm được xây dựng theo lối kiến trúc nhiều tầng, mái chùa mở rộng, bên trên trang trí đầu đao cong vút theo lối kiến trúc truyền thống của các ngôi chùa Việt Nam. Bên cạnh đó là nhiều nét kiến trúc hiện đại. Câu đối chữ quốc ngữ tại cổng chùa: Cửa chùa thanh tịnh, chuông chiều ngân vọng tiếng từ bi Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mộng ảo * Mặt trước Chùa là khu điện thờ: - Lầu 1: Ban thờ Quán Âm và trai đường - Lầu 2: Khu khách đường - Lầu 3: Nhà Tổ Chính giữa Nhà Tổ là bàn thờ đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni, hầu hai bên là Bồ Tát Quán Âm và Địa Tạng tượng trưng cho sự nhập thế, hành Bồ tát đạo cứu đời. Dưới thiết bày tôn tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma, cùng di ảnh các vị cao tăng:
Phường 2 - Chùa Trúc Lâm
67
- Bồ tát Thích Quảng Đức- vị pháp thiêu thân - HT.Thích Trí Tịnh (nguyên Chủ tịch HĐTS GHPGVN) - Thiền sư Thích Duy Lực (truyền thừa Thiền Tổ sư tại Việt Nam) - HT. Thích Đắc Pháp (dòng thiền Trúc Lâm, Viện chủ Thiền viện Sơn Thắng, tỉnh Vĩnh Long) Liễn đối tả hữu ban thờ Tổ: 祖印重光衣鉢繼承於越地 拈花微笑師資發展在南天 Phiên âm: Tổ ấn trùng quang y bát kế thừa ư Việt địa Niêm hoa vi tiếu sư tư phát triển tại Nam thiên. Dịch nghĩa: Đạo Tổ phát huy, y bát truyền về đất Việt Cầm hoa mỉm cười, vốn đạo nổi ở trời Nam.
Hai phía tả hữu ban thờ Tổ là hai tủ đựng Kinh, trên thiết trí tôn tượng “Tam Thánh Tây Phương” và “Đông Phương Dược Sư”
68 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Phía trái của Nhà Tổ là bàn thờ Cửu huyền thất Tổ và các vị hương linh - Lầu 4: Chánh điện thiết trí 3 pho tượng “Tam Thánh Hoa Nghiêm”: Chính diện là tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ tát Văn Thù cưỡi sư tử xanh hầu bên phải và Bồ tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng sáu ngà hầu bên trái. Một cách khái quát, Phổ Hiền tượng trưng cho Lý và Hạnh, Vănthù tượng trưng cho Trí và Chứng. Cả ba tôn tượng được tạo hình từ gỗ quý, với kích thước lớn mang dấu ấn truyền thống, tuy nhiên đều thể hiện phong cách hiện đại với kỹ thuật không gian bốn chiều của các pho tượng, cùng hệ thống đèn trang trí chiếu sáng tạo nên khung cảnh trang nghiêm, oai hùng. Phía trên Bàn thờ Tam Bảo là hoành phi 萬德慈尊 Vạn Đức Từ Tôn Hai bên là hai câu đối chữ Hán: 三寶慈尊救度群生超苦海 四方賢聖加持萬類脫迷津
Phường 2 - Chùa Trúc Lâm
69
Phiên âm: Tam bảo từ tôn cứu độ quần sanh siêu khổ hải Tứ phương hiền Thánh gia trì vạn loại thoát mê tân Tạm dịch: Các bậc nơi ba ngôi báu cứu độ chúng sanh qua bể khổ Nhiều vị Thánh hiền ở bốn phương giữ chắc, ngàn loài tồn sinh thoát biển mê. Hoành phi treo 2 bên tả hữu: 佛日增輝 Phật Nhật Tăng Huy 宗風永振 Tông Phong Vĩnh Chấn Phía trước của cửa chính lầu 4 là hoành phi chữ Việt được cách điệu PHƯỚC HUỆ TRANG NGHIÊM Phía trên sân thượng được thiết kế thành hoa viên, xây dựng các tiểu cảnh làm cho không gian của ngôi chùa trông thoáng rộng, mang tính chất thiên nhiên của một thiền viện. Mặt sau Chùa là khu Tăng xá: gồm 5 tầng, chia thành nhiều liêu phòng, dành riêng cho chư Tăng sinh hoạt nội viện theo quy củ thiền môn. Hiện tại số lượng chư Tăng là 7 vị, và 9 chú điệu, đang theo học các cấp Học viện, Trung cấp, Sơ cấp Phật học và chương trình phổ thông hiện hành từ Tiểu học đến Đại học. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Hằng năm, chùa Trúc Lâm tham gia nhiều hoạt động từ thiện an sinh xã hội cùng với các cơ quan Mặt trận Tổ quốc của phường 2 và quận 3. ĐĐ. Thích Thiện Châu đã vận động Phật tử và các nhà hảo tâm đóng góp tài chính xây dựng cầu cống, khoan giếng cho đồng bào vùng sâu vùng xa, tặng quà, cứu trợ cho đồng bào vùng bị thiên tai, hỗ trợ các chương trình y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng tại các địa phương với số tiền đóng góp cho xã hội lên đến hàng trăm triệu đồng hàng năm. Ngoài ra, vào các ngày lễ lớn như Tết Nguyên Đán, Phật Đản, Vu
70 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Lan- Báo Hiếu,... Đại đức Trụ trì cùng chư Tăng đều hướng dẫn Phật tử trang trí khu phố, Tổ chức các khóa lễ cầu nguyện, khánh tuế chư Tôn đức, lễ dâng y và sớt bát cúng dường mùa An cư, Vu Lan, văn nghệ chào mừng,... gây được ấn tượng trong lòng cư dân khu phố, tạo được tình cảm trong và ngoài cộng đồng Phật tử. Tăng đoàn Chùa Trúc Lâm nhận được nhiều sự quan tâm của chư Tôn đức lãnh đạo Giáo hội, cũng như tình cảm trân quý các cấp lãnh chính quyền, là tập thể điển hình trong các phong trào hoạt động của Quận 3. Năm 2018, với tâm huyết tiếp nối các thế hệ Tổ đức, chăm lo cho hậu bối tu học, đáp ứng sự mong mỏi và khát ngưỡng ánh sáng Phật pháp của đồng bào Phật tử nơi vùng sâu, vùng xa gần biên giới Campuchia của huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, Đại đức đã không ngại khó khăn, quyết tâm khai sơn và xây dựng ngôi chùa Hương Lâm (Thôn Đắk Côn, xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước) trên khoảng đất núi đồi trống, ngôi Tam Bảo đã được hình thành và đang dần phát triển, là nơi quy ngưỡng cho đồng bào Phật tử quanh vùng, với nhiều hoạt động An sinh xã hội, chăm lo đời sống bà con địa phương còn nhiều khó khăn, tổ chức khóa
Phường 2 - Chùa Trúc Lâm
71
tu thường kỳ dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Đại đức Thích Thiện Châu. Hiện nay, với nhiều hoạt động Phật sự tích cực, ĐĐ. Thích Thiện Châu đang đảm nhiệm Ủy viên Ban Trị sự GHPGVN Tp. Hồ Chí Minh, Phó Trưởng ban - Chánh Thư ký Ban Trị sự GHPGVN Quận 3, Phó Chủ nhiệm- Tổng Giám thị Lớp Sơ cấp Phật học Quận 3, cùng nhiều các vai trò trong các cơ quan đoàn thể xã hội khác. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Trúc Lâm, số 16/47/25 đường Nguyễn Thiện Thuật, Phường 2, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh Năm thành lập: 2011 Trùng tu: 2014 Sáng lập: ĐĐ. Thích Thiện Châu Trụ trì hiện tại: ĐĐ. Thích Thiện Châu
72 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
PHƯỜNG 3 1 - CHÙA KỲ VIÊN....................................................65 2 - CHÙA QUẢNG ĐỨC............................................72
Phường 3 - Chùa Kỳ Viên
73
CHÙA KỲ VIÊN Nơi khởi nguồn cho Phật giáo Nguyên thủy tại Việt Nam Chùa Kỳ Viên là Tổ đình của hệ phái Phật giáo Nam tông Kinh (Phật giáo Nguyên thủy), tọa lạc tại số 610, đường Nguyễn Đình Chiểu, Phường 3, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh.
TRUNG TÂM CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY1 TẠI VIỆT NAM2 heo lịch sử chùa Kỳ Viên được viết trong văn bản ngày 09 tháng 01 năm 1957, chùa được thành lập vào năm 1947 chùa do bà Bùi Thị Ngọc (thường gọi là bà Năm Chùa hay bà Năm Ngọc) Trụ trì, tu theo truyền thống Phật giáo Bắc tông. Năm 1948, chùa Bửu Quang bị tàn phá do chiến tranh. Cụ Nguyễn Văn Hiểu cùng với nhóm cư sĩ chùa Bửu Quang đến mượn chùa Kỳ Viên
T
1 - Phật giáo Nguyên thủy: hay Theravada, Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Nam Tông, Phật giáo Nam Truyền, v.v...là một học phái trong 18 học phái xưa của Phật giáo (từ thời kỳ Bộ phái), cần lưu ý là tên gọi chỉ tạm để phân biệt, trong giới hạn bài viết chỉ đề cập như một tông phái Phật giáo (một trong các bộ phái tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam), quý độc giả quan tâm cần nghiên cứu cẩn thận và nghiêm túc về Phật giáo Nguyên thủy - được cho là rất sát và bảo tồn nhiều “gốc tích” thời Đức Phật tại thế. 2 - Phần lịch sử này chúng tôi xin trích dẫn lại từ nguồn tư liệu sử của Trung tâm Hộ tông.
74 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
của bà Năm Ngọc để làm địa điểm luận đạo, thuyết pháp. Không lâu sau, chùa Kỳ Viên bị giải tỏa phóng đường. Lúc đó, nhóm cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu thấy đối diện có đất trống của gia đình Hui Bổn Hỏa (chú Hỏa) nên đến mướn đất để xây chùa. Ngày 21 tháng 07 năm 1949, Ðô thành Sài Gòn cấp giấy phép cho xây lại chùa Kỳ Viên mới. Từ ngày khởi công cho đến lúc hoàn thành chỉ mất ba tháng, lễ nhập tự và lễ an vị tượng Phật được cử hành vào ngày 09 tháng 10 năm 1949. Từ đấy, chùa sinh hoạt theo quy chuẩn của Phật giáo Nam Tông. Thời gian sau, hai Phật tử là Kim Long và Lâm Thị Thiệt đã phát tâm mua lại toàn bộ khu đất cúng dường Tam Bảo. Lễ dâng đất và chùa được cử hành vào ngày 16 tháng 02 năm 1952. Đại diện chư tăng Nam tông nhận đất là Hòa thượng Hộ Tông, dưới sự chứng minh của sư cả Trụ trì chùa Mahàmontrey ở Campuchia. Năm 1953, một trận hỏa hoạn xảy ra gần như thiêu hủy xóm Bàn Cờ, chùa Kỳ Viên bị lửa cháy lan làm xén mất một góc nhà bếp nên đã Tổ chức trùng tu lại từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1954, đồng thời mặt tiền chùa được thiết kế xoay ra phía đường Nguyễn Đình Chiểu như ngày nay. Sau đợt trùng
Phường 3 - Chùa Kỳ Viên
75
tu năm 1954, chùa Kỳ Viên mới mang nét kiến trúc của Phật giáo Nam Tông với phần nóc chánh điện xây theo kiểu hai mái. Từ mặt tiền nhìn vào, phía trên cao nhất xây theo kiểu tam giác, trong đó có hàng chữ Kỳ Viên Tự. Tam giác thứ hai, viết chữ chùa Kỳ Viên bằng tiếng Pàli theo mẫu tự La-tinh: Jetavana - Vihara. Chánh điện thờ Phật theo dạng tam cấp, tầng cao nhất thờ Xá Lợi Phật, tầng thứ hai thờ tôn tượng Phật Tổ Thích Ca, tầng thứ ba thờ Phật chuyển pháp luân và phía dưới có một bộ bàn thờ sơn son thếp vàng tôn trí những tượng Phật Thích Ca loại nhỏ. Bộ bàn thờ này do Quân đội hoàng gia Thái Lan cúng dường. Không gian chánh điện rất rộng và cao nên mỗi lần tụng kinh âm vang xa, khiến cho người ở ngoài chánh điện cũng có thể nghe tiếng kinh của chư Tăng và Phật tử. Phía sau chánh điện là một trai đường, gác trên trai đường là Tăng xá dành cho chư Tăng nghỉ, phía trước dãy phòng Tăng xá là một hội trường nho nhỏ dành để chư Tăng hội họp bàn luận về Phật pháp, trên hội trường này có một tủ thờ rất nhiều tượng Phật trên thế giới do Hòa thượng Bửu Chơn hiến tặng sau mỗi lần dự hội nghị Phật giáo. Cổng tam quan
76 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
chùa Kỳ Viên ngày nay xây theo lối kiến trúc Thích Ca Phật Đài ở Vùng Tàu không giống như cổng tam quan ngày xưa. Trong thời điểm hiện tại (2020) dưới sự vận động của HT. Tăng Định - Trụ trì Chùa Kỳ Viên, đang tiến hành trùng tu ngôi Tam Bảo, với tầm nhìn biến ngôi Tự viện này trở thành một trung tâm truyền bá Phật giáo Nguyên thủy tại Quận 3 và Thành phố Hồ Chí Minh, xứng đáng với bề dày và tầm vóc lịch sử lớn lao, gắn liền với sự nghiệp giáo hóa của các bậc cao Tăng của Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam. Chùa Kỳ Viên thời đức Phật do ông Cấp Cô Ðộc dâng cúng rất đặc biệt. Ðức Phật cư ngụ ở đây rất lâu và nhiều bài pháp ngày nay còn ghi trong kinh điển cũng được Ngài thuyết giảng tại đây. Chùa Kỳ Viên ở Việt Nam cũng thật xứng đáng với tên gọi Kỳ Viên ở Ấn Ðộ. Vì ở đây có nhiều sự kiện quan trọng và là điểm son của Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam. Nhắc đến Kỳ Viên ở giai đoạn đầu, chúng ta không thể nào quên một vị pháp sư tài ba lỗi lạc, đó là Pháp sư Thông Kham. Ngài thông thạo Tam Tạng, thuyết pháp giảng đạo thật lưu loát. Nhờ có Ngài nên Phật tử mới am tường chánh pháp Phật giáo Nguyên thủy và cứ thế quần chúng Phật tử đến quy y tại chùa Kỳ Viên càng ngày càng đông. Ngày nay chúng ta vẫn còn thấy những quyển sách của pháp sư như Ba Mươi Tám Pháp An Lành, Phật Tổ Cồ Ðàm, Giải Ðáp Thắc Mắc Người Cư Sĩ, Tìm Hiểu Phật giáo v.v. Người thứ hai là Pháp sư Hòa thượng Narada người Tích Lan. Ngài đến đây dâng Xá Lợi cho chùa Kỳ Viên và Ngài từng thuyết pháp giảng đạo bằng Anh ngữ qua sự thông ngôn của đạo hữu Phạm Kim Khánh cho Phật tử Việt Nam. Những bài pháp của Ngài là những viên ngọc quý cho thiện nam tín Nữ noi theo tu hành. Ngài có rất nhiều quyển sách được dịch sang Việt ngữ để phổ biến cho người Việt Nam nương theo đó tu hành. Kể từ ngày có hai vị pháp sư trên, chùa Kỳ Viên là một vị sao Bắc Ðẩu trên bầu trời Sài Gòn. Nhắc đến Kỳ Viên ai cũng biết và dần dần trở nên nổi tiếng ở trong nước cũng như trên thế giới. Cho đến nay chùa Kỳ Viên đã trải qua các đời Trụ trì như sau3: - Hòa thượng Hộ Tông - Hòa thượng Bửu Chơn 3 -Tham khảo tiểu sử các Ngài tại: http://www.trungtamhotong.org/index.php?module=sulieu&cat_id=1
Phường 3 - Chùa Kỳ Viên
77
- Hòa thượng Tối Thắng - Hòa thượng Giới Nghiêm - Hòa thượng Thiện Thắng - Hòa thượng Ẩn Lâm - Hòa thượng Viên Minh - Hòa thượng Siêu Việt - Hòa thượng Tăng Ðịnh (Trụ trì hiện nay)
TẦM VÓC CỦA NGÔI CHÙA LỊCH SỬ Từ Sài Gòn, đạo Phật Nguyên Thủy được truyền bá đến các tỉnh thành khắp miền Nam và miền Trung nước Việt và nhiều chùa được thiết lập. Theo thống kê năm 1997, có tất cả 64 chùa Phật Giáo Nguyên Thủy, trong đó có 19 chùa tại Sài Gòn. Ngoài chùa Bửu Quang và Kỳ Viên, còn có nhiều chùa nổi tiếng khác như chùa Bửu Long, Giác Quang, Phổ Minh, Tam Bảo (Đà Nẵng), Thiền Lâm và Huyền Không (Huế), và Thích Ca Phật Đài ở Vũng Tàu, v,v... Tại địa điểm quan trọng này, vào ngày 14-05-1957 được sự cho phép của chánh phủ, cụ Nguyễn Văn Hiểu thành lập TỔNG HỘI PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VIỆT NAM. Ðồng thời vào ngày 18-12-1957, quý vị Hòa thượng Bửu Chơn, Thiện Luật, Hộ Tông, Kim Quang, Giới Nghiêm, Tối Thắng và Giác Quang thành lập GIÁO HỘI TĂNG GIÀ NGUYÊN THỦY VIỆT NAM4. Kể từ đó cho đến năm 1981, chùa Kỳ Viên là trụ sở của Giáo hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. Các vị Hòa thượng Tăng thống của Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam đều là những vị Trụ trì chùa Kỳ Viên. Trong thập niên 1960 và 1970, nhiều vị Tỳ khưu được gửi đi tu học nước ngoài, đông nhất là tại Thái Lan, và vài vị khác tại Tích Lan và Ấn Độ. Chương trình tu học nầy được thiết lập trở lại trong những năm gần đây, và hiện có rất đông chư Tăng Ni của truyền thống Nguyên thủy đang tu học tại nước ngoài. Là đội ngũ đầy hứa hẹn cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam hiện nay. 4 - Là một trong 9 tổ chức thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam
78 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Trong lịch sử, có một sự liên hệ khắng khít giữa Tăng đoàn Việt Nam và Cam Bốt. Cũng cần ghi nhận ở đây là vào năm 1979, sau khi nhóm Khơme Đỏ bị đánh đuổi ra khỏi Phnom Penh, hai vị Hòa Thượng Bửu Chơn và Giới Nghiêm cùng với một đoàn Tỳ khưu Việt Nam đã đến Thành phố này để tái truyền giới cho 7 vị Tỳ khưu Cam Bốt và phục hồi Tăng đoàn Cam Bốt, vốn đã bị nhóm Khơ-me Đỏ tiêu diệt khi họ nắm quyền. Có thể nói rằng, chùa Kỳ Viên là ngôi Tự viện tiêu biểu trong thời kỳ thống nhất Giáo hội Phật giáo Việt Nam (ngày 07 tháng 11 năm 1981) và tiếp tục đóng góp nhiều hoạt động Phật sự, gìn giữ nhiều nét đặc thù của hệ phái Phật giáo Nam tông Kinh tại TP. Hồ Chí Minh và quận 3. Hiện nay vào các ngày Chủ Nhật, chùa Kỳ Viên có Tổ chức thuyết pháp. Trong hai ngày sám hối hằng tháng có Tổ chức hành thiền và thuyết pháp. Ðặc biệt mỗi tháng có hai ngày Mùng một và Mười lăm, mở khóa tu thiền Tứ niệm xứ (từ 8 giờ sáng cho đến 17 giờ chiều) dành cho Phật tử muốn tu tập pháp hành thiền, do sư Tăng Ðịnh và Hộ Tịnh đảm nhiệm. Hằng tuần chùa Tổ chức các lớp giáo lý dành cho Phật tử. Môn học gồm có Vi Diệu Pháp, Thanh Tịnh đạo, Phật pháp chuyên đề, Trung bộ kinh, Pháp cú kinh, kinh tụng Pàli. Thành phần Giảng sư gồm những vị có trình độ Phật học uyên thâm. Các ngày lễ lớn như Phật Đản, An cư, Phật Đản, chùa Tổ chức nhiều sự kiện nổi bật theo truyền thống Nguyên thủy thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân. Chùa Kỳ Viên trong quá khứ là trụ sở của Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam, cơ sở hoằng pháp chính của Phật giáo Nguyên thủy và là nơi tiếp đón các phái đoàn Phật giáo quốc tế trong khối Nam truyền. Hiện nay chùa Kỳ Viên là trung tâm văn hóa của Phật giáo Nam tông Kinh, một địa điểm xiển dương pháp học lẫn pháp hành cho Phật tử muốn tu tập theo đường Phật giáo Nguyên Thủy. Trong các hoạt động Phật sự của Giáo hội Quận 3, chùa đều tham gia rất tích cực. Đặc biệt là việc bảo tồn các giá trị tâm linh mang truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, được Giáo hội các cấp quan tâm tạo điều kiện phát
Phường 3 - Chùa Kỳ Viên
79
triển, góp phần đầy đủ vào Tổng thể của Phật giáo Quận 3, với đầy đủ các truyền thống của Lịch sử Phật giáo Việt Nam, gắn liền với nhiều cột mốc quan trọng. Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: HT. Thích Hộ Tông, HT. Thích Thiện Luật, HT. Thích Bửu Chơn, HT. Thích Tối Thắng, HT Thích Ấn Lâm, HT Thích Giới Nghiêm, HT Thích Siêu Việt, HT. Viên Minh. Trụ trì hiện nay: Hòa thượng Tăng Định Các ngày lễ lớn, kỵ giỗ trong năm theo truyền thống PGNT tại chùa Kỳ Viên gồm: Lễ rằm tháng 1 âm lịch (đại hội 1250 vị Thánh Tăng lần đầu tiên và đức Phật hứa cùng Ma Vương), lễ rằm tháng 4 âm lịch: tam hợp, Đản sanh, Thành đạo, Niết bàn), Lễ rằm tháng 6: đức Phật chuyển pháp luân và chư Tăng ACKH, Lễ rằm tháng 7: mùa báo hiếu, đặt bát hội, Lễ dâng y Kathina từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 10. Lễ giỗ tưởng niệm công đức các vị tiền bối hữu công khai sáng PGNTVN. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Kỳ Viên, 610 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 3, Quận 3 Điện thoại: 028.38325522 Năm thành lập: 1947 Người sáng lập: HT. Hộ Tông và cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu (Tổng hội trưởng Tổng hội Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam) Hệ phái: Nam Tông Trụ trì hiện nay: HT. Thích Tăng Định Năm trùng tu: 1951, 1954, 2006 Đặc điểm: Tổ đình Phật giáo Nam tông, nguyên là Văn phòng Trung ương hệ phái Phật giáo Nam tông. Tài liệu tham khảo: - Sử liệu của Trung tâm Hộ tông tại http://www.trungtamhotong.org/
80 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA QUẢNG ĐỨC Chùa Quảng Đức thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, tọa lạc tại số 117, đường Bàn Cờ, Phường 3, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
S
au sự kiện Phật giáo năm 1963, một số chùa ở Quận 3 được vào thành lập có xu hướng lấy tên của những vị Tăng Ni đã vị pháp thiêu thân đặt làm tên chùa. Chùa mang tên là Quảng Đức chính là bắt nguồn từ pháp danh của Bồ Tát Thích Quảng Đức. Trụ trì tiền nhiệm là Thượng tọa Thích Trí Hiển. Trụ trì hiện nay là Hòa thượng Thích Thanh Vân, nguyên Phó trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN Quận 3 nhiệm kỳ 2012- 2017, đến nay, Hòa thượng là Cố vấn BTS GHPGVN Quận 3. Năm 1993, Thượng tọa - nay là Hòa thượng Thích Thanh Vân đảm nhiệm trọng trách Trụ trì và bắt đầu trùng hưng ngôi Tam Bảo. Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1967, 1997. Năm 2017, HT. Thích Thanh Vân đứng ra vận động đại trùng tu lại toàn bộ Chùa với Tổng kinh phí hơn 6 tỷ đồng, hình thành nên ngôi
Phường 3 - Chùa Quảng Đức
81
Tam Bảo trang nghiêm như hiện nay. KIẾN TRÚC Bao gồm 1 trệt, 3 tầng lầu, 1 cổ lầu và sân thượng Tầng trệt: Phía trước cổng Tam quan, tôn trí tượng Bồ tát Quán Âm lộ thiên cao 8 m với cây kiểng hai bên tạo không gian thiền vị, linh thiêng khi bước vào cổng chùa. Câu đối cổng Tam quan: 廣度凡塵建立道場興政法 德圓聖果宣揚寶藏啟玄門 Phiên âm: Quảng độ phàm trần kiến lập đạo tràng hưng chánh pháp Đức viên Thánh quả tuyên dương bảo tạng khải huyền môn Lầu 1: Phương trượng của Hòa thượng Trụ trì và liêu phòng cho Tăng chúng. Lầu 2: gồm Nhà Tổ, Nhà để cốt, phía trước có tôn trí tượng Bồ Tát Quảng Đức. Lầu 3: Chánh điện. Tôn trí tôn tượng Bổn sư, với phối trí đồ thờ mang phong cách chùa Nam Bộ. Phía trước là tượng thờ Bồ Tát Di Lặc Cổ lầu tôn trí bàn thờ 2 vị Hộ pháp hai bên cửa, với Trống và Hồng chung. Hoành phi trên ban thờ Tam Bảo: 萬德慈尊 Vạn Đức Từ Tôn
82 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Hai bức liễn đối hai bên ban thờ: 廣陽大法普利人天北臧南傳皆俱辯 德播慈風露流淨性東文西學總能通 Phiên âm: Quảng dương đại pháp phổ lợi nhân thiên Bắc tạng Nam truyền giai cụ biện Đức bá từ phong lộ lưu tịnh tánh Đông văn Tây học Tổng năng thông. Đặc biệt, mọi thiết kế, phối trí đều được đích thân Hòa thượng Trụ trì thiết kế và chủ trì xây dựng. ĐÓNG GÓP PHẬT SỰ Chùa Quảng Đức gắn liền với công đức của Hòa thượng Thích Thanh Vân - nguyên Phó ban Thường trực BTS GHPGVN Quận 3 nhiệm kỳ 8 (2012 - 2016). Trên nhiều cương vị khác nhau, hiện nay là Cố vấn Ban Trị sự, bằng uy đức, cùng kinh nghiệm hoằng hóa của Hòa thượng là chỗ dựa vững chắc của Thường trực BTS Phật giáo Quận 3, mỗi khi có Phật sự khó khăn, Ngài đều tận tâm góp ý và động viên tinh thần các thành viên BTS khiến mọi công tác đều thành tựu.
Phường 3 - Chùa Quảng Đức
83
Với tinh thần tri ân báo ân, Ngài cùng với HT. Thích Minh Hiền (Viện chủ Chùa Phật Đà) trùng tu ngôi Tổ đình Linh Phước (tỉnh Bến Tre). Thường niên, Chùa Quảng Đức Tổ chức phát tặng quà như gạo, thực phẩm,... cho các hoàn cảnh khó khăn, tham gia ủng hộ các hoạt động An sinh xã hội do Ban Trị sự và chính quyền phát động. Hòa thượng Trụ trì còn quan tâm hỗ trợ các người già neo đơn, có hoàn cảnh khó khăn, thông qua rất nhiều các chuyến từ thiện tại các trung tâm bảo trợ xã hội, các tỉnh thành trên khắp cả nước là nơi nương tựa tâm linh của cư dân quanh vùng về lễ bái, cầu nguyện, nhận được cảm tình rất lớn của lãnh đạo chính quyền và nhân dân. Hằng năm, chùa Quảng Đức Tổ chức các ngày lễ lớn của Phật giáo. Đặc biệt là 19 tháng Tư Âm lịch, nhà chùa Tổ lễ tưởng niệm Bồ Tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân với sự tham dự các cấp lãnh đạo chính quyền, Thành hội Phật giáo và đông đảo đồng bào Phật tử. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Quảng Đức, số 117 Bàn Cờ, Phường 3, Quận 3 Điện thoại: 028.38323150 Năm thành lập: 1964 Người sáng lập: tín đồ Phật tử Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1967, 1997, 2017 Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: TT. Thích Trí Hiển Trụ trì hiện nay: Hòa thượng Thích Thanh Vân
84 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
PHƯỜNG 4 1 - CHÙA HUỆ QUANG 2 - TỔ ĐÌNH PHẬT BỬU 3 - CHÙA PHẬT ĐÀ 4 - CHÙA TỪ MINH
Phường 4 - Chùa Huệ Quang
85
CHÙA HUỆ QUANG Chùa Huệ Quang thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, tọa lạc tại số 524/6 lô H8, đường Nguyễn Đình Chiểu, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH
C
hùa do cố HT. Thích An Ngộ thành lập vào năm 1964, trên diện tích rất khiêm tốn. Hiện nay, chùa có kiến trúc nhiều tầng để có đủ không gian dùng làm chánh điện, Tăng xá, nhà hậu Tổ và thiền đường. Chánh điện chùa bày trí tượng thờ theo phong cách chùa Nam Bộ bao gồm tôn tượng Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Quán Thế Âm và Địa Tạng Vương Bồ Tát; phía dưới có tượng Chuẩn Đề Bồ Tát; ngoài cùng là bộ tượng Thất Phật Dược Sư. Ngôi Già lam tuy đơn sơ, nhỏ bé nhưng là nơi dừng chân tịnh tu gắn liền với công đức, sự nhẫn nại, âm thầm, miệt mài hy sinh phần riêng, hết lòng vì Phật sự chung Giáo hội của Hòa thượng An Ngộ nguyên Chánh Đại diện (nay là Trưởng Ban Trị sự), Hòa thượng là một trong những người đầu tiên tham gia điều hành Phật sự tại Quận 3, từng bước xây dựng tập thể, đào tạo Tăng Ni kế thừa, góp phần không nhỏ cho
86 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
sự phát triển ổn định của Phật giáo Quận 31 hiện nay. Sau khi Phật giáo cả nước được thống nhất (năm 1981), lần lượt các tỉnh, Thành phố bắt tay ngay vào xây dựng Giáo hội địa phương. Năm 1983, Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 được thành lập, Hòa thượng ( lúc này là Đại đức Thích An Ngộ) đảm nhiệm vai trò Phó Ban Đại diện, cùng TT. Thiện Đức (nguyên Phó Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước Quận 3) - Chánh Đại diện, ĐĐ. Tịnh Hạnh (nay là HT Tịnh Hạnh- Thành viên HĐCM, Chứng minh BTS Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, Viện chủ Tổ đình Phật Bửu) - Thư ký Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 . Trải qua nhiều 4 nhiệm kỳ liên tục của Ban Đại diện Phật giáo Quận 3, Hòa thượng từng đảm nhiệm Chánh Đại diện Phật giáo Quận 3, gánh vác Phật sự trong gần 20 năm chưa từng mệt nhọc. Nhờ sự nỗ lực của quý Ngài, đã tạo xây dựng được uy tín trong Tăng già, gắn kết các Tự viện, đoàn kết trong Tăng Ni thuộc nhiều truyền thống, tông môn pháp phái chung sức chung lòng cùng xây dựng mái nhà chung Phật giáo trong lòng nhân dân Quận 3. Truyền thống “hộ quốc - an dân”, đồng hành cùng các tôn giáo 1 - Tham khảo phần Phụ lục: “Lãnh đạo Phật giáo Quận 3 các thời kỳ”
Phường 4 - Chùa Huệ Quang
87
bạn và các cấp lãnh đạo chính quyền của Ban Trị sự được tạo dựng cũng nhờ trí tuệ sáng suốt của Hòa thượng cùng các bậc tiền bối. Khi tuổi già sức yếu, Ngài tịnh tu, giao phó vai trò Trụ trì chùa cho pháp tử là Thượng tọa Thích Nhuận Thuận. Kế thừa sự nghiệp của Thầy Tổ, TT. Nhuận Thuận tích cực tham gia Phật sự, giữ ngọn lửa nhiệt huyết cháy mãi không dừng, vốn có khả năng Phật học vững chắc, Thượng tọa Thích Nhuận Thuận hiện là Phó Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Hoằng pháp GHPGVN Quận 3, Giảng sư các lớp đào tạo Giảng sư của Trung ương GHPGVN, Giáo thọ sư các trường Trung, Sơ cấp tại Bến Tre và Tp. Hồ Chí Minh, Giảng sư các đạo tràng, lớp giáo lý trên toàn Thành phố... Có thể nói, chùa Huệ Quang là minh chứng sống động của tinh thần phụng sự đạo pháp - dân tộc hết lòng, theo đúng tinh thần “Bồ tát dĩ hoằng pháp vi bổn hoài”, một đời âm thầm nhưng trí đức tỏa hương.... Sau khi tiếp nhận Trụ trì chùa Huệ Quang, TT. Thích Nhuận Thuận đã tu sửa nhiều hạng mục, mở rộng không gian phục vụ cho Phật tử tu tập, cùng chính quyền sở tại quan tâm công tác an sinh xã hội tại địa phương, được sự cảm mến và quy hướng của đông đảo thiện tín gần xa. Hằng năm lễ Huý kỵ (giỗ) của Hòa thượng Thích An Ngộ, cố Trụ trì chùa Huệ Quang diễn ra trong hai ngày, Mùng Hai và Mùng Ba tháng 11 Âm lịch là sự kiện quan trọng của chùa. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 524/6 Nguyễn Đình Chiểu, lô H8, Phường 4, Quận 3 Điện thoại: 028.38334947. Năm thành lập: 1964 Người sáng lập: Hòa thượng Thích An Ngộ Hệ phái: Bắc tông Trụ trì tiền nhiệm: Hòa thượng Thích An Ngộ Trụ trì hiện nay: Thượng tọa Thích Nhuận Thuận
88 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
TỔ ĐÌNH PHẬT BỬU Tổ đình Phật Bửu thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, tọa lạc tại số 80A, đường Cao Thắng, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, còn được gọi là Tổ đình Phật Bửu Thiền Tịnh Đạo Tràng do Hòa thượng Thích Minh Trực - Tổ khai sơn, hiển dương pháp môn “Thiền Tịnh song tu” tại Nam Bộ vào năm 1948. Trong cuộc Pháp nạn năm 1963, nơi đây cũng ghi dấu tích của các bậc tôn túc lãnh đạo phong trào đấu tranh bảo vệ Phật giáo trước chính quyền Ngô Đình Diệm tại “vùng lõm Bàn Cờ”, đặc biệt là nơi cử hành lễ cầu nguyện cuối cùng của Bồ tát Thích Quảng Đức cùng pháp lữ và Phật tử trước khi tuần hành đến địa điểm Bồ tát tự thiêu 1. TỔ SƯ MINH TRỰC KHAI SƠN TỔ ĐÌNH PHẬT BỬU
H
òa thượng Thích Minh Trực (1895 - 1976), Thiền sư đời 40 dòng Lâm Tế, pháp húy Chơn Như, thế danh là Võ Văn Thạnh, tự Trương Văn Học, sinh năm Ất Mùi (1895), tại xã Phước Vân, Tổng Lộc Thành Thượng, tỉnh Chợ Lớn (cũ), nay là xã 1 - Vào ngày 11/6/1963, ngay giữa ngã tư đường Lê Văn Duyệt và Phan đình Phùng (nay là đường Cách mạng tháng 8 và Nguyễn Đình Chiểu). Hiện nơi đây, chính quyền đã xây dựng Công viên Tượng đài kỷ niệm sự kiện này, trở thành điểm di tích lịch sử của Quận 3.
Phường 4 - Tổ Đình Phật Bửu
89
Phước Vân, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Thân phụ Ngài là cụ ông Trương Văn Bền, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Mai, pháp danh Bất Phàm, tự Diệu Giác. Cả hai đều là cư sĩ Phật tử thuần thành. Ngài là con thứ 4 trong gia đình. Thuở nhỏ, Ngài được thân mẫu dẫn đến quy y Tam bảo ở chùa Mỹ Phước, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Sau đó, Ngài tiếp tục lên Sài Gòn học Nho học và Tây học cho đến khi đỗ đạt. Do có túc duyên với Phật pháp nhiều đời, nên ngoài kiến thức thế gian, Ngài còn thường xuyên gần gũi các bậc cao Tăng thạc đức, các giới học giả trí thức, để tham cứu kinh sách Tam giáo, và quyết định chọn cho mình một con đường để đi, đó là Phật giáo. Năm 29 tuổi (1924), Ngài xuất gia tại chùa Tam Tông1 (Sài Gòn) rồi cùng các cụ Minh Chánh, Minh Giáo, Minh Truyền, Minh Đàm, Minh Thiện sáng lập Tam Tông Miếu - Minh Lý Thánh Hội tại quận Ba, Sài Gòn. “Trong thời gian tu học ở đây, Ngài thiết lập thiền thất chuyên nghiên cứu Phật học và cùng với các vị tôn túc danh Tăng : Tổ Khánh Hòa, Huệ Quang, 1 - Chùa tọa lạc tại: Số 82, đường Cao Thắng, phường 3, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
90 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Khánh Anh, Đạt Thanh; Hòa thượng Từ Quang, Thành Đạo, Thiện Hòa, Thiện Hoa....trao đổi giáo lý Phật đà. Ngoài ra, Ngài quan hệ và tham gia các phong trào chấn hưng Phật giáo : Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật Học, Giáo hội Lục Hòa Tăng, Giáo hội Tăng Già Việt Nam, Hội Phật học Nam Việt để mở rộng sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh sau này2” . Năm 1948 ,sau hơn 20 năm sinh hoạt, tu tập và tiếp xúc các bậc cao Tăng, Ngài khai sơn Tổ đình Phật Bửu Thiền Tịnh Đạo Tràng. Ngài hiển dương pháp môn “Thiền Tịnh song tu” và được lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay. Theo Ngài, muốn nhiếp hóa đồ chúng dễ dàng, phải kết hợp cả Thiền lẫn Tịnh, cả đốn lẫn tiệm. Về thiền, Ngài căn cứ vào yếu chỉ kinh tạng Đại thừa đốn ngộ : Duy Ma Cật, Viên Giác, Pháp Bảo Đàn... Về Tịnh độ, Ngài y cứ vào kinh Di Đà Đại Bổn, Thiền Môn Nhựt Tụng mà Ngài diễn dịch rất chu đáo để hướng dẫn đồ chúng trên đường tu học. Vốn thông hiểu Nho học lẫn Tây học, lại thêm uyên thâm nghĩa lý sâu xa của Phật pháp, nên từ năm 1948 đến cuối đời, Ngài đã để hết tâm trí miệt mài dịch kinh, viết sách để truyền đạt tư tưởng giáo lý của Phật Tổ, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, phổ cập kinh Phật tới quần chúng. Những bộ kinh được Ngài dịch ra Việt ngữ như : Nhựt Tụng, Pháp Bảo Đàn, Duy Ma Cật, Đại Viên Giác v.v... và một số các thi kệ, liễn đối ở các 2 - Thích Đồng Bổn, “Tiểu sử Danh tăng Việt Nam thế kỷ XX- tập II”, Thành hội PG Hồ Chí Minh ấn hành
Phường 4 - Tổ Đình Phật Bửu
91
Tự viện mang đậm triết lý đạo pháp và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.. Năm 1952, Ngài là một trong quý Hòa thượng lãnh đạo các Giáo phái Phật giáo Nam Bộ cung nghinh ngọc xá lợi Phật Tổ do Phái đoàn Phật giáo Tích Lan thỉnh theo, trên đường đi Hội nghị Phật giáo ở Nhật Bản quá cảnh Sài Gòn, cũng trong năm này, Hội Phật học Định Tường suy tôn Ngài làm Pháp chủ của Hội. Với uy đức lớn, Ngài Tổ chức đi hóa đạo tại các nước theo sự thỉnh mời các Đạo tràng ở Campuchia, Lào, Nhật, Indonesia,..... Ngài là một trong những đại diện của Phật giáo miền Nam tiên phong trong xây dựng quan hệ ngoại giao với Phật giáo thế giới trên lĩnh vực hoằng pháp, Ngài từng là Pháp sư trong các lễ hội do Giáo hội các nước Tổ chức. Năm 1963, Ngài là Cố vấn Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, lãnh đạo giáo phái Thiền Tịnh Đạo Tràng đứng chung với 11 Tổ chức Phật giáo miền Nam, đấu tranh chống chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm. Ngày 22/08/1963, Ngài và toàn bộ Tăng chúng Tổ đình đã bị chính quyền Diệm bắt giam tại Rạch Cát cùng chung với các vị lãnh đạo Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo. Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập, Ngài là thành viên của Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống. Trên lộ trình hành đạo Ngài đã góp công đào tạo nhiều thế hệ Tăng Ni, mà sau này là những trụ cột của Phật giáo Việt Nam,...... Ngài có nhiều đệ tử xuất gia và tại gia, khai sơn tạo tự 24 ngôi Tam Bảo ở các tỉnh, thành miền Nam, miền Trung, trực thuộc Tổ đình Phật Bửu Thiền Tịnh Đạo Tràng, cùng mang tên Phật Bửu tại Quảng Ngãi, Bình Định, Châu Đốc, Mỹ Tho, Bến Tre, Long An, Bà Rịa Vũng Tàu,v.v... và các quận huyện ở Thành phố như : Quận 4, Bình Thạnh, Hóc Môn. Năm 1976, qua 52 năm hoằng pháp lợi sanh, viên mãn công đức, Ngài an nhiên thị tịch, trụ thế 82 tuổi, hưởng 52 tuổi đạo. Sau khi trà tỳ, xá lợi Ngài được tôn trí vào các bảo tháp ở Tổ đình Phật Bửu ở Quận 3, Phật Bửu Tự Hóc Môn và Phật Bửu Tự Phước Vân. Suốt cuộc đời hành đạo, Ngài đã đóng góp phần mình trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt
92 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Nam thời cận đại và hoài bão tuyên dương pháp môn thiền tịnh, xây dựng nhiều chùa cảnh làm nơi truyền bá đạo pháp cũng như phiên dịch Kinh tạng giúp cho hậu thế thuận đường tu học. Ngài xứng đáng là một Trưởng lão Tôn túc của Phật giáo miền Nam và toàn thể Phật giáo Việt Nam. Sau khi Tổ sư Minh Trực viên mãn, pháp tử của Ngài là Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh kế thừa Trụ trì Tổ Đình, lãnh đạo tông phái Thiền Tịnh Đạo Tràng, tiếp nối công hạnh của Tổ sư xiển dương pháp môn, đức hạnh sáng ngời, HT. Thích Tịnh Hạnh lần lượt gánh vác các Phật sự của Giáo hội qua nhiều nhiệm kỳ như Chánh Đại diện Phật giáo Quận 3, Phó Ban Trị sự Thành hội Phật giáo, Ủy viên HĐTS Trung ương - Thành viên HĐCM GHPGVN, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN Thành phố Hồ Chí Minh.
KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1964, 1968 và 1989. Hiện lưu giữ nhiều dấu ấn kiến trúc Chùa Nam Bộ xưa.
Phường 4 - Tổ Đình Phật Bửu
93
Cổng chính của chùa nằm trên đường Cao Thắng, Quận 3. Từ cổng này đi vào khoảng 30m sẽ thấy bảng tên chùa. Nhìn sang phải là tới một cổng khác, hẹp và thấp, không mái. Trên cổng là bảng tên chùa bằng chữ quốc ngữ, phía dưới là hàng chữ “thanh tịnh”, “trang nghiêm” và một câu đối ghi bằng âm Hán Việt. 佛寳神通普施慈悲開國泰 法門玄妙宏揚智勇定民安 Phiên âm: Phật bảo thần thông phổ thí từ bi khai quốc thái. Pháp môn huyền diệu hoành dương trí dũng định dân an. Dịch nghĩa: Phật bảo thần thông, lòng từ bi rải khắp mở ra đất nước thái bình. Pháp môn huyền diệu, trí dũng nêu cao giúp nhân dân an lạc. Mặt trong của cổng là nguyên bản chữ Hán của bảng tên chùa - 佛 寳寺 và câu đối được phiên âm phía trước. Tất cả đều được đắp bằng xi măng. Nhìn từ cổng thấy chùa xây ba tầng, lợp ngói, mái cong đầu phượng Chánh điện chùa nằm ở vị trí lầu một, được bày trí tôn nghiêm theo phong cách chùa Nam Bộ. Ngoài ra, chùa còn có một pho tượng Phật cổ làm bằng sa thạch được tạo tác vào thời Angkor thể hiện Đức Phật tọa thiền trên mình rắn thần Mucalinda. Bảo tháp hay tháp chuông của chùa được xây dựng trong hai năm (1994 - 1995), tầng trên cùng treo quả đại hồng chung nặng một tấn, được đúc tại Huế. Chùa còn bảo tồn nhiều hoành phi liễn đối bằng chữ Hán rất phong phú. Bàn thờ Tổ Minh Trực Đại Sư Hoành phi Minh Trực Đại Sư 明直大師 SƠ TỔ KHAI SÁNG PHÁP MÔN THIỀN TỊNH ĐẠO TRÀNG Lạc khoản: 元生乙未十一月十二日 1895 Tạm dịch : Nhà sư Minh Trực sinh ngày 12 tháng 11 năm Ất Mùi 1895
94 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Câu đối 1 (Việt ngữ) Minh diễn thiền tông đốn dẫn tam thừa đăng bỉ ngạn Trực truyền tịnh độ tiệm qui tứ chúng vãng tây thiên Bài vị Đại sư Minh Trực Chánh văn: 嗣臨濟正宗四十世諱直如上明下直大師和尚祖師開創禪淨道場祖庭 佛宝覺靈座位 宗現乙未年十一月十二日住世八十二歲 宗寂扵丙辰年五月初五日吉時 Phiên âm: Tự Lâm Tế chánh tông tứ thập thế húy Chơn Như thượng Minh hạ Trực đại sư hòa thượng Tổ sư khai sáng thiền tịnh đạo tràng Tổ đình Phật Bửu giác linh tọa vị Tôn hiện Ất Mùi niên thập nhất nguyệt thập nhị nhật trụ thế bát thập nhị tuế Tôn tịch ư Bính Thìn niên ngũ ngoạt sơ ngũ nhật cát thời Tạm dịch: Hòa thượng Minh Trực thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40, húy là Chơn Như, pháp danh Minh Trực, là Tổ sư khai sáng thiền tịnh đạo tràng tại Tổ đình Phật Bửu Sanh ngày 12 tháng 11, hưởng thọ 82 tuổi Mất ngày 5 tháng 5 năm Bính Thìn (1976) Câu đối 2 禪道明心直見本來成正覺 淨宗念佛漸開般若證無生 Phiên âm: Thiền đạo minh tâm trực kiến bản lai thành chánh giác Tịnh tông niệm Phật tiệm khai bát nhã chứng vô sanh Dịch: Đạo thiền cốt ở sáng tâm, thấy thẳng bản tánh xưa nay thành Chánh giác. Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật, dần dần phát sinh trí tuệ chứng Vô sinh. Các hoành phi
Phường 4 - Tổ Đình Phật Bửu
1. GIỚI ĐỨC TRANG NGHIÊM 戒德莊嚴. 2. PHẬT PHÁP ĐỐNG LƯƠNG 佛法棟樑 3. PHẬT HÓA LƯU PHƯƠNG 佛化流芳 4. THIỀN TỊNH ĐẠO TRÀNG 禪淨道場 Lạc khoản: 佛暦二千四百九十一年 創立戊子年正月初五日 (1948) Phiên âm: Phật lịch nhị thiên tứ bách cửu thập nhất niên Sáng lập Mậu Tý niên chánh ngoạt sơ ngũ nhật (1948) Câu đối 3 明演禪宗頓引三承登彼岸 直傳淨土漸歸四衆往西天 Phiên âm: Minh diễn Thiền tông đốn dẫn tam thừa đăng bỉ ngạn. Trực truyền Tịnh độ tiệm quy tứ chúng vãng Tây thiên Tạm dịch: Rộng sáng thiền tông ba xe nhanh chóng đưa qua bờ giác ngộ Truyền thẳng tịnh độ lần hồi đưa đệ tử Phật đến trời Tây Câu đối 4 佛卽明心正教古傳於解脫 法唯般若禪宗直指在眞空 Phiên âm: Phật tức minh tâm chánh giáo cổ truyền ư giải thoát Pháp duy bát nhã thiền tông trực chỉ tại chơn không Tạm dịch: Tâm sáng là Phật, đạo xưa nay lấy giải thoát làm chính Pháp nơi trí tuệ, thiền tông chỉ thẳng chỗ về cái không
95
96 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Chánh điện lầu 1 Hoành phi: KIM CANG BẢO ĐIỆN 金剛寶殿 Câu đối 1 正覺圓成舍利輝煌升寶殿 慈光照燿法功應化坐蓮臺 Phiên âm: Chánh giác viên thành xá lợi huy hoàng thăng bảo điện Từ quang chiếu diệu pháp công ứng hóa tọa liên đài Câu đối 2 được đắp theo Việt ngữ: Bồ Tát Quan Âm bi trí độ nhơn siêu khổ hải Từ Vương Địa tạng đức ân tế thế thoát u đồ3 Dịch nghĩa: Địa Tạng vua từ, ân đức cứu đời khỏi đường tăm tối. Quán Âm Bồ Tát, bi trí đưa người qua biển khổ đau. 3 - Chuyển sang chữ Hán: 慈王地藏德恩濟世脫幽塗 菩薩觀音悲智度人超苦海
Phường 4 - Tổ Đình Phật Bửu
97
DẤU ẤN PHẬT SỰ Tổ đình Phật Bửu là ngôi Già Lam gắn bó với lịch sử chấn hưng Phật giáo, với hành trạng Tổ sư Minh Trực - Khai sáng môn phái Thiền Tịnh Đạo Tràng. Năm 1963, Bồ tát Thích Quảng Đức đã cử hành buổi lễ cầu nguyện tại Tổ đình Phật Bửu trước khi tự thiêu4. Tổ đình Phật Bửu cũng là nơi đặt văn phòng Ban Đại diện Phật giáo Quận 3, Lớp Sơ cấp Phật học cho Tăng Ni trong quận. Đây là Tổ đình điều hành trên 20 ngôi chùa trong tông phái từ miền Trung đến miền Nam. HT. Thích Tịnh Hạnh tiếp tăng độ chúng, đào tạo tăng tài, giúp đỡ cho Tăng sinh từ các tỉnh về Thành phố để tu học. Được biết, đã trải qua nhiều năm tại Tổ đình Phật Bửu, HT đã mở lớp dạy giáo lý cho Phật tử vào mỗi chiều thứ 7, và đạo Tràng Pháp Hoa vào mỗi tháng 2 kỳ, Tổ chức thuyết giảng Phật pháp thường kỳ. 4 - Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a25821/dien-tien-cuoc-tu-thieu-cua-hoa-thuong-thich-quang-ducngay-11-6-1963
98 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Hàng năm lễ giỗ Hòa thượng Thích Minh Trực diễn ra vào này ngày 5 tháng 5 âm lịch là một sự kiện quan trọng của chùa với sự tham dự của các cấp lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chư Tôn đức, Tăng Ni và Phật tử ở Thành phố Hồ Chí Minh. THÔNG TIN LIÊN HỆ Địa chỉ: Tổ đình Phật Bửu, 80A Cao Thắng, Phường 4, Quận 3, Tp. HCM Điện thoại:028.3832 4715 Năm thành lập: 1948 Hệ phái: Bắc tông (Thiền Tịnh Đạo Tràng) Người sáng lập: HT Thích Minh Trực Trụ trì hiện nay: HT. Thích Tịnh Hạnh Năm trùng tu: 1964, 1989
Phường 4 - Chùa Phật Đà
99
CHÙA PHẬT ĐÀ Chùa Phật Đà thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, tọa lạc tại số 362/46, đường Nguyễn Đình Chiểu, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
C
hùa được cư sĩ Lê Đình Nguyên (pháp danh Hạnh Nhơn) vận động xây dựng vào năm 1962, từ năm 1980 đến năm 2019 do HT.Thích Minh Hiền làm Trụ trì. Đến nay đã trải qua ba lần trùng tu lớn. Chùa mang kiến trúc đơn giản, không có nhiều điểm khác biệt so với các ngôi chùa miền Nam cận đại. Các thế hệ Trụ trì đều chú trọng về nội lực tu tập của chư Tăng, và sự thực tu thực chứng của hành giả. Tuy vậy, vẫn đảm bảo đầy đủ tiện nghi và không gian cho các khóa tu Thiền thất cũng như thuyết giảng số lượng hàng trăm người. Chùa Phật Đà là Thiền đường kế truyền pháp môn Thiền Tổ sư1 , gắn liền với sự hoằng pháp của cố Thiền sư Duy Lực. Hiện nay Lớp Thiền căn bản được Tổ chức tại chùa được duy trì thường xuyên và liên tục, thu hút sự quan tâm, tham học của đông đảo Tăng Ni và Phật tử. 1 - Pháp Thiền do Đức Phật truyền trực tiếp cho Ngài Ca Diếp tại hội Linh Sơn.
100 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
KIẾN TRÚC Chùa có diện tích hơn 250m2 được thiết kế 3 tầng thành các hạng mục như sau: tầng hầm để xe, Tổ đường và Trai đường, Chánh điện, Thiền đường và Tăng xá. Đặc biệt chánh điện chùa Phật Đà bày trí theo phong cách Phật giáo Thiền tông với tôn tượng Đức Phật Thích Ca và một pho tượng Thích Ca Sơ sinh trên bàn thờ nằm giữa chánh điện. Bước vào cổng Tam Quan chùa, trên là bức hoành phi 唯慧是業 – Duy tuệ thị nghiệp, bên hữu là phòng văn hóa phẩm Phật giáo, bên tả là lối đi xuống hầm để xe. * Tầng trệt: gồm Khách đường và Tổ đường phía sau Trai đường, Ban thờ Tổ thiết trí tôn tượng Tổ Đạt Ma, Tượng Thiền sư Duy Lực, cùng di ảnh các vị cao Tăng tiền bối hữu công chấn hưng Phật pháp. Hoành phi: 祖徳流芳 Tổ đức lưu phương
Phường 4 - Chùa Phật Đà
101
Câu đối 宗風永振只物傳心一句話頭真了悟 祖印重光隨緣化導懸崖散手自乘當 Phiên Âm: Tông phong vĩnh chấn, chỉ vật truyền tâm nhứt cú thoại đầu chơn liễu ngộ Tổ ấn trùng quang, tùy duyên hóa đạo huyền nhai tán thủ tự thừa đương. Dịch nghĩa: Tông phong luôn hưng thịnh, chỉ vật truyền tâm, một câu thoại đầu liền liễu ngộ. Tổ ấn lại sáng ngời, tùy duyên hóa đạo, vực thẳm buông tay tự đảm đương.
* Lầu 1: Chánh điện Chánh điện trang trí đơn giản, dành không gian trống cho các hành giả thực tập thiền tọa và thiền hành, Ban thờ thiết trí tôn tượng đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật trong tư thế thiền định, thứ cấp là các vị Bồ tát đứng hầu hai bên, với ý nghĩa hành Bồ tát đạo, không quên hạnh nguyện “tự độ, độ tha”. Phía trên là mái vòm cong, tượng trưng cho sự vẹn trọn,
102 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
viên thành đạo quả. Chính thiết kế đơn giản, hướng sự tập trung duy nhất vào tôn tượng, vẻ đẹp từ những điều tối giản được ghi nhận thông qua cảm nhận sự chiêm nghiệm của người chiêm ngưỡng, vừa hỗ trợ công phu thiền định, vừa thể hiện sự tinh tế trong mỹ thuật Phật giáo. Hoành phi: 大雄寳殿 Đại Hùng Bảo Điện Câu đối: 佛指幽玄如雲掛山頭行到山頭雲更逺 禪機浩簜似月臨水面撥開水面月還深 Phiên âm: Phật chỉ u huyền như vân quải sơn đầu, hành đáo sơn đầu vân cánh viễn. Thiền cơ hạo đán tợ nguyệt lâm thủy diện, phát khai thủy diện nguyệt hoàn thâm.
Dịch nghĩa: Ý chỉ của chư Phật sâu kín như mây treo đầu núi, đi đến đầu núi mây lại càng xa. Cơ phong nhà Thiền rộng lớn tựa trăng soi mặt nước, rẽ mặt nước ra trăng vẫn còn sâu.
Phía ngoài cửa chính của Chánh điện có Đại hồng chung và Trống, ngoài ra còn có tủ sách lưu giữ Đại tạng Kinh Hán tạng, ban thờ hai vị Hộ pháp thủ hộ Già lam.
Phường 4 - Chùa Phật Đà
103
* Lầu 2 - Thiền đường Lối thiết kế tương tự Chánh điện, đây là nơi Tổ chức các khóa tu thiền thất, thuyết giảng và thực hành pháp môn Thiền thoại đầu (thiền Tổ sư), ngoài ra còn có nhiều tranh ảnh, câu đối Hán tự,.. Tuy lối vào chùa bị hạn chế bởi hẻm ngõ nhỏ, những không gian nội viện rất rộng rãi và có sự yên tĩnh nhất định, đều là những thuận duyên cho những hành giả chuyên tu Thiền. Hai dãy nhà hai bên tả hữu song song với Chánh điện và Thiền đường là liêu phòng của quý Thầy. CHÙA PHẬT ĐÀ VÀ PHÁP MÔN TỔ SƯ THIỀN TẠI VIỆT NAM Trên bước đường tham học Phật đạo, với chí nguyện hoằng pháp lợi sanh, giữ gìn di sản của các vị Thiền sư, HT. Thích Minh Hiền cầu học với Thiền sư Duy Lực, bấy giờ là một giáo thọ lỗi lạc chuyên về pháp môn Thiền thoại đầu (Tổ sư thiền), Trong thời gian đó, HT. Minh Hiền, một lòng vừa tinh chuyên thiền tập theo hướng dẫn của Thiền sư Duy Lực, vừa phụ tá đắc lực lo công tác Tổ chức các khóa tu, Thiền thất, mở rộng Thiền phái rộng khắp các tỉnh, Thành phố trong và ngoài nước. Từng bước Chùa Phật Đà trở thành một Thiền đường tiếng tăm, quy tụ hàng trăm hành giả mỗi khi có khóa tu thiền thất, còn duy trì cho đến tận nay. Gắn liền với sự phát triển của chùa là hành trạng Thiền sư Duy Lực - một cao Tăng Việt Nam. Cố Hòa thượng Thích Duy Lực (1923 - 2000), pháp danh Duy Lực, pháp tự Giác Khai, nối pháp thiền phái Tào Động. Sư họ LA húy DŨ hiệu DUY LỰC, tự GIÁC KHAI, pháp huy Nhựt Như, sanh năm 1923 tại làng Long Tuyền, huyện Bình Thủy tỉnh Cần Thơ, Việt Nam. Cha là La Xương và mẹ Lưu Thị, làm nghề nông. Bằng sự tự học là chính, Sư đậu bằng giáo viên Hoa văn, từng tham gia biên soạn Báo Viễn Đông tại Sài Gòn, được mời dạy tại Cần Thơ, Vĩnh Long và đất nước Campuchia hơn 10 năm. Năm 1958, Sư đậu bằng Đông y sĩ cấp 1, sư tham gia khám chữa bệnh miễn phí cho nhân dân khắp nơi.
104 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Khi đọc được phần Thiền tông trong bộ Tục Tạng Kinh, Sư quyết chí tu theo Tổ sư Thiền dưới sự hướng dẫn của Pháp sư Diệu Duyên2. Năm 1973, Sư được Hòa Thượng HOẰNG TU cho xuất gia tu học tại Chùa Từ Ân, Quận 11, Chợ Lớn (Sài Gòn). Tháng 05 năm 1974, Sư thọ giới Tam Đàn Cụ Túc tại Chùa Cực Lạc Malaysia. Đến năm 1977, Sư bắt đầu Tổ chức hoằng pháp Tổ sư Thiền. Đến năm 1983, tứ chúng quy tụ ngày càng đông, Phật tử theo tu học pháp Tổ Sư Thiền hơn 4000 người, mỗi lần tham dự thiền thất đều vượt trên 300 người. Từ những năm 1990, Hòa Thượng thường đi giảng Thiền ở nhiều nơi trên thế giới. Đến thiền đường học đạo có người Tây, Âu và Á Châu, trong đó người Việt Nam là đông nhất. Những năm cuối đời, Sư thường được thỉnh đến giảng tại các nước trên thế giới như: Chùa Chánh Giác ở Toronto
Canada, Chùa Quan Âm ở Brisbane Australia, Tịnh xá Đại Bi ở Đài Loan và một số chùa ở Hồng Kông. Nhất là các thiền đường ở Mỹ để giảng dạy pháp Tổ Sư Thiền và thính chúng lui tới tu học đông đảo. 2 - Ngài Diệu Duyên đã nhiều năm thân cận Lai Quả Thiền Sư và Hư Vân Thiền Sư, Ngài tịch vào năm 1976 tại Chùa Thảo Đường, Quận 6 - Thành phố Hồ Chí Minh.
Phường 4 - Chùa Phật Đà
105
Thiền sư Duy Lực còn là soạn giả của rất nhiều kinh điển đại thừa đã được xuất bản rộng rãi. Năm 2000, sau khi Thiền Sư Thích Duy Lực viên tịch, Hòa thượng Thích Minh Hiền được sự đề cử của chư Tôn đức trong tông môn đã được suy cử là Trưởng tông môn Tổ Sư Thiền, tiếp tục sự nghiệp của Thầy Tổ “Truyền đăng tục diệm - kế vãng khai lai”, giữ gìn truyền thống Tổ sư Thiền tại Việt Nam. DẤU ẤN PHẬT SỰ Với hơn 40 năm thừa đương Phật sự của HT. Thích Minh Hiền, ngôi Phạm vũ Phật Đà, từ ngôi chùa cấp 4 với diện tích vỏn vẹn chỉ 40 m2 , với tâm huyết của một “sứ giả Như Lai” Hòa thượng đã dần dần xây dựng nên ngôi Tam Bảo Phật Đà trở thành một ngôi chùa có tầm cỡ của Quận 3, đóng góp vào thành tựu Phật sự và phát triển của Phật giáo Quận 3. Với uy tín cao với Tăng Ni, Phật tử và Giáo hội, Hoà Thượng Thích Minh Hiền được suy cử Uỷ viên Ban Hoằng Pháp Trung Ương, Uỷ viên Ban Trị Sự Thành Hội Phật Giáo Tp HCM, Chánh đại diện Phật giáo Quận 3, tham gia giảng dạy các Trường Phật học và các đạo tràng An cư kiết hạ trong Thành phố và các Tỉnh vùng sâu vùng xa từ năm 1989 đến nay. Số lượng hành giả, học Tăng trú xứ tại Chùa Phật Đà có lúc lên đến 35 vị, sinh hoạt theo thanh quy và thời khóa riêng rất nghiêm khắc. Tông môn Tổ sư Thiền do Ngài lãnh đạo cũng được phát triển, với hàng chục ngôi chùa khắp cả nước và trên thế giới, nhiều khóa tu Thiền thất đã hướng dẫn hàng nghìn hành giả tu tập, được nhiều Tăng Ni, Đạo tràng Phật tử quy hướng Tông chỉ Thiền cơ, điểm một nét đặc biệt trong dòng lịch sử Thiền tông Phật giáo Việt Nam hiện đại. Hiện nay, tuy niên cao lạp trưởng, Hòa thượng vẫn gánh vác vai trò Trưởng Ban Trị sự GHPGVN Quận 3, Chủ nhiệm Lớp Sơ cấp Phật học Quận 3, liên tục nhiều nhiệm kỳ góp phần trang nghiêm và ổn định Phật giáo Quận nhà. Ngoài ra, với tâm huyết đặt nền móng cho thế hệ hậu bối,
106 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Hòa thượng đã không ngại khó khăn, quyết tâm khai sơn và xây dựng ngôi Thiền viện Linh Sơn ( xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng), cũng là trung tâm tu học tham Tổ sư Thiền tại Việt Nam, công trình hiện đang dần hoàn thiện, mỗi kỳ an cư kiết hạ và mùa kiết đông có hàng trăm hành giả trở về tu học tham thiền dưới sự hướng dẫn trực tiếp của HT. Thích Minh Hiền. Đồng thời, nhằm “tri ân Tổ đức” Hòa thượng đã đứng ra vận động xây dựng lại Tổ đình Linh Phước, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trang nghiêm bề thế, sắp xếp người thừa tự ổn định tông môn. Trên mọi lĩnh vực Phật sự, dù đa đoan, Hòa thượng đều hết mực quan tâm, không bỏ sót, Hòa thượng luôn thao thức “tre già măng mọc”, đặc biệt thiết tha đào tạo các thế hệ Tăng Ni có đầy đủ phẩm hạnh, năng lực kế thừa. Tăng Ni các nơi đều được Ngài nâng đỡ, tạo điều kiện về nơi ăn, chốn ở học tập các trường Phật học và được động viên nâng cao thế học, rất nhiều thế hệ Tăng Ni, ít nhiều đều chịu ơn giáo dưỡng của Ngài. Cảm mến và noi theo hạnh nguyện của Hòa thượng, trong số các đệ tử nhiều vị hiện đã trưởng thành, đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng trong Giáo hội các cấp. Qua nhiều nhiệm kỳ, Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo Quận 3 được đặt tại Chùa Phật Đà, nơi diễn ra các cuộc hội họp của Ban trị sự Phật giáo quận, Tổ chức và điều hành Phật sự đều tốt đẹp với hơn 44 ngôi Tự viện, quản lý hơn 600 Tăng Ni,.....tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp, thâm tình với các tôn giáo bạn và lãnh đạo chính quyền Quận 3 - một trong những Quận trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2019, HT. Thích Minh Hiền truyền cho pháp tử là ĐĐ. Thích Thiện Chơn kế thừa Trụ trì Chùa Phật Đà. Bên cạnh đó, chùa Phật Đà cũng quan tâm, vận động các thiện tín Phật tử, cùng Tổ chức nhiều hoạt động an sinh xã hội tại địa phương như: Trao học bổng, tặng quà từ thiện, gạo, muối, cứu trợ thiên tai,v.v...nhận được nhiều cảm tình và mến mộ của nhân dân địa phương.
Phường 4 - Chùa Phật Đà
107
HOẠT ĐỘNG THƯỜNG NIÊN Hiện nay, chùa Phật Đà thường xuyên Tổ chức nhiều khóa tu Thiền cho Tăng Ni và Phật tử: - Thiền thất: ngày 21 - 27 Âm lịch (hàng tháng). - Lớp Thiền căn bản: 14g00 - 16 g 00 (Chủ Nhật hàng tuần) - Tổ chức khóa tu Bát quan trai (niệm Phật - mỗi tháng hai ngày, vào Mùng Hai và ngày 16 Âm lịch). Chùa Phật Đà là địa chỉ quen thuộc cho rất nhiều Tăng Ni và Phật tử đến chiêm bái và tu học các lớp Thiền học và giáo lý nhà Phật. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 362/46 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 4, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh Điện thoại: 028.38326709 Năm thành lập: 1962 Người sáng lập: Cư Sỹ Lê Đình Nguyên Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1970, 1980 Viện chủ, Trụ trì tiền nhiệm: Hòa thượng Thích Minh Hiền Trụ trì hiện nay: ĐĐ. Thích Thiện Chơn.
108 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA TỪ MINH Chùa Từ Minh thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, tọa lạc tại số 43/4 (đường Vườn Chuối) nay là số 17, đường số 03, cư xá Đô Thành, phường 4, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ CHÙA TỪ MINH
L
à một ngôi chùa nhỏ được cư sĩ Minh Huyền xây dựng năm 1969 và trùng tu năm 1972. Mặt tiền chùa được trang trí với đường nét hoa văn cổ, tường sơn màu vàng, vẽ đường viền màu đỏ bao quanh các mảng tường. Chùa có hai biển hiệu, một bằng chữ Quốc ngữ đặt tại mặt tiền tầng một, hai bằng chữ Hán điêu khắc trên mặt tiền chùa ở tầng ba được thiết kế theo mẫu hình của một cổng chùa. Mặc dù chiều rộng của chùa không quá 4m nhưng với lối kiến trúc nhiều tầng, bao gồm một tầng trệt và ba tầng lầu, chùa Từ Minh đã phối trí đầy đủ các gian phòng phục vụ cho sinh hoạt của Phật tử và các nghi lễ Phật giáo. Bàn thờ Phật được bày trí trong chánh điện theo phong cách chùa miền Bắc Việt Nam bao gồm bộ tượng tam thế Phật. Trong chùa còn có Vãng sanh
Phường 4 - Chùa Từ Minh
109
đường, bàn thờ Chuẩn Đề, Phật Thích Ca, Quan Thế Âm Bồ Tát, đại hồng chung, trống cổ và phòng ở dành cho chư Tăng. Hoành phi và câu đối Tầng trệt: Cổng Tam Quan Câu đối: 慈濟衆生普利人天歸覺海 明如行足廣開權寔度群迷 Phiên âm: Từ tế chúng sinh, phổ lợi nhân thiên quy giác hải. Minh như Hạnh Túc, quảng khai quyền thực độ quần mê. Dịch nghĩa: Từ bi cứu vớt chúng sanh, làm lợi ích khắp trời người cùng về biển giác. Sáng soi như Đức Phật, rộng mở quyền thật độ chúng mê. Lầu 1: Tổ Đường Hoành phi: 慈明寺 Từ Minh tự Câu đối: 佛身清淨似琉璃佛面猶如滿月輝 佛在世間常救苦佛心無處不慈悲 Phiên âm: Phật thân thanh tịnh tự lưu li, Phật diện do như mãn nguyệt huy. Phật tại thế gian thường cứu khổ, Phật tâm vô xứ bất từ bi. Dịch nghĩa: Thân Phật trong sạch tựa ngọc lưu li, mặt Phật giống như mặt trăng tròn ngời sáng. Phật ở thế gian thường cứu khổ, tâm Phật thì không có chỗ nào không có từ bi.
Lầu 2: Chánh điện Hoành phi: 大雄寳殿 Đại hùng bảo điện
110 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Câu đối: 萬萬世衆生之化道大雄大力大慈悲 七七年之教法宣揚無量無邊無數刼 Phiên âm: Vạn vạn thế chúng sinh chi hóa đạo đại hùng đại lực đại từ bi. Thất thất niên chi giáo pháp tuyên dương vô lượng vô biên vô số kiếp. Dịch nghĩa: Giáo hóa chúng sanh trong muôn đời là đại hùng, đại lực, đại từ bi. Tuyên nói giáo pháp trong bốn mươi chín năm thì vô lượng, vô biên, vô số kiếp.
CÔNG TÁC PHẬT SỰ Chùa Từ Minh gắn liền với sự nghiệp hoằng hóa của cố Hòa Thượng Thích Minh Nghĩa (1944 - 2020), Chứng minh Ban Nghi lễ Trung ương, nguyên Phó Trưởng ban - Chánh Thư ký Ban Nghi lễ Trung ương, Ủy viên Ban Hoằng Pháp Trung ương GHPGVN, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN Quận 3. Trong nhiều thập niên qua, với tâm nguyện hoằng pháp, báo Phật ân đức, Hòa thượng là giảng sư tại khắp các trường hạ, là
Phường 4 - Chùa Từ Minh
111
ngọn đèn trí tuệ soi rõ cho nhiều lớp lớp Tăng Ni. Với đạo hạnh sáng ngời, Hòa thượng được cung thỉnh là Thiền chủ Trường hạ Chùa Quảng Đức quận 12 trong nhiều khóa An cư kiết hạ, chứng minh nhiều Phật sự quan trọng của Ban Trị sự các địa phương và Tự viện. Với uy đức của Hòa thượng Trụ trì, ngôi chùa tuy nhỏ, nhưng Tổ chức tu học và Phật sự rất nghiêm chỉnh, hiện, chư Tăng hiện cư trú hơn 10 vị, sinh hoạt theo quy củ thiền môn, tham gia học tập các trường Phật học trên địa bàn Thành phố. Chùa Từ Minh hiện có nhiều đạo tràng tu học dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng, Tổ chức quy y cho hàng nghìn thiện tín, cùng các mạnh thường quân Tổ chức nhiều hoạt động an sinh xã hội như cứu trợ thiên tai, trao học bổng, hỗ trợ trung tâm bảo trợ,......nhận được nhiều ghi nhận của các Tổ chức xã hội. Vào các dịp lễ truyền thống của Phật giáo, chùa đều Tổ chức nhiều chương trình, thuyết giảng ý nghĩa, đi vào lòng người, là điểm nhấn của địa phương, nơi nương tựa của đông đảo Phật tử xa gần. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 43/4 Vườn Chuối, số 3, cư xá Đô Thành, Phường 4, Quận 3 Điện thoại: 028.38326981 Năm thành lập: 1969 Người sáng lập: Cư sĩ Minh Huyền Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1972 Trụ trị tiền nhiệm: Hòa thượng Thích Minh Nghĩa (1944 - 2020) Trụ trì hiện nay: Đại đức Thích Đồng Huệ Các ngày lễ lớn trong năm: Rằm tháng Giêng, Tư, Bảy, Mười.
112 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
PHƯỜNG 5 1 - CHÙA NGUYÊN HƯƠNG..................................107 2 - CHÙA PHỔ HIỀN...............................................112 3 - CHÙA THIÊN BẢN............................................115
Phường 5 - Chùa Nguyên Hương
113
CHÙA NGUYÊN HƯƠNG Chùa Nguyên Hương thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, tọa lạc tại số 361/27, đường Nguyễn Đình Chiểu, phường 5, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. NGỌN LỬA NGUYÊN HƯƠNG
N
ơi đây nguyên là một Niệm Phật Đường nhỏ bé được một nhóm Phật tử sống ở khu vực Phường Phan Đình Phùng (cũ) lập nên sau sự kiện Phật giáo năm 1963. Năm 1964, Đại đức Thích Pháp Siêu đã đứng ra xây dựng lại để thành một ngôi Tự viện. Tên gọi của ngôi chùa xuất phát từ pháp danh của Đại đức Thích Nguyên Hương, vị Thánh tử đạo đã vị pháp thiêu thân trong sự kiện Phật giáo năm 19631. Trong Pháp nạn năm 1963, Đại đức Nguyên Hương tuy mới 23 tuổi nhưng tâm huyết và định lực vững vàng, đã âm thầm tự thiêu, không cho ai biết trước, tại đài chiến sĩ trước tỉnh đường Bình Thuận (Phan Thiết), sự kiện đã gây chấn động khắp nơi, tiếp lửa cho phong trào đấu tranh bảo vệ Phật giáo, tại Sài gòn (trung tâm của Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo) 1 - Thiền sư Nhất Hạnh, “Việt Nam Phật giáo sử luận” , tập III, Chương 39.
114 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
đã diễn ra lễ tưởng niệm (đích thân Hòa thượng Tịnh Khiết chủ trì) và biểu tình về sự kiện tự thiêu này. Đó là một vài nét điểm qua về ý nghĩa đặc biệt của tên ngôi Phạm Vũ tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh - chùa Nguyên Hương. Chùa trải qua nhiều thế hệ Trụ trì: Đại đức Thích Pháp Siêu, Hòa thượng Thích Minh Hạnh (Thích Huệ Thới), Thượng tọa Thích Giác Tân, Đại đức Thích Giác Minh. Hòa thượng Thích Thiện Bảo. Sự tiếp nối truyền đăng không ngừng, từng bước tạo linh khí, để từ ngôi nhà nhỏ bé, Hòa thượng Thiện Bảo đã không ngừng mở rộng diện tích, tạo dựng thành chốn thiền lâm cho Tăng chúng Phật tử quy tụ, an tâm tu học. KIẾN TRÚC Chùa đã trải qua lần trùng tu đầu tiên vào năm 1990. Năm 2009, nhận thấy kiến trúc chịu nhiều hư hại, nhà chùa khởi công xây dựng lại kiến trúc mới với Tổng kinh phí đầu tư hơn 4 tỉ đồng. Công trình đại trùng tu do Hòa thượng Thích Thiện Bảo - Trụ trì chùa lúc đó vận động thiện tín Phật tử thực hiện trong hơn hai năm, với nhiều hạng mục công trình được mở rộng hơn so với diện tích cũ. Hiện chùa có diện tích rộng 200 m2, bao gồm một tầng trệt và ba tầng lầu. Tại đầu hẻm 261, đường Nguyễn Đình Chiểu có một tấm biển lớn sơn màu xanh dùng làm cổng chào cho khu phố, bên trên ghi dòng chữ màu trắng, Chùa Nguyên Hương. Chùa nằm cách đầu hẻm khoảng 50 mét, cổng chùa xây phía trước mặt tiền trông rất nguy nga, một tấm biển màu nâu chữ vàng ghi tên CHÙA NGUYÊN HƯƠNG. Mặt tiền chùa trang trí theo lối kiến trúc cổ, kiểu trùng thềm điệp ốc, hoa văn dây lá, hình học, đầu đao cùng vút trang trí hình tượng những án mây. Mặc dù được
Phường 5 - Chùa Nguyên Hương
115
xây dựng bằng chất liệu hiện đại nhưng nhờ lối phối trí hoa văn dây lá và màu sắc nhẹ nhàng nên kiến trúc chùa đạt tiêu chuẩn mỹ thuật cao, mang dấu ấn của một ngôi chùa mang phong cách truyền thống và hiện đại của Thành phố Hồ Chí Minh. Chánh điện tôn trí bằng một pho tượng đại Phật Thích Ca Mâu Ni sơn son thếp vàng ngự trên tòa sen, phía trước là pho tượng Thích Ca sơ sinh. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Chùa Nguyên Hương là một trong nhiều ngôi Tam Bảo đón dấu chân hoằng hóa của Hòa thượng Thiện Bảo - Ủy viên HĐTS GHPGVN, nguyên Phó Trưởng ban Hoằng pháp Trung ương, nguyên Phó Tổng biên tập Báo Giác Ngộ, Cố vấn nhiều cộng đồng Phật tử Việt Nam trên thế giới,...Hòa thượng đã nhiều năm tham gia Ban Đại diện (sau này là Ban Trị sự) Phật giáo Quận 3, gắn bó Phật sự thâm niên với Quận 3, tạo uy tín lớn với lãnh đạo chính quyền các cấp, sự phát triển hiện nay của Phật giáo Quận 3, có công sức không nhỏ của Hòa thượng. Đặc biệt, trên lĩnh vực giáo dục Phật giáo, Hòa thượng rất coi trọng cả nội điển và ngoại điển (Hòa thượng cũng từng là Phó chủ nhiệm Lớp Sơ
116 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
cấp Phật học Quận 3 nhiều năm), xây dựng nhiều Đạo tràng tu niệm Phật, Bát Quan Trai, Thiền Chánh niệm,... Ngoài công tác biên soạn tài liệu hướng dẫn tu học, Hòa thượng còn tạo điều kiện cho chư Tăng và Phật tử Đạo tràng có nhiều thuận duyên tu tập. Hiện một số Khóa tu thường niên kết nối các chùa do Hòa thượng trực tiếp quản lý, mỗi kỳ Bát Quan Trai đều thu hút khá đông Phật tử về tham dự. Bên cạnh đó là các hoạt động từ thiện: phát gạo, trao học bổng, cứu trợ thiên tai,.... khắp mọi miền đất nước. Với nội lực và hạnh nguyện kiến lập đạo tràng, hoằng dương Chánh pháp, Hòa thượng nhận thấy, một số Phật sự tại Thành phố đã có người tiếp nối vững vàng, Ngài tiếp tục dấn thân tới các vùng còn chưa thành tựu: Ngài xây dựng Chùa Bửu Thọ tại Kiên Giang, xây dựng đạo tràng Phật tử quốc tế tại đất nước Hungary, Cộng hòa Séc,...kết nối Phật giáo Việt Nam với cộng đồng thế giới. Hằng năm, vào các dịp lễ hội lớn như Phật Đản, Vu Lan, chùa
Phường 5 - Chùa Nguyên Hương
117
Nguyên Hương đều Tổ chức nhiều sự kiện ý nghĩa, công tác an sinh xã hội liên tục phát triển. Hương đức tỏa ngát, là một trong các Tự viện tiêu biểu của Phật giáo Quận 3. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Nguyên Hương, 361/27 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 5, Quận 3 Năm thành lập: 1964 Người sáng lập: GHPGVNTN Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1990, 2010 Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: ĐĐ. Thích Pháp Siêu, HT. Thích Minh Hạnh, TT. Thích Giác Tân, ĐĐ. Thích Giác Minh (1964- 1974), HT. Thích Thiện Bảo Viện chủ: Hòa thượng Thích Thiện Bảo Trụ trì hiện nay: Thượng tọa Thích Thường Hạnh
118 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA PHỔ HIỀN Chùa Phổ Hiền thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, tọa lạc tại số 327/10, đường Nguyễn Đình Chiểu, phường 5, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
N
ăm 1973, Hòa thượng Thích Giác Tân mua lại một phần đất thuộc sở hữu tư nhận để dựng lên một một cơ sở Phật giáo phục vụ cho công tác Phật sự và tu hành của ông và những người đệ tử. Do còn nhiều khó khăn, nên Hòa thượng không thể mở rộng ngôi Tam Bảo. Sau đó, Hòa thượng Kim Sa về gánh vác Phật sự trong khoảng thời gian, duy trì mạng mạch, không để gián đoạn. Trải qua nhiều biến chuyển, năm 1980, cố Ni trưởng Thích Nữ Như Mai (1944 - 2019) đảm nhận Trụ trì chùa Phổ Hiền, tuy đơn sơ nhưng Ni trưởng vẫn một lòng quyết tâm tạo lập đạo tràng để Phật tử quanh vùng có nơi hướng về tụng kinh niệm Phật, lễ bái, cầu nguyện. Ni trưởng còn tiếp độ Ni chúng, là người uy tín trong sơn môn và nhận được sự tin tưởng, quý mến của quý tôn túc đương thời.
Phường 5 - Chùa Phổ Hiền
119
Cố Ni trưởng Thích Nữ Như Mai (1944 - 2019), thế danh Nguyễn Thị Thu Thủy, sanh năm 1944 tại làng An Thạnh, Mỏ Cày, Kiến Hòa (nay Bến Tre). Năm 16 tuổi, thuận duyên vào chùa Vĩnh Bửu công quả tập sự và được sư bà Hồng Huệ ban pháp danh Diệu Mai. Năm 19 tuổi, chính thức xuất gia thọ giới Sa-di-ni, pháp hiệu Nhật Bình, tự Như Mai và theo học lớp sơ đẳng Phật học tại Từ Nghiêm. Năm 1966, Ni trưởng chuyển sang Ni trường Dược Sư theo học trung đẳng chuyên khoa và tốt nghiệp năm 1974. Năm 1975, Ni trưởng thọ giới Tỳ-kheo-ni tại chùa Từ Nghiêm. Từ năm 1992 đến 2017, được sự tín nhiệm của Giáo hội Ni trưởng đã tham gia rất tích cực Phật sự của Ban Đại diện (nay là Ban Trị sự) Phật giáo Quận 3 với trách nhiệm trợ lý văn phòng, rồi Ủy viên Thủ quỹ BTS qua nhiều nhiệm kỳ và làm Giám thị lớp sơ cấp Phật học Quận 3. Năm 1994, Ni trưởng vận động trùng tu lại ngôi chùa vì kiến trúc cũ bị hư hại nhiều qua thời gian. Năm 2002, Ni trưởng được mời tham gia Ủy viên Uỷ ban MTTQVN Quận 3 nhiệm kỳ 2009 - 2014, đóng góp cho công tác xã hội của địa phương. Hiện nay, Chánh điện của chùa Phổ Hiền được đặt trên tầng một,
120 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
bày trí bàn thờ Phật với bộ tượng A Di Đà Tam Tôn ở trung tâm chánh điện. Xung quanh trang trí nhiều bộ tranh Vãng sanh theo chủ đề Phật A Di Đà tiếp dẫn. Hằng đêm, chùa Phổ Hiền Tổ chức các nhóm Phật tử đến chùa tụng kinh A Di Đà, niệm Phật A Di Đà, các ni sư trong tu viện hướng dẫn Phật tử tu hành theo pháp môn A Di Đà với niềm tin vãng sanh về miền Tây phương Cực Lạc. Dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Ni trưởng chùa Phổ Hiền, vẫn giữ vững được ổn định, chư Ni sinh hoạt nề nếp theo giới luật, sống hài hòa với cư dân khu phố. Năm 2019, Ni trưởng Như Mai thị tịch về Tây, để lại hạnh nguyện độ sinh và trùng hưng ngôi chùa Phổ Hiền cho các đệ tử tiếp nối. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Phổ Hiền, 327/10 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 5, Quận 3. Năm thành lập: 1973 Người sáng lập: HT Thích Giác Tân Hệ phái: Bắc tông Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: Cố Ni trưởng Thích Nữ Như Mai
Phường 5 - Chùa Thiên Bản
121
CHÙA THIÊN BẢN Người sáng lập chùa là ông Trần Đình Thát, tự Vụ Bản, quê ở Nam Định di cư vào Nam. Chùa Thiên Bản toạ lạc tại số 241 Võ Văn Tần, Phường 5, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh TỪ MỘT NHÀ THỜ TỰ ĐẾN MỘT NGÔI CHÙA
V
ốn ban đầu ông Thát định cùng đồng hương thành lập một nhà thờ tự để thờ cúng Tổ tiên, dòng họ Trần của mình và ông giữ chức vị trưởng ban hộ tự. Khi chùa được xây cất xong, với muốn những người được thờ luôn được an lạc, ông Thát thỉnh sư về kinh kệ. Người đầu tiên về tiếp quản cũng như Trụ trì của chùa đó là cố Ni trưởng Thích Nữ Như Ánh. Cố Ni trưởng quê ở Bình Định, pháp hiệu Nguyên Hảo, tục danh Nguyễn Thị Kìa, sinh năm Kỷ Sửu (1949). Cố Ni trưởng đã tiến hành tu sửa nhà thờ tự thành chùa, xin giấy phép, bảng hiệu và gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Trong quá trình Trụ trì chùa, Ni trưởng luôn dốc lòng làm Phật sự và thể hiện tấm lòng từ bi, luôn tìm
122 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
cách kêu gọi và giúp đỡ những phận người bất hạnh trên khắp cả nước. Đến năm 2013, cố Ni trưởng viên tịch. Chùa lập ra một Ban quản trị phân công coi sóc chùa. Ban quản trị được lập ra có nhiệm kỳ 5 năm (2013 - 2018) do Sư cô Thích Nữ Quảng Tú là trưởng ban và Sư cô Thích Nữ Quảng Ngọc làm thư ký. Năm 2019, Sư cô Thích Nữ Quảng Ngọc được bổ nhiệm Trụ trì chùa. KIẾN TRÚC KẾT HỢP ĐÔNG - TÂY. Chùa Thiên Bản có một trệt, hai lầu, với diện tích mặt bằng khá khiêm tốn, chỉ vỏn vẹn 42m2 và không có khuôn viên. Trên đỉnh chùa là hình tượng chữ vạn (卍). Chùa được thiết kế như một ngôi tháp với nhiều tầng mái. Mái chùa được thiết kế cong cong hình thuyền. Nhìn từ trên xuống ta sẽ thấy trên cao nhất, dưới lớp mái thứ nhất là tên chùa được viết bằng chữ Hán “天本寺” (Thiên Bản tự), dưới lớp mái thứ hai là tên chùa được viết bằng chữ quốc ngữ theo kiểu phiên âm Hán tự “Thiên-Bản-tự”. Màu sắc chủ đạo của chùa như nhiều ngôi chùa khác đó là màu vàng.
Phường 5 - Chùa Thiên Bản
123
Mặt tiền chùa quay về hướng Tây. Nếu nhìn từ trước vào sẽ nhận thấy cổng chùa cũng có lối kiến trúc hai mái kép như ở đỉnh chùa. Do chùa có diện tích nhỏ nên cổng chùa và chùa hầu như không phân tách nhau (chỉ có một khoảng hành lang tầm nửa mét). Mái trên được thiết kế cong, chính giữa là hình ảnh bánh xe pháp luân trên đóa sen, những vật biểu trưng của Phật giáo, hai bên là đôi long cùng chầu. Cạnh bên đôi long là tượng đôi lân xanh, đôi tượng này thuộc về hành lang tầng một của chùa. Nhưng như trên đã nói, cổng và chùa hầu như không phân tách với nhau, thế nên mái trên của cổng và hành lang tầng một cũng không phân tách nhau. Dưới mái trên của cổng là bảng tên và địa chỉ của chùa. Mái dưới cũng được thiết kế cong cong như mái trên, rộng hết bề ngang của chùa. Phía dưới hai bên cổng là đôi câu đối được đúc cùng với đôi cột và được tô đỏ trên nền cột trắng, nổi lên văn tự được thiết kế cách điệu bằng chữ quốc ngữ sao cho
mỗi chữ đều nằm trong một hình tròn: Đất văn vật dựng nếp văn vật Cửa từ bi mở rộng từ bi
124 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Bước qua cổng, bên cánh phải nơi hành lang chùa là nơi thờ Bồ-tát Quan Âm với bức tượng bằng đá đứng trên tòa sen, vầng hào quang tỏa ra xung quanh. Ở tầng hai, nơi chánh điện chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy lối pha trộn kiến trúc Đông - Tây của chùa. Vốn ban đầu chùa được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp, song hiện tại, qua sửa chữa và thay đổi nên chùa rất thuần Việt. Nhưng để ý kỹ nơi cửa chánh điện tầng hai này còn lưu lại dấu vết kiến trúc Pháp: mái vòm ở các cửa. Tuy là thế nhưng nhìn vào kiến trúc, việc sắp đặt và trang trí trong chánh điện, nhất là các tấm phù điêu bằng gỗ, các hoành phi, câu đối Hán Nôm, khung gỗ nơi điện thờ với những hoa văn điêu khắc tỉ mỉ thì lại thấy rất Việt. Hầu như phần trang trí và bố trí điện thờ này không có gì thay đổi so với thời mới được thành lập, chỉ khác đôi chút về màu sắc là có phần tươi mới hơn sau những lần trùng tu lớn nhỏ. Nơi chánh điện, trên điện thờ là bức tượng Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đang thiền định bên tòa sen, vầng hào quang tỏa rạng, phía sau được vẽ hình ảnh cây bồ-đề. Bên cạnh Đức Phật là Quan Thánh Võ Đế ở bên phải và Địa Tạng Bồ-tát ở bên trái. Đây cũng là một đặc điểm đặc biệt của chùa Thiên Bản vì các nơi khác thường thờ Quan Âm Bồ-tát ở bên phải. Trên điện thờ phía trước là bảy bức tượng “thất Phật Dược Sư”, phía sau của 7 bức tượng Phật là bộ ba tượng Đức Phật ở giữa và hai vị Bồ-tát đứng hai bên. Hoành phi phía trên điện thờ được chạm khắc tinh tế và được thếp vàng dòng chữ 慈雲法雨 (Từ vân pháp vũ). Bên cạnh điện thờ là đôi câu đối bằng chữ Hán được sơn son thếp vàng rất đẹp: 寶座巍巍恩普浹 蓮臺濯濯福弘彌 Bảo tọa nguy nguy ân phổ tiếp Liên đài trạc trạc phúc hoằng di Phía tiền điện, hai bên cửa có thờ lưỡng vị Hộ pháp (Trừng Ác và
Phường 5 - Chùa Thiên Bản
125
Khuyến Thiện). Treo phía trên của cửa là bài thơ bằng chữ Nôm nói về người sáng lập ra chùa Thiên Bản, ông Trần Đình Thát (tự Vụ Bản): 務本圭鄉坦北河… (Vụ Bản quê hương đất Bắc Hà… Hai bên cửa là đôi câu đối bằng chữ Nôm: 坦河平方北賒吹𣋚𣋚望𢙐𨗒坦祖 厨天本綿南髙屹𣈜𣈜想念佛厨些 (Đất Hà Bình phương Bắc xa xôi, hôm hôm vọng não đình đất Tổ) (Chùa Thiên Bản miền Nam cao ngất, ngày ngày tưởng niệm Phật chùa ta) Theo hướng từ ngoài cửa vào thì phía bên trái có đặt một cái chuông từ thời kỳ đầu thành lập chùa do ông bà Trần Ngọc Lâm - phó trưởng ban hưng công - phát tâm cúng dường năm 1973. Đối diện, phía bên kia cửa là nơi đặt trống. Cạnh bên chỗ đặt chuông có bàn thờ thờ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma. Nơi cửa sổ có bức liễn, trên đó ghi bốn chữ “戒德精嚴” (Giới đức tinh nghiêm) với dòng lạc khoản “越南統一教會廣香坊奉供” (Việt Nam Thống nhất Giáo hội Quảng Hương Phường phụng cung - Phường Quảng Hương, Giáo hội Việt Nam Thống nhất kính tặng). Tại tầng một, chùa có một góc trang trọng riêng là nơi thờ Địa Tạng Bồ-tát, cố Ni trưởng Thích Nữ Như Ánh, người sáng lập ra chùa ông Trần Đình Thát, bảng tên và hình của những người góp công xây dựng và những người được gửi vào chùa khi sau khi mất. Ngoài ra danh sách những tiền nhân có công trong việc kiến tạo Thiên Bản tự vẫn được lưu giữ và trưng bày trang trọng trong chùa. TRUYỀN THỐNG NHÂN ÁI - ĐỜI NỐI ĐỜI Nối tiếp truyền thống nhân ái, từ bi của cố Ni trưởng Thích Nữ Như Ánh, Sư cô Trụ trì TN. Quảng Ngọc đã thực hiện nhiều chương trình từ thiện như phát quà cho hộ nghèo trong Phường nhân dịp đầu năm, hoặc đến nhiều nơi trên cả nước xây nhà tình thương, xây cầu,... Hằng tháng, chùa có chương trình phát cơm từ thiện vào mùng một và ngày rằm. Đầu năm,
126 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
chùa thường Tổ chức các buổi phát quà cho các hộ nghèo trong Phường để họ có thêm chút gì đó cho ngày Tết thêm sung túc. Vào rằm tháng 7, chùa cũng hay Tổ chức phát gạo cho các hộ nghèo. Công tác thiện nguyện linh động, tùy theo chi phí đóng góp, cúng dường của các mạnh thường quân. Trung bình mỗi năm, chi phí từ thiện chùa khoảng 700-800 triệu đồng, có năm cao nhất là khoảng 1 tỉ. Tiếp nối tốt đẹp hạnh nguyện của cố Ni trưởng Như Ánh, công tác an sinh xã hội của chùa đã nhận được đánh giá cao của Ban Trị sự và chính quyền các cấp, hằng năm đều nhận được nhiều bằng tuyên dương công đức và bằng khen, đây là những đóng góp Phật sự rất đáng được tán dương. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Thiên Bản, số 241 Võ Văn Tần, Phường 5, Quận 3. Điện thoại: 028.38394657 Năm thành lập: 1970 Người sáng lập: Ông Trần Đình Thát, tự Vụ Bản Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1984 Trụ trì tiền nhiệm: NT. Thích Nữ Như Ánh Trụ trì hiện nay: SC. Thích Nữ Quảng Ngọc
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
PHƯỜNG VÕ THỊ SÁU 1 - CHÙA TÒNG LÂM.............................................122 2 - CHÙA VĨNH NGHIÊM.......................................127 3 - CHÙA CANDARASI...........................................144 4 - CHÙA XÁ LỢI....................................................155 5 - CHÙA LINH XUÂN............................................175 6 - CHÙA HUYỀN TRANG.....................................178 7 - THIỀN VIỆN QUẢNG ĐỨC...............................181 8 - CHÙA VẠN THIỆN............................................192 9 - CHÙA HUỆ ĐĂNG.............................................196 10 - NI VIỆN KIỀU ĐÀM.........................................200 11 - TỊNH XÁ NGỌC DIỆP......................................207
127
128 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA TÒNG LÂM Đường Nguyễn Thị Minh Khai - một trong những con đường phồn hoa, náo nhiệt của TP.Hồ Chí Minh lúc nào cũng tấp nập người và xe qua lại. Ấy vậy mà trong sự vội vã của dòng người đua chen với cuộc sống mưu sinh thì gần ngay góc ngã tư Nguyễn Thị Minh Khai - Cách Mạng Tháng Tám tọa lạc một ngôi chùa nhỏ bình dị, ngày ngày vẫn điềm đạm tỏa bóng từ bi xuống cuộc đời hối hả: chùa Tòng Lâm. TỪ DUYÊN LÀNH VỚI CHIẾC Y VÀNG…
K
hông khí an yên, tĩnh mịch này đến từ cái tâm bình dị, yên lành của vị Trụ trì 60 tuổi cũng là người duy nhất trông coi chùa hiện nay - Sư cô Thích Nữ Lệ Minh. Lịch sử ngôi chùa cùng với duyên hạnh ngộ của sư cô đến đây tu học diễn ra thật tự nhiên, tùy duyên, nhẹ nhàng như một dòng nước trôi chảy. Lý do xuất gia đơn thuần vì mến mộ đạo và cảm thương chiếc y vàng thanh thoát. Sư cô Thích Nữ Lệ Minh là đệ tử của cố Ni sư Như Nhẫn - được sư phụ truyền trao sự nghiệp kế thừa ngôi chùa “cải gia vi tự” của vị Viện chủ là Ni sư Thích Nữ Diệu Tòng. Nhận quyết định bổ nhiệm Trụ trì ngày 26-72013 đến nay, Sư cô Lệ Minh vẫn luôn chăm chỉ phụng hiến mình cho lý tưởng nối truyền giáo pháp Phật-đà, qua việc công phu tinh tấn hàng ngày và các hoạt động thiện nguyện trong sự hỗ trợ của quý Phật tử gần chùa.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Tòng Lâm
129
Sư bà Thích Nữ Diệu Tòng có công với cách mạng, bản thân từng là hậu phương vững chắc ủng hộ vật chất cho tiền tuyến, có chồng và một con trai hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Khi đất nước hòa bình, cũng là lúc thấm lẽ vô thường của cuộc đời, năm 1978 Sư bà đã lập nên ngôi tịnh xá Tòng Lâm để tu tập, với tâm niệm “gửi thân tâm nơi cửa Phật là an ổn nhất”. Năm 1980, cố Viện chủ thỉnh cố Ni sư Như Nhẫn về Trụ trì. Năm 2005, Ni sư Diệu Tòng viên tịch, cố Ni sư Như Nhẫn nhận thấy cũng đến lúc hết duyên với Tự viện và giao ngôi tịnh xá lại cho đệ tử là Sư cô Thích Nữ Lệ Minh - đã tu tập ở tịnh xá Tòng Lâm từ năm 2001. KIẾN TRÚC CHÙA TÒNG LÂM Ban đầu Tòng Lâm chỉ đơn thuần là một ngôi tịnh xá thuộc sở hữu tư nhân của cố Viện chủ thành lập để tu tập. Trước khi qua đời, Sư bà làm đơn cúng dường ngôi Tam bảo lại cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Năm 2014 tịnh xá Tòng Lâm được nâng cấp lên thành chùa. Chùa có diện tích đất khoảng 100m2, chiều ngang khoảng 4m, chiều
130 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
dài khoảng 25m. Hiện chùa có 1 trệt, 2 lầu. Tầng trên cùng là chánh điện, tầng giữa là nhà khách đón đãi Tăng Ni, Phật tử còn phía dưới là sinh hoạt của Ni chúng. Tại chánh điện chùa còn lưu giữ câu đối của cố Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Kiểm, Phó ban Trị sự kiêm Trưởng ban Phật giáo Quốc tế GHPGVN TP.HCM với ngụ ý, đất nơi đây linh thiêng, khuyên người tu nên chuyên tâm tu hành thì sẽ đắc quả: “Linh địa phát Tòng Lâm khai hoá đạo mạch” “Thứu lãnh tài bồi công quả đắc viên thành”
Như các chùa Bắc tông khác, chánh điện chùa Tòng Lâm thờ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật và bên trái Bổn sư là Phật Quán Thế Âm còn bên phải Bổn sư là Ngài Địa Tạng. Hai bên tường chánh điện treo các tràng phan cúng dường Đức Đa Bảo Phật, Đức A Di Đà Phật, Đức Quán Thế Âm Bồ-tát. Ngoài cổng chùa là hai câu đối của của cố Hòa thượng ở chùa Giác Quang cũng là thầy của cố Viện chủ, đề tặng giảng bày ý nghĩa hai chữ Tòng Lâm: “Tòng trụ lan hương đạo trường lưu hậu thế” “Lâm diễn ngọc thọ pháp diễn truyền nhân gian”.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Tòng Lâm
131
… ĐẾN CÔNG PHU HÀNH THÂM TRANG NGHIÊM Ở ngôi Tam bảo mang dáng dấp của một căn nhà ấy, ngày ngày Sư cô cần mẫn tụng kinh, quét dọn, làm tròn những bổn phận của một vị Trụ trì và một bậc xuất gia phạm hạnh nghiêm túc. Chùa “nhất sư nhất tự” mà vị tu hành luôn có ý thức không giãi đãi bỏ thời khóa công phu! Thời khóa công phu hàng ngày của Sư cô bắt đầu từ 4 giờ sáng đến 6 giờ sáng. Sau đó, chấp tác, tảo sái, rồi nấu cơm cúng ngọ, đến các thời khóa tụng niệm theo quy củ thiền môn. Dù một mình hay có Phật tử đến tham dự, thời khoá công phu vẫn giữ nguyên như vậy.
Không chỉ tu tập cho riêng mình, Sư cô còn tổ chức các hoạt động thiện nguyện để gieo duyên cho nhiều người được hưởng hồng ân an lạc chốn cửa Phật. Một tháng, chùa có hai kỳ phát cơm miễn phí với khoảng 500 phần vào ngày rằm và mồng một. Thời gian trước chùa phát cơm ở Bệnh viện quận 8, nay do bệnh viện đã được nhiều mạnh thường quân quan tâm hỗ trợ nên cơm được phát ngay tại chùa.
132 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Việc phát cơm này xuất phát từ tâm thiện lành: “Những ngày chay chùa gieo duyên để người ta ăn chay, cũng là ngưng bớt sự ăn mặn, sát sanh. Việc từ thiện này không phân biệt giàu nghèo nên ai muốn ăn chay thì chùa phát miễn phí. Vì xung quanh đây không có quán chay nên các cô chú văn phòng muốn tìm chỗ ăn chay thật khó khăn… Cúng tiền Tam bảo không phải là điều quan trọng mà cốt yếu là chỉ cần người nhận cơm biết ăn chay, còn người nấu và phát cơm biết cùng nhau làm việc vui vẻ, nhường nhịn, buông xả lần cái chấp” - Sư cô Trụ trì giãi bày. Ngoài ra, rằm tháng bảy (lễ Vu lan), tháng tư (lễ Phật đản), chùa phát quà tặng người nghèo. Tháng bảy chùa Tổ chức dâng y, tháng tám là giỗ cố Ni sư Thích Nữ Diệu Tòng, rằm tháng Chạp phát quà Tết cho bà con nghèo. Khuôn viên chùa nhỏ nên quy mô cũng vừa phải, không rầm rộ, song, đó cũng là một dịp để chư Ni và Phật tử rèn luyện tinh thần hòa hợp khi làm việc chung vì một Phật sự dưới “mái nhà Như Lai”. Duyên lành với ngôi Tam bảo đã lặng lẽ gieo vào lòng những cư dân quanh chùa như vậy. Được hỏi về việc có thêm đệ tử hay bạn đồng tu nữa ở chùa để cùng gánh vác các Phật sự, Sư cô trả lời theo lý nhân duyên: “Ở chùa phải có cái duyên; trong đạo Phật có tự giác trước thì mới giác ngộ được, thuận duyên thì không cầu mà tới…”. Mong muốn hiện tại của Sư cô là có điều kiện để xây dựng, thiết trí lại ngôi Tam bảo cho giống dáng dấp của một ngôi chùa đúng nghĩa, vì sơ khởi đây là một ngôi nhà. Đầu năm 2016, Sư cô Lệ Minh xin phép xây dựng lại, đến năm 2018 hoàn thành trang nghiêm ngôi Tam Bảo, để Phật tử an tâm đến chiêm bái, tu học và tăng thêm tín tâm nơi Tam bảo - một mong muốn thật đẹp, nhưng trong nhà Phật, vẫn phải… “tùy duyên”. THÔNG TIN LIÊN LẠC: Địa chỉ: 260 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.HCM Năm thành lập: 1978; Năm trùng tu: 1990-2017 Người tiền nhiệm: Cố Ni sư Thích Nữ Như Nhẫn Viện chủ: Cố Ni sư Thích Nữ Diệu Tòng Trụ trì đương nhiệm: SC. Thích Nữ Lệ Minh
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vĩnh Nghiêm
133
CHÙA VĨNH NGHIÊM Di tích lịch sử văn hóa cấp Thành phố Chùa Vĩnh Nghiêm (永嚴寺) còn gọi là Tổ Đình Vĩnh Nghiêm là một danh lam, hiện tọa lạc tại số 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (gần cầu Công Lý), thuộc Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
C
hùa Vĩnh Nghiêm, phát tích từ chốn Tổ Vĩnh Nghiêm tại Bắc Giang được xây dựng từ thời nhà Lý. Trụ trì đầu tiên là Thiền sư Vạn Hạnh1, Trụ trì kế tiếp đều là các danh Tăng đương thời ( trong đó có Ngài Huệ Quang- tức vua Lý Huệ Tông). Sang thời kỳ Phật giáo cực thịnh đời nhà Trần, các danh Tăng thiền sư, vua chúa xuất gia tu đạo và đều dùng chùa Vĩnh Nghiêm làm nơi khai tràng, thuyết pháp tiếp độ đồ chúng, đào tạo trên 10 ngàn Tăng Ni, trở 1 - Thiền sư Vạn Hạnh (萬行) (938 - 1018) là một tu sĩ Phật giáo Đại Cồ Việt, người châu Cổ Pháp (Bắc Ninh). Ông là một trong những trí thức Phật giáo làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành, đồng thời là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông được xem là người có tài tiên đoán, đã vận dụng khả năng này để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, mở ra triều Lý, triều đại lâu dài đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
134 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
thành đoàn sứ giả Như Lai, gửi đi Trụ trì giảng diễn Phật Pháp khắp các chùa từ thành thị tới thôn quê. Đặc biệt, chùa Vĩnh Nghiêm là nơi phát tích dòng thiền Trúc Lâm. Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Sơ Tổ khai sáng Thiền phái Trúc Lâm thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, đã dùng nơi đây làm đạo tràng hoằng dương Phật đạo, mở trường hạ hằng năm, dịch kinh diễn giảng, chỉnh đốn hàng ngũ Tăng giới, tạo tinh thần hòa hợp thống nhất Phật Giáo Việt Nam. Hai vị đệ tử kế tiếp là Pháp Loa, đệ nhị Tổ và Huyền Quang là đệ tam Tổ2 . Cả ba Ngài đều Trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm đã đưa sự vẻ vang của ngôi chùa Vĩnh Nghiêm lên hàng đệ nhất Phật Giáo Việt Nam. Thừa ân đức chư Tổ, Chùa Vĩnh Nghiêm trở thành trung tâm tu học nổi tiếng nhất, duy trì mạng mạch vững bền qua nhiều triều đại và giai đoạn lịch sử cho tới thời đại ngày nay. TỔ ĐÌNH VĨNH NGHIÊM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Từ miền Bắc, hai Hòa thượng là Thích Tâm Giác và Thích Thanh Kiểm xuất gia tu học, khi thành tựu về miền Nam truyền bá đạo Phật, và sau đó cùng chư Tôn đức Tăng Ni từ Bắc vào xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm. Các Ngài lấy nguyên mẫu thiết kế từ chốn Tổ đình Vĩnh Nghiêm tại Bắc Giang. Tuy giữ kiến trúc cổ nhưng đã áp dụng các kỹ thuật xây dựng hiện đại cho phù hợp. Người vẽ kiểu cho công trình là kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng, có sự cộng tác của các ông Lê Tấn Chuyên và Cổ Văn Hậu… Chùa được khởi công năm 1964 tại khu đất thấp nằm bên rạch Thị Nghè, và Ban Kiến thiết phải chuyển khoảng 40.000m3 đất từ xa lộ Biên Hoà về san lấp mặt bằng. Kinh phí xây dựng chùa khoảng 98 triệu đồng tiền lúc bấy giờ, được chư Tăng Ni và Phật tử đóng góp. Năm 1971, chùa Vĩnh Nghiêm cơ bản hoàn thành với các hạng mục, gồm tòa nhà trung tâm (tầng trên là ngôi Phật điện), Bảo tháp Hòa Bình, tầng dưới dành cho hoạt động xã hội. Về sau, chùa lần lượt xây thêm các công trình khác, như Bảo 2 - HT.Thích Thanh Từ, “Tam tổ Trúc Lâm giảng giải”, 1997
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vĩnh Nghiêm
135
tháp Xá Lợi Cộng đồng, Tháp đá Vĩnh Nghiêm, Phương trượng đường, Khách đường, v.v... Tổng thể kiến trúc Chùa Vĩnh Nghiêm là một ngôi già lam có quy mô vĩ đại và được đánh giá rất cao về nghệ thuật kiến trúc, Chùa nằm trong danh sách các công trình kiến trúc mỹ thuật đẹp nhất Việt Nam thế kỷ XX. Công trình xây dựng bằng các loại vật liệu hiện đại nhưng mang nét cổ kính của đình chùa miền Bắc với các góc đao cong, được tô điểm bằng đầu rồng phụng. Mặt bằng Tổng thể được phối trí theo nguyên tắc tạo cảnh phương Đông và Việt Nam. Phía trước chùa là một khoảng sân rộng, bên phải là khu vườn nhỏ. Ngôi bảo tháp 7 tầng mái cong, cao 40m, thể hiện sự trang nghiêm của ngôi chùa, cũng là điểm nhấn của chùa Vĩnh Nghiêm. TAM QUAN VÀ SÂN CHÙA
Cổng tam quan của chùa vững chắc, uy nghi, nhìn ra đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Tam quan làm theo kiểu cổ lâu, ở giữa có 3 chữ Chùa
136 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vĩnh Nghiêm
137
138 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Vĩnh Nghiêm và một câu đối trên thân cột viết bằng chữ quốc ngữ: Tới cửa từ bi, chiêm bái Tổ đình nơi đất Bắc Vào chùa giải thoát, hoằng dương Phật pháp tại miền Nam. Bên cạnh cổng Tam Quan là nhà Tang lễ phục vụ đáp ứng cho đông đảo tầng lớp nhân dân Thành phố. Chính giữa ngôi chùa, đối thẳng với cổng Tam quan là tôn tượng Bồ tát Quán Thế Âm an vị trước tòa nhà trung tâm. Bên trái là Nhà sách trưng bày nhiều tài liệu Phật học và văn hóa phẩm Phật giáo, kế là Nhà hàng Chay Vĩnh Nghiêm phục vụ nhu cầu của Phật tử tới thăm viếng. Nối liền là khu Văn phòng chùa - nơi tiếp nhận liên hệ và giải đáp Phật sự giúp đồng bào Phật tử hữu sự. TÒA NHÀ TRUNG TÂM
Tòa nhà trung tâm là một công trình kiên cố, rộng lớn, bao gồm một tầng lầu và một tầng trệt. Tầng trệt có hai phần: phần ngoài nằm bên dưới sân thượng, cao 3,20 m; phần trong nằm dưới Phật điện, cao 4,20 m. Tầng
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vĩnh Nghiêm
139
trệt được chia làm nhà thờ Tổ,, thờ chư vị Tổ sư, Trụ trì các thời kì, giảng đường, văn phòng, thư viện (là một trong 3 thư viện của Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh), phòng Tăng, lớp học và phòng học (trước đây chùa là trụ sở của Trường cơ bản Phật học), v.v... KIẾN TRÚC THỜ TỰ Bái điện: Giữa thờ đức Chuẩn Đề Bản điện: Thờ tôn tượng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, hai bên là Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền. Hậu điện tôn thờ Tam tổ Trúc Lâm. Trong nhà thờ riêng, phía trên đặt tượng bán thân của các vị Tổ, bao gồm Tổ Vĩnh Nghiêm, Tổ Kim Cương, Tổ Trung Hậu, Hoà thượng Thích Thanh Kiểm và Hoà thượng Thích Tâm Giác. Phía trước khu thờ các tượng này là một dãy cột, trên treo các hoành phi và câu đối 1. 頑石點頭 Ngoan thạch điểm đầu 2.宗風永播 Tông phong vĩnh bá 3.惟慧是業 Duy tuệ thị nghiệp Câu đối 1 Hán văn 入方丈堂著如來衣奉如來事 登獅子座擊大法鼓吹大法螺 Phiên âm: Nhập phương trượng đường, trước Như Lai y, phụng Như Lai sự. Đăng sư tử tòa , hệ đại pháp cổ, xuy đại pháp loa . Dịch nghĩa: Vào nhà phương trượng, mặc áo Như Lai, vâng làm việc Như Lai. Lên tòa sư tử, đánh trống pháp lớn, thổi pháp loa lớn.
140 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Lạc khoản 佛暦二五十七年 農暦癸丑春恭造 Phiên âm: Phật lịch nhị ngũ thập thất niên. Nông lịch Quý Sửu Xuân cung tạo. Dịch nghĩa: Phật lịch: 2517 Kính lập vào mùa Xuân năm Quý Sửu. Câu đối 2 Hán văn 遺教玅堪慧苑栽培覺樹曇華敷玉露 宗風永振玄機契悟青天明月印禪心 Phiên âm: Di giáo diệu kham, huệ uyển tài bồi, giác thụ đàm hoa phu ngọc lộ. Tông phong vĩnh chấn, huyền cơ khế ngộ, thanh thiên minh nguyệt ấn thiền tâm. Dịch nghĩa: Khéo lãnh hội được những lời di giáo, vun bồi vườn tuệ, cây giác hoa
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vĩnh Nghiêm
141
đàm bày ngọc lộ. Làm tông phong luôn được hưng thịnh, khế hợp huyền cơ, trời xanh trăng sáng ấn tâm thiền.
Lạc khoản 佛暦 二 五 十 七 年 農暦癸丑年春恭造 柴裩都城范五老大路安樂寺主釋廣碩橫聫拱薦 Phiên âm: Phật lịch nhị ngũ thập thất niên. Nông lịch Quý Sửu niên Xuân cung tạo. Sài Côn đô thành, Phạm Ngũ Lão đại lộ, An Lạc tự chủ Thích Quảng Thạc hoành liên củng tiến. Dịch nghĩa: Phật lịch: 2517 Kính lập vào mùa Xuân năm Quý Sửu âm lịch. Thích Quảng Thạc Trụ trì chùa An Lạc, đại lộ Phạm Ngũ Lão, Thành phố Sài Gòn chấp tay dâng cúng.
142 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Từ dưới sân có ba cầu thang rộng gồm 23 bậc, dẫn lên tầng trên bao gồm sân thượng, Phật điện và Tháp Quán Thế Âm. Trên sân thượng, chính giữa là tôn tượng Thánh Tăng Sivali trong tư thế đang khất thực vân du, phía tay phải có một gác chuông, treo một đại hồng chung (có đường kính 1,8 m; đúc năm 1971) do các Phật tử dòng Tào Động ở Nhật Bản tặng trước năm 1975, để cầu nguyện cho Việt Nam sớm hòa bình. PHẬT ĐIỆN CHÙA VĨNH NGHIÊM Phật điện được kiến trúc theo kiểu chữ công (chữ Hán: 工). Các góc mái đều uốn cong theo kiểu chùa miền Bắc. Chính giữa đỉnh nóc có Bánh xe pháp luân và các góc có hình đầu phượng. Phật điện gồm ba phần: Bái Điện, Bản Điện và Địa Tạng Đường. Trần chánh điện cao vút sơn màu gỗ, hệ thống gồm tất cả 32 chiếc cột vuông trong Chánh điện cũng đều được ốp gỗ. Hương án đầu tiên mà ta nhìn thấy khi bước vào Chánh điện là bản thờ Phật A Di Đà, hai bên là Bồ
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vĩnh Nghiêm
143
Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí. Trên bốn cột phía sau hương án này treo câu đối: Câu đối 1: 乾坤粒子撮手成空惟大慈悲此性不生不滅 衣鉢眞傳拈花微笑捨了我法上天無色無聲 Phiên âm: Càn khôn lạp tử, toát thủ thành không, duy đại từ bi thử tính bất sinh bất diệt. Y bát chân truyền, niêm hoa vi tiếu, xả liễu ngã pháp thướng thiên vô sắc vô thanh.
Dịch nghĩa: Trời đất, giống loài vừa nắm được lại thành không, chỉ có tánh đại từ đại bi này là không sinh không diệt. Y bát chân truyền, đưa cành hoa mỉm miệng cười, xả bỏ hoàn toàn ngã pháp lên trời không sắc không thanh.
Câu đối 2: 智慧螎通顯神光 登五臺山鴻轉法輪傳大教 行願圓滿施玅力入花藏海弘宣佛化利群生 Phiên âm: Trí huệ dung thông, hiển thần quang, đăng Ngũ Đài sơn, hồng chuyển pháp luân truyền đại giáo. Hạnh nguyện viên mãn, thi diệu lực, nhập Hoa Tạng hải , hoằng tuyên Phật hóa lợi quần sinh. Dịch nghĩa: Trí huệ thông suốt, hiển bày ánh sáng thần diệu, lên núi Ngũ Đài, chuyển mạnh bánh xe pháp để truyền trao giáo pháp lớn. Hạnh nguyện tròn đầy, phóng ra uy lực nhiệm mầu, vào biển Hoa Tạng, nói rộng những điều Phật muốn giáo hóa để làm lợi ích cho chúng sanh. Phía trên là 3 bức hoành phi được chế tác hết sức tinh xảo 1. 普行大願 Phổ hành đại nguyện 2. 萬德慈尊
144 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Vạn đức từ tôn 3. 大智普慧 Đại trí phổ tuệ Giữa các cột này treo các bao lam hình hoa, chạm trổ rất sinh động. Dọc hai bên của Chánh điện là các bức bích họa trang trí. Vào bên trong nữa là các tượng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở bên phải và tượng Tôn giả A Nan và Tôn giả La Hầu La ở bên trái. Bảo điện nằm chính giữa một bệ cao đặt tượng Phật Thích Ca, hai bên là Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát, cả ba bức tượng đều to lớn uy nghi. Phía trước đặt một hương án chạm trổ tinh xảo.Bản Điện (thờ chính Phật A Di Đà được thờ chính) và Địa Tạng Đường (thờ chính Địa Tạng Bồ Tát) có kiểu kiến trúc tương tự Bái điện. TỔ ĐƯỜNG Phía sau Chánh điện là Tổ đường. Bên trong nhà Tổ là các hương án bằng gỗ chạm tứ linh, sơn son thếp vàng. Trên đặt tượng Tổ Sư Đạt Ma cùng di ảnh của các vị Tổ của chùa. Trước các bàn thờ là các cột có các câu đối Câu đối 1 永壽其傳奕葉流芳天德江風香水引 嚴光弗替大家接武竹林古樹覺花開
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vĩnh Nghiêm
145
Phiên âm: Vĩnh thọ kì truyền, dịch diệp lưu phương, thiên đức giang phong hương thủy dẫn. Nghiêm quang phất thế, đại gia tiếp vũ, trúc lâm cổ thụ giác hoa khai.
Dịch nghĩa:
Vĩnh thọ mãi truyền, đời đời lưu danh, gió trên dòng sông thiên đức dẫn nguồn nước thơm tho. Nghiêm quang không thể thay thế, người người tiếp bước, cây cổ thụ trong rừng trúc nở hoa giác ngộ.
146 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Câu đối 2 登祖堂其思惟乎世局轉風波越鳥南枝常記念 憶故郡甚遙遠矣江山起雲霧海鷗北塞合同群 Phiên âm: Đăng Tổ đường kì tư duy hồ thế cục chuyển phong ba Việt điểu Nam chi thường ký niệm. Ức cố quận thậm dao viễn hĩ giang sơn khởi vân vụ Hải âu Bắc tái hợp đồng quần.
Dịch nghĩa: Lên Tổ đường nghĩ về thời cuộc, nguyện chuyển sóng gió cho chim Việt cành Nam thường nhớ nghĩ. Nhớ quê xưa ở chốn xa xôi của đất nước, mong nổi mây mù để chim Hải Âu về ải Bắc hợp cùng bầy.
Giữa các cột là các hoành phi 1.萬古弗諼 Vạn cổ phất huyên 2. 永嚴家風 Vĩnh Nghiêm gia phong 3. 千秋香火 Thiên thu hương hỏa Phía dưới các hoành phi này treo các bao lam chế tác tinh xảo hoa văn hình cây lựu, hoa mai, cây trúc, cúc hoá rồng. Hai bên vách là bàn thờ vong. Hai bên tường chánh điện là các bức tranh lớn: Cúng dường La Hán, Cúng dường bố thí La Hán, Đại hàn địa ngục tiếp hóa La Hán, Đạo sơn địa ngục tiếp hóa La Hán, Thuyết pháp văn pháp La Hán, Khuyến học La Hán. THÁP HÒA BÌNH: nằm bên trái (từ cổng nhìn vào trong) Phật điện, gồm 7 tầng, cao gần 40 m, được xây cùng lúc với chùa. Tháp hình vuông, mỗi cạnh đáy 6 m. Ðỉnh tháp có 9 bánh xe vòng tròn và những hình khối tròn gọi là Long xa và Quy châu. Đây là ngôi tháp đồ sộ thuộc hàng bậc nhất trong các ngôi bảo tháp của Phật giáo Việt Nam. THÁP XÁ LỢI CỘNG ĐỒNG: xây phía sau, bên trái (từ cổng nhìn vào trong) Phật điện, có 4 tầng, cao 25 m dựng năm 1982, hoàn thành năm 1984. Tháp cũng được xây theo một kiểu khá độc đáo. Có các cầu thang từ sân dẫn lên trên. Đây là nơi đặt di cốt của chư Phật tử quá vãng để thân nhân đến viếng.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vĩnh Nghiêm
147
THÁP ĐÁ VĨNH NGHIÊM: (vừa vào cổng, tháp ở bên phải) được khánh thành vào tháng 12 năm 2003, cao 14 m, là tháp thờ cố Đại lão Hoà thượng Thích Thanh Kiểm, một trong hai vị cao Tăng có công sáng lập chùa. Đây được xem là tháp đá lớn nhất, cao nhất miền Nam từ trước đến nay (2013). Xung quanh Tháp đá được khắc chạm các câu đối tinh xảo: 1. 永嚴石塔留千載 Vĩnh Nghiêm thạch tháp lưu thiên tải 師長金身麗一天 Sư trưởng kim thân lệ nhất thiên 2.尊師蓋世一慈心 Tôn sư cái thế nhất từ tâm 石塔流芳三不朽 Thạch tháp lưu phương tam bất hủ 3. 真慈銘石室 Chân từ minh thạch thất 淨德御蓮臺 Tịnh đức ngự liên đài 4. 永嚴傳祖印 Vĩnh Nghiêm truyền Tổ ấn 南越麗禪風 Nam Việt lệ Thiền phong CÁC NGÀY LỄ LỚN, KỴ GIỖ TRONG NĂM: Tết Nguyên Đán, Thượng ngươn Rằm tháng giêng, đại lễ Phật đản, Vu Lan, vía Quan Âm…đặc biệt, 8/12 âm lịch kỷ niệm Phật thành đạo và giỗ Tổ Vĩnh Nghiêm, từ ngày 16/4- 16/7 âm lịch là điểm An cư kiết hạ tập trung của chư Tăng trú xứ Tổ đình Vĩnh Nghiêm (Quận 3) hằng năm. DẤU ẤN PHẬT SỰ CÁC THỜI KỲ Mang tầm vóc là ngôi chùa Tổ của Hệ phái Vĩnh Nghiêm tại miền Nam, gắn liền sự nghiệp hoằng pháp của 2 bậc cao Tăng HT. Thích Tâm Giác và HT. Thích Thanh Kiểm. Ngoài là điểm nhấn về kiến trúc mỹ thuật, Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi Già Lam truyền thừa và phát triển văn
148 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
hóa Phật giáo miền Bắc tại miền Nam. Cách không xa Chùa Vĩnh Nghiêm là Thiền viện Quảng Đức - Trụ sở Văn phòng II Trung ương GHPGVN, nơi đây đã lưu dấu chân của nhiều lớp thế hệ tôn túc trên bước đường hoằng pháp và sinh hoạt Phật sự tại Thành phố, lan tỏa khắp các tỉnh thành miền Nam. Chùa Vĩnh Nghiêm đã trở thành là cầu nối giữa Phật giáo 3 miền Bắc - Trung - Nam, nhờ đó đóng góp cho ngôi nhà chung GHPGVN được phát triển. Hiện nay, Chùa Vĩnh Nghiêm cũng là nơi tịnh tu của Đức Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN - Hòa thượng Thích Đức Nghiệp, Trưởng hệ phái Vĩnh Nghiêm, Ngài là một trong số ít những lãnh đạo phong trào bảo vệ và chấn hưng Phật giáo thế kỷ XX còn trụ thế, là chứng nhân cho những mốc son rực rỡ, trí tuệ giải thoát, cứu đời của Phật giáo Việt Nam trong sự đồng hành quá trình bảo vệ, thống nhất đất nước. Hàng năm, Chùa Vĩnh Nghiêm còn tiếp đón các phái đoàn Phật giáo Quốc tế, các vị Lãnh đạo Phật giáo khắp thế giới tới giao lưu và Tổ chức Phật sự tại Việt Nam, nỗ lực khẳng định vai trò Phật giáo Việt Nam đối với Phật giáo thế giới. Đây là công đức và niềm tự hào của Phật giáo Quận 3, khi có những chốn Già Lam tầm vóc, lưu giữ nhiều hành trạng các bậc long tượng Phật pháp cận đại, trong cũng như ngoài nước. Từ suối nguồn tuệ giác này, Chùa Vĩnh Nghiêm đã đào tạo ra rất nhiều các vị tôn túc đảm nhiệm nhiều trọng trách Giáo hội trên mọi lĩnh vực Hoằng pháp, Giáo dục, Văn hóa,v.v... Sau khi HT. Thích Thanh Kiểm viên tịch, TT. Thích Thanh Phong kế vị Trụ trì Tổ đình Vĩnh Nghiêm, cùng nhiều vai trò quan trọng trong giáo hội các cấp, giữ gìn và phát huy sự nghiệp của Tổ sư. Từ thập niên 90 đến năm 2006, Trường Trung cấp Phật học Thành phố Hồ Chí Minh đặt trụ sở tại chùa Vĩnh Nghiêm. Chùa Vĩnh Nghiêm còn là chốn thiền môn tu tập với số lượng Tăng sĩ đông đảo của Quận 3 và Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1986 cho đến nay, Trường hạ Vĩnh Nghiêm quy tụ hàng trăm hành giả an cư trong mùa
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vĩnh Nghiêm
149
An Cư kiết hạ hàng năm, là nơi quy y cho hàng vạn Phật tử khắp các tỉnh thành miền Nam. CÔNG TÁC AN SINH XÃ HỘI: Trên tinh thần “Hoằng pháp lợi sanh - hành Bồ Tát đạo”, nương theo công đức cố HT. Thích Tâm Giác và HT. Thích Thanh Kiểm đã đặt nền móng. TT. Thích Thanh Phong đã vận động quý mạnh thường quân, kết hợp các Tổ chức Tổ chức hoạt động từ thiện xã hội tại nhiều địa phương trong nước, như xây cầu, nhà tình thương, cứu trợ lũ thiên tài, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo,v.v... kinh phí hàng năm lên tới hàng chục tỷ đồng , với tinh thần chia sẻ từ bi của đạo Phật đã nhận được rất nhiều cảm tình của đồng bào nhân dân, lan tỏa Phật pháp tới mọi tầng lớp xã hội. THÔNG TIN LIÊN HỆ Tên gọi: chùa Vĩnh Nghiêm. Địa chỉ: 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3. Điện thoại: 028.38.483.153, website: www.vinhnghiemvn.com Hệ phái: Bắc tông. Khai sơn: cố HT. Thích Tâm Giác và cố HT. Thích Thanh Kiểm Năm thành lập: khởi công năm 1964 và hoàn thành vào năm 1971 Trụ trì hiện nay: TT. Thích Thanh Phong.
150 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA CHĂNTARĂNSÂY (CANDARASI) Chùa Chăntarănsây (Candarasi) thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer, tọa lạc tại đường Hoàng Sa (bờ kè kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè), Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Là ngôi chùa đầu tiên và tiêu biểu của Phật giáo Nam tông Khmer tại Thành phố Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
T
rong tiếng Khmer, chữ Chantarangsay nghĩa là Ánh Trăng, vì vậy có thể gọi ngôi Tự viện Khmer này theo tiếng Việt là chùa Ánh trăng hay Nguyệt Quang Tự. Chùa Chantarangsay được thành lập vào năm 1947 và là ngôi Tự viện đầu tiên của người Khmer trên vùng đất Sài Gòn. Hiện nay, Chantarangsay là một trong hai ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer ở Thành phố Hồ Chí Minh, chùa còn lại là Pô Thi Vong, tọa lạc tại số 21/2 đường Bùi Thế Mỹ, Phường 10, quận Tân Bình.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Chăntarănsây
151
Trước năm 1947, ở Sài Gòn gần như không có chùa Khmer nên chư Tăng Khmer từ nơi khác đến Sài Gòn làm Phật sự đều phải tìm chỗ trọ qua đêm. Điều này làm cho sinh hoạt tôn giáo của họ gặp nhiều bất tiện. Trước tình cảnh đó, Tỳ kheo Lâm Em, Hiệu trưởng Trường Phật học ở Phnom Pênh, quê tại Sóc Trăng, đã nhiều lần về Sài Gòn cất công tìm đất xây chùa. Cuối cùng, ông đã chọn được bãi đất bồi có diện tích 6.000m2 gần cầu Trương Minh Giảng, bên dòng kênh Nhiêu Lộc và đường Eyriand des Vergnes (nay là đường Trần Quốc Thảo) để dựng chùa. Đến cuối năm 1946, mặt bằng của ngôi chùa đã hoàn thành. Cũng trong thời gian này, Ngài Narandā thỉnh Xá lợi Phật và cây Bồ Đề từ Ấn Độ đến cúng dường và trồng tại chùa. Giai đoạn từ năm 1947 đến năm 1950, hoàn thành nhiều hạng mục công trình như nhà Tăng xá (Sala), chánh điện, hồ nước, bảo tháp, trường dạy chữ Pali, miếu ông Tà và khuôn viên chùa. Đến năm 1953, Tổ chức lễ kết giới Sima khánh thành chùa Chantarangsay. Từ đó ngôi chùa chính thức đi vào hoạt động cho đến giai đoạn hiện nay. Do quá trình mở xây dựng bờ kè kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè và mở
152 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
rộng đường Hoàng Sa đã làm cho diện tích khuôn chùa Chantarangsay thu hẹp lại còn 4.500 m2, trường dạy chữ Pali và miếu ông Tà không còn nữa. Tuy nhiên, chùa Chantarangsay đã sở hữu được phần đất mặt tiền đường Hoàng Sa, vị trí mới này đã giúp nhà chùa xây thêm cổng chính, vì cổng cũ hướng ra đường Trần Quốc Thảo đã kẹt giữa một khu dân cư đông đúc. Hiện tại chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu, quần thể kiến trúc chùa có nhiều thay đổi nhưng đặc trưng văn hóa Khmer vẫn luôn được tuân thủ qua phong cách kiến trúc “tam quy ngũ điểm” của chùa Khmer. Mặt tiền chánh điện chùa Chantarangsay quay ra hướng đường Hoàng Sa đối diện với cây Bồ Đề mà Ngài Narandā đã tặng. Hai bên cầu thang dẫn lên chánh điện trang trí hình tượng rắn thần Naga nằm trải dài cao xuống thấp, mặt tiền chánh điện đắp nổi hình năm vị Phật. Bàn thờ Phật trên trong chánh điện chia thành năm tầng từ thấp đến cao, tôn trí các tượng Phật Thích Ca thể hiện theo các tư thế: Phật tọa thiền, Phật đứng thuyết pháp và Phật nhập Niết Bàn. Bao quanh chánh điện được trang trí bằng bộ tranh vẽ tường mô tả “Cuộc đời hành đạo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni” thể hiện theo ba
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Chăntarănsây
153
tầng từ cao xuống thấp; nhà Tăng (Sala) cũng được trang trí bằng bộ tranh vẽ tường thể hiện các câu chuyện về 10 đại kiếp của đức Phật Thích Ca và truyền thuyết về địa ngục thể hiện cho quan điểm luân hồi của Phật giáo Nam tông Khmer. NGÔI CHÙA KHMER SONG HÀNH CÙNG LỊCH SỬ DÂN TỘC Trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Lâm Em, kế tiếp Hòa thượng Oul Srey phụ trách chùa. Trụ trì hiện nay là Hòa Thượng Danh Lung, Ủy viên Hội đồng trị sự, phó chánh văn phòng II, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phân viện trường Phân viện Nghiên cứu Phật giáo Nam tông Khmer. Các Ngài đều là các cao Tăng đại diện tiêu biểu cho Phật giáo Nam tông Khmer, góp sức rất lớn cho việc xây dựng Phật giáo Việt Nam vững mạnh như ngày nay. Khi đề cập tới ngôi chùa lịch sử này, không thể không nhắc tới hành trạng của chư vị tiền bối này.
154 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Hòa thượng Lâm Em (1898 - 1979)1 Hòa thượng Lâm Em, sinh năm 1898 tại làng Mỹ Tú, huyện Sóc Trăng, trong một gia đình người Khmer có truyền thống tu học Phật giáo theo tôn chỉ của bộ phái Theravàda. Năm Bính Thìn (1916), được sự đồng ý của cha mẹ, đồng thời nhận thấy niềm vinh dự lớn lao của một gia đình có người xuất gia học đạo, Ngài chính thức xuất gia (năm 18 tuổi), thọ giới Sa Di tại chùa Bố Thảo, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Năm 22 tuổi, Ngài thọ Tỳ Kheo giới, cũng tại chùa Bố Thảo. Từ đó Ngài được cử đi tham học kinh tạng và luật tạng nơi các chùa trong tỉnh lẫn các nơi khác. Đến đâu Ngài cũng được các Trưởng lão quý mến, hết lòng dạy bảo. Tăng chúng cùng thời cũng thích được gần gũi và trao đổi kết quả học tập với Ngài, tạo nên sự đoàn kết gắn bó trong giáo đoàn.Ý thức rằng bản thân cần phải nâng cao trình độ tu học, cần có kiến thức căn bản về Phật học Nguyên Thủy từ kinh tạng Pàli, mang ý chí tiến thủ đó, Ngài sang tận Campuchia, gặp gỡ và cầu học nơi các Trưởng lão cao minh, đó là năm 1938. Cùng thời gian tham cứu kinh tạng Pàli ấy, Ngài còn học tham thiền một cách nghiêm túc, nên định lực và trí tuệ phát triển, đạt nhiều kết quả tốt. Đặc biệt, từ năm 1940 Ngài đã thực hành hạnh Đầu Đà ngay trong rừng suốt tám năm. Đến giữa năm 1947 Ngài mới xả hạnh. Cuối năm 1948, Ngài trở về Việt Nam bắt đầu hoằng hóa, truyền đạt kinh nghiệm tu hành cho thế hệ kế tiếp. Ngài đã kiến tạo được trong cộng đồng Phật giáo Khmer một sắc thái sinh động khác với thời gian trước, bắt nhịp cùng phong trào chấn hưng Phật giáo chung của đất nước. Từ đó, giới Phật giáo người Việt gốc Miên có cơ hội gần gũi và gắn bó chung với Phật giáo Việt Nam. Thể hiện sự hòa nhập đó, Ngài lên Sài Gòn, tìm đến cộng đồng người Việt gốc Miên sinh sống ở đây truyền đạt tâm nguyện, được đa số ủng hộ, sẵn sàng trợ duyên cho hoài bão của Ngài là muốn có ngay giữa đất Sài Gòn này một ngôi chùa lễ bái theo tông phái Theravàda chính 1 - Tham khảo: Thích Đồng Bổn, “tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập I”, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Chăntarănsây
155
thống. Đầu tiên, Ngài đã dựng lên một cái cốc nhỏ bên bờ rạch Nhiêu Lộc vùng Tân Định để có nơi tu và chờ đợi những trợ duyên. Năm 1948, Hòa thượng Oul Srây từ Campuchia sang Sài gòn thăm họ hàng, Ngài cùng toàn thể Phật tử cung thỉnh Hòa thượng ở lại để trợ duyên cùng nhau xây cất ngôi chùa. Thế là không lâu sau từ cốc nhỏ của Ngài, trên bãi đất lầy đầy cỏ dại và ô rô bên bờ kinh Nhiêu Lộc, đã hình thành một ngôi chùa uy nghi đồ sộ, theo truyền thống Khmer. Đó là chùa Chăntarănsây (Candaransi, hiện nay mang số 164/235 đường Trần Quốc Thảo - Quận 3 - Thành phố Hồ chí Minh). Ngài bắt đầu Trụ trì ngôi chùa này ngay từ năm Mậu Tý (1948) sau khi vừa hoàn thành. Trong Pháp nạn 1963, Ngài đã dấn thân cùng các vị Tôn túc lãnh đạo và hàng trăm nghìn Phật tử tham gia đấu tranh chống đàn áp Phật giáo, đòi hỏi bình đẳng, tự do tín ngưỡng. Nên Ngài đã bị bắt nhiều lần ngay tại Sài Gòn. Là Tăng trưởng Theravàda, thành viên trong Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, ngày 10.5.1963, Ngài lên tiếng ủng hộ bản tuyên ngôn của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đòi hỏi chính phủ phải thực thi năm nguyện vọng chính đáng của giới Phật giáo. Ngày 15.5.1963, Ngài có mặt trong phái đoàn Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đến dinh Gia Long để trao tận tay Ngô Đình Diệm bản tuyên ngôn ấy. Ngày 21.5.1963, Ngài được bầu là một trong năm vị Cố vấn của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo (cùng Hòa thượng Minh Trực và các Thượng tọa Trí Quang, Pháp Tri, Thiện Minh và Thanh Thái). Đây là một Tổ chức cần thiết phải ra đời trong cơn nguy biến của Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ. Ngày 30-5-1963 theo chủ trương của Ủy Ban Liên Phái, Ngài đã tuyệt thực 48 giờ. Đó cũng là ngày đầu tiên cả Sài Gòn tuyệt thực mang ý nghĩa tiên phong cho các cuộc đấu tranh bất bạo động sau này. Lại cũng là ngày đầu tiên Sinh viên - Học sinh và Thanh niên nhập cuộc đấu tranh cho sự bình đẳng tôn giáo và hòa hợp dân tộc. Ngày 3.6.1963 cùng chung số phận với các chùa đối tượng của lệnh phong tỏa, chùa Chăntarănsây cũng bị chánh quyền bao vây gắt
156 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
gao, vì Ngài có chân trong Ban cố vấn Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo. Cũng bởi thế, sau cuộc tuyệt thực tại chùa Xá Lợi ngày 15.7.1963 do Ủy ban đề xướng, các Tăng sĩ người Việt gốc Miên càng bị tra hỏi và bị bố ráp đàn áp. Ngài và tất cả Tăng chúng Việt gốc Miên đều bị bắt nhốt bốn ngày. Ngày 11.8.1963, Ngài vân tập Tăng sĩ Theravàda thành hàng ngũ chỉnh tề về chùa Xá Lợi tham dự lễ cầu siêu Đại Đức Nguyên Hương tự thiêu ngày 4.8.1963. Năm 1965, Ngài được bầu vào chức vụ Tăng trưởng Giáo Hội Theravàda. Năm 1970, Ngài được mời làm thành viên trong Hội Đồng Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Sau năm 1975, Ngài được mời tham gia vào Ủy Ban Liên Lạc Phật Giáo Yêu Nước Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1979 với tuổi già sức yếu, Ngài bệnh nhẹ và viên tịch, hưởng thọ 81 tuổi. Nhục thân Ngài được trà tỳ theo truyền thống Phật giáo Khmer và được thờ tại chùa Chăntarănxây. Hòa thượng Brahmakesara Oul Srey (1910 - 1995)2 Hòa thượng Brahmakesara (Phạm Trang), thế danh là Oul Srey, sinh ngày Rằm tháng 4 năm Canh Tuất (1910), nhằm Phật lịch 2453 tại làng On Đôn Pô, huyện Rô Mex Heik, tỉnh Svai Riêng, nước Cao Miên. Năm 13 tuổi (1922), cha mẹ Ngài cho đi học ở chùa On Đôn Pô với Hòa thượng Trụ trì RôsKhuôl. Trong thời gian theo học, Ngài luôn ngoan ngoãn, siêng năng, học tập chăm chỉ, siêng năng, giỏi dắn, nên rất được Hòa thượng RôsKhuôl yêu mến. Năm 1926, Ngài phát tâm muốn xuất gia đầu Phật, song thân Ngài rất hoan hỉ. Ông bà đưa Ngài đến chùa On Đôn Pô, thỉnh Hòa thượng Suddhammappanno - Lâc Som làm Thầy tế độ. Sau khi xuất gia, thọ giới Sa di, Ngài luôn nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu học để xứng đáng là đệ tử Phật. 2 - Tham khảo: Thích Đồng Bổn chủ biên, “Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập II”, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Chăntarănsây
157
Năm 1930, ngày Rằm tháng 4 - Phật lịch 2474, Ngài thọ giới Cụ túc tại giới đàn chùa On Đôn Pô. Thọ đại giới xong, Ngài tiếp tục tu học giáo lý tại chùa với Bổn sư và các chùa khác nhiều năm liền. Hạ thứ tám, Ngài trở về chùa On Đôn Pô và được Hòa thượng Bổn sư giao trách nhiệm hướng dẫn chúng Tăng và Phật tử bổn tự tu học thiền. Năm 1944, Ngài xin phép Hòa thượng Bổn sư đến thủ đô Phnom Pênh để tiếp tục trau dồi kiến thức Phật học với Hòa thượng Lâm Em tại chùa Sàràvant Tejo. Năm 1947, Phật tử Sài Gòn thỉnh Hòa thượng Lâm Em và Ngài cũng một số chư Tăng về dự lễ Chôl Chnăm Thmây. Nhân dịp này, Phật tử ở đây kính trình nguyện vọng lên chư Tăng, mong muốn dựng lập một ngôi chùa theo hệ phái Theravàda ở Sài Gòn, để làm nơi tôn nghiêm thờ phượng Phật, Pháp, Tăng, cũng như có chỗ cho chư Tăng, con em Phật tử Khmer ở các nơi đến dừng chân tu học. Nhận thấy đây là nguyện vọng thiết yếu hợp tình, hợp lý nên Hòa thượng Lâm Em và Ngài nhất trí. Sau đó, hai Ngài cùng một vài vị Sư khác hướng dẫn Phật tử tìm đất dựng chùa. Cuối cùng, một cái cốc nhỏ được dựng lên bên bờ kênh Nhiêu Lộc, thuộc vùng Tân Định. Từ đó đã hình thành một ngôi Chùa được đặt tên là Candaransi (Chăn-Ta-Răng-Sây). Năm 1948, sau khi chùa khánh thành,
158 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Ngài được chư Tăng và quý Phật tử bầu làm Phó Trụ trì. Từ đây, Ngài cùng Hòa thượng Lâm Em ra sức tu tạo và phát triển chùa Chăn-Ta-Răng-Sây ngày càng hưng thịnh, khang trang hơn. Năm 1963, trong cuộc tranh đấu chống chính sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm, Ngài cùng Hòa thượng Lâm Em đại diện cho giới Tăng sĩ Phật giáo Khmer đứng chung hàng ngũ đấu tranh của Phật giáo đồ. Ngài 3.6.1963, cùng chung số phận với các chùa bị lệnh phong tỏa, chùa Chăn-Ta-Răng-Sây cũng bị chính quyền Diệm bao vây gắt gao, bởi Hòa thượng Lâm Em tham gia trong Ban cố vấn Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo. Sau cuộc tuyệt thực tại chùa Xá Lợi ngày 15.7.1963, do Ủy ban đề xướng để cầu siêu cho Đại đức Nguyên Hương tự thiêu, Ngài cùng các Tăng sĩ Khmer đã bị bố ráp đàn áp và bắt nhốt rại Rạch Cát 4 ngày. Năm 1979, Hòa thượng Lâm Em viên tịch, Ngài lên kế vị quyền Trụ trì. Trong thời gian này, Ngài góp phần xây dựng chùa chiền, tôn tạo Phật tượng cho nhiều tòng lâm, Tự viện khác như : chùa Ka Ôk, chùa Choong Ruk (Tây Ninh), chùa Sa Đo v.v...
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Chăntarănsây
159
Ngày 30 tháng 6 năm 1992, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh quyết định bổ nhiệm Ngài chính thức Trụ trì chùa Chăn-Ta-Răng-Sây. Mặc dù, Ngài tuổi đã cao, sức khỏe đã kém, nhưng vì lòng thương đạo mến đời, vì sự nghiệp hoằng hóa độ sinh cao cả nên Ngài cố gắng tận dụng thời gian ít ỏi còn lại của mình để hoàn tất Phật sự, kiện toàn liêu xá, trang nghiêm Phật điện, sửa sang khuôn viên chùa, hầu trợ duyên cho chúng Tăng an cư tu học. Vào năm 1995 (Ất Hợi, Ngài viên tịch trong nỗi thương tiếc vô hạn của bao môn đồ, pháp quyến. Ngài hưởng thọ 87 tuổi, có 65 Hạ lạp. Năm 2013, Hòa thượng Danh Lung kế thừa Trụ trì Chùa, hiện Hòa thượng là Ủy viên Thư ký HĐTS, Phó Văn phòng II TƯGH PGVN, Viện trưởng Phân viện nghiên cứu Phật giáo Nam tông Khmer. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ
Ngoài chức năng của một cơ sở tôn giáo, chùa Chantarangsay còn là
trung tâm văn hóa của cộng đồng người Khmer ở Thành phố Hồ Chí Minh và các dân tộc anh em muốn tìm hiểu về Phật giáo Nam tông Khmer. Chùa
160 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
còn là nơi đặt văn phòng của Phân viện Nghiên Cứu Phật giáo Nam tông Khmer và đại diện 5 phân ban của Phật giáo Nam tông Khmer. Hằng năm chùa Tổ chúc các lễ hội Phật giáo quan trọng như lễ Phật Đản, lễ Nhập hạ, lễ Dâng y (Kathina), lễ Rằm tháng Giêng (Phật hứa cùng Ma Vương) cùng các lễ hội văn hóa người Khmer như lễ Mừng năm mới (Chol Chnam Thmay), lễ Báo hiếu ông bà Tổ tiên (Sel Dolta), lễ Cúng trăng (Ok Om Bok) … Với sự lãnh đạo của HT. Danh Lung, bên cạnh các công tác xã hội rất tích cực, Chùa là trụ sở của Phân viện Nghiên cứu Phật giáo Nam Tông Khmer, trực thuộc Viện Nghiên cứu Phật học VN, mở liên kết với Đại hoc Khoa học Xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia Thành phố HCM) đào tạo từ xa hệ cử nhân, góp phần nâng cao kiến thức cho chư Tăng Ni khắp nơi, đóng góp vào sự nghiệp đào tạo Tăng tài của Giáo hội. Các ngày lễ lớn, kỵ giỗ trong năm theo truyền thống PG Nam Tông Khmer gồm: Tết Chnam Thmay, Phật đản rằm tháng 4, ACKH rằm tháng 6, Vu Lan, lễ Mãn hạ rằm tháng 9, lễ Dâng Y Kathina, lễ Ok Om Bok( lễ cúng trăng) rằm tháng 10, lễ rằm tháng Giêng (đức Phật hứa cùng Ma Vương), sau ACKH nửa tháng là giỗ HT Oul Srey, 8/10 giỗ HT Lâm Em. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 164/235 Trần Quốc Thảo, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. HCM Năm thành lập: vào dịp lễ Chnam Thmay (cuối tháng 4/1947) Người sáng lập: HT Lâm Em và Phật tử Khmer Nam Bộ Hệ phái: Nam tông Đặc điểm: Văn hóa Khmer Nam Bộ, có cơ sở từ thiện xã hội Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: HT. Lâm Em, HT Oul Srey (1947- 1995) Trụ trì hiện nay: Hòa thượng Danh Lung
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
161
CHÙA XÁ LỢI Chùa Xá Lợi, còn có tên gọi Chùa Phật Học Xá Lợi, tọa lạc địa chỉ: số 89 đường Bà Huyện Thanh Quan, phường Võ Thị Sáu, Quận 3. Năm 2005, chùa được Nhà nước công nhận là địa điểm Di tích Lịch sử, văn hóa.
Đ
ây là một trong những chùa đặc biệt tiêu biểu trên địa bàn Quận 3, gắn liền với phong trào chấn hưng và bảo vệ Phật giáo (thời kì chính quyền Ngô Đình Diệm), gắn liền với nhiều Tổ chức Phật giáo điển hình, nhất là Hội Phật học Nam Việt, các danh Tăng của Phật giáo Việt Nam và cư sĩ nổi tiếng Chánh trí Mai Thọ Truyền Từ khi thành lập cho đến nay, bên cạnh là địa điểm linh thiêng- tôn thờ Xá Lợi Phật (cung thỉnh từ Sri Lanka) còn là trung tâm nghiên cứu và giảng dạy Phật học quan trọng, không chỉ riêng Thành phố Hồ Chí Minh, mà rộng khắp cả nước và quốc tế. Hiện là trụ sở của Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam (thành viên Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam), là nơi trao đổi học thuật của hàng ngàn Tăng Ni và cư sĩ Phật tử khắp nơi. Với tầm vóc quy mô, lưu trữ nhiều dấu ấn lịch sử quan trọng về các bậc danh Tăng, trí thức Phật giáo, lịch sử dân tộc,.... ban biên soạn xin
162 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
trích bài giới thiệu do Ban quản trị Chùa Phật học Xá Lợi ấn hành1 . Do bài giới thiệu được xuất bản lần đầu vào năm 2001 (đã tái bản nhiều lần), nên ban biên soạn có cập nhập và bổ túc một số thông tin để giới thiệu đầy đủ nhất về Chùa Xá Lợi - ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất của Phật giáo Quận 3 đến bạn đọc. Đặc biệt là hành trạng của các bậc long tượng Phật giáo Việt Nam như quý: HT. Huệ Quang, HT. Khánh Anh, HT. Hành Trụ, đặc biệt là HT. Thích Thiện Hào - Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS GHPGVN, Trưởng ban Trị sự GHPGVN TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Chùa Xá Lợi là nơi mang nhiều dấn ấn hành đạo của Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Tu - Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Viện chủ chùa Xá Lợi. LỊCH SỬ CHÙA XÁ LỢI VĂN HÓA VÀ TRUYỀN THỐNG Chùa Xá Lợi là một danh lam ở Thành phố Hồ Chí Minh, có kiến 1 - Tham khảo: HT. Thích Đồng Bổn, “Lịch sử Chùa Xá Lợi, văn hóa và truyền thống”, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2005.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
163
trúc hiện đại mà vẫn mang sắc thái văn hóa dân tộc, đây là một kiến trúc mang nét đặc thù của đất Sài Gòn, và là một điểm thắng tích mang dấu ấn của cuộc đấu tranh lịch sử của Phật giáo đồ chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm kỳ thị và đàn áp tôn giáo. Hơn thế nữa, nơi đây là địa điểm hình thành nên những cột mốc lịch sử của tiến trình thống nhất Phật giáo Việt Nam, từ khi ngôi chùa mới được thành lập cho đến sau ngày Phật giáo được thực sự thống nhất toàn diện. I. LỊCH SỬ XÂY DỰNG CHÙA XÁ LỢI: Năm 1952, phái đoàn Phật giáo Tích Lan đi dự phiên hợp lần thứ II của Hội Liên Hữu Phật giáo thế giới (World Fellowship of Buddhists) Tổ chức tại Tokyo - Nhật Bản, có phụng thỉnh theo một viên ngọc xá lợi của đức Phật để tặng Phật giáo Phù Tang. Phái đoàn đáp tàu La marseillaire phải ghé bến Sài Gòn 24 giờ. Tiến sĩ Malalasekeka, chủ tịch hội Phật giáo thế giới đánh điện cho hội Phật học Nam Việt Tổ chức cung nghinh xá lợi lên bờ cho công chúng chiêm bái trong khoảng thời gian tàu ghé lại Sài Gòn. Được sự ủy nhiệm của thượng tọa Tố Liên, đại diện của hội Phật giáo thế giới tại Việt Nam và các tập đoàn trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam ủy nhiệm, hội Phật học Nam Việt đứng ra Tổ chức một ủy ban liên phái gồm 11 đoàn thể cung nghinh xá lợi, số lượng tham dự lên đến nửa triệu người (phỏng ước của báo chí) làm cho nhà cầm quyền Việt Pháp lúc bấy giờ phải kinh ngạc trước tiềm lực tinh thần của Phật giáo. Xá lợi được cung nghinh trên một kiệu hoa kết hình bạch tượng, từ bến Nhà Rồng của hãng Messageries Maritimes về “nhà kiếng” (nay là trụ sở Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) được trang trí làm nơi thờ tạm để lấy chỗ rộng rãi cho công chúng đến chiêm bái. Từ 11 giờ trưa đến 3 giờ sáng hôm sau, thiện nam tín nữ nối gót nhau đến dâng hương đảnh lễ không lúc nào dứt. Đến 5 giờ sáng, 11 tập đoàn họp trở lại để phụng thỉnh xá lợi xuống tàu đi đến Nhật Bản. Với sự tha thiết của Phật giáo đồ Việt Nam như thế, sang năm sau
164 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
165
166 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
(1953) đại đức Narada Mahathera, tọa chủ chùa Vajirarama ở Tích Lan sang Việt Nam, phụng thỉnh theo 3 viên Xá lợi và 3 cây Bồ đề con, để dâng cúng cho 3 nơi: Phật giáo Nguyên thủy (chùa Kỳ Viên), Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Cao Miên (theo lời tuyên bố của đại đức lúc đến phi trường Tân Sơn Nhất). Được ủy nhiệm, đạo hữu Chánh Trí -Mai Thọ Truyền dẫn đầu một phái đoàn hợp cùng phái đoàn cung nghinh do Phật giáo Nguyên thủy Tổ chức, lên phi trường Tân Sơn Nhất tiếp đón đại đức và các bảo vật. Về đến chùa Kỳ Viên, đại đức lập lại lời tuyên bố ban đầu và dự định vào sáng hôm sau sẽ trao cho đạo hữu Chánh Trí phần xá lợi và cây bồ đề dành cho Phật giáo Bắc tông. Nhưng ngay đêm hôm ấy đã xảy ra sự tranh chấp, về việc đoàn thể Phật giáo nào có đủ tư cách đại điện cho Phật giáo Bắc tông Việt Nam được phụng thờ ngọc xá lợi. Đạo hữu Chánh Trí phải giải thích nhiều mới bênh vực được tư thế của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, là tập đoàn lớn nhất thời bấy giờ gồm những Tăng già và cư sĩ đại diện 3 miền đất nước. Do vì chưa nắm rõ tình hình nội bộ Phật giáo Việt Nam và để tránh sự dị nghị, sau khi thảo luận với đạo hữu Chánh Trí, đại đức Narada đã quyết định dâng ngọc xá lợi lên đức Đoan Huy-Hoàng thái hậu (thường gọi là đức Từ Cung, thân mẫu quốc trưởng Bảo Đại), để đức Ngài tùy ý giao lại cho đoàn thể Phật giáo nào mà đức Ngài xét thấy đáng phụng thờ di tích của đức Thế tôn. Sau cuộc phân chia xá lợi, phần của Phật giáo Bắc tông được hội Phật học cùng các đoàn thể bạn hợp sức cung nghinh ra nhà kiếng cho công chúng chiêm bái 3 ngày 3 đêm, và ngay tại đây, đại đức Narada làm lễ kính trao cho ông Ưng An, khâm sai của Hoàng thái hậu. Ba ngày chiêm bái đã xong, một phái đoàn gồm có đại đức Narada, đại đức Bửu Chơn, ông Ưng An, ông Lê Văn Hoạch-Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng thông tin, ông Nguyễn Văn Hiểu-hội trưởng hội Phật giáo Nguyên thủy và đạo hữu Chánh Trí-Mai Thọ Truyền, phụng thỉnh tháp vàng (do gia quyến ông Võ Văn Trọng ở Nam Vang cúng) lên Ban Mê Thuộc. Tại tư dinh, đức Đoan Huy-Hoàng thái hậu khăn áo chỉnh tề trong cảnh trầm hương nghi ngút quỳ tiếp ngọc báu.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
167
Gần hai năm sau, đức Từ Cung quyết định giao cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam trách nhiệm phụng thờ ngọc xá lợi. Tổng hội xét công lao của hội Phật học Nam Việt, đã ủy nhiệm cho hội nhiệm vụ thờ phụng, lúc ấy trụ sở của hội còn đặt tại chùa Phước Hòa ở khu Bàn Cờ, cũ kỹ và chật hẹp. Đến năm 1955, hội Phật học Nam Việt quyết định xây dựng chùa mới tại một vị trí khác, để có nơi xứng đáng phụng thờ di bảo đức Thế tôn và đủ chỗ cho thiện tín đến lễ Phật chiêm bái xá lợi. Hội đã được tòa đại biểu chính phủ tại Việt Nam ký giấy phép cho phép hội mở cuộc lạc quyên với hạn mức số tiền tối đa là 5 triệu đồng để dùng vào việc kiến trúc. Cuộc lạc quyên được bắt đầu từ ngày 14/01/1956 và khóa sổ vào ngày 27/12/1956, kết quả được hơn 3 triệu đồng. Theo họa đồ xây dựng chùa, công trình được dự toán kinh phí khoảng 7 triệu đồng bạc thời bấy giờ. II. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC 1. Địa điểm: Chùa Xá Lợi được khởi công xây dựng vào ngày 5 tháng 8 năm 1956, trên thửa đất diện tích hơn 2500 m2, được nhượng lại của câu lạc bộ Đông Dương với giá tượng trưng là một đồng bạc Việt Nam.
168 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Khu đất tọa lạc tại góc đường Lê Văn Thạnh (nay là Sư Thiện Chiếu) và Bà Huyện Thanh Quan. Công trình kiến trúc theo bản vẽ của hai kiến trúc sư Trần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh, công trường xây dựng được điều khiển bởi hai kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hồ Tố Thuận. Chùa được hoàn thành ngày 2 tháng 5 năm 1958. 2. Kiến trúc : đây là một ngôi chùa có kiến trúc theo lối mới, là ngôi chùa lầu đầu tiên của Thành phố, mở đầu cho lối kiến trúc trên bái đường, dưới giảng đường ở Việt Nam. Các hạng mục của chùa gồm có: 1- Chính điện thờ Phật - hậu Tổ 8- Văn phòng ban Quản trị 2- Giảng đường 9- Đoàn quán Gia đình Phật tử 3- Tháp chuông 7 tầng 10- Phòng phát hành kinh sách 4- Thư viện - phòng đọc sách 11- Nhà khách Tăng 5- Cổng tam quan 12- Khu trù phòng-cư sĩ 6- Khu Tăng phòng 13- Vãng sanh quán 7- Nhà trai đường 14- Tầng hầm, vườn cảnh III. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
169
A. Chùa Xá Lợi được xây dựng với mục đích tôn thờ xá lợi Phật Tổ và để làm hội quán chính thức của hội Phật học Nam Việt. Ban đầu có tên là chùa thờ Xá Lợi, trong quá trình xây dựng, dân chúng quen gọi tắt là chùa Xá Lợi. Đến lúc khánh thành, hội Phật học đến thỉnh ý Hòa thượng Khánh Anh, Pháp chủ giáo hội Tăng già Nam Việt và cũng là Chứng minh Đạo sư của hội Phật học Nam Việt để xin đặt tên hiệu cho chùa, Hòa thượng dạy: “Còn đặt tên gì nữa! công chúng đã gọi là chùa Xá Lợi thì lấy tên ấy cho hợp lòng người”, đó là duyên cớ có tên là chùa Xá Lợi. Chùa Xá Lợi có những đặc điểm tự hào là di sản văn hóa quý báu như sau: Phật bảo: là một tháp bằng vàng, trong đựng báu vật là ngọc xá lợi Phật Tổ, do Ngài Narada Mahathera, một cao Tăng Phật giáo Tích Lan đã mang sang tặng để làm chứng tích Phật bảo thường trụ tại nơi quốc độ Việt Nam. Sự tích viên xá lợi này đã được nói rõ nơi phần nguyên do lập chùa ở trên. Pháp bảo: có một pho kinh bối diệp cổ chép bằng chữ Pali trên lá Ô bôi (lá Muôn) cách nay trên 1.000 năm, dài 45 cm, ngang 6 cm, hai đầu có dùi lổ để xỏ chỉ xâu lại, bìa bằng gỗ sơn son thếp vàng hoa văn cầu kỳ, được bọc trong một khăn lụa ngũ sắc. Bộ kinh này do giáo hội Tăng già Tích Lan tặng cho Ngài Thích Quảng Liên sau khi du học hơn 5 năm tại xứ này, khi về nước Ngài tặng lại cho hội Phật học Nam Việt để làm chứng tích Pháp bảo thường trụ tại quốc độ này. Bộ kinh chép lại lời ngọc đức Thế tôn khi Ngài bắt đầu chuyển pháp luân tại Thành phố Ba La Nại (Bénarès) cho năm anh em Kiều Trần Như nghe. Pháp tạng này được làm lễ cung thỉnh về chùa Xá Lợi vào ngày 16. 06. 1957. Tăng bảo: có một cây bồ đề được chiết cành từ cây gốc ở Tích Lan, do Thái tử con vua A Dục (Asoka) đem từ nơi đức Phật thành đạo sang trồng khi đến truyền bá đạo Phật ở xứ này. Cây bồ đề cũng do Ngài Narada Mahathera mang sang tặng để làm chứng tích Tăng bảo thường trụ nơi thế gian. Cây bồ đề được hạ thổ nơi sân chùa bên hông chánh điện, vào ngày vía đức A Di Đà (17 tháng 11 năm Mậu Tuất - 1958), cùng lúc với cây Bồ
170 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
đề do Ngài Thích Minh Châu du học tại Ấn Độ gởi về cúng. Chùa có một tháp bạc trong đựng viên xá lợi của đức Hoạt Phật Chương Gia Đồ do Pháp sư Diễn Bồi từ Đài Loan mang sang tặng vào ngày 11. 12. 1960. Đức Hoạt Phật (Phật sống) người gốc Thanh Hải -Mông Cổ thường được người Trung Hoa biết dưới danh hiệu Thập Cửu Thế Chương Gia Đại sư. Theo lịch sử, Ngài đã tái sinh 3 lần ở Ấn Độ, 9 lần ở Tây Tạng
và 7 lần ở Thanh Hải, cộng 19 đời, mỗi đời tái sinh được xác nhận bởi những bằng chứng hiển hiện như Đạt Lai Lạt Ma ở Tây Tạng. Ngày sinh năm Canh Dần (Quang Tự thứ 16) tức năm 1890 và xả báo thân ngày 04. 03. 1958 tại Đài Bắc, 11 ngày sau làm lễ trà tỳ được trên một ngàn viên xá lợi. Chùa thờ duy nhất một tượng Phật Thích Ca lớn, trong tư thế ngồi kiết già trên tòa sen. Ban đầu khi xây chùa, pho tượng được giáo sư Trương Đình Ý thực hiện bằng xi măng và thạch cao, tiếc rằng pho tượng đúc xong quá lớn không đưa lên chánh điện trên lầu được, nên nhượng lại cho chùa khác (nay là tượng Phật cô đơn ở huyện Bình Chánh). Sau đó, hội Phật học nhờ trường Mỹ nghệ Biên Hòa đắp tạo pho tượng khác bằng bột đá màu
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
171
hồng theo như kích thước của tòa sen trên Phật đài. Tượng đúc xong được an vị vào ngày 24 tháng Chạp năm Đinh Dậu -1958. Đến năm 1969, pho tượng được thếp lại toàn thân bằng vàng như hình dáng ngày nay. Tượng Phật chùa Xá Lợi là một tác phẩm mỹ thuật, đường nét hài hòa cân đối, mang tính cách một vị Phật Việt Nam, không chịu ảnh hưởng các nền văn hóa khác, là khuôn mẫu tiêu biểu cho nhiều tượng Phật được thực hiện sau này. Tại tháp chuông 7 tầng, cao 32 mét, tầng cao nhất là một cổ lầu có treo một đại hồng chung cân nặng 2 tấn, đường kính 1,2 mét, cao 1,6 mét. Quả chuông được rót đồng tại Phường đúc làng Dương Biều -Huế vào ngày mồng một tháng ba năm Tân Sửu -1961, theo mẫu của chuông chùa Linh Mụ -Huế. Tiếng ngân của chuông rất nổi tiếng và từng được nhiều thế hệ biết đến trong thời đấu tranh qua bài vọng cổ “tiếng chuông chùa Xá Lợi” do sọan giả Viễn Châu sáng tác ca ngợi. Tháp chuông chùa Xá Lợi được khánh thành vào ngày 16 tháng 11 năm Tân Sửu -1961 sau hơn 11 tháng thi công. Nơi giảng đường ở tầng trệt với 400 chỗ ngồi, có một tấm hoành cổ niên đại trên 150 năm, được treo trước cửa chính của giảng đường từ cổng tam quan nhìn vào. Trong bức hoành có 4 chữ Hán đại tự : “Đông Thùy Pháp Vũ” do chính tay Từ Hy Thái Hậu (đời Mãn Thanh -Trung Hoa) viết trên gấm, có đóng dấu ấn triện. Tấm hoành này do ông Bùi Văn Thương, nguyên đại sứ Việt Nam tại Tokyo đã mua được trên đất Nhật, gởi về biếu cho chùa Xá Lợi vào tháng 3 năm 1963. Sau này để tưởng nhớ công lao của đạo hữu cố hội trưởng, hội Phật học quyết định đặt tên là giảng đường Chánh Trí và bức hoành được đưa vào treo ở trai đường vào năm 1974. Chung quanh chánh điện ở tầng lầu, được trang trí bằng một bộ tranh lớn bằng sơn bột màu gắn trên tường. Bộ tranh gồm 15 bức khổ lớn, được giáo sư Nguyễn Văn Long ở trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm 1958, mô tả lịch sử đức Phật Thích Ca từ sơ sinh cho đến khi thành đạo - nhập niết bàn. Tranh vẽ rất sinh động trong như đắp nổi, đây là một bộ tác phẩm hoành tráng có giá trị nghệ thuật về phong cách họa tiết. Thư viện và phòng đọc sách là nơi lưu trữ rất nhiều tư liệu quý báu,
172 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
có các tạng kinh điển Phật giáo và sách tư liệu bằng những ngôn ngữ : Việt, Hoa, Anh, Pháp, Nhật … Ngoài những sách, báo Phật giáo, thư viện còn có những sách về văn hóa, xã hội, triết học, tôn giáo khác. Tổng số đầu sách hiện nay khoảng 5.500 quyển. Thư viện mở cửa vào buổi sáng hằng ngày, mỗi tuần 5 buổi. IV. ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ Chùa Xá Lợi ngoài các giá trị vật chất, còn là nơi lưu giữ các giá trị tinh thần, trải qua bao năm tháng từ ngày thành lập cho đến nay, để lại bao chứng tích lịch sử không phai mờ bởi dấu ấn thời gian. Các đặc điểm ấy được sắp xếp theo thứ tự thời gian như sau : Địa chỉ lịch sử: - Là trụ sở Trung ương của hội Phật học Nam Việt, một Tổ chức Phật giáo có uy tín hoạt động từ năm 1951 cho đến năm 1981, có tất cả 74 chi hội với gần 25.000 hội viên khắp các địa phương ở miền Đông và Tây Nam bộ. Hội Phật học Nam Việt là đoàn thể Phật giáo có mặt ở: -Một trong 6 tập đoàn Phật giáo đứng tên thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam năm 1952. -Một trong 11 tập đoàn đứng tên thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất năm 1964. -Một trong 9 tập đoàn Phật giáo đứng tên thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 1981. -Là tòa soạn của tờ bán nguyệt san Từ Quang, tiếng nói chính thức của hội Phật học Nam Việt, hoạt động liên tục từ năm 1952 đến 1974. Hiện nay, đã xuất bản tiếp tục ra mắt 3 tháng một kỳ. -Là trụ sở của Ủy ban Liên hiệp Phật giáo Hoa Việt. Ủy ban này được thành lập vào tháng 6 năm 1959, từ 23 đoàn thể Phật giáo Hoa - Việt hợp nhất để cùng đón tiếp Pháp sư Diễn Bồi, một cao Tăng Phật giáo Trung Hoa và các phái đoàn Phật giáo, tôn giáo khác đến thăm viếng và làm việc tại Việt Nam.Ủy ban này họat động đến năm 1964. -Là trụ sở của Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo trong cuộc đấu
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
173
tranh đòi bình đẳng tôn giáo, chống chế độ kỳ thị tôn giáo, độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. Ủy ban Liên phái được thành lập vào ngày 25/01/1963 và hoạt động đến tháng 01/1964 thì chấm dứt vai trò lịch sử. -Là nơi đặt lớp học đầu tiên của Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn khi viện mới được thành lập vào ngày 13/03/1964, trụ sở đặt tại chùa Pháp Hội và hai lớp học tại chùa Xá Lợi. Lớp học họat động đến năm 1966 thì dời về Viện Đại học Vạn Hạnh mới được xây dựng ở chân cầu Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ ngày nay). -Là trụ sở văn phòng II Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, văn phòng hoạt động từ khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập tháng 11 năm 1981. Đến năm 1993 văn phòng được dời sang Thiền viện Quảng Đức. Sự kiện lịch sử: -Từ ngày 4 đến ngày 08/09/1959, đã diễn ra đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam kỳ III. -Từ ngày 1 đến ngày 04/12/1962, đã diễn ra đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam kỳ IV. -Ngày 16/05/1963, Phái đoàn Tổng hội Phật giáo Việt Nam mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi, công bố bản tuyên ngôn 5 nguyện vọng Phật giáo đồ ngày 10. 05. 1963 và các bản phụ đính, phụ trương đồng thời tố cáo trước dư luận những vụ đàn áp, giam cầm và giết chóc mà Phật giáo phải chịu trong nhiều năm qua. Sau đó, một tài liệu dày 45 trang được gởi tới chính quyền, trong đó có liệt kê những vụ đàn áp, bắt bớ và thủ tiêu nói trên. -Ngày 21/05/1963, một cuộc lễ kỳ siêu và rước linh vị các nạn nhân bị giết do cuộc đàn áp Phật giáo từ chùa Ấn Quang đi về chùa Xá Lợi. Cùng lúc đó, một đoàn Tăng Ni khác gồm 350 vị xuất gia xuất phát từ chùa Xá Lợi bắt đầu một cuộc diễu hành khác, trang nghiêm và lặng lẽ, hướng về trụ sở Quốc hội. -Ngày 25/05/1963, một hội nghị giữa các tập đoàn thuộc Tổng hội Phật giáo và đại diện các Tổ chức, môn phái Phật giáo khác để thảo luận về kế hoạch đấu tranh. Một Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo được thành
174 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
lập tại chùa Xá Lợi để chỉ đạo cho cuộc vận động của Phật giáo đồ, là tập hợp tiếng nói thống nhất ý chí và hành động của Phật giáo đồ toàn quốc. -Ngày 30/05/1963, các lượng cảnh sát, công an và mật vụ được dàn ra phong tỏa các nẻo đường bao quanh chùa Xá Lợi để trấn áp cuộc tuyệt thực của gần 400 Tăng Ni tại đây. Cư sĩ Chánh Trí-Mai Thọ Truyền, hội trưởng hội Phật học Nam Việt trong ngày này đã gởi văn thư cho toàn thể Phật tử trong hội Phật học kêu gọi mọi người tham gia cuộc đấu tranh. -Ngày 11/06/1963, tức ngày 24/03 năm Quý Mão, một cuộc tuần hành xuất phát từ chùa Phật Bửu đi đến ngả tư Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng và dừng lại đây. Hòa thượng Thích Quảng Đức đã thắp lên ngọn đuốc tự thiêu thân, cầu nguyện cho đạo pháp trường tồn và chính quyền nhà Ngô thức tỉnh. Nhục thân của Ngài được đưa trở về chùa Xá Lợi quàn tại đây một tuần trước khi đưa đi hỏa táng, còn lại quả tim bất diệt ấy được đưa về thờ phụng tại chùa Xá Lợi trong suốt cuộc đấu tranh cho đến lúc thành công. -Ngày 15/07/1963, chư Tăng chùa Xá Lợi và các vị lãnh đạo phong trào trong Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo bắt đầu một cuộc tuyệt thực, mở đầu cho giai đoạn đấu tranh đòi thực thi bản thông cáo chung mà chính quyền đã ký với Phật giáo. -Ngày 17/07/1963, khoảng 400 Tăng Ni đến tập hợp tại chùa Xá Lợi. Sau khi lễ Phật và mặc niệm tại chính điện họ xếp hàng diễu hành đến chợ Bến Thành giương biểu ngữ yêu cầu chính phủ thực thi bản thông cáo chung. Đoàn diễu hành đã bị cảnh sát đàn áp bắt lên xe chở đi giam giữ ở An Dưỡng Địa Phú Lâm. Đến ngày 20. 07 mới được thả ra trở về chùa Xá Lợi với rất nhiều vị bị trọng thương. -Ngày 23/07/1963, Ni sư Diệu Huệ mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi cho biết bà sẽ thiêu thân để chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Ni sư Diệu Huệ là thân mẫu của ông Bửu Hội, một nhà bác học hiện đang làm đại sứ cho chính quyền Diệm tại nhiều nước thuộc Tây Phi Châu. Cùng ngày này, trung tá Trần Thanh Chiêu tác giả cuộc biểu tình của thương phế binh trước chùa Xá Lợi vào buổi sáng
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
175
đã bị chính quyền cách chức và phạt 40 ngày trọng cấm. -Ngày 01/08/1963, khoảng 300 anh em thương phế binh đã tự động tập hợp tại chùa Xá Lợi làm lễ chính điện. Đại diện của họ đã gặp chư vị lãnh đạo Ủy ban Liên phái phát nguyện ủng hộ cuộc đấu tranh. Cùng ngày, Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết đã gởi một điện văn cho Tổng thống Hoa Kỳ J.F. Kennedy phản đối sự dối trá của đại sứ Mỹ F. Nolting khi tuyên bố với hãng thông tấn UPI rằng không có chuyện kỳ thị tôn giáo và ngược đãi Phật giáo đồ tại Việt Nam. -Ngày 05/08/1963, lễ cầu siêu Thánh tử đạo Thích Nguyên Hương được Tổ chức tại chùa Xá Lợi, số lượng Tăng Ni và các đoàn thể Phật tử tham dự lên đến hai mươi ngàn người. - Ngày 12/08/1963, nữ sinh Mai Tuyết An đến chùa Xá Lợi chặt bàn tay trái của mình để cảnh cáo chính quyền. Trước khi chặt tay cô đã viết 3 lá thư : một cho chư Tăng và Phật giáo đồ, một cho Tổng thống Diệm và một cho bà Ngô Đình Nhu. t - Ngày 20/08/1963, chính quyền Diệm ra đòn ác liệt cuối cùng nhằm triệt tiêu Phật giáo trong trận tấn công vào chùa Xá Lợi vào lúc nửa đêm rạng sáng ngày 21. 08. Khoảng 200 người thuộc lực lượng đặc biệt đã tấn công vào chùa trong sự chống cự quyết liệt của Tăng Ni cố thủ bảo vệ những vị lãnh đạo tối cao của Ủy ban Liên phái, chúng lật đổ bàn thờ Bồ tát Quảng Đức, đập phá tất cả và tấn công lên chính điện, bị ngăn chặn bởi chướng ngại vật, chúng đã liệng nhiều lựu đạn cay, đánh đập dã man Tăng chúng. Sau một giờ ngăn cản, nhiều vị bất tỉnh, chư Tăng kiệt sức không còn đủ sức chống cự, chúng phá cửa lục soát các Tăng phòng bắt còng tay chư tôn đức lãnh đạo và tất cả Tăng chúng. Trong đêm đẫm máu ấy có khoảng 250 vị Tăng Ni đã bị bắt. Chùa Xá Lợi bị tàn phá tan hoang. Tượng Phật Thích Ca tại chính điện cũng bị xâm phạm. Cuộc tấn công này xảy ra đồng thời và toàn diện khắp nơi, có hơn 1.400 Tăng Ni đã bị bắt trong đêm ấy. Sáng hôm sau, chính quyền ban bố thiết quân luật và vu cáo cho giới Phật giáo nổi loạn, Tăng Ni bị bắt là phần tử phản động. Sự kiện này
176 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
đã dấy lên một làn sóng phản đối quyết liệt của tất cả các tầng lớp trong xã hội, đã biến thành cuộc phản kháng mạnh mẽ, đưa đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm trong cuộc chính biến ngày 01/11/1963, chấm dứt một chế độ mất lòng dân, coi thường đạo lý. - Từ ngày 31/12/1963, đến ngày 04/01/1964 khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi để soạn thảo ra Hiến chương Phật giáo và thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. V. CÁC ĐỜI LÃNH ĐẠO VÀ ĐIỀU HÀNH: Xá Lợi là một ngôi chùa Phật học, nên sự quản lý được thiết lập thành hai hệ thống, giới tu sĩ xuất gia giữ vai trò lãnh đạo tinh thần và giới cư sĩ tại gia giữ nhiệm vụ điều hành Phật sự. Giới xuất gia có hai cấp : cấp lãnh đạo là phẩm vị Chứng minh đạo sư, cấp điều hành là phẩm vị Trụ trì. Giới tại gia cũng có hai cấp : cấp lãnh đạo là chức vị Hội trưởng, cấp điều hành là chức vị Tổng thư ký. Do tiền thân của chùa Xá Lợi là hội Phật học Nam Việt hoạt động liên tục từ năm 1950, nên việc liệt kê lịch sử các đời lãnh đạo và điều hành được bắt đầu từ khởi nguồn. CÁC ĐỜI CHỨNG MINH ĐẠO SƯ: 1. Hòa thượng Thích Liễu Thiền (1950 - 1956) 2. Hòa thượng Thích Như Ý (1950 - 1954) 3. Hòa thượng Thích Đạt Thanh (1950 - 1954) 4. Hòa thượng Thích Huệ Quang ( 1955 - 1956) 5. Hòa thượng Thích Khánh Anh ( 1957 - 1961) 6. Hòa thượng Thích Thiện Hòa ( 1957 - 1963) 7. Hòa thượng Thích Hành Trụ ( 1957 - 1984) 8. Hòa thượng Thích Thiện Hào ( 1984 - 1997) 9. Hòa thượng Thích Hiển Tu ( 1997 - đến nay) CÁC ĐỜI TRỤ TRÌ: 1. Hòa thượng Thích Trường Lạc (1957)
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
177
2. Hòa thượng Thích Huyền Quý(1958) 3. Hòa thượng Thích Vĩnh Chơn (1959) 4. Hòa thượng Thích Thiện Thắng(1962) 5. Hòa thượng Thích Thiện Phước (1973) 6. Thượng tọa Thích Minh Hạnh(1977) 7. Thượng tọa Thích Minh Trí (1978) 8. Hòa thượng Thích Hiển Tu (1979 - 2015) 9. Hòa thượng Thích Đồng Bổn ( 2015- đến nay)2 CÁC ĐỜI HỘI TRƯỞNG: 1. Pháp sư Quảng Minh (1950 - 1954) 2. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ (1954 - 1955) 3. Cư sĩ Mai Thọ Truyền (1955 - 1973) 4. Bác sĩ Cao Văn Trí (1973 - 1979) 5. Cư sĩ Nguyễn Văn Hoanh (1979 - 1996) CÁC ĐỜI TỔNG THƯ KÝ: 1. Cư sĩ Mai Thọ Truyền (1950) 2. Cư sĩ Võ Đình Dần (1953) 3. Cư sĩ Lưu Văn Trừ (1954) 4. Cư sĩ Tống Hồ Cầm (1955) 5. Cư sĩ Đỗ Văn Giu (1959) 6. Cư sĩ Lê Ngọc Diệp(1961) 7. Cư sĩ Tăng Quang(1979) VI. GIÁ TRỊ VĂN HÓA - LỊCH SỬ : Nói đến ngôi chùa Xá Lợi, là nói về một chốn yên tĩnh để mọi người tìm đến đọc sách, sinh viên học sinh chọn làm nơi ôn tập học bài, người già tìm đến vãn cảnh trầm tư, đó là một đặc điểm chỉ có ở nơi này trong các ngôi chùa ở Thành phố. Nơi đây có cảnh trí thanh thoát tỉnh lặng, khiến người ta tìm thấy sự cân bằng tâm hồn giữa cuộc sống nơi chốn phồn hoa đô hội. Là một ngôi chùa có truyền thống Phật học, đây là nơi sinh hoạt 2 - Thông tin thêm: Hòa thượng kế thừa Trụ trì chùa Xá Lợi từ năm 2015, hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam.
178 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
giáo lý hàng tuần của tín đồ và những người muốn tìm hiểu nghiên cứu triết lý Phật đà. Vào mỗi sáng chủ nhật, giảng đường mở cửa để mọi người đến nghe thuyết pháp, buổi chiều là lớp học giáo lý và sinh hoạt của thanh thiếu niên gia đình Phật tử, cùng những buổi tu tập Bát Quan Trai của tín đồ Phật tử. Sức sống của ngôi chùa Xá Lợi trải qua bao năm tháng lịch sử thăng trầm, vẫn luôn sinh động phát triển theo định hướng thuở đầu của ngôi Tam bảo này. Với thời gian hơn 40 năm, ngôi chùa lịch sử này cũng vừa được trùng tu lại toàn diện trong 3 năm từ 1999 đến 2001 theo như nguyên mẫu ban đầu, để giữ gìn những giá trị kiến trúc mang phong cách đặc thù của chùa Xá Lợi, như chính đường lối hoạt động trung dung chuyên về học Phật đã định ở thuở ban đầu. Đến năm 2013, TT. Thích Đồng Bổn được sự ủy thác của Hòa thượng Viện chủ cùng chư Tăng chùa Xá Lợi đã kiến thiết lại Tổ đường thờ các bậc cao Tăng và xây dựng Địa Tạng đường là nơi thờ linh cốt và di ảnh các vị cư sĩ hữu công. Ngày nay, chùa Xá lợi không chỉ là một địa chỉ lịch sử, một thắng cảnh văn hóa của Thành phố, góp phần làm nên một nét đẹp của đất Sài Gòn, mà còn là niềm tự hào về truyền thống cho lịch sử Phật giáo Việt Nam và những người con Phật khắp năm châu. Cũng như thế, bất cứ người Sài Gòn nào khi ca ngợi về bản sắc văn hóa của Thành phố thân yêu mình, đều không thể thiếu bóng dáng ngôi chùa Xá Lợi, đã sánh cùng bao thắng cảnh khác làm nên nét đẹp văn hóa dân tộc cho quê hương Việt Nam. CHÙA XÁ LỢI VÀ SỰ NGHIỆP HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI Đối với Phật giáo Việt Nam Chùa Xá Lợi đã kế thừa và phát huy sự nghiệp của Tổ sư và chư vị tiền bối các thời kỳ, hiện nay, trong sự nghiệp giáo dục Phật giáo, Chùa Xá Lợi vẫn giữ vai nhất định trong công tác nghiên cứu giáo dục trên phạm vi toàn quốc. Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam và Tòa soạn Phật học Từ Quang đặt trụ sở tại Chùa, Tổ chức liên kết đào tạo với nhiều Trường Đại
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Xá Lợi
179
học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân cấp cử nhân, liên kết đào tạo cấp sau Đại học với Đại học Khoa học - Xã hội và nhân văn chuyên ngành Tôn giáo học, là nơi Tổ chức các hội thảo khoa học, trao đổi học thuật uy tín trong và ngoài nước. Hằng năm, tiếp đón rất nhiều phái đoàn Phật giáo Quốc tế sang thăm và làm việc. Tạp chí Từ Quang xuất bản được hơn 5 năm, ra hàng quý, mỗi kỳ in 2.000 bản (ấn tống). Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam thuộc Viện Nghiên cứu Phật học, do HT. Thích Đồng Bổn làm Giám đốc đã có nhiều hoạt động: biên soạn các công trình về lịch sử Phật giáo Việt Nam; Tổ chức hội thảo, tọa đàm; đào tạo. Trung tâm đã xuất bản được 87 đầu sách, tiêu biểu như: Nhân vật Phật giáo Việt Nam, Danh Tăng Phật giáo Việt Nam (3 tập), Phật giáo thời Trần, Phật giáo thời Hậu Lê, Phật giáo thời Nguyễn, Phật giáo thời Chấn hưng… Phối hợp với Học viện Khoa học xã hội Việt Nam đào tạo lớp cao học Tôn giáo học; kết hợp với Khoa Ngữ văn (Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh) đào tạo lớp cử nhân ngữ văn. Đồng thời cũng mở nhiều lớp chuyên đề cổ ngữ: Sankrit, Pali, Hán văn hay các lớp về Pháp văn, Anh văn, Ngôn ngữ Khmer, v.v... Chùa thường xuyên Tổ chức các lớp thuyết giảng với các giảng sư nổi tiếng, thu hút từ 200-500 người tham gia. Đối với Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh và Quận 3 Năm 2005, Chùa Xá Lợi được công nhận Di tích Lịch sử cấp Tỉnh, Thành phố, thể hiện sự coi trọng và ghi nhận đặc biệt của Nhà nước với Phật giáo nói chung và những giá trị của Chùa Xá Lợi cùng các bậc tiền bối hữu công đã gây dựng. Chùa đã phối hợp Tổ chức các cuộc triển lãm: Tranh kiếng Nam Bộ, Thạch thiền, thư pháp vào dịp Tết, tạo sự quan tâm của xã hội. Không chỉ các dịp lễ hội, thường ngày đây cũng là một địa chỉ thu hút sự chiêm bái, tìm hiểu của lượng lớn khách du lịch trong nước và quốc tế. Cùng các địa điểm nổi tiếng khác, đã góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa - du lịch, kinh tế xã hội của Quận 3 được phát triển.
180 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Bên cạnh đó, để thiết thực “Phật giáo nhập thế”, Ban Trụ trì Chùa và Quỹ từ thiện Sala của chùa, phối hợp với Chính quyền các cấp và Ban Trị sự Phật giáo Quận 3, Tổ chức nhiều công tác an sinh xã hội như: phát gạo, thức ăn với 120 phần/tháng trong suốt 5 năm; cấp phát qua tài cho gia đình nghèo. Quỹ Hóa tu người mù, người bị ung thu cũng tích cực hoạt động hàng tháng. Quỹ ấn tống Hoa Sen có các trạm ở Hà Nội, Huế, Châu Đốc, phổ biến kinh sách đến Phật tử nhằm nâng cao kiến thức. Vào lễ Phật đản, Vu Lan ở chùa đều có chương trình văn nghệ,.........và rất nhiều các hoạt động ý nghĩa khác nhận được rất nhiều bằng Tuyên dương công đức của Giáo hội và bằng khen của các Tổ chức chính quyền các cấp. Các khóa tu, lễ cầu an, giảng pháp quy tụ rất đông đảo tầng lớp tham dự. Giảng đường chùa Xá Lợi là một trong những giảng đường quy mô và phát triển bền vững của Quận 3, đóng góp rất lớn cho công tác Phật sự của Ban Trị sự Phật giáo Quận 3. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: số 89 Bà Huyện Thanh Quan, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 028.39307566 - 39307605 Năm thành lập: 1950 Người sáng lập: Cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền Hệ phái: Bắc tông Đặc điểm: danh lam thắng cảnh, Trung tâm giáo dục, Giảng đường Viện chủ: Hòa thượng Thích Hiển Tu Trụ trì hiện nay: Hòa thượng Thích Đồng Bổn Phó Trụ trì: Thượng tọa Thích Phước Triều
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Linh Xuân
181
CHÙA LINH XUÂN LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
C
hùa có nguồn gốc từ ngôi Miếu cổ có tên Linh Xuân , sau đó, một số Phật tử tách riêng, tạo lập gian thờ Phật ở phía sau của khu đất miếu. Trải qua nhiều biến đổi, toàn bộ khu Miếu trở thành Niệm Phật đường lấy tên Linh Xuân, do nhóm các cư sĩ thuận thành quản lý, một lòng tha thiết, bằng sự quy kính Tam Bảo, đã thỉnh mời chư Tăng về “trụ pháp vương gia”, ngõ hầu hóa độ quần chúng. Nhóm Phật tử đã đề đạt nguyện vọng được thỉnh một vị Tăng sĩ có đủ phẩm hạnh và năng lực về Trụ trì chùa với HT. Thích Thanh Kiểm (Tổ đình Vĩnh Nghiêm). Ngày 26/07/1986, theo sự thỉnh mời của Phật tử địa phương, được sự giới thiệu của quý Tôn đức, đầy đủ nhân duyên, Hòa thượng Thích Thiện Ý, lúc này đang trú xứ Chùa Xá Lợi (Quận 3) tiếp quản chùa, và trở thành Trụ trì từ đó cho đến ngày nay
182 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Năm 1971, chính thức có tên Chùa Linh Xuân. Dưới sự điều hành Phật sự của Hòa thượng, Chùa Linh Xuân bắt đầu có nhiều diện mạo mới, từ kiến trúc của ngôi Miếu cổ tuổi đời hơn trăm tuổi, với chủ yếu là sinh hoạt tín ngưỡng dân gian trở thành ngôi Già lam Linh Xuân, trở thành nơi trao đổi Phật pháp và lễ bái tụng niệm của dân cư địa phương Sau nhiều lần trùng tu, năm 2013, Hòa thượng đã bắt đầu công trình đại tu quy mô lớn, với Tổng diện tích 138,6 m2 , chủ yếu vẫn giữ nguyên nét đặc trưng chùa Nam Bộ, giữ gìn một số hoành phi câu đối bằng chữ Hán Cổng chùa: Linh tạng tuyên dương, giáo nghĩa u huyền khai Bát nhã Xuân hoa thạnh pháp, sắc hương vi diệu hiện chân như Bàn thờ Thiên Thủ Thiên Nhãn: Phiên âm: Quán sát tam căn tùy nguyện ứng thân thiên thủ nhãn Âm thông cữu hữu quảng khai diệu lực đại từ bi DẤU ẤN PHẬT SỰ Hòa thượng Thích Thiện Ý, là đệ tử của một bậc cao Tăng xứ Huế - Cố Hòa thượng Giác Nhiên (1878-1979)1 , thuộc dòng Thiền Liễu Quán, trú trì Quốc Tự Thánh Duyên, Tổ đình Thuyền Tôn, được triều đình phong chức Ngài là Tăng Cang2. Ngài là thành viên sáng lập Hội An Nam Phật học, nguyên Giám đốc Phật học đường Tây Thiên (Huế), nguyên Viện trưởng Phật học viện Hải Đức (Nha Trang)3 , lãnh đạo của cuộc biểu tình, vận động đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng Tôn giáo năm 1963 (Quý Mão), sau suy tôn ngôi vị Đệ nhị Tăng Thống GHPGVN Thống Nhất. Công hạnh của cố Hòa thượng Giác Nhiên có ảnh hưởng rất lớn tới Hòa thượng Thiện Ý, là đệ tử, được học hỏi và thân cận, HT Thiện Ý tiếp nối đức hạnh của Bổn sư, nỗ lực tu học tại nhiều nơi khắp miền Trung và miền Nam. Dù ở đâu với đức hạnh vốn sẵn, Hòa thượng luôn được pháp lữ thương mến, trân trọng. 1 - Tham khảo đầy đủ tiểu sử HT Giác Nhiên tại: https://quangduc.com/a58865/so-luoc-tieu-su-4-doi-tang-thong 2 - Tăng cang là chức vụ cao nhất của 1 tăng sĩ tại một số Quốc Tự của triều đình (bắt đầu từ nhà Nguyễn), được chính nhà vua tuyển chọn và bổ nhiệm Tăng cang cho các chùa với những tiêu chuẩn khắt khe về Phật học lẫn phẩm hạnh. 3 - Đây đều là những Phật học viện đầu tiên của Phật giáo Việt Nam thời kỳ chấn hưng Phật giáo thế kỷ XX, với lối đào tạo mang đặc thù Phật học viện, vừa học vừa tu, những nơi đây cái nôi đào tạo ra các bậc danh Tăng của Phật giáo Việt Nam.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Linh Xuân
183
Sau khi tiếp nhận vai trò Trụ trì Chùa Linh Xuân, cho đến nay, Hòa thương đã đóng góp rất nhiều cho Phật sự Quận 3. Duy trì các Đạo tràng tu học, hướng dẫn tín đồ Phật tử thực hành chánh Pháp, Tổ chức hoạt động chăm lo các hoàn cảnh khó khăn, phát quà cho người nghèo trong các dịp lễ lớn của Đạo Phật như Phật đản, Vu Lan,...... Đặc biệt, Hòa thượng tích cực tham gia Phật sự chung của Ban Trị sự Quận 3, đồng hành cùng quý Hòa thượng lãnh đạo Phật giáo quận giữ ổn định sinh hoạt của Tăng Ni, Tự viện, từng bước xây dựng Phật giáo quận ngày càng phát triển như hiện nay. Với sự tín nhiệm của Tăng Ni, Hòa thượng được suy cử là Cố vấn Ban Trị sự GHPGVN Quận 3. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Linh Xuân, số 134/109/2 Lý Chính Thắng, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Điện thoại: 028.38466135 Năm thành lập: 1971 Người sáng lập: nhóm Phật tử Yên Đỗ (Sài Gòn cũ) Hệ phái: Bắc tông Trụ trì hiện nay: Hòa thượng Thích Thiện Ý
184 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA HUYỀN TRANG Tọa lạc tại số,134/109/46 Bis Lý Chính Thắng, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
T
ên gọi: tịnh xá Huyền Trang (1966-2008), từ năm 2008 đổi tên là chùa
Huyền Trang. Năm 1966, tịnh xá Huyền Trang ban đầu do Huỳnh Thị Khương (pháp danh Diệu Thới) giữ chùa. Đến năm 1975, thỉnh mời Ni trưởng Thích Nữ Như Từ lúc này đang trú xứ chùa Dược Sư (quận Bình Thạnh). Trong thời kỳ khó khăn của đất nước sau 1975, bản thân tịnh xá lại nằm trong xóm đạo Thiên Chúa, số lượng
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Huyền Trang
185
Phật tử rất hạn chế, nhưng Ni trưởng Như Từ vẫn nhẫn nại, sớm mõ chiều chuông, dẫn dắt Phật tử, cảm hóa được nhiều người. Hơn 40 năm gắn bó, tuy còn nhiều hạn chế, nhưng tạo dựng được chốn già lam như hiện nay nếu không có đạo lực vững vàng, công phu thuần thục của Ni trưởng chắc chắn không thể có được thành quả như chúng ta đã thấy. Năm 2016, Ni trưởng xây thêm mái che tượng Quan Âm trên sân thượng khi địa phương mở rộng hẻm trong chùa. Số lượng tu sĩ: 2 Ni sư, đã qua lớp Trung cấp Phật học. KIẾN TRÚC: Diện tích 42,8m2. -Tầng trệt là 2 liêu phòng của chư Ni. -Tầng 1 thờ đức Bổn sư, Di Đà, Phật đản sinh, Địa Tạng, Quan Âm (ở giữa); Chuẩn Đề (bên trái); bàn vong (gian sau chánh điện); Tổ sư Đạt Ma (gần cửa chính); tượng Kim Cang, Kim Cương đắp nổi phía ngoài hiên; Quan Âm cưỡi rồng bằng đá cẩm thạch (sân có mái che). Vào các dịp Lễ hội như Tết cổ truyền, Phật Đản, Vu Lan - Báo hiếu chùa đều Tổ chức cho Phật tử tụng kinh, cầu nguyện, đáp ứng nhu cầu của nhân dân Phật tử.
186 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ: Tuy còn nhiều khó khăn, chùa Huyền Trang vẫn sinh hoạt nghiêm túc theo sự hướng dẫn của Ban Trị sự, cùng chính quyền sở tại tham gia hoạt động từ thiện, giúp đỡ các gia đình khó khăn, tạo một sự hiểu biết, chia sẻ với tín đồ tôn giáo khác. Những công đức của chùa nhận được nhiều bằng Tuyên dương công đức, bằng khen do Ban Trị sự Quận trao tặng trong nhiều năm liền. Đây đều là những ghi nhận và sự tán thán nỗ lực Phật sự của chùa Huyền Trang. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: chùa Huyền Trang,134/109/46 Bis Lý Chính Thắng, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Điện thoại: 028.38484914 Năm thành lập: 1963 Người sáng lập: Phật tử Huỳnh Thị Khương- PD Diệu Thới Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1978, 1997 Trụ trì hiện nay: Ni trưởng Thích Nữ Như Từ
Phường Võ Thị Sáu - Thiền Viện Quảng Đức
187
THIỀN VIỆN QUẢNG ĐỨC Sau năm 1975, khi đất nước Việt nam thống nhất, cùng non sông liền một dải, Phật giáo Việt Nam đã thực hiện nguyện vọng và tâm huyết của nhiều thế hệ tiền bối Phật giáo Việt nam trong lịch sử là thống nhất các Tổ chức, hội và hệ phái Phật giáo, thành lập một Giáo hội để hoằng dương Phật pháp và đồng hành cùng dân tộc. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) thành lập vào năm 1981.
Đ
ây là một mốc son chói lọi trong lịch sử hơn 2000 năm giáo lý của Đạo Phật được truyền vào đất nước Việt Nam, là biểu tượng sáng ngời của tinh thần hòa hợp giữa những người con Phật. Việc ra đời GHPGVN đã mở ra vận hội mới để phát triển Phật giáo Việt Nam, đó là thống nhất Tổ chức, thống nhất ý chí và hành động để hoằng pháp lợi sinh, đem ánh sáng, đạo đức của Phật giáo đi vào trong đời sống xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, tạo dựng cuộc sống hòa bình và an lạc.
188 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Tính đến nay, trong cả nước đã có hơn 54.000 Tăng Ni tu hành trong 18.500 chùa, Tự viện do GHPGVN quản lý, điều hành, ngoài ra Giáo hội quản lý 12 Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài, tất cả đều hoạt động theo Hiến chương GHPGVN số lượng Phật tử thường xuyên thực hành Đạo Phật khoảng 20 triệu và hơn 30 triệu những người yêu mến Đạo Phật tại Việt Nam. Tổ chức của Giáo hội ngày càng hoàn thiện, ổn định, thống nhất và vận hành có hiệu quả với hệ thống Tổ chức 13 Ban, Viện Trung ương hoạt động chuyên ngành như Tăng sự, Giáo dục Phật giáo, Hướng dẫn Phật tử, Hoằng pháp, Nghi lễ, Văn hóa, Kinh tế- Tài chính, Phật giáo Quốc tế, Từ thiện xã hội, Pháp chế, Kiểm soát, Thông tin Truyền thông, Viện Nghiên cứu Phật học,.... Hệ thống Tổ chức kiện toàn và thống nhất, từ trung ương đến địa phương, thành lập Ban Trị sự cấp tỉnh tại 63 tỉnh, Thành phố. Văn phòng Trung ương GHPGVN đặt tại 2 địa điểm: Văn phòng 1 Chùa Quán Sứ, Thành phố Hà Nội và Văn phòng 2 - Thiền viện Quảng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, là hai đầu mối quản lý các Ban, Viện chuyên môn, Giáo hội cấp địa phương, cầu nối, đảm bảo sự hòa hợp Tăng già Việt Nam, điều hành Phật sự thống nhất của Hội đồng Trị sự GHPGVN.
Phường Võ Thị Sáu - Thiền Viện Quảng Đức
189
THIỀN VIỆN QUẢNG ĐỨC - TRÁI TIM CỦA GIÁO HỘI Thiền viện Quảng Đức tọa lạc tại số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh, là nơi đặt Văn phòng 2 Trung ương GHPGVN. Theo dòng lịch sử, ban đầu nơi đây là Trung Tâm Văn Hóa Quảng Đức thuộc Tổng vụ Thanh Niên - Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, do Hoà thượng Thích Thiện Minh khai sơn năm 1964 và làm giám đốc. Ngày 30/04/1975, nước nhà thống nhất thành một mối, Bắc Nam sum hợp một nhà, theo nhịp đập của Tổ quốc, Phật giáo Việt Nam cũng phải thống nhất, do đó Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập do HT. Thích Trí Thủ - Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN làm Trưởng ban. Ngày 19/09/1981, được sự cho phép và ủng hộ của Hội đồng Bộ Trưởng (Chính phủ)1 , Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam diễn ra tại chùa Quán Sứ - Thủ đô Hà Nội, từ ngày 04 - 07/11/1981, thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên cơ sở hợp nhất của 9 Tổ chức Phật giáo:
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9.
Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam Ban liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Giáo hội Thiên thai giáo Quán Tông Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam Hội đoàn kết Sư sãi Yêu nước Tây Nam Bộ Hội Phật học Nam Việt
Sau khi Hoà thượng Thích Thiện Minh viên tịch vào năm 1978, đến đầu năm 1991, được sự chấp thuận của Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hồ 1 - Theo Công văn số 621/HĐBT ngày 19/09/1981 của Hội Đồng Bộ Trưởng (Chính phủ)
190 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Chí Minh, tại quyết định số 950/QĐ-UB của Ủy ban Nhân dân Thành phố ký ngày 18/12/1991, V/v công nhận cơ sở số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3 cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ đó Giáo hội dời trụ sở Văn phòng 2 Trung ương Giáo hội từ chùa Xá Lợi về Trung tâm văn hóa Quảng Đức và sau đó HT Thích Trí Tịnh - Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN đổi tên lại là Thiền viện Quảng Đức. Cũng trong năm này, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của Giáo hội tại khu vực phía Nam và quản lý điều hành cho Tăng chúng tại Thiền viện, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự ban hành quyết định thành lập Ban Trụ trì gồm:
-
Hòa thượng Thích Thiện Hào - Viện chủ Hòa thượng Thích Hiển Pháp - Trụ trì Thượng tọa Thích Thiện Pháp - Phó Trụ trì Thượng tọa Thích Huệ Trí - Phó Trụ trì
KIẾN TRÚC, VĂN HÓA VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ Chùa đã trải qua nhiều công tác tôn tạo trong nhiều năm, Cổng tam quan được khởi công xây dựng ngày 23 tháng 4 năm 1996, và hoàn thành vào năm đó. Câu đối Cổng Tam quan: Chữ Hán: 廣演圓融化度衆生無量無邉無數劫 德修普現隨機説教大雄大力大慈悲 禪境莊嚴聖凡扶正法 院門清淨僧俗護人間 Phiên âm: Quảng diễn2 viên dung, hóa độ chúng sinh vô lượng vô biên vô số kiếp Đức tu3 phổ hiện, tùy cơ thuyết giáo đại hùng đại lực đại từ bi Thiền cảnh trang nghiêm, Thánh, phàm phù chánh pháp Viện môn thanh tịnh, tăng, tục hộ nhân gian 2 - Quảng diễn: diễn bày chân lý sâu rộng 3 - Đức tu: công hạnh tu tập
Phường Võ Thị Sáu - Thiền Viện Quảng Đức
191
Dịch nghĩa: Quảng diễn tròn đầy, hóa độ chúng sinh, vô lượng vô biên vô số kiếp Đức tu tỏa khắp, tùy cơ giảng dạy, đại hùng đại lực đại từ bi. Cảnh thiền trang nghiêm, Thánh nhân và phàm nhân cùng hộ trì chánh pháp Cửa viện thanh tịnh, người tu lẫn kẻ tục đều che chở nhân gian.
Năm 2004, ngôi chánh điện được đại trùng tu. Ngày 5 tháng 11 năm 2008, khởi công xây thêm khu Đông lang. Toàn thể thiền viện được xây kiên cố bằng vật liệu thời hiện đại, với mặt tiền được thiết kế theo kiểu truyền thống với mái ngói đỏ uốn cong. Năm 2004, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự dưới sự chủ trì của HT Thích Trí Tịnh đã đại trùng tu xây dựng lại toàn bộ ngôi Thiền viện, bao gồm các hạng mục: Hội trường, Chánh điện, Đông lang- Tây lang. Ban trùng tu xây dựng bao gồm: HT.Thích Trí Tịnh (Trưởng Ban Chủ đầu tư), HT. Thích Từ Nhơn, HT. Thích Hiển Pháp, TT. Thích Thiện Nhơn, TT. Thích Thiện Pháp, TT. Thích Huệ Trí,..... * Hội trường - Chánh Điện: nằm vị trí trung tâm của Thiền viện, gồm 1 trệt, 1 lầu + Tầng trệt: Khu hành đường, có không gian mở, là nơi tiếp đãi khách tham dự lễ hội lớn, thường ngày là nơi tiếp đón, hướng dẫn khách thập phương tới liên hệ Phật sự. + Tầng 1: Hội trường, nằm ngay chính lối dẫn từ cổng Tam quan chùa, với cầu thang dẫn lên đại sảnh rất bề thế, sức chứa hàng trăm đại biểu tham dự. Tại nơi đây, diễn ra các cuộc họp, Hội nghị, giao ban Thường niên của Hội Đồng Trị sự quyết định các Phật sự quan trọng của Giáo hội, Tổ chức các Hội thảo, lễ tưởng niệm,..... + Tầng 2: Chánh điện, thiết kế theo truyền thống chùa Việt, “ tiền Phật hậu Tổ”. Phía trước Chánh điện là bảng tên Thiền viện Quảng Đức bằng chữ quốc ngữ. Hai bên cửa là tượng Hộ pháp và Tiêu Diện đặt âm tường, phía trước có bao lam chạm rồng, bên ngoài là hai câu đối Hán văn: 護法諸天鎮定禪門恆鼎盛
192 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Phường Võ Thị Sáu - Thiền Viện Quảng Đức
193
194 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
韋馱大士匠扶三寶永昌明 Phiên âm: Hộ Pháp chư Thiên trấn định thiền môn hằng đỉnh thịnh Vi Đà đại sĩ tượng phù Tam Bảo vĩnh xương minh Dịch nghĩa: Hộ Pháp chư Thiên trấn giữ thiền môn luôn phát triển Vi Đà đại sĩ, khéo phò Tam Bảo mãi thịnh hưng Điện Phật đặt ở tầng lầu được bài trí trang nghiêm với hoành phi và câu đối: Hoành phi: 大雄寶殿 Đại hùng bảo điện Dịch nghĩa: Điện báu thờ Đức Thế Tôn Câu đối: 越南佛教奉慈尊寶殿莊嚴救拔群生超苦海 廣德伽藍輝正法蓮臺高御提撕萬類脫迷津 Phiên âm: Việt Nam Phật giáo phụng Từ Tôn, bảo điện trang nghiêm cứu bạt quần sanh siêu khổ hải Quảng đức già lam huy chánh pháp, liên đài cao ngự đề tê vạn loại thoát mê tân.
Dịch nghĩa: Phật giáo Việt Nam kính thờ đức Từ Tôn, điện báu trang nghiêm cứu vớt chúng sanh qua biển khổ Già lam Quảng Đức làm sáng ngời chánh pháp, đài sen cao ngự dặt dìu muôn loại khỏi bến mê. Các Hoành phi (chính diện cửa Chánh điện) đắp bằng xi măng H1. 廣德禪院 Quảng Đức Thiền viện Dịch nghĩa: Thiền viện Quảng Đức
Phường Võ Thị Sáu - Thiền Viện Quảng Đức
195
H2. 佛日増輝 Phật nhật tăng huy Dịch nghĩa: Mặt trời Phật pháp càng thêm rực sáng H3. 法輪常轉 Pháp luân thường chuyển Dịch nghĩa: Bánh xe Chánh pháp luôn xoay chuyển Ở giữa điện là pho tượng Phật Thích Ca cao 3,6 m, ngồi thiền định trên tòa sen cao 1,2 m, được làm lễ an vị ngày 13 tháng 1 năm 2005 dưới sự chứng minh của HT. Thích Trí Tịnh (lúc bấy giờ là Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương), HT. Thích Hiển Pháp (Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự GHPGVN), cùng nhiều vị tôn túc lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ban thờ Tổ sư phía sau Chánh điện, thờ các vị tôn túc Trưởng lão, các hệ phái Phật giáo và chư Tôn giáo phẩm Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự đã viên tịch với câu đối hai bên: Hán văn: 仰達摩令禪門開創麗西天祖印重光周世界 望諸祖令道脈長流霑越地蓮花微笑馥山川 Phiên âm: Ngưỡng Đạt Ma linh thiền môn khai sáng lệ Tây Thiên, Tổ ấn trùng quang chu thế giới. Vọng chư Tổ linh đạo mạch trường lưu triêm Việt địa, liên hoa vi tiếu phức sơn xuyên Dịch nghĩa: Kính ngưỡng Tổ Đạt ma đã khiến cho thiền môn khai sáng và rực rỡ ở trời Tây, ấn tín của Tổ sư truyền trao khắp thế giới Hướng về chư Tổ đã làm cho đạo mạch được chảy mãi và thấm nhuần trên đất Việt, hoa sen hé nở, hương thơm ngào ngạt cả núi sông.
Hoành phi:
196 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
祖印重光 Tổ ấn trùng quang Dịch nghĩa: Ấn tín của Tổ sư lại có người kế thừa * Đông lang, Tây lang: từ năm 2008 đến năm 2013, thiền viện xây thêm hai dãy Đông lang và Tây lang, đặt nơi làm việc của 13 ban, viện trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và cơ quan chức năng chuyên môn khác: Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Phật giáo, Ban Hướng dẫn Phật tử, Ban Hoằng pháp, Ban Nghi lễ, Ban Văn hóa, Ban Kinh tế Tài chính, Ban Từ thiện Xã hội, Ban Phật giáo Quốc tế, Ban Thông tin Truyền thông, Ban Pháp chế, Ban Kiểm soát, Viện Nghiên cứu Phật học. Ngoài ra, còn có văn phòng Tạp chí Văn hóa Phật giáo, Tổ in ấn và phát hành kinh sách Phật giáo; Các phòng chức năng thuộc Văn phòng, phòng khách và chư Tăng nội viện. Phụ trách Văn phòng: Chư Tôn đức Ban Thư ký, các Phó Văn phòng và bộ phận giúp việc. Phụ trách Phật sự Khu vực phía Nam từ mũi Cà Mau đến Quảng Trị ( 36 tỉnh, thành) Thiền viện Quảng Đức tọa lạc ngay mặt tiền của đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, trung tâm của Quận 3, đây là trục đường chính, huyết mạch của Thành phố Hồ Chí Minh, nối liền với nhiều di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng như Dinh Độc lập, v.v..., nhiều cơ quan Nhà nước, ngoài vị trí đắc địa, còn là điểm đến của nhiều du khách quốc tế, thuận tiện cho công tác Phật sự và ngoại giao của Giáo hội. Đặc biệt, không những là ngôi Phạm vũ tôn thờ Tam Bảo, một Tự viện Phật giáo của Quận 3, TP. Hồ Chí Minh, nơi quy hướng tâm linh của quần chúng, Thiền viện Quảng Đức còn là một cơ sở quan trọng của Trung ương GHPGVN trong việc điều hành Phật sự, nơi làm việc thường trực của nhiều giáo phẩm lãnh đạo cao cấp của Giáo hội, đặc biệt, Hiện nay Thiều viện Quảng Đức dưới sự điều hành của Chư Tôn đức Ban thường trực Hội đồng Trị sự, Văn phòng 2 Trung ương và Ban Trụ trì, trên tinh thần làm việc “phụng sự Tam Bảo, lợi lạc quần sanh” thích ứng với đời sống hiện
Phường Võ Thị Sáu - Thiền Viện Quảng Đức
197
đại của thế kỷ, áp dụng tiến bộ vào quản lý và điều hành Phật sự. Nhờ sự tận tâm, tận lực, trực tiếp và liên tục của các bậc tôn túc lãnh đạo, Phật sự của Giáo hội nói chung và thuộc sự quản lý Văn phòng 2 nói riêng hết sức sôi động, tràn đầy sinh khí, thể hiện đúng tầm vóc và vị thế của Phật giáo trong mọi mặt của xã hội. Sự vững mạnh, phát triển không ngừng của Giáo hội như ngày nay, là “Ánh Đạo Vàng” rực rỡ của lịch sử hơn 2000 năm Phật giáo Việt Nam, nền tảng cho sự trường tồn Đạo Pháp kéo dài nhiều thế kỷ sau. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh ĐT: (028) 38483080; Fax: (028) 38469931; Email: vitinhvp2@yahoo.com
TÀI LIỆU THAM KHẢO - HT. Thích Thiện Nhơn, “Những đóa hoa Phật giáo Việt Nam”, NXB Hồng Đức, năm 2018. - HIẾN CHƯƠNG GHPGVN, tu chỉnh lần 6 tại Đại Hội VIII, nhiệm kỳ 2017-2022, NXB Tôn giáo, năm 2018.
198 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA VẠN THIỆN Chùa hiện tọa lạc tại số 27/63B Huỳnh Tịnh Của, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH
B
an sơ, là khu nhà đất của gia đình ông bà Đỗ Đình Hoành và Nguyễn Thị Hai cúng dường cố Hòa thượng Thích Bửu Tuyền1 (nguyên Trụ trì Tổ đình Vạn Thọ, Quận 1), thành lập nên Tịnh xá Vạn Thiện năm 1965. Hòa thượng Bửu Tuyền cử chư Tăng sang trông coi ngôi Tam Bảo và thừa hành Phật sự. Đổi bảng hiệu thành 1 - Cố HT.Thích Bửu Tuyền ( 1915 - 1987) thế danh Mai Thế Quyền, sinh tại Sài Gòn, quê quán Nga Sơn, Thanh Hoá, Hòa thượng nguyên là Chánh Đại diện Phật giáo Quận 1, Phó Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước, Trụ trì tổ đình Vạn Thọ.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vạn Thiện
199
Chùa Vạn Thiện, sinh hoạt tòng lâm, tiếp Tăng độ chúng. Năm 1973, Đại đức Thích Hạnh Quang (hiện là Hòa thượng Thích Hạnh Quang đương kim Trụ trì) nhập chúng tu học tại chùa Vạn Thiện. Vốn túc duyên nhiều kiếp, Đại đức Hạnh Quang sớm khuya cần mẫn tham cứu kinh kệ, luôn giữ giới luật không trễ nải, một lòng nuôi lớn chí nguyện hoằng dương Chánh pháp, được sự cảm mến của huynh đệ và Phật tử. Năm tháng trôi qua, cơm pháp sữa thiền nuôi dưỡng pháp thân, Hòa thượng đảm nhận vai trò Trụ trì Chùa Vạn Thiện, trùng hưng lại ngôi Tam Bảo. Năm 1977, Hòa thượng Hạnh Quang kiến lập lại ngôi chùa từ gác gỗ xưa trở nên kiên cố hơn. Qua thời gian, theo định luật vô thương, ngôi Tam Bảo bị xuống cấp trầm trọng, đến năm 2017, Hòa thượng đã vận động tài chánh trùng tu lại toàn bộ Chùa Vạn Thiện, với thiết kế kết hợp nhiều nét hiện đại với truyền thống, với nhiều không gian phục vụ thiện tín Phật tử.
200 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Trước cổng Tam Quan, Hòa thượng Trụ trì cho khắc hàng câu đối chữ Việt nhắc nhở sự tu hành của đại chúng: Câu đối 1: Diệt trừ Tham Sân Si, nhổ sạch gốc tội lỗi Tu trì Giới Định Tuệ, chứng ngộ quả Niết Bàn Câu đối 2: Gieo nhân lành sẽ được quả lành an vui Gieo nhân ác sẽ được quả xấu khổ đau Câu đối tán dương Phật trước Chánh điện: Tự tánh chơn như ứng hiện thân tam thập nhị tướng kim sắc hảo Biện dụng diệu pháp độ chúng sanh Thoát ly sanh tử thành Phật đạo. Câu đối ban thờ Tổ: Tổ ấn trùng quang Vạn Tổ truyền tâm pháp chánh đạo Thiện căn giáo hóa độ chúng sanh HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Từ những năm 1977- 2012, Hòa thượng Hạnh Quang mở phòng thuốc Đông y miễn phí tại chùa, kiên trì bốc thuốc cứu người, được bà con trong vùng hết sức kính trọng. Chùa Vạn Thiện trở thành ngôi nhà tâm linh của bà con Phật tử trong vùng, hàng ngày lễ bái, tụng kinh, truyền bá Phật pháp. Hiện nay, tuy còn nhiều khó khăn, Hòa thượng vẫn duy trì sinh hoạt đạo tràng như thường lệ, liên tục mõ sớm chuông chiều, là nơi nương tựa cho cư dân địa phương. Bên cạnh các Phật sự tại chùa, Hòa thượng còn Tổ chức nhiều các chuyến từ thiện, phát quà ở vùng sâu, vùng xa, hỗ trợ các hoàn cảnh khó khăn, cứu trợ thiên tai,........nhận được nhiều sự quan tâm của các mạnh thường quân, đóng góp cho thành tựu An sinh xã hội của chính quyền và Phật giáo Quận 3.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Vạn Thiện
THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 27/63B Huỳnh Tịnh Của, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3 Điện thoại: 028.38204395 Năm thành lập: 1965 Người sáng lập: HT. Thích Bửu Tuyền Hệ phái: Bắc tông Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: ĐĐ Thích Huệ Long, ĐĐ Thích Hạnh Hỷ Trụ trì hiện nay: Hòa thượng Thích Hạnh Quang Các ngày lễ lớn trong năm: Lễ Phật đản 15/4, lễ Vu Lan 15/7AL.
201
202 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA HUỆ ĐĂNG Chùa hiện tọa lạc tại số 27/63B Huỳnh Tịnh Của, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh
LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH
N
guyên sơ, chùa là ngôi miếu nhỏ thờ Ngũ Hành thành lập năm 1945. Năm 1963, nhóm Phật tử xóm Hầm Sỏi (khu phố 15, 16, Phường 8) sinh hoạt tụng kinh, lập niệm Phật đường Huệ Đăng, lấy tên Tổ sư gốc ở núi Đồng Vụ (Bình Định). Năm 2007 đổi lại là chùa Huệ Đăng. Hòa thượng Thích Nguyên Tăng Trụ trì chùa từ năm 1984 đến nay. Số lượng tu sĩ: Sư Trụ trì đã qua lớp Phật học viện Lưỡng Xuyên (Trà Vinh, 1960-1963), lớp lương y quốc gia đa khoa (4 năm). Diện tích: 208m2. Kiến trúc: Năm 1985 mái được lợp tôn, lót gạch nền. Khu vực thờ phượng: tượng Phật Thích Ca ở chánh điện. Đầu lưng là tượng Phật Thích Ca nhỏ, thỉnh về từ Thái Lan. Cuối vách chánh điện
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Huệ Đăng
203
là bàn thờ Ngũ Hành, hai bên có bàn thờ Tả ban, Hữu ban. Khu vực chánh điện còn có ban thờ Quan Công, trống, chuông, bàn thờ vong. Trước chánh điện là tượng Quan Âm, Di Lặc nhìn vào bên trong. Tượng Tiêu Diện đại sĩ và quay vào chánh điện, ở vị trí cổng chùa cũ nay bị bít lại. Phía trước chánh điện là khu vực để cốt, ảnh, bài vị các vong linh của Phật tử. Câu đối trước cổng chùa: Câu đối 1: 五行靈祐民康泰 四季祈安國富强 Phiên âm: Ngũ hành linh hựu dân khang thái. Tứ quý kì an quốc phú cường. Dịch nghĩa: Ngũ hành hiển linh giúp nhân dân an ổn. Bốn mùa cầu cho đất nước mạnh giàu.
204 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Câu đối 2: 佛力無邊超彼岸 法界微妙說迷津 Phiên âm: Phật lực vô biên, siêu bỉ ngạn. Pháp giới vi diệu, thoát mê tân. Dịch nghĩa: Phật lực vô biên, vượt qua bờ giải thoát. Pháp giới nhiệm mầu, ra khỏi bến trầm luân. Câu đối 3: 慧日空懸超法界 灯慈普照利群生 Phiên âm: Huệ nhật không huyền siêu pháp giới. Đăng từ phổ chiếu lợi quần sinh.
Phường Võ Thị Sáu - Chùa Huệ Đăng
205
Dịch nghĩa: Mặt trời trí tuệ treo trong hư không, vượt ra ngoài pháp giới. Ngọn đèn từ bi sáng soi khắp chốn, làm lợi ích muôn loài Lễ hội: các dịp rằm tháng 1, 4, 7, 10. Miếu Ngũ Hành trong chùa cúng ngày 16-17/2 âm lịch, có hát bóng rỗi. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ: Chùa duy trì hoạt động từ thiện trong khu vực và ở các tỉnh vào dịp rằm tháng 7 hàng năm từ năm 1963 đến nay, được tặng bằng công đức, giấy khen của Giáo hội, Mặt trận Tổ quốc Quận 3. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Huệ Đăng, 27/40/182 Huỳnh Tịnh Của, phường Võ Thị Sáu, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Điện thoại: 028.38890306 - 38207376. Năm thành lập: 1943 Người sáng lập: Phật tử Tịnh Viên và nhóm Phật tử Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1945, 1963, 1996. Trụ trì hiện nay: Hòa thượng Thích Nguyên Tăng Các ngày lễ lớn trong năm: Rằm tháng giêng, Lễ Phật đản 15/4, Rằm tháng bảy
206 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
NI VIỆN KIỀU ĐÀM Từ một ngôi trường mẫu giáo đến Ni viện Kiều Đàm Ni Viện Kiều Đàm nguyên là trường Mẫu giáo Kiều Đàm, do Sư bà Thích Nữ Diệu Không sáng lập vào năm 1968 nhằm dạy bảo, bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, đồng thời để cho các sư cô đủ duyên học đạo, giúp đời. LỊCH SỬ NI VIỆN KIỀU ĐÀM rong các vị sáng lập ra Ni viện Kiều Đàm hiện nay không thể không nhắc đến tên vị Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không vì những cống hiến cho Phật giáo nước nhà nói chung và sự ra đời của Ni viện Kiều Đàm nói riêng. Cái tên “Kiều Đàm” có lẽ cũng là cái tên do Ni trưởng chọn, trùng với tên một ngôi chùa - chùa Kiều Đàm - mà Ni trưởng cũng từng cùng tham gia thành lập, từng Trụ trì ở ngay chính quê hương Thừa Thiên
T
Phường Võ Thị Sáu - Ni Viện Kiều Đàm
207
Huế của mình. Bản thân chữ Kiều Đàm mang một ý nghĩa đặc biệt, lấy từ tên Tổ sư Ni Kiều Đàm Di, bậc trưởng lão của giáo đoàn Tỳ kheo ni đầu tiên thời Phật tại thế và là Tổ khai sơn của giới Ni lưu ngày nay. Năm 1975, Trường mẫu giáo do không còn đủ duyên giáo dục nên nơi đây trở thành đạo tràng cho chư Ni sinh hoạt và tu học , đồng thời chuyển tên thành Ni viện Kiều Đàm như ngày nay. Đến năm 1977, khi các trường Phật học từ Sơ cấp đến Cao cấp để đào tạo Tăng tài, Ni chúng quy tụ về Ni viện Kiều Đàm ngày càng đông, dưới sự dẫn dắt của Sư bà bằng giới đức và thanh quy trang nghiêm, Ni viện là nơi nương tựa cho các Ni sinh từ khắp mọi miền đến ở trong thời gian theo học các Phật học viện, trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ni viện mở rộng cửa đón từng lớp đến và đi như thế, số lượng Ni chúng trong Ni viện luôn biến động, có lúc lên đến 40 Ni sinh. Năm 2000, để đáp ứng cho sinh hoạt của Ni chúng, hai Ni trưởng Thích Nữ Lưu Phong và Thích Nữ Minh Đăng xin thu hồi các diện tích đất Ni viện bị lấn chiếm, bắt đầu đại trùng tu Ni viện Kiều Đàm, đến năm 2006 mới thành tựu viên mãn, ngôi Tam Bảo được thanh tịnh- trang nghiêm mặc dù diện tích còn khiêm tốn. Đến nay, Ni viện do Ni trưởng Thích Nữ Lưu Phong làm Viện chủ và Ni trưởng Thích Nữ Minh Đăng làm Trụ trì.
208 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
KIẾN TRÚC NI VIỆN Ni viện gồm có hai tầng và một trệt, mái cong đầu rồng và lợp ngói, trên đỉnh là bánh xe pháp luân. Trên cùng là Chánh điện, Tổ đường, tầng giữa là các liêu phòng của Ni chúng, tầng trệt là bái điện và nơi Tổ chức các buổi sinh hoạt chung. Trong khuôn viên chùa chúng ta sẽ thấy trên hòn non bộ là bức tượng Quan Thế Âm Bồ tát cưỡi rồng. Ngoài ra còn có hai bức phù điêu của Phổ Hiền Bồ tát và Văn Thù bồ tát trên tường của Ni viện. Nhìn từ phía ngoài có thể cảm thấy được vẻ trang nghiêm của Ni viện. Phía trên của cổng là hình tượng “Pháp luân thường chuyển”. Trên các cánh cửa cổng có trang trí họa tiết hoa sen - một biểu tượng khác nữa của Phật giáo. Trên cửa chính nơi cổng tam quan là tên của Ni viện: 嬌曇尼院 Kiều Đàm ni viện (Ni viện Kiều Đàm) Hai bên cổng phụ có đề chữ “từ bi” (慈悲) và “trí tuệ” (智慧) - hai phẩm hạnh lớn của nhà Phật. Trên cổng còn có hai đôi câu đối bằng chữ Hán: Hai câu đối bên cổng chính: Hán văn: 入禪門宜學道修身第一 登正殿願持涇經念佛為先 Phiên âm: Nhập thiền môn nghi học đạo tu thân đệ nhất Đăng chính điện nguyện trì kinh niệm Phật vi tiên Tạm dịch: Vào cửa thiền nên xem việc học đạo tu thân là điều quan trọng nhất Lên chính điện nguyện lấy việc trì kinh niệm Phật là việc làm đầu tiên. Hai câu đối bên cổng phụ: Hán văn: 寶地莊嚴色空不滅 佛門廣大出入随緣
Phường Võ Thị Sáu - Ni Viện Kiều Đàm
209
Phiên âm: Bảo địa trang nghiêm sắc không bất diệt Phật môn quảng đại xuất nhập tùy duyên Dịch nghĩa: Đất báu trang nghiêm, (đạo lý) sắc không bất diệt Cửa Phật rộng lớn, (người người) xuất nhập tùy duyên) Mặt sau của cổng được viết bằng chữ quốc ngữ, hai bên cổng là cặp chữ “từ bi - trí huệ” tương ứng với mặt trước cổng, ở giữa là bài kệ cũng bằng chữ quốc ngữ: Nhẫn khổ hạnh bậc nhất Niết bàn đạo tối thượng Xuất gia não hại người Không xứng danh sa môn1 Tiến vào phía trong, nơi bái điện là bức tượng thờ lớn của Phật A Di Đà, với vầng hào quang tỏa sáng. Phía dưới có các tượng nhỏ hơn, đặt phía trước tượng Phật A Di Đà là tượng Đức Phật ngồi trên đóa sen, bên phải là tượng Quan Thế Âm Bồ tát, bên trái là Địa Tạng Bồ tát. Phía sau, được đặt ngang hàng với bức tượng lớn là hai tượng Phật Đản sanh ở bên phải và Quan Thế Âm Thiên thủ Thiên nhãn ở bên trái. Ở tầng trên cùng là chánh điện (大雄寶殿 đại hùng bảo điện) là nơi thờ Phật Thích Ca. Nơi đây thờ bức tượng Phật Thích Ca lớn, phía trước là bốn bức tượng nhỏ hơn với hàng đầu tiên là tượng Phật Đản sanh, hàng thứ hai là ba bức tượng với Đức Phật đứng giữa và hai vị Bồ tát đứng hai bên. Phía dưới nữa là nơi đặt mõ và bình bát. Hai bên điện thờ có đôi câu đối bằng chữ Hán được tô vàng trên nền đỏ: Hán văn: 聖閣起瑠璃五頂峯尖懸慧劍 雲濤融妙印普門示現泛慈舟 Phiên âm: Thánh các khởi lưu ly ngũ đính phong tiêm huyền tuệ kiếm Vân đào dung diệu ấn phổ môn thị hiện phiếm từ chu 1 - Đây là một bài kệ Giới kinh mà đức Tỳ Bà Thi Như Lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đã giảng dạy được chép trong kinh Pháp cú, phẩm Phật Đà, theo bản Pàli.
210 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Dịch nghĩa: Gác Thánh hiện lưu li, trên đỉnh năm ngọn núi cao treo thanh kiếm trí huệ. Sóng mây hòa diệu ấn, Bồ Tát Quán Âm2 thị hiện thả thuyền từ.
Góc trên tường gần trần có những bức phù điêu miêu tả cuộc đời của đức Phật vô cùng sống động. Được bố trí ở hai bên tiền đường là nơi thờ lưỡng vị Hộ pháp (Khuyến Thiện và Trừng Ác). Nơi lưỡng vị hộ pháp này cũng có đôi câu đối nền đỏ chữ vàng: Hán văn: 清淨道場聖眾晨昏朝拜 莊嚴梵字天人吉日3皈依 Phiên âm: Thanh tịnh đạo tràng Thánh chúng thần hôn triều bái Trang nghiêm Phạn tự thiên nhân cát nhật quy y Dịch nghĩa: Đạo tràng thanh tịnh, Thánh chúng sớm tối cùng lễ bái. Chùa viện trang nghiêm, trời, người ngày lành đều quy y. Góc trên cùng phía cầu thang đi lên là nơi đặt chuông và trống gồm một trống lớn và một trống nhỏ, khá cổ của Ni viện. Cũng ở một góc trên cùng của cầu thang phía đối diện là nơi đặt đại hồng chung của Ni viện Kiều Đàm, với bức hoành được đóng khung treo trang trọng trên đại hồng chung gồm bốn chữ: 所願圓成 Sở nguyện viên thành (Mọi nguyện ước đều thành tựu trọn vẹn) Ni viện có lối thờ tự thường thấy ở các ngôi chùa Việt, đó là “tiền Phật điện, hậu Tổ linh”. Gian thờ Tổ nổi bật bằng bức phù điêu của Đạt Ma sư Tổ ở giữa. Hai bên là hai ban thờ cố Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không tuần chúng bên phải và ban thờ Ni trưởng Giám Luật miền Trung Thích Nữ Thể Quán. Ngoài ra còn có phòng thờ linh vị những người có công trong việc tạo dựng và phát triển Ni viện Kiều Đàm. 2 - ở đây dịch thoát ý từ nghĩa Kinh Phổ Môn giới thiệu về công hạnh và đức tu của Bồ tát Quán Thế Âm. 3 - Chữ 日 đã bị hư hỏng và mất một phần chữ.
Phường Võ Thị Sáu - Ni Viện Kiều Đàm
211
Để có sự khang trang như ngày nay thì Ni viện Kiều Đàm cũng đã được trùng tu một lần vào năm 2002 do Ni trưởng Thích Nữ Minh Đăng khởi xướng. Ni viện Kiều Đàm - nhịp cầu nhân duyên của những người khiếm thị với những vị hảo tâm Là một ngôi chùa nhỏ tọa lạc gần với những ngôi chùa lớn do đó Ni viện Kiều Đàm ít được mọi người chú ý. Nguồn kinh phí của chùa cũng thấp, đời sống của các ni sư trong chùa khá chật vật, thiếu thốn do không có nhiều Phật tử giúp hộ trì Tam bảo, hộ trì chúng Tăng. Các hoạt động Phật sự của Ni Viện chủ yếu gắn liền ba hoạt động lớn trong năm là Rằm tháng giêng, Rằm tháng tư và Rằm tháng bảy nhân các dịp đầu năm, Phật đản và Vu lan. Ni viện là nơi thu nhận, tạo chỗ ở cho chư Ni từ các nơi xa đến khi có nhu cầu theo học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Cứ hết lớp này đến lớp khác. Ni viện Kiều Đàm có hai đạo tràng hoạt động hiệu quả, đó là Đạo tràng niệm Phật được Tổ chức vào chiều thứ hai, tư, sáu hàng tuần và Đạo tràng khiếm thị được Tổ chức một tháng một lần (tuần thứ 4 của tháng).
212 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Trong đó, nổi bật nhất là Đạo tràng khiếm thị với chương trình tu học “Một ngày an lạc” dành cho những người khiếm thị do Ni trưởng Minh Đăng và Ni chúng duy trì Tổ chức từ năm 2010 đến nay, nhận được rất nhiều tình cảm và sự ủng hộ của Phật tử xa gần. Bất cứ một ngôi chùa nào ở TP HCM nói riêng và ở cả nước nói chung đều có những đóng góp nhất định cho đời sống của người dân. Ngoài việc giúp cho các Phật tử, những người có hoàn cảnh khó khăn, cơ nhỡ có được lòng tin vào cuộc sống, có được những suy nghĩ tích cực, tốt đẹp để sống đẹp và sống có ích hơn thì các ngôi chùa luôn Tổ chức những buổi từ thiện, như một cách gieo duyên để kết nối những người có lòng hảo tâm với người cần sự giúp đỡ. Ni viện Kiều Đàm cũng như thế. Đặc biệt đối tượng được hướng đến thường xuyên của Ni viện có chút khác với những nơi khác, đó là những người khiếm thị. Trung bình chương trình thiện nguyện này mỗi tháng đều có tầm trên 300 phần quà dành cho người khiếm thị từ khắp các nơi đến, không chỉ tại Thành phố Hồ Chí Minh mà còn có những người khiếm thị đến từ Tây Ninh, Bến Tre, Long An,v.v... Có thể nói, Ni viện Kiều Đàm là một trong những Tự viện tiêu biểu trong Thành phố trong việc thực hiện lối sống tốt đời đẹp đạo, nơi kết duyên lành cho những người có tấm lòng hảo tâm với những kiếp người kém may mắn trong cuộc sống - đặc biệt là những người khiếm thị. THÔNG TIN LIÊN LẠC Ni viện Kiều Đàm, Hệ phái: Bắc tông Địa chỉ: 380A Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh Năm thành lập: 1970 Năm trùng tu: 2002 Người sáng lập: HT. Thích Trí Thủ, HT. Thích Nhất Hạnh và Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, Ni trưởng Thích Nữ Thể Quán. Điện thoại: 028.3848 4100 Viện chủ hiện nay: Ni trưởng Thích Nữ Lưu Phong Trụ trì hiện nay: Ni trưởng Thích Nữ Minh Đăng
Phường Võ Thị Sáu - Tịnh Xá Ngọc Diệp
213
TỊNH XÁ NGỌC DIỆP Tịnh xá Ngọc Diệp tọa lại tai số 81 Lý Chính Thắng, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh, là trú xứ của Cố Ni trưởng Tràng Liên (1929 - 2020) Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ
NHỮNG ĐÓA SEN THANH NGÁT HƯƠNG...
T
ịnh xá Ngọc Diệp là trú xứ của Cố Ni trưởng Tràng Liên (1929 - 2020) - Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ, duyên lành gặp Tổ phát nguyện xuất gia, được Ni trưởng Huỳnh Liên tiếp nhận, đưa vào Giáo hội Liên Hoa1 . Năm 1961, 1 “Giáo hội Liên Hoa” thường chỉ cho Ni giới Khất sĩ, phát xuất từ cố Ni trưởng Huỳnh Liên, Ni trưởng Bạch Liên, Ni trưởng Thanh Liên, Sư bà Bửu Liên bốn vị nữ khất sĩ đầu tiên của Hệ phái được Tổ ban pháp danh biểu hiện màu hoa sen thanh quý. Ni giới Hệ phái lập thân hành đạo, bước vân du mọi miền hóa duyên, tiếp chúng độ Ni lưu, một cành sen tiếp nối một cành sen, biến biển đời thành đầm liên hoa rực rỡ, mới có tên gọi Giáo hội Liên Hoa.
214 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Người về Mỹ Tho hành đạo trùng tu nâng cấp Ngọc Mỹ tịnh đàng. Năm 1969, Ni trưởng đến đất Sài Gòn, giáo hóa nhân sanh, dựng xây tinh đàng Ngọc Diệp, Quận 3, Sài Gòn. Vào năm 2002, Ni trưởng Tạng Liên, Đệ tam Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ viên tịch, Ni trưởng được suy tôn đảm nhiệm Đệ tứ Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ và được GHPGVN suy cử vào chức vụ Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN. Ni trưởng Tràng Liên là người đứng đầu Ni giới của Hệ phái hiện có khoảng hơn 1000 Ni chúng Khất sĩ, trên khắp mọi miền, đã và đang đảm nhiệm các vị trí công tác Phật sự khác nhau của Giáo hội. Trong các mùa An cư kiết hạ, Ni trưởng được cung thỉnh là Thiền chủ hạ trường (chư Ni hệ phái có truyền thống an cư tập trung tại Tổ đình Tịnh Xá Ngọc Phương), Giới sư trong các giới đàn của Hệ phái, là bậc Ni lưu có đức hạnh và tài lãnh đạo được Ni giới Việt Nam kính phục. KIẾN TRÚC TỊNH XÁ Tầng trên phía trước là chánh điện hình bát giác, giữa có Tháp thờ Phật, thờ Tổ; phía sau thờ Cửu Huyền, theo truyền thống đặc thù của Hệ phái. Diện tích: 401 m2. - Sân trước là vườn Lâm Tỳ Ni, cạnh đó là tòa thờ Quán Âm Bồ tát - Tầng trệt thờ đức Bổn sư (chính diện), gian bên phải thờ Tổ sư Minh Đăng Quang, Hòa thượng Giác Huệ; gian bên trái thờ Ni trưởng Huỳnh Liên. Phía sau giảng đường là bàn thờ Tổ sư Đạt Ma, Địa Tạng, bàn vong. - Tầng 1: thờ Phật Dược Sư, Quán Âm
Phường Võ Thị Sáu - Tịnh Xá Ngọc Diệp
215
- Tầng 2: thờ Tam thế Phật - Tầng 3: Chánh điện thờ đức Bổn sư trong tòa nhà bát giác, đỉnh nóc là búp sen, các đầu đao có hình bánh xe pháp luân, khánh thành năm 2005. Trang trí: ở các tầng có các bức bích họa miêu tả sự tích của đức Phật xuất gia, Phật nhập Niết Bàn, ... Tịnh xá xây dựng được tủ sách với hơn 200 cuốn kinh, sách tham khảo về Phật học. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ: Với truyền thống sinh hoạt đặc thù của Hệ phái Khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng, dưới sự dẫn dắt của các Tổ kế thừa, các giáo đoàn của Hệ phái nói chung và Tịnh Xá Ngọc Diệp nói riêng, đều duy trì giới luật nghiêm tịnh, thời cuộc tuy có biến đổi nhưng sự giáo dục mang tính chuẩn mực của Hệ phái luôn được duy trì, chư Ni quy hướng nương tựa rất đông đảo, là những gương sáng tu hành với quần chúng Phật tử. Ngoài ra, cố Ni trưởng Tràng Liên rất nhiệt huyết với Phật sự của Hệ phái và Giáo hội, từ Trung ương đến Hệ phái và trú xứ Quận 3, trong các buổi họp có nhiều đóng góp ý kiến tâm huyết, đặc biệt trong việc phát
216 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
triển Ni giới Việt Nam, duy trì ổn định và hòa hợp trong tinh thần giới luật. Hoạt động từ thiện hằng năm ở nhiều địa phương từ trước năm 1975 cho đến nay luôn được Tịnh Xá Ngọc Diệp quan tâm thực hiện tại nhiều địa phương như: Sóc Trăng, Bến Tre, Đồng Tháp,...hỗ trợ bà con khó khăn, các trung tâm xã hội, cứu trợ thiên tai,... tạo cho nhiều tầng lớp có nhân duyên với Phật pháp. Thành tựu hoạt động Xã hội được ghi nhận và đánh giá cao, năm 2011, Ni trưởng Tràng Liên được tặng thưởng Huân chương Đại đoàn kết dân tộc do Chủ tịch nước trao tặng và nhiều phần thưởng, bằng khen cao quý khác của Trung ương Giáo hội, Thành hội Tp Hồ Chí Minh và BTS Phật giáo Quận 3. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 81 Lý Chính Thắng, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Điện thoại: 028.3846 6568 Năm thành lập: 1972 Người sáng lập: NS .TN Tràng Liên Hệ phái: Khất sĩ Các ngày lễ lớn trong năm: Rằm tháng giêng, Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan. Trụ trì tiền nhiệm: NS .TN Tràng Liên
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
PHƯỜNG 9 1 - CHÙA MINH ĐẠO..............................................212 2 - CHÙA VIÊN THÔNG.........................................230
217
218 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA MINH ĐẠO Chùa Minh Đạo là một ngôi Tự viện nổi tiếng của Phật giáo Quận 3 nói riêng và Thành phố Hồ Chí Minh nói chung, chùa nằm ở vị trí trung tâm, với nhiều cơ quan nhà nước và nhiều các Tổ chức có trụ sở lân cận, nhiều thuận lợi cho các hoạt động văn hóa - ngoại giao, đóng góp nhiều Phật sự quan trọng, từ đó, chùa Minh Đạo đã từng bước phát triển trở thành ‘’Minh châu của Đạo Phật” trong lòng Dân tộc và Đạo pháp. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
G
ần một năm sau ngọn lửa thiêu thân cúng dường chư Phật của HT.Thích Quảng Đức để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo, tháng 5-1964, chùa Minh Đạo ra đời, trong bối cảnh lịch sử Phật giáo Sài Gòn - TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung diễn ra nhiều biến động. Sau cuộc chính biến 1-11-1963 thành công, chế độ chính trị Ngô
Phường 9 - Chùa Minh Đạo
219
Đình Diệm sụp đổ, Phật giáo Việt Nam tạm qua cơn “Pháp nạn”, tự do bình đẳng các tôn giáo tại Việt Nam được thực hiện một cách nghiêm túc, sâu sắc hơn. Không khí Đại lễ Phật đản PL.2508 - DL.1964 được Tổ chức trọng thể tại lễ đài Trung ương - Bến Bạch Đằng (quận 1, Sài Gòn) mang hơi thở nóng bỏng của thời đại, đánh dấu sự hồi sinh Phật giáo Việt Nam. Một năm trước đó, 7-5-1963, trong lúc dân chúng Huế và Thừa Thiên sửa soạn làm lễ Phật đản thì cảnh sát đến tận nhà buộc dân chúng phải hạ cờ Phật giáo. Khát vọng tự do niềm tin, bình đẳng tôn giáo rạo rực trong lòng dân. Theo đó, các quận đô thành cùng tỉnh Gia Định và các Phường trong thủ đô đều Tổ chức lễ đài Phật đản theo từng địa phương. Vị trí chùa Minh Đạo tọa lạc hiện nay trước đây là khoảng đất trống thiết lập lễ đài Phật đản của chính quyền Phường Yên Đỗ (nay là Phường 9, Quận 3). Trong buổi lễ được sự chứng minh của chư tôn Giáo phẩm đại diện Viện Hóa đạo (cơ quan Phật giáo tương đương Hội đồng Trị sự hiện nay) lúc bấy giờ: Thượng tọa Thích Tịnh Trí, Thượng tọa Thích Minh Thành, Thượng tọa Thích Pháp Lan, Thượng tọa Thích Trí Hiển… cùng đông đảo đồng bào Phật tử khu vực tham dự. Trên con đường tìm cầu chân lý giải thoát với tâm nguyện “sứ giả Như Lai”, cố Hòa thượng Thích Minh Thành có nhân duyên lớn với Phật giáo Quận 3. Qua công tác hoằng dương chánh pháp, Ngài Tổ chức các Ban đại diện Phật giáo Sài Gòn - Gia Định và được cử làm Chánh đại diện Phật giáo Phường Yên Đỗ. Mùa Phật đản Phật lịch 2508 (năm Giáp Thìn 1964), Ngài cùng Ban đại diện Phật giáo Phường Yên Đỗ (do cư sĩ Nguyễn Tống, pháp danh Minh Nghị làm đại diện) tiến hành xây dựng niệm Phật đường Yên Đỗ, về sau đổi thành niệm Phật đường Minh Đạo, tiền thân của chùa Minh Đạo hiện nay, và Ngài đã Trụ trì ở đây cho đến năm 1992.
220 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Phường 9 - Chùa Minh Đạo
221
222 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Trong khoảng thời gian 1968-1980, cố HT.Thích Bửu Chánh (sư đệ cố HT.Thích Minh Thành) Trụ trì, còn cố HT.Thích Minh Thành vẫn là lãnh đạo về mặt tinh thần cơ sở với tư cách là Chánh Đại diện Phật giáo Quận 3. Phật tử Ban hộ trì Tam bảo còn gọi là Ban Sáng lập chùa Minh Đạo gồm 25 người, do cư sĩ Minh Nghị làm Trưởng ban đã cùng Hòa thượng chung lo Phật sự, phát triển cơ sở chùa Minh Đạo theo từng thời gian cho đến ngày cư sĩ từ trần năm 2012. Sau khi cố HT.Thích Huệ Thới, cố TT.Thích Minh Phát Trụ trì, tri sự Tổ đình Ấn Quang viên tịch, cố HT.Thích Minh Thành kế thừa Trụ trì. Để có thời gian quản lý, điều hành các Phật sự tại Tổ đình và các cơ sở trực thuộc, cố Hòa thượng đã đệ đơn lên Thành hội Phật giáo TP.HCM xin từ nhiệm Trụ trì chùa Minh Đạo và đề nghị Thành hội Phật giáo cử người về kế nhiệm. Đáp ứng lời thỉnh cầu của cố HT.Thích Minh Thành và Phật tử, Thành hội Phật giáo TP.HCM đã ký Quyết định số 81/QĐ/THPG ngày 24-1-1992 do cố HT.Thích Thiện Hào, Trưởng ban Trị sự ấn ký, bổ nhiệm Đại đức Thích Thiện Nhơn (nay là HT.Thích Thiện Nhơn), khi đó là Chánh Thư ký
Phường 9 - Chùa Minh Đạo
223
Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM về Trụ trì chùa Minh Đạo. Với uy tín và đạo hạnh, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn hiện nay là Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, qua nhiều nhiệm kỳ, Ngài đã cùng chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển vượt bậc về mọi mặt, xây dựng hệ thống Tổ chức Phật giáo chặt chẽ từ Trung ương tới địa phương, là chỗ dựa cho hàng Tăng Ni, cả trong và ngoài nước nương tựa tu học, đồng hành cùng sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước Việt Nam.
Hiện nay, Hòa thượng là Viện chủ Chùa Minh Đạo, giao vai trò Trụ trì chùa Minh Đạo cho đệ tử là ĐĐ. Thích Minh Ân - Trưởng ban Văn hóa GHPGVN Quận 3, hết lòng hết sức chăm lo cho bổn tự, định hướng Phật sự là nơi quy hướng cho Tăng chúng, để môn phong được duy trì và lan tỏa trong tương lai. Ngôi chùa có đời sống qua “ngũ thập tri thiên mệnh” đã lưu dấu tên tuổi, công lao của bao phận người, từ những vị đạo cao đức trọng là cố Hòa thượng Trụ trì tiền nhiệm đã viên tịch đến các thế hệ quý Phật tử nặng lòng với đạo pháp.
224 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
KIẾN TRÚC Từ một niệm Phật đường nghiêm trang lợp tole, vách tole khiêm tốn theo thời gian được cải tạo, trùng tu trở thành một ngôi chùa một tầng trệt, rồi hai tầng có mái nóc sân thượng, khang trang bề thế bằng vật liệu kiên cố. Đó là công lao lãnh đạo và hướng dẫn của cố HT.Thích Minh Thành cùng tất cả tấm lòng hộ đạo của quý Phật tử Phường Yên Đỗ, Quận 3. Dưới thời ĐĐ. Thích Thiện Nhơn (nay là Hòa thượng Thích Thiện Nhơn) Trụ trì, tuy Phật sự Giáo hội đa đoan nhưng ĐĐ. Thích Thiện Nhơn luôn trăn trở trùng hưng ngôi Tam Bảo, tiếp bước các công hạnh của các tôn đức “chấn hưng Phật giáo”. Với tâm nguyện đó, trong gìn tịnh giới, ngoài hiện thiền tướng, nhiếp chúng huân tu, dẫn dắt Phật tử, Hòa thượng đã đứng lên vận động tài chánh, cùng quý Phật tử xa gần trùng tu ngôi chùa Minh Đạo, trở nên quy mô hơn, trang nghiêm, tú lệ như hiện nay. Đảm bảo cho sinh hoạt tín ngưỡng của quần chúng và tứ sự cho chúng Tăng tu học, đáp ứng yêu cầu Phật sự trong thế kỷ XXI, cùng Giáo hội tạo mốc son sáng chói cho lịch sử dân tộc. Ngôi chánh điện chùa Minh Đạo được xây dựng theo lối kiến trúc chùa Việt nam kết hợp giữa nét văn hóa truyền thống và hiện đại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và theo đặc thù của Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, có sự hài hòa giữa không gian tâm linh và chức năng Hoằng pháp. Với vị trí mặt tiền, gần lộ lớn, Chùa là điểm nhấn cảnh quan của địa phương, Cổng Tam quan với mái ngói đỏ, uốn cong với họa tiết đầu rồng, trên cửa lớn là họa tiết hoa sen, màu chủ đạo màu vàng, mang phong cách chùa Việt Nam, hai bên Tam quan là hai bức họa Sông núi Việt Nam và Sông Ni Liên Thuyền nơi Phật thành đạo, như tượng trưng cho ý nghĩa “Đạo Pháp và Dân tộc” phía ngoài là Tượng Quan Âm tư thế đứng, tay cầm tịnh bình, nhành liễu, bằng đá trắng phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng của thập phương bá tánh xa gần.
Phường 9 - Chùa Minh Đạo
225
Hoành phi và câu đối tại Tam quan chùa: 明道寺 Minh Đạo tự - Chùa Minh Đạo 圡淨門 Độ Tịnh môn - Cửa Tịnh Độ 解脫門 Giải thoát môn - Cửa giải thoát Câu đối: Hán văn: 明放一光九有四生同解脫 道超三界六塵五蘊總皆空 Phiên âm: Minh phóng nhất quang, cửu hữu, tứ sanh đồng giải thoát Đạo siêu tam giới, lục trần, ngũ uẩn Tổng giai không. Dịch nghĩa: Ánh sáng phóng ra một luồng, chín cõi, bốn loài cùng giải thoát Đạo vượt ngoài ba cõi, sáu trần, năm uẩn thảy đều không Hán văn: 佛正徧知無量壽無量光無量功德 學真寔義如是聞如是思如是修持 Phiên âm: Phật chánh biến tri vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức Học chân thật nghĩa như thị văn, như thị tư, như thị tu trì Dịch nghĩa: Phật,bậc Chánh Biến Tri có tuổi thọ, ánh sáng và công đức vô lượng Học chân thật nghĩa, nghe, cân nhắc và tu hành như vậy. Trên Tổng diện tích hơn 500m2, chùa Minh Đạo bao gồm các hạng mục: * Khu vực chánh điện lầu một khoảng 273m2 gồm 01 Trệt + 1 lầu + cổ lầu: - Tầng trệt là khu Giảng đường + hậu Tổ: + Phía sau cổng Tam quan là tiền sảnh trước khu vực Chánh điện, bên hữu là tôn Tượng Phật Di Lặc, bên tả là tôn Tượng Quán Âm, đều bằng chất liệu đá trắng với phối cảnh cây kiểng, đầy đủ hương sắc, xanh tươi bốn mùa.
226 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
+ Qua tiền sảnh là khu tầng trệt: hai bên là tượng hai vị hộ pháp Vi Đà, Diện Nhiên bằng gỗ đỏ, trên có bức hoành phi tiếng Việt cách điệu “BƯỚC LÊN BỜ GIÁC”, phía trước là Tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề thủ hộ già lam, tiếp sau, chính giữa là khu vực Trai đường ( khi cần sẽ bố trí là Hội trường chính các sự kiện của Chùa), hai bên là ban thờ Thập Bát La Hán, với các câu đối: Cặp câu đối 1: 明心晃曜大千念念相應覺性 道體含融法界時時契合真如 Phiên âm: Minh tâm hoằng diệu đại thiên niệm niệm đồng giác tính Đạo thể hàm dung pháp giới thời thời khế hợp Chân Như Dịch nghĩa: Tâm sáng trông khắp đại thiên niệm niệm tương ưng tánh giác Thể đạo bao trùm khắp pháp giới thời thời hợp với Chân Như Cặp câu đối 2: 祖道光輝刼刼傳燈宗風永振 堂軒嚴淨生生續焰佛法長存
Phường 9 - Chùa Minh Đạo
227
Phiên âm: Tổ đạo quang huy, kiếp kiếp truyền đăng tông phong vĩnh chấn Đường hiên nghiêm tịnh, sanh sanh tục diệm Phật pháp trường tồn Nghĩa: Đạo Tổ sáng ngời, kiếp kiếp truyền đèn tông phong luôn hưng thịnh Cửa nhà nghiêm tịnh, đời đời nối lửa Phật pháp mãi trường tồn Cặp câu đối 3: 少室庭前千丈白雲寒立雪 黃梅林裏一輪明月夜傳衣 Phiên âm: 1 Thiếu Thất đình tiền, thiên trượng bạch vân hàn lập tuyết2 Huỳnh Mai3 lâm lí, nhất luân minh nguyệt dạ truyền y 1 - Thiếu Thất: Tên một ngọn núi ở Trung Quốc, do vì trong núi có thất đá. Vào thời Bắc Ngụy, Hiếu Văn Đế cho xây dựng chùa Thiếu Lâm trên núi và Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã từng ngồi xoay mặt 9 năm vào vách đá. 2 - Hàn lập tuyết: Huệ Khả, vị tổ thứ hai của Thiền tông Trung hoa, đã đứng suốt đêm trong tuyết để hỏi đạo ngài Đạt Ma, đến sáng mà vẫn không được diện kiến, sư bèn chặt cánh tay trái của minh để tỏ lòng chí thành cầu đạo, sau được Tổ khai ngộ, truyền pháp và y bát. 3 - Huỳnh Mai: tên một huyện ở Hà Bắc, Trung Quốc. Ngũ Tổ của Thiền tông Trung Hoa là Hoằng Nhẫn đã mở đạo tràng giáo hóa ở đây, trong vô số đệ tử đắc đạo, có Lục Tổ Huệ Năng, sau người ta thường dùng địa danh Huỳnh Mai để chỉ nơi ngũ Tổ truyền đạo cho Lục Tổ Huệ Năng
228 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Dịch nghĩa: Trước sân Thiếu Thất, ngàn trượng mây trắng, đứng lạnh trong tuyết Trong rừng Huỳnh Mai, một vầng trăng sáng, nửa đêm truyền y. Vị trí trung tâm tầng trệt, “tiền Phật hậu Tổ”, phía trước là tôn tượng Phật Bổn Sư hầu hai bên là Văn Thù Bồ tát và Phổ Hiền Bồ Tát; Tam Thánh Tây Phương. Phía sau, là ban thờ chư vị Tổ sư, truyền đạo, lãnh đạo Giáo hội các thời kỳ, chư vị Thánh Tăng Việt Nam, không gian được trang hoàng với ánh sáng, đồ thờ cúng theo đúng phong tục Việt Nam xưa, đầy đủ các ý nghĩa về truyền thừa và dấu ấn đặc trưng của Phật giáo Việt Nam nhiều thế kỷ, đều hội tụ nơi đây, để chứng minh bao Phật sự của chùa Minh Đạo và Giáo hội
+ Theo hai lối cầu thang hai bên trước tầng trệt là Chánh điện: Ban thờ chính là nơi tôn trí tượng Phật Bổn sư Thích Ca, Thất Phật Dược Sư, Bồ tát Quan Âm, Địa Tạng, chấn giữ hai bên cửa là Kim Cang Hộ Pháp, Đại Hồng chung và Đại Trống.
Phường 9 - Chùa Minh Đạo
229
Câu đối: Hán văn: 出火宅作清涼長者隨機緣付囑 越化城登寶所導師開示衆安心 Phiên âm: Xuất hỏa trạch tác thanh lương trưởng giả tùy cơ duyên phó chúc Việt hóa thành đăng bảo sở đạo sư khai thị chúng an tâm Dịch nghĩa: Ra khỏi nhà lửa lớn làm cho mát mẻ, trưởng giả tùy theo cơ duyên mà giao phó Vượt hóa thành lên bảo sở, vị thầy dẫn đường khai thị chúng sanh được an tâm
+ Phía trên là các tầng mái cổ lầu, với ngói đỏ và họa tiết đầu rồng, mang ảnh hưởng Phật giáo thời Lý - Trần. - Lầu hai của chùa là tàng kinh các lưu trữ và trưng bày kinh sách Phật học phục vụ nghiên cứu, tụng niệm với các kinh điển Đại thừa, trong đó có sách kinh được HT.Thích Thiên Nhơn - Trụ trì chùa Minh Đạo - biên soạn và phiên dịch. Ngoài ra chùa còn có khu nhà bếp, trai đường và đặc biệt khu linh đường hiện đại vừa được trùng tu. - Khu vực Tây lang khoảng 73m2: gồm 01 Trệt + 04 lầu. Hòa thượng Thích Thiện Nhơn đã khởi công xây dựng và khánh thành khu Tây lang chùa Minh Đạo với thiết kế hiện đại, đảm bảo điều kiện tu học cho Tăng chúng. + Tầng trệt là giảng đường của Lớp giáo lý chùa Minh Đạo (năm 2019, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn đã quan tâm, giúp đỡ BTS GHPGVN Quận 3, khai trương Văn phòng BTS tại đây) + Các Lầu phía trên là Tăng xá chùa Minh Đạo, là nơi chư Tăng nội viện và khách Tăng cư trú. - Khu vực Hậu viên: diện tích hơn 220m2 nằm phía sau khu Chánh điện, được Hòa thượng Thích Thiện Nhơn cải tạo mở rộng gồm nhà khách, phương trượng, văn phòng, nhà trù. Đây là nơi Hòa thượng tiếp đón các chư Tôn đức, khách quý, các cơ quan, đoàn thể Nhà nước và quốc tế tới đảnh lễ và trao đổi Phật sự. Dưới sự chỉ đạo định hướng của Hòa thượng Viện chủ về ứng dụng
230 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Công nghệ Khoa học trong hoạt động Phật sự, Văn phòng Phật sự Online - cơ quan trực thuộc HĐTS, cập nhật thông tin Phật sự khắp cả nước, đặt trụ sở tại chùa Minh Đạo, có sự tham gia của nhiều Tăng Ni trẻ, Phật tử có chuyên môn nghiệp vụ cao, là đội ngũ tiên phong trong công tác hoằng pháp, hỗ trợ rộng khắp các Tự viện trên toàn quốc. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ - Giáo dục Tăng tài, chí nguyện “Tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”: Với tài năng và đức độ, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn nhận được nhiều cảm tình của Tăng Ni, Phật tử, sự tín nhiệm của Giáo hội và Nhà nước, Ngài một lòng, hết sức với Đạo pháp, với Dân tộc. Hòa thượng đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng trong các cấp Giáo hội từ địa phương Thành phố Hồ Chí Minh cho đến Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam như Phó Trưởng Ban, Chánh Thư ký Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, Ủy viên, Thư ký, Tổng Thư ký, Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương GHPGVN.
Phường 9 - Chùa Minh Đạo
231
Sau khi Đại lão HT.Thích Trí Tịnh viên tịch, HT.Thích Thiện Nhơn trên cương vị Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký HĐTS GHPGVN, đã được Thường trực HĐTS suy cử làm Quyền Chủ tịch HĐTS. Tại Hội nghị kỳ 3 khóa VII, toàn thể Hội nghị thống nhất suy cử Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐTS. Như vậy, HT.Thích Thiện Nhơn làm Chủ tịch Hội đồng Trị sự từ giữa nhiệm kỳ VII (2012 - 2017) cho đến nay. Trong giai đoạn này, có thể nói rằng, guồng máy GHPGVN được vận hành bởi một đội ngũ lãnh đạo tâm huyết và năng lực, điều đáng phấn khởi là chỉ trong một thời gian ngắn dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Chủ tịch và chư Tôn đức các Ban, Ngành, Viện Trung ương và Địa phương, công
tác Phật sự đã đạt được những thành tựu hết sức rực rỡ có tính quyết định đối với sự phát triển của Phật giáo Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Trên nền tảng kế thừa các thế hệ tiền nhiệm, phát triển các hệ thống Tổ chức Giáo hội ngày càng hoàn thiện, ổn định, thống nhất trên các lĩnh vực Hoằng pháp, Giáo dục, Văn hóa Phật giáo, Nghiên cứu Phật học, từ thiện xã hội...Tính đến nay, chúng ta tự hào bởi công tác Tổ chức, thành lập Ban Trị
232 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
sự GHPGVN cấp tỉnh tại 63 tỉnh, Thành phố khắp cả nước, 12 Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài. Tính đến nay trong cả nước đã có hơn 54.000 Tăng Ni tu hành trong 18.500 chùa, do GHPGVN quản lý, điều hành. Đặc biệt, trên mặt hoạt động đối ngoại, thông qua các Hội nghị, Hội thảo quốc tế, đã không ngừng nâng cao vị thế Phật giáo trong lòng dân tộc, trên trường quốc tế...Đây đều là những Phật sự lớn lao, có đóng góp quan trọng của Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Viện chủ chùa Minh Đạo. Cho nên, đạo phong của chùa từng bước lan tỏa theo dấu chân hoằng pháp của Hòa thượng khắp muôn nơi. Bằng hàm dưỡng nội điển và ngoại điển sâu rộng, với kinh
Phường 9 - Chùa Minh Đạo
233
nghiệm là Giáo sư giảng dạy tại các trường Phật học viện khắp cả nước, tác giả của nhiều sách nghiên cứu chuyên sâu Phật học, dịch giả nhiều Kinh điển Đại thừa, với nhiều tham luận trực tiếp, tham luận, ý kiến uy tín góp phần xây dựng hệ thống Giáo dục Phật giáo quy mô, phát triển, chất lượng ngang tầm quốc tế như hiện nay, HT.Thích Thiện Nhơn luôn quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp giáo dục Tăng tài cho Giáo hội. Chùa Minh Đạo là nơi tiếp Tăng độ chúng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Tăng sinh theo học các chương trình Phật học tại TP.HCM như: Trường Cao cấp Phật học nay là Học viện Phật giáo Việt Nam, Trường Trung cấp Phật học,
234 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Lớp Sơ cấp Phật học, Lớp Đào tạo Cao - Trung cấp Giảng sư của Ban Hoằng pháp Trung ương GHPGVN và bậc Đại học, sau Đại học trong Giáo dục quốc dân. Đã có rất nhiều thế hệ học Tăng từ các tỉnh thành xa xôi, với tâm cầu học tha thiết, được Hòa thượng che chở và dắt dìu, đã và đang đóng góp Phật sự tích cực cho Giáo hội các cấp từ Trung ương đến địa phương, trong đó có nhiều vị hiện tiếp tục du học tại các nước trên thế giới. Có thể nói, tuy không có nhiều thời gian trực tiếp giảng dạy trên Giảng đường, nhưng tấm gương tu học, hành đạo của Hòa thượng Viện chủ là động lực cho thế hệ trẻ, tiếp tục dấn thân, “ Tự độ, độ tha - Báo Phật ân đức”. Hiện, trú xứ chùa Minh Đạo có khoảng 20 vị Tăng sĩ đang tu học.
- Tốt đời đẹp đạo, xứng danh “sứ giả Như Lai”:
Chương trình sinh hoạt hằng tháng, hằng năm, lễ hội, sám hối, quy y được thực hiện đều đặn, ngày càng phát triển khởi sắc, linh hoạt, phong phú, nhất là chương trình thuyết giảng Phật pháp và khoá lễ sám hối hằng tháng (14 và 29 âm lịch) vào các ngày lễ hội của Phật giáo và Dân tộc, có đến hằng trăm, cả ngàn Phật tử khắp nơi về tham dự, quy hướng Tam bảo. Đặc biệt, trong các dịp Lễ Phật Đản và Vu Lan, Tết Truyền thống, chùa Minh Đạo được trang hoàng với cổng chào, hoa kiểng, tranh tường cỡ lớn, với đèn hoa, cờ Phật giáo, có giá trị thẩm mỹ, hài hòa truyền thống và hiện đại, gây ấn tượng lớn với quần chúng nhân dân xa gần, tạo duyên lành cho đồng bào quy ngưỡng Tam Bảo, phát tâm tu học. Công tác xã hội của chùa luôn có ý thức gắn liền với trách nhiệm của cơ sở Phật giáo và sinh hoạt đồng bộ từ khu phố đến Phường, Quận, Thành phố và trung ương. Chùa Minh Đạo thực hiện nghiêm túc các chương trình và đường hướng hoạt động của Giáo hội Phật giáo các cấp, nhất là đóng góp cho các mặt công tác từ thiện xã hội với số tiền ước tính lên đến hàng trăm tỷ đồng (từ năm 1964 đến nay). Cụ thể, về hoạt động Phật sự và từ thiện xã hội, mỗi năm chùa Minh Đạo đều Tổ chức hành hương thập tự đầu xuân, cúng dường trường Hạ trong
Phường 9 - Chùa Minh Đạo
235
mùa an cư kiết hạ tại các đạo tràng an cư tập trung và tại chỗ một số chùa ở khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, tặng quà Trung thu cho các học sinh nghèo ngay tại chùa, tạo điều kiện cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn đến lớp nhân ngày tựu trường, phát quà từ thiện cho bà con gặp khó khăn trên địa bàn Phường 9 (Quận 3), xây nhà tình thương - tình nghĩa, xây cầu, phát quà tại Trung tâm dưỡng lão quận Thủ Đức, cúng dường xây dựng các văn phòng Ban Trị sự khắp cả nước, ủng hộ các chương trình hoạt động của Giáo hội, Thành hội, Quận hội cùng một số địa phương, hưởng ứng hỗ trợ “Quỹ vì Trường Sa thân yêu” do chính quyền phát động, ủng hộ lễ ra quân chiến sĩ nhập ngũ, nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam, tổ chức phóng sinh cầu nguyện cho hương linh các anh hùng liệt sĩ được siêu sanh về cảnh giới an lành, kịp thời cứu trợ thiên tai, bão lụt,... THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Minh Đạo, 12/3 Bis Kỳ Đồng, Phường 9, Quận 3, TP.HCM Hệ phái: Bắc tông Điện thoại: 028.3843 9340 Năm thành lập: 1964 Năm trùng tu: 1980, 1997, 2010 Người sáng lập: Cố HT. Thích Minh Thành Người tiền nhiệm: Cố HT. Thích Minh Thành, cố HT. Thích Bửu Chánh Viện chủ: HT. Thích Thiện Nhơn (Chủ tịch HĐTS GHPGVN) Trụ trì đương nhiệm: ĐĐ. Thích Minh Ân TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Diễn văn kỷ niệm 50 năm thành lập chùa Minh Đạo, Quận 3, TP.HCM - Giáo hội Phật giáo Việt Nam 2015: Chùa Việt Nam (tập 1), NXB Tôn giáo: 1161 trang, trang 64 - 65. - Thích Đồng Bổn chủ biên: Tiểu sử Danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX - tập II - Thành hội Phật giáo Hồ Chí Minh ấn hành, - TPHCM
236 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA VIÊN THÔNG Chùa Viên Thông tọa lạc tại số 97/25 Trần Văn Đang, Phường 9, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh LỊCH SỬ HÌNH THÀNH:
G
ốc là chùa làng của dân di cư miền Bắc ở làng Vân Đồn (Hà Nam Ninh). Một người họ Lương hiến một phần đất để xây chùa. Năm 1969, Hòa thượng Thích Thiện Bình thành lập. Trụ trì: trước năm 1975, ĐĐ. Thích Thiện Hải Trụ trì; từ năm 1976 đến 2006: tu sĩ Minh Phú; từ năm 2006 - nay: ĐĐ. Thích Bổn Chơn giám tự. Số lượng tu sĩ: 2 Tỳ kheo tốt nghiệp cử nhân Phật học. Diện tích: 80m2. KIẾN TRÚC: Nhà dân dụng, 1 trệt, 1 lầu, nằm trong một con hẻm nhỏ. -Tầng trệt là Tổ đường, gian giữa là bàn thờ Phật Dược Sư, Bồ Đề Đạt Ma, trên bàn thờ có ảnh thầy Minh Phú; hai bên vách là bàn thờ vong
Phường 9 - Chùa Viên Thông
237
và bàn thờ Bác Hồ. -Tầng 1: ở chánh điện trên cùng là tượng Bổn sư lớn nhất, khoác áo cà sa bằng vải; kế đến là 2 tượng Bổn sư nhỏ hơn; dưới cùng là tượng Phật Đản Sinh. Phía trước bàn thờ là ghế thuyết pháp của vị Trụ trì. - Tầng 2: phía ngoài sân là tượng Tiêu Diện và Hộ Pháp, bên trong là tượng Quan Âm, hai bên là trống, chuông. Phòng bên trong là nơi nghỉ của Trụ trì. Lễ hội: rằm tháng 1, 4, 7 âm lịch. -Có tủ sách kinh Phật và các sách về Phật học, Phật tử có thể thỉnh về đọc. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ: Chùa tích cực tham gia hoạt động từ thiện ở Bệnh viện Ung bướu, Bệnh viện Tâm thần, trại trẻ mồ côi; ở các địa phương như Gia Lai, Ban Mê Thuột, Qui Nhơn, Quảng Bình…được tặng nhiều giấy khen của Phường, Hội Chữ thập đỏ, Mặt trận Tổ quốc Quận 3. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 97/21 Trần Văn Đang, Phường 9, Quận 3 Năm thành lập: 1970 Người sáng lập: HT Thích Thiện Bình Hệ phái: Bắc tông Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: ĐĐ. Thích Thiện Hải, ĐĐ. Thích Minh Phú Quản Tự hiện: Ban Trị sự GHPGVN Q.3 Quản lý
PHƯỜNG 10 1 - CHÙA TRUNG HÒA..........................................233 2 - CHÙA VẠN QUỐC.............................................238
Phường 10 - Chùa Trung Hoà
239
CHÙA TRUNG HÒA Chùa Trung Hòa tọa lạc tại địa chỉ 358/2/15 đường Cách Mạng Tháng Tám, Phường 10, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH
B
an đầu chùa là ngôi niệm Phật đường nhỏ do một tư gia Phật tử kiến lập năm 1963. Đến năm 1965, Phật tử cúng dường niệm Phật đường đến Hòa thượng Thích Thiện Bình. Sau khi về nhận chùa đến năm 1972, Hòa thượng Thích Thiện Bình cho trùng tu lại và đặt tên là chùa Trung Hòa. Năm 1990, chùa được Hòa thượng trùng tu xây dựng trên nền đất cũ. Sau này,
240 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
khi Thượng tọa Thích Minh Khiết Trụ trì đã sửa lại một số công trình phụ nhưng vẫn trên nền kiến trúc trước đó. KIẾN TRÚC Khuôn viên chùa rộng khoảng 500m2, có tháp 3 tầng quay hướng Đông. Kiến trúc chùa được thiết kế theo lối cổ, xây 3 tầng tạo thế kiên cố uy nghiêm. Chùa có ba dãy, nhà dành cho chư Tăng tu, Phật tử tụng kinh học Phật pháp và một dành cho chư Tăng tụng kinh. Các cột hình rồng chạm khắc quấn quanh cột sơn son thếp vàng. Mái ngói lợp âm dương, có những phù điêu trên mái.. Đặc biệt có hai con rồng chầu chính điện tạo thêm vẻ uy nghiêm. Sau cổng Tam quan, bên tả là tôn tượng Bồ Tát Di Lặc, bên hữu là tượng Quán Âm. Mặt tiền của chùa, từ xa có thể chiêm ngưỡng thấy, Phật Thích Ca ở chính giữa, hai bên là hai vị Kim Cang Hộ pháp. * Cổng Tam Quan: mái cong, lợp ngói, đắp hình rồng uốn lượn. Trên cổng có bảng tên chùa bằng chữ quốc ngữ và hai cặp đối được chạm trên nền đá hoa cương. Câu đối 1: 中 觀 理 意 是 融 通 邪 正 和 同 事 身 爲 權 渡 幻 真 Phiên âm: Trung quán lí ý thị dung thông tà chánh. Hòa đồng sự thân vi quyền độ huyễn chân. Dịch nghĩa: Quán xét giữa lí và ý thì thông suốt được tà cùng chánh, Hòa đồng được sự và thân là phương tiện vượt qua chân và giả. Câu đối 2: 佛 境 莊 嚴 佔 人 能 脫 俗 法 明 僧 淨 賢 者 令 超 塵 Phiên âm: Phật cảnh trang nghiêm chiêm nhân năng thoát tục.
Phường 10 - Chùa Trung Hoà
241
Pháp minh Tăng tịnh hiền giả linh siêu trần. Dịch nghĩa: Cảnh Phật trang nghiêm, người ngắm có thể thoát tục. Pháp sáng, Tăng tịnh, khiến người hiền có thể vượt trần. * Tầng trệt: là nơi đặt ban thờ Tổ khai sơn - cố HT. Thích Thiện Bình, được sắp đặt rất nhiều tượng thờ cho Phật tử lễ bái. Phía sau là khách đường và liêu phòng chư Tăng
- Hoành phi 1. 聖僧堂 Thánh Tăng đường 2. 祖印重光 Tổ ấn trùng quang 3. 風調雨順 Phong điều vũ thuận 4. 佛日増輝 Phật nhật tăng huy
242 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
5. 法輪常轉 Pháp luân thường chuyển 6. 國泰民安 Quốc thái dân an 7. 智等一切 Trí đẳng nhất thiết * Chánh điện: chính diện là tôn tượng Phật Thích Ca, hầu hai bên tả hữu là các vị Bồ tát: Quán Âm, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền. Ban thờ phía dưới là 7 tượng Dược Sư và Tam Thánh Tây phương. Ngoài ra còn thiết trí: Tượng thờ Thiên thủ Thiên nhãn, Tổ Đạt Ma, Đại hồng chung và trống hai bên. Trang trí xung quanh tường là những phù điêu cuộc đời đức Phật rất nhiều các bài thơ kệ bằng chữ Việt, nhằm mục đích giúp người đọc chiêm nghiệm đạo lý, tăng thêm hiểu biết. Từ khi Hòa thượng Thích Thiện Bình viên tịch năm 2001, Thượng tọa Thích Minh Khiết Trụ trì cho đến nay. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Rằm tháng Giêng, tháng Tư, tháng Bảy, tháng Mười là các ngày lễ quan trọng của chùa và những ngày húy kỵ của các vị tiền bối 17-5 âm lịch giỗ Hòa thượng Thích Thiện Bình, 11-9 âm lịch giỗ Ni trưởng Thích Nữ Huệ Hòa, 12-11 âm lịch giỗ Hòa thượng Thích Quảng Thiện. Thượng tọa Thích Minh Khiết, Trụ trì chùa Trung Hòa, cho biết chùa có tên Trung Hòa do Hòa thượng Thiện Bình đặt với ý nghĩa “sống phải có sự trung hòa, không cao sang không thấp hèn, làm cái gì mọi người cũng vui vẻ”. Vì thế chùa luôn tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam quận phát động, như cứu trợ đồng bào lũ lụt, phát quà cho những người nghèo, gia đình neo đơn, giúp đỡ những gia đình có người qua đời - thành lập hội chuyên lo việc mai táng. Thượng tọa Thích Minh Khiết kể lại, sau giải phóng các chùa đều rất khó khăn, bà con xung quanh cũng khó khăn, Hòa thượng được Phật tử
Phường 10 - Chùa Trung Hoà
243
thỉnh về ngôi niệm Phật đường nhỏ, lúc đó mọi thứ đã xuống cấp, trời mưa thì dột, để trang nghiêm lại ngôi bảo điện, có nơi cho chư Tăng và Phật tử tu học, Hòa thượng Thiện Bình đã Tổ chức đi tụng đám cho Phật tử xung quanh, để có kinh phí xây dựng ngôi Tam bảo, cộng với một phần tín đồ ủng hộ. Thượng tọa Thích Minh Khiết từ khi Trụ trì tiếp tục duy trì sự nghiệp của Hòa thượng Thiện Bình: nuôi đệ tử và chúng từ các tỉnh về từ Thành phố đi học, hỗ trợ các em sinh viên hiếu học ở các tỉnh nghèo, giúp đỡ những hoàn cảnh gia đình nghèo khó khăn. Hiện nay, ở chùa có 12 vị đang ở chúng để đi học Học viện, Cao Trung Phật học và đại học bên ngoài. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Trung Hòa , 358/2/15 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 10, Quận 3, TP.HCM. Hệ phái: Bắc tông Năm thành lập: 1963 Năm trùng tu: 1990 Trụ trì tiền nhiệm: HT. Thích Thiện Bình (1972- 2001) Trụ trì đương nhiệm: TT. Thích Minh Khiết
244 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA VẠN QUỐC Chùa Vạn Quốc tọa lạc tại số 292/21-23 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 10, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
N
guyên là địa điểm của trường Phước Thiện của ông Hồ Văn Phước. Bà Rousee hiến đất của trường cho Sư bà Diệu Minh (thế danh Võ Phụng Kiều) để lập chùa Vạn Quốc. Năm 1970, Ni trưởng Thích Nữ Như Liên (Hồ Thu Lan) về đây Trụ trì. Cơ sở này nhận nuôi dạy 150 trẻ có hoàn cảnh khó khăn. Chùa Vạn Quốc hiện nay do Ni sư Thích Nữ Như Đức trụ trì từ năm 2012.
Phường 10 - Chùa Vạn Quốc
245
KIẾN TRÚC: Chùa có kiến trúc 2 tầng, 3 mái, có bậc tam cấp dẫn lên Tổ đường. - Sân trước có hòn non bộ, tượng Di Lặc, bàn thờ Cô hồn, cầu thang dẫn lên chánh điện. - Tầng trệt là Tổ đường, có tượng Quan Âm phía trước; gian giữa là bàn thờ Tổ: ảnh Tổ sư Đạt Ma ở trên cùng, bên dưới là ảnh Ni trưởng Như Liên, bên phải là ảnh Sư bà Diệu Minh, bên trái là ảnh Ni trưởng Như Tranh (Trụ trì chùa Huê Lâm 1, Huê Lâm 2). Trên bàn thờ còn có cốt, bài vị, y, bát của cố Ni trưởng Như Liên Hai bên bàn thờ là đôi câu đối: 法力不思議越古起今於一毛端現光佛剎 Phiên âm: Pháp lực bất tư nghị việt cổ khởi kim ư nhất mao đoan hiện quang Phật sát. Dịch nghĩa: Sức mạnh đạo pháp không thể biết hết, vượt từ xưa cho đến nay, trên đầu
246 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
một sợi lông hóa hiện cõi Phật sáng rõ (bên phải) 世間真調御隨機逗教坐微塵裏轉大法輪 Phiên âm: Thế gian chân Điều Ngự tùy cơ đậu giáo tọa vi trần lí chuyển đại pháp luân. Dịch nghĩa: Bậc chân Điều Ngự của thế gian, tùy cơ giáo hóa, ngồi trong hạt bụi mà chuyển bánh xe pháp lớn (bên trái)
Hai bên bàn thờ Tổ là 3 bàn vong. Phía sau nhà Tổ là trai đường. - Tầng 1: bàn thờ trước chánh điện có 7 tượng Dược Sư lớn và 7 tượng Dược Sư nhỏ bằng đá, tượng…bàn thờ ở chánh điện có tượng Bổn sư, Quan Âm với Thiện Tài đồng tử bằng đồng đen, được tô lớp sơn mới, do Bệnh viện Phúc Kiến hiến tặng (hàng đầu); Bổn sư, Quan Âm, Thế Chí (hàng thứ 2). Bên trái chánh điện là bàn thờ Chuẩn Đề với bức tượng rất mỹ thuật. Gần cửa ra vào là bàn thờ Tiêu Diện Đại Sĩ (2 tượng lớn nhỏ) bên phải và tượng Hộ Pháp bên trái. Ngoài sân là tượng Quan Âm cưỡi rồng bằng đá cẩm thạch.
Phường 10 - Chùa Vạn Quốc
247
Lễ hội: Rằm tháng 7 âm lịch; giỗ kỵ Ni trưởng Thích Nữ Như Liên (23/10). Có tủ sách kinh Phật với bộ Đại tạng kinh. Hoạt động Phật sự: chùa tích cực tham gia hoạt động từ thiện, được tặng bằng công đức, giấy khen của Giáo hội, Mặt trận Tổ quốc Quận 3. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 292/21-23 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 10, Quận 3. Hệ phái: Bắc tông. Trụ trì đương nhiệm: Ni sư Thích Nữ Như Đức Năm xây dựng: 1952, ban đầu chùa chỉ lợp tôn, vách ván, nền lót gạch Tàu, mái ngói âm dương. Năm trùng tu: Năm 2005, chùa được trùng tu khang trang, xây cổng tam quan, tường rào bao quanh chùa.
PHƯỜNG 11 1 - CHÙA KHÁNH HƯNG.......................................243 2 - CHÙA HƯNG PHƯỚC .......................................254 3 - CHÙA BÁT NHÃ................................................270 4 - CHÙA VĨNH XƯƠNG........................................274 5 - CHÙA PHƯỚC QUANG.....................................280 6 - CHÙA BỬU LONG.............................................290
Phường 11 - Chùa Khánh Hưng
CHÙA KHÁNH HƯNG Ngôi cổ tự của Phật giáo Quận 3 Chùa tọa lạc tại số 390/8 đường Cách Mạng Tháng Tám, Phường 11, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Đây là ngôi cổ tự hình thành sớm nhất của Quận 3, là nơi ghi dấu hành đạo của HT. Pháp Lan, một cao Tăng thời cận đại, người đã nhiều đóng góp cho công cuộc thống nhất Phật giáo và sự nghiệp Cách mạng xây dựng Đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
N
guyên sơ Chùa do một số Phật tử vùng Hòa Hưng và Khánh Hội kiến lập vào khoảng cuối thế kỷ 18 bằng vật liệu bán kiên cố và đặt ghép tên là chùa Khánh Hưng.
249
250 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Trải qua nhiều thăng trầm, với nhiều tâm nguyện tha thiết của đồng bào Phật tử kiến lập ngôi Tam Bảo dìu dắt Phật tử tu tập, đến năm 1947, Phật tử cung thỉnh HT. Thích Pháp Lan về Trụ trì chùa Khánh Hưng - Tổ khai sơn chùa, một bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Từ đây đèn thiền na tỏ rạng, hương giới đức bay xa, nhờ ơn khai hóa của Tổ sư Pháp Lan, chùa Khánh Hưng dần phát triển ghi dấu vào lịch sử Phật giáo và phong trào Cách mạng miền Nam Việt Nam. Hành trạng của một cao Tăng gắn liền với ngôi cổ tự... Cố Hòa thượng Thích Pháp Lan (1913 - 1994), pháp húy Trừng Tâm, pháp tự Thiện Hảo, thế danh là Lê Hồng Phước, sinh năm Quý Sửu (1913) tại làng Tây An, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ngài xuất thân trong một gia đình đạo đức Nho phong, kính tín Tam bảo. Thân phụ Ngài là cụ ông Lê Chuẩn, mất năm 1928, thân mẫu là cụ bà Đinh Thị Sen, mất năm 1955. Ngay thuở ấu thời, Ngài đã nổi tiếng bởi tư chất thông minh lại hiếu học nên sớm trau dồi tài thơ văn, Nho học. Căn duyên túc kiếp, đến năm 1926, ý chí xuất gia thúc đẩy Ngài ly hương dấn bước vào Nam, lần đến nơi chùa Thiên Thai ở chân núi Dinh Cố - Bà Rịa. Duyên lành đã đến, Ngài được Hòa thượng Huệ Đăng thu nhận làm đệ tử và thế độ xuất gia ban cho pháp danh là Trừng Tâm. Năm ấy, Ngài vừa tròn 14 tuổi. Từ đây Ngài chuyên tâm tu tập theo tông chỉ dòng Thiên Thai Thiền Giáo Tông, dần dần chuyển tâm phát huệ. Năm 21 tuổi, Hòa thượng đăng đàn thọ Cụ túc giới. Năm Canh Thìn 1940, Tổ Huệ Đăng mở trường Phật Học gia giáo để đào tạo Tăng tài phục vụ cho Đạo pháp. Ngài cũng được tham dự cùng với quý pháp hữu lúc ấy như : Hòa thượng chùa Thiên Quang, Hòa thượng chùa Thiên Ân, Hòa thượng chùa Long Thiền (Gò Công), Hòa thượng Minh Nguyệt, Hòa thượng Thiện Hào... và sau đó Ngài tiếp tục theo học 2 năm tại chùa Long An (Chợ Lớn). Với căn bản Nho học vững chắc và đức tính siêng năng cầu tiến, nên Ngài nhanh chóng thâm nhập giáo lý Đại thừa. Vì vậy, đến năm 1945, Ngài đã trở thành một vị Pháp sư nổi tiếng ở các trường Hương, Trường Gia giáo... khắp miền lục tỉnh Nam kỳ.
Phường 11 - Chùa Khánh Hưng
251
Năm Đinh Hợi 1947, vào năm 35 tuổi, Ngài được Phật tử cung thỉnh về Trụ trì chùa Khánh Hưng ở Chí Hòa - Hòa Hưng - Sài Gòn. Tại chính nơi đây, Ngài thành lập trường Gia giáo Sơ-Trung học Lục Hòa Tăng tại bản tự để giảng dạy chư Tăng các nơi về tu học. Trong thời gian này, Ngài một mặt tiếp tục công việc tiếp dẫn hậu lai, một mặt tham gia hoạt động bí mật của Cách mạng chống thực dân Pháp, Ngài được giao phụ trách An ninh Khu 4 - Mỹ Tho và giữ chức vụ Chủ tịch Lực lượng Phật giáo Cách Mạng Sài Gòn - Gia Định. Năm 1953, Ngài được đề cử làm Tổng Thư ký Tăng Đoàn Liên Tông Việt Nam. Năm Quý Mão 1963, Ngài đã cùng chư tôn Giáo phẩm, tham gia trong Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, tích cực đấu tranh chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Ngài nguyên là Vụ trưởng Đoàn Phật tử vụ, thuộc Tổng vụ Cư sĩ và Chánh đại diện Phật giáo tỉnh Gia Định, rồi thành viên Hội đồng Giáo phẩm Viện Hóa Đạo = Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, kiêm Chủ tịch Tổng Đoàn Thanh niên Tăng Ni Việt Nam. Năm Kỷ Dậu 1969, được tin Hồ Chủ tịch qua đời ở miền Bắc Việt Nam, Ngài đã làm 2 câu đối và Tổ chức lễ truy điệu tại ngay chùa Khánh Hưng: 南北全民歸上正 Nam Bắc toàn dân quy thượng chánh 亞歐世界敬鬚眉 Á Âu thế giới kính tu mi Từ năm 1970 tới 1975 Ngài đảm nhận chức vụ Cố vấn Ủy ban cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam. Chủ tịch Ủy ban Phật giáo vận động phóng thích tù nhân. Trước yêu cầu của lịch sử, Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước ra đời vào ngày 7-8-1975, tại chùa Xá Lợi (Quận 3), một hội nghị Phật giáo với sự tham gia của chư tôn đức từ 10 tổ chức, hệ phái hình thành nên Ban Liên
252 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
lạc Phật giáo têu nước TP.HCM do HT.Thích Minh Nguyệt, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng TP.HCM làm Chủ tịch. Trụ sở của Ban lúc đầu đặt tại chùa Xá Lợi (Quận 3), một năm sau được dời về chùa Vĩnh Nghiêm (Q.3) đã gánh vác sứ mệnh đoàn kết tập hợp Tăng Ni, Phật tử tại Thành phố giữa những khó khăn và nhiều thách thức cả trong lẫn ngoài, từng bước kết nối các Tổ chức Giáo hội, là nơi gặp gỡ của các vị tôn túc lãnh đạo các Giáo hội, tạo tiền đề cho cuộc Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam. Có công, có lòng với Cách mạng cho nên HT. Thích Pháp Lan tích cực tham gia phong trào vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam, và kiêm các chức vụ như : Trưởng ban Liên lạc Phật giáo yêu nước Quận 31 ; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh chỉ duy trì trong 5 năm, nhưng lại giữ trọng trách chuyển giao quan trọng, nơi quy tụ của các vị tôn túc lãnh đạo Giáo hội, là trái tim của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tư tưởng phụng sự Đạo pháp và Dân tộc, hòa hợp trong giới luật, gắn bó với dân tộc, với sự nghiệp cách mạng bảo vệ đất nước của 1 - Các thành viên của Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước Quận 3 gồm có: HT. Pháp Lan, TT. Thiện Đức và ĐĐ. Như Hiệp.
Phường 11 - Chùa Khánh Hưng
253
các Hòa thượng lãnh đạo là tôn chỉ và định hướng của GHPGVN và Tăng Ni cả nước ngày nay. Sau năm 1981, Phật giáo cả nước được thống nhất, HT. Thích Pháp Lan được suy cử làm Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong 2 nhiệm kỳ (1981-1992). Sau đó đảm nhận Phó ban Trị sự Thành hội Phật giáo trong 3 nhiệm kỳ (1982 - 1998), Ngài kiêm Trưởng ban Kiểm Tăng. Năm 1992, tại Đại hội kỳ 3, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ngài được suy tôn làm thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến ngày viên tịch. Đối với đất nước, Ngài được mời tham gia Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh 2 nhiệm kỳ (1986 - 1993) để góp phần cùng các hội đoàn, các giới xây dựng đất nước phồn vinh, độc lập. Vào những năm cuối đời, tuy tuổi già sức yếu nhưng Ngài vẫn đóng góp cho đạo cho đời bằng tất cả tâm nguyện vô ngã vị tha : giảng dạy Tăng Ni Phật tử, chứng minh các khóa an cư kiết Hạ và trùng tu ngôi Tam bảo Khánh Hưng thêm trang nghiêm, tú lệ. Sau khi Hòa thượng viên tịch, Thượng tọa Thích Thiện Tâm kế thừa Trụ trì Chùa Khánh Hưng. KIẾN TRÚC MỸ THUẬT Với tài thi phú và uyên thâm Nho học, Hòa thượng Pháp Lan đã kiến thiết chùa Khánh Hưng trang nghiêm với nhiều hoành phi câu đối nhiều giá trị, gắn với nhiều ý nghĩa là chứng tích lịch sử. Khu tăng bảo tháp phía sau chùa Cổng vào Chánh văn: 衛伽藍而清淨 護佛法以長存 Phiên âm: Vệ già lam nhi thanh tịnh Hộ Phật pháp dĩ trường tồn (Câu đối của HT. Thích Thiện Siêu (1921-2001), Trụ trì chùa Từ Đàm, Huế)
254 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Tăng Bảo tháp 僧寶塔 và các mặt 寶花開上品 Bửu hoa khai thượng phẩm 塔禦衆中尊 Tháp ngự chúng trung tôn 和光三界内 Hòa quang tam giới nội 尚證一乘門 Thượng chứng nhất thừa môn 同居而不染 Đồng cư nhi bất nhiễm 蓮出在沅中 Liên xuất tại nguyên trung 脫塵眞上士 Thoát trần chân thượng sĩ 離俗是豪雄 Ly tục thị hào hung Hai bài kệ trên bình phong trước Tăng bảo tháp 澄神定性觀如来 Trừng thần định tánh quán như lai 心地光明大辨才 Tâm địa quang minh đại biện tài 法法融和皆佛法 Pháp pháp dung hòa giai Phật pháp 籣圓馥燠上蓮臺 Lan viên phúc úc thượng liên đài2 生前為佛使 Sanh tiền vi Phật sử 沒後作佛規 Một hậu tác Phật quy 娑婆缘化?3 Ta bà duyên hóa ? 極樂見阿彌 Cực lạc kiến A Di Nhà hậu Tổ phía sau Cửa vào nhà hậu Tổ , Thiền Đường 禅堂 Phật quang phổ chiếu 佛光普照 Chánh văn: 隹善根心正神明 持心凈安樂百姓 Phiên âm: Duy thiện căn tâm chánh thần minh Trì tâm tịnh an lạc bách tính Tạm dịch: 2 - Bài kệ được viết dựa trên thạch bản trước tăng bảo tháp và tư liệu. Xem thêm “Hòa thượng Thích Pháp Lan”, http://cusi.free.fr/lsp/danhtvn/danhtang2-giaidoan6-65.htm, ngày 7/10/2017. 3 - Tại bản đá, không xác định được do chữ khắc không rõ nét.
Phường 11 - Chùa Khánh Hưng
255
Gìn gốc lành tâm liền sáng suốt Giữ lòng thanh trăm họ yên vui Hoành phi: 紹隆聖種 - Thiệu Long Thánh Chúng Câu đối bàn thờ hậu Tổ - Thích Pháp Lan Chánh văn: 祖印重光法寶宣楊和唱尊稱功教品 師燈續燄籣花馥郁尚同讚歎德高僧 Hán văn: Tổ ấn trùng quang pháp bảo tuyên dương hòa xướng tôn xưng công giáo phẩm Sư đăng tục diễm lan hoa phức úc thượng đồng tán thán đức cao Tăng Bài vị hòa thượng Thích Pháp Lan: Chánh văn: 慶興堂上嗣济上正宗四十二世諱登心上法下籣𥡚紅福和尚覺靈 元生癸丑年享壽八十二歲 辞甲戌年正月二十日丑時天寂 Phiên âm: KHÁNH HƯNG ĐƯỜNG THƯỢNG TỰ TẾ THƯỢNG CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NHỊ THẾ HÚY ĐĂNG TÂM THƯỢNG PHÁP HẠ LAN LÊ HỒNG PHƯỚC HÒA THƯỢNG GIÁC LINH. NGUYÊN SANH QUÝ SỬU HƯỞNG THỌ BÁT THẬP NHỊ TUẾ TỪ GIÁP TUẤT NIÊN CHÁNH NGOẠT NHỊ THẬP NHẬT SỬU THỜI THIÊN TỊCH Tạm dịch: Hòa Thượng Thích Pháp Lan, tên húy Đăng Tâm, thế danh Lê Hồng Phước, thuộc đời thứ 42 dòng Tế Thượng Chánh Tông (một trong ba loại thuộc Lâm Tế). Hòa thượng sanh năm Quý Sửu 1913, hưởng thọ 82 tuổi, mất giờ Sửu, ngày 20 tháng Giêng năm Giáp Tuất 1994. Bài kệ của Hòa thượng Thích Pháp Lan: 基趾襌家 Cơ chỉ thiền gia 往来慈善 Vãng lai từ thiện 無私論辦 Vô tư luận biện
256 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
談説道諦 Đàm thuyết đạo đế 從覺捨迷 Tùng giác xả mê 了明真理 Liễu minh chơn lý 出塵上士 Xuất trần thượng sĩ 解脱娑婆 Giải thoát ta bà 治國齊家 Trị quốc tề gia 正心爲本 Chánh tâm vi bản 慶4興寺和尚釋法蘭敬筆 Khánh Hưng tự Hòa thượng Thích Pháp Lan kính bút (lạc khoản) Câu đối bàn thờ Bác Hồ: 南北全民歸上正 Nam Bắc toàn dân quy thượng chánh 亞歐世界敬鬚眉 Á Âu thế giới kính tu mi Nhà Tổ: phía trước thờ Đạt Ma Sư Tổ và bài vị các Tổ sư Số 1 Chánh văn: 三界尊師大智慧聖中之聖 四生慈父是至尊天上之天 Phiên âm: Tam giới tôn sư đại trí huệ Thánh trung chi Thánh Tứ sanh từ phụ thị chí tôn thiên thượng chi thiên Số 2: Chánh văn: 佛慈無量無邊人有緣佛化 道學惟精惟一天不負道心 Phiên âm: Phật từ vô lượng vô biên nhân hữu duyên Phật hóa Đạo học duy tinh duy nhất thiên bất phân đạo tâm Ngoài ra còn có bàn thờ các tiền bối, Phật tử hữu công. Câu đối: 4 - Tại chùa, chữ Khánh viết theo lối dị thể, không có bộ quảng 广
Phường 11 - Chùa Khánh Hưng
257
祖業绵長普在子孫多福德 宗風永振置存門族得平安 Phiên âm: Tổ nghiệp miên trường phổ tại tử tôn đa phúc đức Tông phong vĩnh chấn trí tồn môn tộc đắc bình an Chánh điện lầu 1 Hoành phi: 大雄寳殿 ĐẠI HÙNG BẢO ĐIỆN Câu đối 1: 䢜佛道禮佛身誦佛經持佛號佛佛有誠皆有𢦡 從法門受法派聽法音亘法語法法無量亦無边 Phiên âm: Quy Phật đạo lễ Phật thân tụng Phật kinh trì Phật hiệu Phật Phật hữu thành giai hữu cảm Tùng pháp môn thụ pháp phái thinh pháp âm tuyên pháp ngữ pháp pháp vô lượng diệc vô biên
258 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Tạm dịch: Theo đạo Phật, lạy Phật, tụng kinh, tưởng nhớ Phật, Phật là có thật và có tất cả Theo pháp Phật, lãnh phái, nghe thuyết, nói chơn lý, Pháp rộng không đo không đếm Câu đối 2 Chánh văn: 佛法長興但願國家垂萬古 道場永盛仰祈檀越享千秋 Phiên âm: Phật pháp trường hưng đản nguyện quốc gia thùy vạn cổ Đạo trường vĩnh thịnh ngưỡng kỳ đàn việt hưởng thiên thu Tạm dịch: Đạo Phật lâu bền, cầu cho nước nhà được muôn tuổi Nơi tu mãi lớn, chúc cho Phật tử hưởng ngàn năm Câu đối 3: Chánh văn:
Phường 11 - Chùa Khánh Hưng
259
示現色身開極樂出迷途世界咸稱大覺 宣揚教法轉娑婆䢜凈土寰球共仰慈尊 Phiên âm: Thị hiện sắc thân khai cực lạc xuất mê đồ thế giới hàm xưng đại giác Tuyên dương giáo pháp chuyển ta bà quy tịnh độ hoàn cầu cung ngưỡng từ tôn
Tạm dịch: Xem thấy cảnh sắc màu, mở cửa cực lạc, rời bến mê, chứng tỏ là bậc đại giác Thúc dục lời Phật dạy, đổi cảnh trần, về tịnh độ, toàn cầu kính trọng Bổn sư
Câu đối 4 Chánh văn: 暮皼經聲警醒愛河名利客 晨鐘偈語喚迴苦海夢迷人 Phiên âm: Mộ cổ kinh thinh cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách Thần chung kệ ngữ hoán hồi khổ khải giác mê nhân Tạm dịch: Trống chiều kinh vọng, thức tỉnh kẻ trần ham điều tục Chuông sớm kệ vang, kêu gọi người đời biết khổ mê THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Khánh Hưng, 390/8 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 11, Quận 3 Điện thoại: 028.3846 5685 Năm thành lập: 1900 Người sáng lập: HT. Thích Pháp Lan Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1948, 1950, 1991 Đặc điểm: Chùa cổ, dí tích sử Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: HT Thích Pháp Lan(1948-1994) Trụ trì hiện nay: Thượng tọa Thích Thiện Tâm
260 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA HƯNG PHƯỚC Chùa được xây dựng vào năm 1967, tọa lạc tại số 540/23, Cách Mạng Tháng 8, Phường 11, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh. Chùa do quân nhân thuộc Sư đoàn dù của chế độ Việt Nam Cộng Hòa tạo lập, để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của người lính nói riêng và của những người dân tại địa phương nói chung. Vì điều kiện khó khăn của thời chiến nên chùa chỉ được xây dựng với kiến trúc thật đơn giản. CHIẾC CẦU TÂM LINH…
S
au năm 1975, Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước Quận 3 đã tiếp nhận và phân công Đại đức Thích Thiện Nghị về chùa để chăm lo và hướng dẫn Phật tử tại địa phương lễ bái tung niệm.
Phường 11 - Chùa Hưng Phước
261
Đại đức Thiện Nghị trụ tại chùa được 4 năm sau đó xuất ngoại đi định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1980, TT.Thích Thiện Năng được cử về để thay thầy Thiện Nghị điều hành Phật sự. Năm 1990, Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 thỉnh Hòa thượng Thích Hiển Pháp - lúc bấy giờ Ngài giữ chức Phó Tổng Thư ký kiêm Chánh Văn phòng 2 Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam về Trụ trì chùa Hưng Phước để phát triển ngôi già-lam cũng như tiếp Tăng độ chúng. KIẾN TRÚC Năm 1999, do chùa xuống cấp nghiêm trọng, chánh điện bị dột khi mùa mưa xuống, mặc dầu tài chính rất là khó khăn nhưng Hòa thượng đã tiến hành đặt đá trùng tu phần chánh điện. Trải qua gần 2 năm xây dựng, với sự đóng góp công sức nhiệt tình của Phật tử trong và ngoài nước, phần chánh điện được hoàn thành tốt đẹp. Một năm sau, tức năm 2002, Hòa thượng lại tiếp tục xây dựng lại
262 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Đông và Tây lang, để tạo điều kiện cho chư Tăng ở các nơi về sinh hoạt tu tập, học hành tại các trường Phật học. Năm 2003, phần Đông và Tây lang cũng đã được trùng tu khang trang và rộng rãi. Để lại cho hậu thế ngôi chùa Hưng Phước với kiến trúc trang nghiêm, bề thế với diện tích không quá lớn nhưng được thiết kế đầy đủ, vừa đảm bảo mỹ thuật Phật giáo vừa đáp ứng yêu cầu thừa hành Phật sự rộng khắp. Phía sau cổng Tam quan là khoảng sân rộng, là nơi thường xuyên
Phường 11 - Chùa Hưng Phước
263
Tổ chức các sự kiện tập trung của chùa. Chính diện là khu điện thờ chính oai nghiêm, với 1 trệt và 1 tầng lầu, cổ lầu: * Tầng trệt: trang trí kết hợp vừa truyền thống vừa hiện đại: + Tại cửa vào, trên có hoành phi 興 福寺(Hưng Phước Tự) , phía tường ngoài là phù điêu các vị Kim cang Hộ pháp uy nghi, chấn giữ ngôi Tam Bảo, phía sau 2 bên tả hữu là 2 lối cầu thang dẫn lên Chánh điện. + Giảng đường chính: Ngay cửa chính là ban thờ chỉ an vị duy nhất tôn tượng Phật Thích Ca bằng đá trong tư thế ngồi tĩnh tọa tay bắt ấn xúc địa, phía sau là khu giảng đường chính được thiết trí rất thoáng đãng, với mục đích phục vụ chúng sanh, tập trung cho giáo dục, nên giảng đường được lắp đặt âm thanh kết nối toàn chùa, có hệ thống cửa, hài hòa với ánh sáng, hướng sự chú tâm về khán đài trung tâm nơi có Long vị, tượng sáp của cố Hòa thượng Thích Hiển Pháp. Mỗi khi có khóa tu hoặc sự kiện lớn, Giảng đường được linh động bố trí đủ cho hơn 200 người tham dự. Phía sau của Giảng đường là khu nhà trù ( khu bếp và vệ sinh) cách biệt bằng một hành lang rộng ngăn cách Tây lang. Câu đối: 佛教二千餘年史道理清髙 越南廿五兆同胞心魂醒覺 Phiên âm: Phật giáo nhị thiên dư niên sử đạo lí thanh cao. Việt Nam trấp ngũ triệu đồng bào tâm hồn tỉnh giác.
264 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Dịch nghĩa: Phật giáo hơn hai ngàn năm lịch sử, đạo lí vẫn thanh cao. Việt Nam hai mươi lăm triệu đồng bào, tâm hồn luôn tỉnh giác. * Lầu 1: Theo lối cầu thang 2 bên tả hữu sẽ dẫn lên chánh điện. Phía bên ngoài Chánh điện, hai bên là tượng Hộ Pháp Kim Cang và Tiêu Diện Đại Sĩ đặt âm tường, các cột có đắp câu đối bằng xi măng Cặp câu đối 1: 梵宇廣開善友邇遐皆萃聚 禪門嚴淨檀那内外總歸依 Phiên âm: Phạm vũ quảng khai, thiện hữu nhĩ hà giai tụy tụ. Thiền môn nghiêm tịnh, đàn na nội ngoại Tổng quy y . Dịch nghĩa: Chùa chiền rộng mở, bạn lành gần xa đều tụ hội. Cửa thiền nghiêm tịnh, đàn na trong ngoài thảy quy y. Cặp câu đối 2: 法界遙聞朝鐘暮鼓消塵夢 天人敬仰慧筏慈航救苦淪 Phiên âm: Pháp giới dao văn, triêu chung mộ cổ tiêu trần mộng. Thiên nhân kính ngưỡng, huệ phiệt từ hàng cứu khổ luân. Dịch nghĩa: Pháp giới xa nghe, sớm chuông tối trống đánh tan mọi mộng mị cõi trần. Trời người kính ngưỡng, bè tuệ thuyền từ cứu vớt chúng sinh khỏi làn sóng khổ đau. Với đặc thù văn hóa chùa Nam Bộ, Chánh điện chùa Hưng Phước được bài trí theo lối “ tiền Phật hậu Tổ”, chính diện là ban thờ Tam Bảo với tôn tượng Thích Ca Mâu Ni Phật cao 4,7m tư thế thiền định trên tòa sen đắp vàng, hai bên là Bồ tát Địa Tạng và Quán Âm Với thiết kế trần cao, tạo không gian thông thoáng và bề thế, xung quanh tường điện Phật là các bức phù điêu về lược sử đức Phật Thích Ca từ Đản sanh đến nhập Niết bàn, các cột có mỹ thuật rồng cuốn, sơn son thếp vàng.
Phường 11 - Chùa Hưng Phước
265
Hoành phi câu đối, liễn Chánh điện: Hoành phi: 容慈德萬 Vạn Đức Từ Dung Câu đối: 興福起連薹臺威靈光普照佛德慈恩大海高山難可比 覺黃安寶座真俗諦圓容金經玊偈法音天樂共交和 Phiên âm: Hưng Phước khởi liên đài oai linh quang phổ chiếu Phật đức từ ân đại hải cao sơn nan khả tỷ Giác hoàng an bảo tọa chân tục đế viên dung kim kinh ngọc kệ pháp âm thiên nhạc cộng giao hòa Dịch nghĩa: Hưng Phước dựng đài sen, sức oai quang rộng chiếu, Phật đức ân từ biển cả, non cao không thể sánh kịp, Thế Tôn ngồi tòa báu, chân, tục đế tròn thông. Kinh vàng kệ ngọc tiếng pháp nhạc trời cùng giao hưởng. Chuông Đại hồng và gác Trống thiết đặt 2 bên lối cửa chính.
266 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Hậu Tổ phía sau thiết trí ban thờ tượng Tổ Đạt Ma long vị và tôn ảnh các đời Trụ trì. Đặc biệt, sàn Chánh điện được mở rộng kết nối với Đông lang và Tây lang, làm không gian trở nên rộng rãi hơn, kết hợp với tiểu cảnh cây, hoa, non bộ, thác nước, chuông gió,... và thiết trí các tôn tượng với mỹ thuật hiện đại, tạo cảm giác gần gũi, trang nghiêm thiền vị. Sự tinh tế của quý Thầy khi tăng không gian mở, tận dụng khí trời, gió tự nhiên, với nhiều ánh sáng, giúp Phật tử chiêm bái chùa có được tinh thần thư giãn và những giờ phút tĩnh tâm thực sự, sau những ồn ào của cuộc sống thành thị.
Các khu thờ xung quanh chánh điện kể trên gồm: khu phòng thờ Hải hội Dược Sư, Thiên Thủ Thiên Nhãn, tượng Quán Tự tại Bồ tát, Quan Âm Các, Địa Tạng Bồ tát, Vãng sinh đường và tháp thờ. Hoành phi câu đối tại nhà Tổ: 流長脉道 Đạo mạch trường lưu
Phường 11 - Chùa Hưng Phước
267
Câu đối: 祖印朗西乾拈花開微笑衣鉢傳承直悟真心成正覺 禪宗輝東渡携棒示玄機師生契合頓超妄念薘圓通 Phiên âm: Tổ ấn lãng tây càn niêm hoa khai vi tiếu y bát truyền thừa trực ngộ chơn tâm thành chánh giác, Thiền tông huy đông độ hề bổng thị huyền cơ sư sinh khế hợp đốn siêu vọng niệm đạt viên thông. Dịch nghĩa: Tổ ấn rạng trời Tây, đưa hoa mỉm nụ cười giao lại y bát chỉ thẳng chơn tâm thành Phật quả, Thiền tông sáng Trung Hoa giơ gậy chỉ huyền cơ thầy trò thầm hiểu vượt ra vọng niệm chứng viên thông. Câu đối tại Quán Âm Các Hán văn: 淨圡往生似風帆行於順水 餘門學道如蟻子上登高山 Phiên âm: Tịnh độ vãng sinh tự phong phàm hành ư thuận thủy. Dư môn học đạo như nghĩ tử thượng đăng cao sơn. Dịch nghĩa: Tịnh độ vãng sinh tựa như thuyền buồm đi trên nước thuận. Nương vào pháp môn khác để học đạo giống như kiến bò lên núi cao. Đông lang và Tây lang được khánh thành năm 2013, gồm các phòng
268 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
chức năng cho điều hành Phật sự và Tăng xá, vị trí hai bên tả hữu của Chánh điện, hướng từ cổng Tam quan vào bao gồm : Phòng phát hành Kinh sách, Văn phòng chùa, Khách phòng, Trai đường, Dãy Tăng xá (tầng lửng). Dưới sự che chở của cố Hòa thượng Thích Hiển Pháp, học Tăng từ các vùng quê xa tỉnh lẻ được tạm trú tu học tại các trường Phật học tại TP. Hồ Chí Minh, liên tục nhiều năm, biết bao thế hệ Tăng tài đã trưởng thành từ mái chùa Hưng Phước, đang tham gia đóng góp Phật sự tại khắp mọi vùng miền. DUY TRÌ MẠNG MẠCH PHẬT PHÁP, LỢI LẠC NHÂN SANH Hiện tại, chùa có khoảng 20 vị Tăng đang tạm trú tu học các trường Phật học tại TP.Hồ Chí Minh, trong đó, có nhiều vị có học hàm tiến sĩ, thạc sĩ, tham gia giảng dạy các cấp học của Giáo hội, đều là những học Tăng xuất phát từ Lớp Sơ cấp Phật học Quận 3. Từ năm 1997, chùa là điểm Tổ chức An cư kiết hạ cho chư Tăng các nơi về tu học trong 3 tháng, quy tụ đông đảo hành giả về tấn tu đạo nghiệp, một trong các trường hạ uy tín
Phường 11 - Chùa Hưng Phước
269
của Quận 3 với Phật giáo Thành phố. Giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn, chùa đã mở lớp tình thương dành cho các trẻ em có điều kiện học tập, chu cấp toàn bộ chi phí, với những trường hợp đặc biệt, nhận được sự quan tâm, chu đáo của chư Tăng ban Trụ trì. Đây là những việc làm đầy khó khăn, nhưng hết sức ý nghĩa, nhận được sự ủng hộ của lãnh đạo chính quyền địa phương. Hằng tháng hai kỳ sám hối cũng trên 200 Phật tử về lễ Phật tung kinh. Bên cạnh đó, nơi đây có lớp học giáo lý với hơn 300 người tham dự. Nội dung rất đa dạng như: Thiền Vipassana, Nghi lễ, Kinh Trung Bộ,... Lớp giáo lý tại chùa có số lượng học viên và chất lượng giảng dạy được Giáo hội Thành phố đánh giá rất cao, luôn là điển hình của Phật giáo Quận 3 trong các phong trào học Phật và từ thiện xã hội, tạo nhiều chuyển biến trong đời sống cộng đồng. Ngoài ra, chùa cũng tổ chức 2 kỳ thọ Bát quan trai cho hơn 80 Phật tử về tu tập vào 2 ngày mồng 8 và 23 âm lịch mỗi tháng. Song song là Đạo tràng hộ niệm cũng được hình thành để các Phật tử học hỏi nghi thức tụng niệm và chia sẻ với nhau khi các thành viên trong Hội đau yếu hoặc qua đời. Ngoài ra, chùa còn có Ban Hộ trì Chánh pháp, Đoàn từ thiện hoạt động mạnh. Ban Hộ trì Chánh Pháp và Đoàn từ thiện chùa Hưng Phước từ khi thành lập đến nay, dưới sự trực tiếp hướng dẫn của chư Tôn đức, hàng năm đã thực hiện nhiều hoạt động thuộc các mảng an sinh xã hội, cứu trợ thiên tai, cúng dường xây dựng chùa, ấn tống,...thu hút rất nhiều Phật tử và mạnh thường quân tham gia, giá trị tịnh tài, tịnh vật lên đến hàng tỷ đồng mỗi năm. Dưới sự điều hành của cố Hòa thượng Thích Hiển Pháp, chùa Hưng Phước từng bước phát triển mạnh mẽ, góp phần vào việc duy trì mạng mạch Phật pháp, lợi lạc nhân sanh. Sau khi cố Hòa thượng viên tịch, các chư Tôn đức pháp tử đã thừa kế sự nghiệp hoằng pháp hết sức tốt đẹp, Thượng tọa Trụ trì Thích Minh Nghĩa cùng các vị Phó Trụ trì, có sự phân công quản lý và trực tiếp dẫn dắt các đạo tràng, Tổ chức, tuy có nhiều đặc thù riêng về hoạt động, số lượng Phật tử thành viên đông, nhu cầu Phật
270 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
sự lớn, quý Thầy lại đa đoan nhiều Phật sự của Giáo hội các cấp, nhưng bằng sự đồng hạnh đồng nguyện, bằng sự nghiêm trì Giới luật và đặt mục tiêu phụng sự chúng sanh lên trên hết, mọi hoạt động Phật sự tại chùa vẫn hết sức hài hòa, có sự uyển chuyển, đa dạng, tạo động lực cho Phật tử noi gương, không khí tu học của Phật tử chùa Hưng Phước luôn tràn đầy hỷ lạc và không ngừng phát triển. Để các hoạt động Phật sự được hanh thông, chùa cập nhật thông tin, hình ảnh trong các chương trình Phật sự trên trang thông tin điện tử chùa Hưng Phước: www.chuahungphuoc.vn , cập nhật nhanh chóng và đầy đủ các chương trình Phật sự, ngoài ra còn có các mục kinh sách với nhiều kinh sách đa dạng thể loại, giải đáp thắc mắc, đáp ứng nhu cầu xã hội, thể hiện năng lực điều hành, quản lý ngoại vụ của chư Tăng bên cạnh tham học nội điển Phật học. Chùa Hưng Phước là đơn vị đi đầu trong việc áp dụng Hành chính điện tử theo tinh thần của Giáo hôi đang thực hiện trên địa bàn quận nhà. DẤU ẤN CỦA MỘT CAO TĂNG Sinh thời, chùa Hưng Phước là nơi lưu giữ nhiều hành trạng của cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Pháp - Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN, bậc long tượng của Phật giáo Việt Nam với nhiều công đức to lớn cho sự nghiệp phát triển bền vững của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Pháp, thế danh Từ Văn Ngưu, tên thường dùng Trần Như Ngọc, sinh năm 1933 (Qúy Dậu) tại xã Tân Thanh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Trưởng lão
Phường 11 - Chùa Hưng Phước
271
Hòa thượng là con thứ trong gia đình có 4 anh chị em; thân phụ là cụ ông Từ Thế Nhạn, cụ bà là Phan Thị Kim, từ nhỏ đã ở chùa Mỹ Thành, xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre do bà nội làm Trụ trì. Năm 10 tuổi (1943), Trưởng lão Hòa thượng xuất gia với Tổ Khánh Thông1. Năm 1951, Trưởng lão Hòa thượng đăng đàn thọ giới Sa-di tại chùa Bạch Liên, Mỹ Tho. Năm 1953, Trưởng lão Hòa thượng đăng đàn thọ giới Cụ túc tại chùa Pháp Liên, Long An.
Thời kỳ hành đạo và tham gia Cách mạng Trưởng lão Hòa thượng đã được gia đình giáo dục tinh thần yêu nước nên Ngài đã sớm ủng hộ Cách mạng, tích cực tham gia hoạt động bí mật và công khai trong lòng chế độ Sài Gòn, ủng hộ phong trào cách mạng bằng tinh thần Bồ-tát, bằng chính trái tim và tâm hồn của người dân nước Việt. 1 - Tổ Khánh Thông: pháp húy Như Tín, thuộc Thiền phái Lâm Tế gia phổ đời thứ 39. Sau khi Tổ Khánh Thông viên tịch, HT. Hiển Pháp cầu pháp với Hòa thượng Vĩnh Huệ - pháp húy Hồng Phước, được ban pháp hiệu là Nhựt Sáng, thuộc Thiền pháii Lâm Tế gia phổ đời thứ 41
272 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Từ năm 1951 đến 1975 Trưởng lão Hòa thượng đảm nhận chức vụ Trụ trì chùa An Phước, tỉnh Bến Tre, Thư ký Chi hội Tăng già Nam Việt huyện Ba Tri; theo học Phật pháp tại Phật học đường Nam Việt - Chùa Ấn Quang, tỉnh Chợ Lớn, tham dự khóa huấn luyện Trụ trì tại chùa Pháp Hội, tỉnh Chợ Lớn (nay là quận 10, TP.Hồ Chí Minh), cũng như theo học thế học và tốt nghiệp tú tài toàn phần. Từ đây, với sự thâm nhập Phật pháp và am tường thế học, với lòng yêu nước và trách nhiệm của một công dân đối với Tổ quốc, Hòa thượng đã được Cách mạng và Giáo hội tin tưởng, trao nhiều trọng trách tại nhiều địa phương, Hòa thượng nguyên là: Trụ trì chùa Phật học - Biên Hòa, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất tỉnh Kiến Hòa2 , Tổng Thư ký Giáo hội Tăng già Nam Việt tỉnh Bến Tre; bổ nhiệm làm Giám đốc kiêm Giáo thọ sư Phật học đường Viên Minh, Hiệu trưởng Trường tư thục Bồ Đề tỉnh Bến Tre, Trụ trì chùa Viên Minh; tham gia thuyết giảng Phật pháp tại Tham gia thuyết giảng Phật pháp tại hầu hết các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ,tham gia Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo đòi bình đẳng tôn giáo, bị chế độ Ngô Đình Diệm bắt giam tại Sài Gòn. Năm 1969 - 1971, Trưởng lão Hòa thượng được suy cử Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất tỉnh Sa Đéc. Tại đây, Hòa thượng thành lập trường tư thục Bồ Đề. Năm 1972 - 1975, Tổ chức cách mạng và Giáo hội điều động Trưởng lão Hòa thượng từ Sa Đéc về Sài Gòn đảm nhận nhiệm vụ mới. Ngài được suy cử Chánh Đại diện GHPGVNTN quận 2, Tổng vụ Cư sĩ, Tổng Thư ký Tổng Vụ xã hội, Vụ trưởng Hội đoàn chuyên nghiệp Phật tử để trực tiếp và lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng yêu nước trong đô thành Sài Gòn. Với Cách mạng: Hòa thượng nguyên là Thư ký Công đoàn giải phóng 2 - nay là tỉnh Bến Tre
Phường 11 - Chùa Hưng Phước
273
thị xã Bến Tre, làm Cố vấn Tổ chức nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris, Cố vấn Ủy ban bảo vệ quyền lợi người lao động. Trưởng lão Hòa thượng thành lập Mặt trận Nhân dân cứu đói do Ngài làm Chủ tịch để trực tiếp đấu tranh với chế độ Sài Gòn. Mặt trận Nhân dân cứu đói là một lực lượng mạnh có mặt đều khắp các tỉnh, thành miền Nam bấy giờ. Từ năm 1976 - 2002: Hòa thượng là Đại biểu Quốc hội khóa VI, XI, nguyên là thành viên Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, Chủ nhiệm Hợp tác xã Hoa Sen để tạo công ăn việc làm cho Tăng Ni và quần chúng, tạo uy tín rất lớn với lãnh đạo chính quyền. Hòa thượng nguyên là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP.Hồ Chí Minh. Sau khi Giáo Hội Phật giáo Việt Nam ra đời (năm 1981), Hòa thượng được suy cử nhiều vị trí quan trọng qua nhiều nhiệm kỳ như: nguyên Phó Trưởng Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương, nguyên Trưởng Ban Phật giáo quốc tế Trung ương, Trưởng Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương , nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Tổng Thư ký - Chánh Văn phòng II Trung ương Giáo hội, Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, Trưởng lão Hòa thượng được Đại hội suy tôn ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh,.
274 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Đặc biệt, Trưởng lão Hòa thượng đã thừa đương Phật sự, Trụ trì: chùa Pháp Hải, chùa Long Nguyên (quận 6); Thiền viện Quảng Đức (Văn phòng II Trung ương Giáo hội), chùa Hưng Phước (Quận 3); chùa Quảng Hương (quận 1); chùa Huyền Trang (quận Gò Vấp); chùa Viên Minh, chùa Pháp Thanh (tỉnh Bến Tre). Khi thừa đương Phật sự tại từng trú xứ, Trưởng lão Hòa thượng đều trùng tu, tôn tạo để các trú xứ đều là chốn phạm vũ trang nghiêm tại nhân gian. Ngài đã thí giới khai tâm cho nhiều thế hệ Tăng Ni hậu học, làm Đường đầu Hòa thượng truyền trao giới pháp cho hàng ngàn giới tử tại Đại giới đàn tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, An Giang, Cà Mau và Bình Dương, cũng như chứng minh, ban đạo từ cho hầu hết các lễ hội, khóa học, sự kiện quan trọng của các cấp Giáo hội từ trung ương đến địa phương; Dù ở vị trí, cương vị nào, Trưởng lão Hòa thượng luôn nhận được tình cảm kính trọng đặc biệt của Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước, cũng như cộng đồng xã hội. Với công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp Cách mạng, phụng sự Đạo pháp và dân tộc, Trưởng lão Hòa thượng được Trung ương Giáo hội và Nhà nước đã trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như:
Phường 11 - Chùa Hưng Phước
275
Bằng Tuyên dương công đức của Trung ương GHPGVN, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Đại đoàn kết toàn dân tộc; Và nhiều phần thưởng cao quý khác của Trung ương Giáo hội và Nhà nước. Sau khi cố Hòa thượng Thích Hiển Pháp viên tịch (năm 2018), đệ tử của Ngài là ĐĐ. Thích Minh Nghĩa kế đăng Trụ trì chùa Hưng Phước, giữ gìn sinh hoạt Phật sự3. THÔNG TIN LIÊN LẠC Chùa Hưng Phước, Hệ phái: Bắc tông Địa chỉ: 540/23 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 11, Quận 3, TP.HCM Năm thành lập: 1967 Năm trùng tu: 1999, 2003 Trụ trì tiền nhiệm: HT. Thích Hiển Pháp, ĐĐ. Thích Thiện Nghị, TT. Thích Thiện Năng. Trụ trì đương nhiệm: TT. Thích Minh Nghĩa Website: chuahungphuoc.vn
3 - Nội dung tham khảo, trích lược từ website chuahungphuoc.vn , cập nhật tháng 1 năm 2018
276 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA BÁT NHÃ Chùa được xây dựng vào năm 1946, tọa lạc tại số 205/18 Trần Văn Đang, Phường 11, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh. Tên gọi: Chùa Bát Nhã, dân gian gọi là chùa Thầy Tư. Địa chỉ: 205/18 Trần Văn Đang, Phường 11, Quận 3. Năm xây dựng: 1946 do Cố Hòa thượng Thích Hồng Thành xây dựng. Năm 2003, chùa được TT. Thích Minh Thiện xây mới lại khang trang, đến năm 2007 thì hoàn thành. Trụ trì: Thượng tọa Thích Minh Thiện Trụ trì từ năm 1993. KIẾN TRÚC:
C
hùa có kiến trúc 3 tầng, với Tổng diện tích: 418m2. * Tầng trệt: Phía ngoài cổng chùa là ban thờ Quán Âm lộ thiên, dưới cây Bồ đề, đáp ứng sự cầu nguyện của người dân, trên cổng chùa đắp phù điêu Phật sơ sinh, mặt tiền trang trí nhiều mẫu hoa văn hiện đại, bước vào khu vực tầng trệt của chùa, với không gian mở, khu vực tiếp lễ có trưng bày một số vật phẩm Phật giáo. Điểm độc
Phường 11 - Chùa Bát Nhã
277
đáo của chùa là cầu thang được mở cả 2 bên, dẫn lên các tầng. Phía sau khu thờ phụng là các tầng Tăng xá và nhà bếp. * Lầu 1 - Khách đường, phía đối diện, qua lối đi cầu thang có thiết đặt một ban thờ Bồ tát Quán Âm, tượng trưng cho sự lắng nghe bằng Bi và Trí. * Lầu 2 - Giảng đường: Trên ban thờ là tôn tượng tam Thánh: Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, là nơi thuyết giảng và sinh hoạt của Phật tử đạo tràng của chùa. * Lầu 3 - Chánh điện: Theo hai lối cầu thang dẫn lên là hai phù điêu Tiêu diện Đại sĩ và Hộ pháp Vi Đà, đắp nổi thếp vàng, phía trên là phù điêu Tam tôn Phật, Bồ tát biểu trưng cho Phật pháp như chiếc thuyền cứu độ, tiếp dẫn chúng sanh khỏi biển sanh tử. Phía dưới, ngoài ban công là chuông đại hồng, nằm chính giữa, hàng ngày vang tiếng, là phương tiện thức tỉnh bao người. Chính diện của trung tâm Chánh điện, là tôn tượng Phật Thích Ca bằng chất liệu đồng nặng 1 tấn ngồi dưới cây Bồ đề trong tư thế thiền định, đúc năm 2003, thứ cấp là bộ tượng “Tam Thánh Tây phương”- Phật Di Đà, Bồ tát Quán Âm, Đại Thế Chí. Trang trí các cột trụ là họa tiết “Long chầu Phượng múa” sơn son thếp vàng, theo lối văn hóa cung đình xưa. Phía trước là lư hương đồng cỡ lớn và án thờ, tạo không gian linh thiêng và thông thoáng. Xung quanh tường là các phù điêu mô tả cuộc đời đức Phật. Hậu Tổ: ban thờ Tổ Đạt Ma cùng di ảnh thờ cố HT.Thích Hồng Thành - Tổ khai sơn chùa; cố HT.Thích Thiện Phát (Bổn sư của TT. Thích Minh Thiện).
278 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
*Sân thượng có tháp Phật Di Đà, trong tư thế đứng, cao hơn 2m, với phần mái che đài lục giác ở trên, phối cảnh với nhiều chậu cây cảnh, phía đại hồng chung nặng và Trống. Điểm nhấn trong kiến trúc của chùa là các họa tiết điêu khắc: tượng, phù điêu, hòn giả sơn, lư đỉnh, chuông, trống, đồ tự khí, đèn…và trang trí: bao lam, hoa văn, trang trí gỗ, chạm trổ, sơn thếp, tranh, đề tài (hoa maichim sẻ, trúc-én, sen-vịt, mẫu đơn-trĩ, nho-sóc, dưa-chuột…) được làm khá cầu kì, tinh xảo, với mỹ thuật màu sắc thể hiện sự tinh tế và đạt được cảm ứng nghệ thuật, khắc phục được bởi không gian chùa khá khiêm tốn. Chùa còn lưu giữ nhiều câu đối, thơ văn, sách cổ… Lễ hội: 8/1 âm lịch lễ cầu an đầu năm, 18/1 đàn Dược Sư, lễ Phật đản, 18/7 âm lịch lễ Vu lan (Dâng y), 8/11 âm lịch lễ Húy kỵ Hòa thượng khai sơn Thích Hồng Thành. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ: Sau khi kế thừa sự nghiệp của Thầy Tổ, Thượng tọa Minh Thiện tiếp tục phát huy công hạnh, tích cực hoạt động Phật sự, Tổ chức, hướng dẫn đạo tràng tu học, sinh hoạt Giáo hội, hiện Thượng tọa là Trưởng Ban
Phường 11 - Chùa Bát Nhã
279
Nghi lễ GHPGVN Quận 3. Chùa là điểm nương tựa cho nhiều gia đình Phật tử quanh vùng, Thượng tọa Minh Thiện hướng dẫn đạo tràng luôn đi đầu và hình mẫu tích cực trong mọi hoạt động của địa phương, nhận được sự đồng thuận lớn của các cấp chính quyền trong các Tổ chức Phật sự của chùa. Chùa rất tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, được tặng bằng công đức, giấy khen của Giáo hội, Mặt trận Tổ quốc Quận 3. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 205/18 Trần Văn Đang, Phường 11, Quận 3 Điện thoại: 028.3931 5178 Năm thành lập: 1946 Người sáng lập: HT. Thích Hồng Thành Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1994, 2003 Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: HT Thích Hồng Thành(1946-1993) Trụ trì hiện nay: Thượng tọa Thích Minh Thiện Các ngày kỵ giỗ trong năm: 8-11 giỗ HT. Thích Hồng Thành
280 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA VĨNH XƯƠNG Chùa được xây dựng vào năm 1952, tọa lạc tại 179 Trần Văn Đang, Phường 12, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
C
hùa Vĩnh Xương thành lập từ năm 1952 do Hòa thượng Thích Đạo Thành khai sơn, ban đầu chỉ là ngôi thảo am, tranh lá đơn sơ để Hòa thượng có chỗ tu tập, dạy nghề võ và bào chế thuốc đông y trị bệnh cho bá tánh. Năm 1973, do ngôi Tam bảo xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nhu cầu tu học của tín đồ Phật tử, nên chùa được xây dựng lại theo hình thức bán kiên cố, lúc này chùa vẫn chưa có lầu. Đến năm 1996, Ni sư Nhựt Thành đã cho sửa lại với hình dáng như hiện tại, chánh điện, nhà Tổ, nhà cốt được đưa lên lầu 2. Và cho tới nay
Phường 11 - Chùa Vĩnh Xương
281
chùa vẫn chưa được xây dựng lại hoàn chỉnh. Trụ trì hiện nay là Ni sư Thích Nữ Nhựt Thành (thường gọi là Thích Nữ Như Yến). Từ lúc 9 tháng tuổi, Ni sư đã vào chùa, được Hòa thượng Thích Đạo Thành và Ni sư Thích Nữ Hạnh Trí nuôi dạy. Hòa thượng Đạo Thành từng tham gia cách mạng - kháng chiến chống Pháp từ năm 1945-1954, vào thời điểm này Hòa thượng từng giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến xã Vĩnh Hữu, huyện Hòa Đông, tỉnh Gò Công - nay là huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Không tập kết ra Bắc, Hòa thượng lên Sài Gòn năm 1956, rồi lập am Thảo Sen, tu thân tích đức. Năm 1973, ngôi Thảo Sen chính thức trở thành chùa Vĩnh Xương, nơi đây cũng chính là cơ sở nuôi giấu che chở cán bộ cách mạng. Năm 1986, Hòa thượng viên tịch, Ni sư Thích Nữ Hạnh Trí thay thế đảm nhiệm Trụ trì chùa Vĩnh Xương cho đến năm 1990 thì viên tịch. Ni sư Nhựt Thành kế thừa từ đó cho đến nay. KIẾN TRÚC MỸ THUẬT Cổng tam quan của chùa nằm trên đường Trần Văn Đang. Cổng xây gạch, không mái, trên có các tháp đèn sơn vàng. Đỉnh mái còn có đắp hình hai con rồng chầu bánh xe pháp luân. Trên cổng có bảng tên chùa bằng chữ quốc ngữ. Sau cổng là một khoảng sân nhỏ. Bên phải sân có Ngũ Hành Miếu,. bên trái sân là cầu thang dẫn lên tầng trên. Trước tầng trệt chùa lại đặt một bảng tên chùa bằng chữ quốc ngữ. Phía trước có hai cột đắp rồng sơn vàng. Bên trong cánh phải là bàn tiếp khách và lối vào các liêu phòng. Cuối gian có một bàn thờ đặt di ảnh của cố Ni trưởng Thích Nữ Hạnh Trí. Hai bên bàn thờ treo câu đối. Hán văn: 永振禪家報補四恩功至重 昌明道業栽培三寶德尤深 Phiên âm:
282 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Vĩnh chấn Thiền gia, báo bổ tứ ân công chí trọng. Xương minh đạo nghiệp, tài bồi Tam bảo đức vưu thâm. Dịch nghĩa: Làm cho nhà Thiền luôn được hưng thịnh, đền đáp bốn ân công rất lớn. Khiến cho đạo nghiệp xương minh, vun bồi Tam bảo đức rất sâu.
Tầng trên là Chánh điện và Tổ đường. Bên phải cửa vào Chánh điện có một chuông, trên chuông có các chữ thường gặp. Bàn thờ chính đặt tượng Phật Thích Ca, hai bên là tượng Bồ Tát Quan Âm và Bồ Tát Địa Tạng. Phía trên bàn thờ là hoành phi đắp xi măng cẩn gốm 大圓滿覺 Đại viên mãn giác (Sự giác ngộ tròn đầy). Bao quanh bàn thờ là bốn cột đắp rồng cẩn sứ khá cầu kỳ.Hai bên vách tường nối giữa Chánh điện và Tổ đường là câu đối chữ Hán. Hán văn: 永報四恩功至重
Phường 11 - Chùa Vĩnh Xương
283
昌明三寶德于深 Phiên âm: Vĩnh báo tứ ân công chí trọng. Xương minh tam bảo đức vu thâm. Dịch nghĩa: Mãi đền đáp bốn ơn công rất lớn. Làm cho Tam bảo xương minh đức rất sâu. Sau Tổ đường đặt di ảnh của Tổ sư Đạt Ma và long vị của cố Ni trưởng Thích Nữ Hạnh Trí.
HOẠT ĐỘNG AN SINH XÃ HỘI Tiếp nối những hạnh nguyện của cố Hòa thượng khai sơn chùa Vĩnh Xương, Ni sư Thích Nữ Nhựt Thành khởi xướng và điều hành, các chương trình từ thiện, nhân đạo xã hội, san sẻ yêu thương cho những mảnh đời còn khó khăn, thiếu thốn. Đầu tiên hết, đó là chương trình “Bếp ăn tình thương” hoạt động
284 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
từ năm 2003, đến nay đã không còn xa lạ đối với người nghèo. Cứ như thường lệ, đều đặn mỗi ngày tại chùa Vĩnh Xương, hàng nghìn suất cơm được chuẩn bị sẵn để sẻ chia với những mảnh đời bất hạnh ở Bệnh viện Ung Bướu, Bệnh viện Gia Định, Bệnh viện Bình Dân, Bệnh viện Mắt, Bệnh viện quận 8. Lòng từ bi, bố thí không còn vang đều trong lời kinh câu kệ mà nó đi thực vào cuộc sống, nơi những mảnh đời cần ánh sáng từ trái tim lan tới bằng hành động thiết thực. Theo lời kể của Ni sư, ngoài việc sớm chiều bên chuông mõ, kinh kệ, các hoạt động thiện nguyện là một phần không thể thiếu trong cuộc hành trình thực hành Chánh pháp. Những bệnh nhân nghèo, những người già neo đơn, trẻ em bị bỏ rơi là những hình ảnh khiến Ni sư day dứt và trăn trở. Vì thế, Ni sư quyết tâm trở thành điểm tựa cho những mảnh đời đó, một cách đầy trân trọng. Trước đó, vào ngày 12-9-2001, được sự cho phép của chính quyền địa phương, chùa Vĩnh Xương, mà đứng đầu là Ni sư Thích Nữ Nhựt Thành đã kết hợp với Hội Người cao tuổi Phường 11, Quận 3 thành lập Ban trợ táng cho những người nghèo, cũng như những người nằm trong hội của chùa. Với tinh thần cùng nhân dân thực hiện nếp sống văn minh trong việc Tổ chức tang lễ, hoạt động của Ban trợ táng như mở ra một cách nhìn mới về phương thức Tổ chức tang lễ vừa tiết kiệm, giảm chi phí. Từ 2001 đến 2020, Ban trợ táng đã Tổ chức lễ tang cho hơn 1990 hội viên, nhận được nhiều sự tín nhiệm của người dân trong vùng. Hiện có khoảng hơn 1.600 hội viên đang tham gia.. Từ năm 2008, với chương trình “Tháng gạo nghĩa tình” hằng tháng Ni sư tặng 10kg gạo đến 50 cụ già tại địa phương. Bằng tình thương, bằng sự tận tâm tiếp nối công việc thiện nguyện, Ni sư cũng thường xuyên tổ chức đoàn bác sĩ thiện nguyện mổ mắt đem ánh sáng lại cho người mù nghèo bị đục thủy tinh thể, khám chữa bệnh phát thuốc cho đồng bào nghèo vùng sâu vùng xa, xây dựng cầu đường, cất nhà tình thương, tặng xe lăn cho người khuyết tật để họ có điều kiện hòa nhập cuộc sống, Tổ chức cứu trợ mỗi khi thiên tai, bão lũ ở cả ba miền Bắc,
Phường 11 - Chùa Vĩnh Xương
285
Trung, Nam - khơi nguồn cho ánh sáng Phật pháp lan tỏa khắp nơi. Không chỉ làm công tác từ thiện, Ni sư còn tham gia tích cực các hoạt động xã hội tại địa phương - là Trưởng ban Từ thiện xã hội GHPGVN Q.3, Ủy viên Ban chấp hành Hội phụ nữ Q.3, Ủy viên Ban chấp Hành Hội chữ Thập đỏ Q.3, Trưởng ban Trợ táng Hội Người cao tuổi Q.3, Ủy viên MTTQVN… Dù ở vai trò nào, Ni sư đều hoàn thành tốt công việc được giao phó, được cộng đồng và đông đảo Phật tử biết đến, kính trọng và yêu mến. Với những đóng góp đầy ý nghĩa của Ni sư và chùa Vĩnh Xương trong hoạt động từ thiện, đã vinh dự được các cấp chính quyền từ địa phương đến trung ương tặng nhiều bằng khen và kỷ niệm chương cao quý. Đặc biệt, vào ngày 8-5-2015, Ni sư đã vinh dự đón nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ vì thành tích trong công tác thiện từ năm 2009 đến 2013, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó không chỉ là vinh dự của Ni sư, của ngôi chùa ấm áp tình người, mà còn là niềm tự hào lớn lao cho những người Phật tử. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Vĩnh Xương, 179 Trần Văn Đang, Phường 12, Quận 3. Điện thoại: 028.3931 7756 Năm thành lập: 1952 Người sáng lập: HT Thích Đạo Thành Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1973, 1991, 1993, 1996 Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: HT Thích Đạo Thành, NS TN Hạnh Trí Trụ trì hiện nay: Ni sư Thích Nữ Nhựt Thành Website: http://www.chuavinhxuong.com
286 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA PHƯỚC QUANG Chùa được xây dựng vào năm 1964, Chùa Phước Quang tọa lạc tại 159/39 Trần Văn Đang, Phường11, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ CHÙA PHƯỚC QUANG
C
hùa Phước Quang tọa lạc tại 159/39 Trần Văn Đang, P.11, Q.3, Tp. HCM, ĐT: 028 38840233. Người khởi xướng ngôi thiền tự là Phật tử Nguyên Cầm, tên thật là Hoàng Văn Xúc1. Trước khi được chính thức thành lập, chùa được xây cất bằng vật liệu gỗ thô sơ bên bờ kinh Nhiêu Lộc - Thị Nghè. Đến năm 1964, sau khi Đại đức Thích Thiện Từ từ miền Trung vào Sài Gòn hành đạo đã có công lớn trong việc hình thành chùa. Từ sau khi được thành lập vào năm 1964 đến nay, chùa có hai đời Trụ trì là HT.Thích Thiện Trì (1964-2008) và ĐĐ. Thích Quảng Thắng2 (2017- đến nay). Chùa có diện tích 10m x 30 m. Chùa có 5 nhà sư đang cư trú và hành đạo.
1 - Niên giám Giáo hội Việt Nam, NXB Tôn giáo, 2000, tr. 328. 2 - ĐĐ.Thích Quảng Thắng cũng đảm nhiệm Phó Trưởng Ban nghi lễ Giáo hội Phật giáo Quận 3.
Phường 11 - Chùa Phước Quang
287
KIẾN TRÚC CHÙA Chùa Phước Quang đã được trùng tu qua các năm 1977, 1981, 1995. Sau khi trùng tu năm 1995, kiến trúc chùa hiện có diện mạo như ngày nay. Chùa bao gồm các không gian Nhà Tổ (tầng trệt), Chánh điện (lầu), khu Tăng xá, bếp. Cổng tam quan của chùa có kiến trúc đơn giản với tấm biển chữ quốc ngữ lớn CHÙA PHƯỚC QUANG ở giữa cùng hàng câu đối có nguồn gốc thời nhà Lý (xem phần hoành phi, liễn đối về sau). Điểm nổi bật trong kiến trúc là việc xây dựng chùa cùng lối đắp câu đối, họa tiết hoa, rồng kiên cố trên nền bê tông, hoa sen và rồng là những tiểu tiết tiêu biểu. Trước chùa, ngoài Quan Âm Điện, một tượng Quan Âm lộ thiên được đặt trên cao hướng ra dòng kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè làm nổi bật cho vị trí của ngôi chùa. SỰ THỜ PHỤNG Trong khuôn viên trước chùa có bày trí Quan Âm Điện 觀音殿 đối diện với bàn thờ lộ thiên gồm tượng Phật Di Lặc kết hợp với hình ảnh biểu trưng cho các tín ngưỡng phổ biến như Ngũ Hành và Quan Công còn lưu lại. Nhà thờ Tổ tại tầng trệt có tôn trí Phật Chuẩn Đề trông ra cửa chính, cũng là nơi thờ Bồ Đề Đạt Ma và Hòa thượng Thích Thiền Trì. Nhà Tổ cũng là nơi dành cho các dịp sự kiện trọng thể.
288 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Chánh điện của chùa là nơi uy nghi và vững chắc hơn hết với những họa tiết trang trí, sự tích nhà Phật được đắp nổi trên tường. Nơi đây tôn thờ Phật Thích Ca, gồm Thích Ca Sơ Sinh và Thích Ca kết ấn Quán Âm cùng Văn Thù Sư Lợi cưỡi thanh sư, Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi bạch tượng. Bên trái là Quán Thế Âm Bồ Tát, bên phải là Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn cùng có các Thiên vương hộ vệ. Bàn thờ cũng nổi bật với tượng bảy vị Phật Dược Sư với bảy màu sắc ngọc. Xung quanh vách trần của chánh điện được trang trí các tấm phù điêu mạ sắc vàng: Văn Thù cưỡi sư tử, Phổ Hiền cưỡi đại tượng trên cuốn thư; sự tích về cuộc đời Phật Thích Ca bao gồm Thích ca Đản sinh, Thích ca dạo thành, Thích Ca Thành đạo và Thích Ca nhập Niết Bàn. Mặt trước nơi chánh điện còn có Tiêu Diện Điện 蕉面殿 và Hộ Pháp Điện 護法殿 HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Mỗi năm, chùa Phước Quang Tổ chức những ngày lễ vía theo truyền thống Phật giáo. Các lễ bao gồm: Lễ Phật Dược Sư vào Rằm tháng Giêng, Lễ Phật Đản vào tháng 4 và Lễ Vu Lan vào tháng 7. Các lễ truyền thống
Phường 11 - Chùa Phước Quang
289
đều có sự tham gia của các Phật tử ở địa phương. Tuy chùa Phước Quang không hình thành ban từ thiện, nhưng vào các dịp Vía Quan Âm trong năm, bao gồm Đản sanh Quán Thế Âm 19/2 â.l , Quán Thế Âm thành đạo 19/6 â.l và Quán Thế Âm xuất gia 19/9 â.l, có sự hiện diện đông đảo Phật tử địa phương. Với quan điểm thực hành hạnh Bồ tát, sau các khóa lễ tụng kinh, các Phật tử cùng nhà chùa làm cơm chay để đải quan khách và phát nhiều phần quà cho những người nghèo. Công tác này được thực hiện trong ba ngày lễ Quán Thế Âm trong năm. Hoành phi, liễn đối Hán Nôm Câu đối cổng chùa có nguồn gốc từ nền Phật giáo thời Lý Chính văn: 粹竹黄華非外境 白雲明月露全眞 Phiên âm: Túy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân3 Tạm dịch: Trúc xanh hoa vàng không chỉ sắc Mây trắng trăng trong biết chân như. Câu đối cửa vào bên trong bàn thờ Tổ tầng trệt Chính văn: 福積慧興道在世能弘淨院千秋增鞏固 光明普照果由因而起禅門萬古永莊嚴 Phiên âm: Phước tích tuệ hưng đạo tại thế năng hoằng tịnh viện thiên thu tăng củng cố Quang minh phổ chiếu quả do nhân nhi khởi thiền môn vạn cổ vĩnh trang nghiêm
Tạm dịch: Phước chứa trí đầy đạo ở đời siêng mở rộng làm chùa chiền ngàn năm thêm bền vững Phật pháp soi sáng quả do nhân mà có cửa nhà chùa mãi mãi trang nghiêm 3 - Câu đối có nguồn gốc từ câu trả lời của Thiền Lão, đời thứ 6 của phái Vô Ngôn Thông, với vua nhà Lý. Một hôm, Vua Lý Thái Tông, niên hiệu Thông Thụy (1034-1038), đến thăm chùa Trùng Minh, núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du, hỏi Thiền Lão: Hằng ngày hòa thượng làm gì? và nhận được câu trả lời như trên.
290 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Ngoài ra còn có câu đối bằng chữ quốc ngữ: Đi đến cửa chùa đem lòng hỷ xả Bước vào cảnh Phật tỏ dạ từ bi Câu đối bàn thờ Tổ ở tầng trệt Câu đối 1: Hoành phi: TỔ ẤN TRÙNG QUANG 祖印重光 Chính văn: 眼藏傳持萬世流芳光祖印 心燈點綴千秋續焰顯宗風 Phiên âm: Nhãn tạng truyền trì vạn thế lưu phương quang Tổ ấn Tâm đăng điểm xuyết thiên thu tục diễm hiển tông phong Tạm dịch: Chánh pháp truyền giữ ngàn năm mãi thơm dấu ấn sáng lạng của chư Tổ Đèn tâm tô điểm muôn thu lửa truyền làm rạng rỡ đạo nhà
Phường 11 - Chùa Phước Quang
291
Câu đối 2 Chính văn: 發達榮華戒德皆由心命好 盈餘蓄積生財只在富豐彊 Phiên âm: Phát đạt vinh hoa giới đức giai do tâm mệnh hảo Doanh dư súc tích sanh tài chỉ tại phú phong cương Tạm dịch: Cái đức được giàu sang phú quý do nơi lòng tốt trong buổi sống Cái tài có của tiền dư chỉ tại nơi đầy đặn và cang cường Câu đối 3 được viết lối năm 1928 được giải thích là mang tinh thần Nho giáo Chính văn: 惟善為寳持身宜省楚書言 積德勝金處世當遵司馬訓 Phiên âm: Duy thiện vi bảo trì thân nghi tỉnh sở thư tín Tích đức thắng kim xử thế đương tuân ty mã huấn Tạm dịch: Làm lành là quý, lưu thân vào sử sách Đức quý hơn vàng, hành xử ở đời như giữ cương ngựa Câu đối ở chánh điện lầu 1 Câu đối 1 Chính văn: 七七年教法宣揚無量無邊無數刧 萬萬古衆生化導大雄大力大慈悲 Phiên âm: Thất thất niên giáo pháp tuyên dương vô lượng vô biên vô số kiếp Vạn vạn cổ chúng sanh hóa đạo đại hùng đại lực đại từ bi Tạm dịch: Giáo pháp bốn mươi năm quảng bá không lường hết Chúng sanh vạn vạn đời dạy dỗ vô cùng lớn
292 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Câu đối 2 Chính văn: 光明寶地八德池中蓮華九品阿彌陀佛 福智嚴身三十二相弘開解脫釋迦如來 Phiên âm: Quang minh bảo địa bát đức trì trung liên hoa cửu phẩm A Di Đà Phật Phước trí nghiêm thân tam thập nhị tướng hoằng khai giải thoát Thích Ca Như Lai
Tạm dịch: Đất quý sáng ngời, ao bát đức4 bên trong có chín phẩm sen Phật A-di-đà Thân nghiêm phước trí, ba mươi tướng tốt mở đạo giải thoát có Thích ca Như lai.
Câu đối 3 Chính văn: 佛性圓融湛若虚空芒芒莫測 法身照耀炳如慧日燁燁無窮 Phiên âm: Phật tánh viên dung trạm nhược hư không mang mang mạc trắc 4 - Bát đức: tám yếu tố, phẩm hạnh tốt đẹp.
Phường 11 - Chùa Phước Quang
293
Pháp thân chiếu diệu bỉnh như tuệ nhật diệp diệp vô cùng Tạm dịch: Tánh Phật đầy đủ tràn ngập cõi không rộng lớn không thấu hết, Chân như thấu đáo sáng tỏ thì trí tuệ ngày ngày chói lọi vô ngần. Câu đối bàn thờ Hộ Pháp Chính văn: 開化三洲興客用 罹邪輪正護道塲 Phiên âm: Khai hóa tam châu hưng khách dụng Ly tà luân chánh hộ đạo tràng Tạm dịch: Mở cửa ba châu nhiều khách dụng Trừ tà bảo chánh giúp đạo tràng Câu đối bàn thờ Tiêu diện đại sĩ Chính văn: 鐵圍照破驚惶怖 燄口雷轟是面然 Phiên âm: Thiết vi chiếu phá kinh hoàng bố Diệm khẩu lôi oanh thị Diện Nhiên5 Tạm dịch: Thành sắt phá tan thêm kinh khủng Miệng lửa bùng sấm hiện mặt mày Các bậc tôn đức tiêu biểu Tại tầng trệt, bàn thờ Tổ có tôn chân dung và bài vị của hòa thượng Thích Thiện Trì, người khai sơn cho ngôi chùa Phước Quang. Bài vị: 嗣臨濟正宗四十四世開山福光寺諱源釋字上善下持號印會黎公和尙 蓮座 5 - Cũng thường phổ biến câu: Kích kim chiếu phá kinh hoàng bố - Diệm khẩu lôi oanh thị Diện Nhiên
294 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
出世辛巳年住世六十八歲 圓寂茂子年九月初九日戌時 Phiên âm: Từ Lâm Tế chánh tông tứ thập tứ thế khai sơn Phước Quang Tự húy Nguyên Thích tự thượng Thiện hạ Trì hiệu Ấn Hội Lê Công hòa thượng liên tọa. Xuất thế Tân Tỵ niên trụ thế lục thập bát tuế Viên tịch Mậu Tý niên cửu nguyệt sơ cửu nhật tuất thời Tạm dịch: Hòa thượng Thích Thiện Trì, khai sơn chùa Phước Quang, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 44, tên húy là Nguyên Thích, pháp hiệu Ấn Hội. Hòa thượng sanh năm Tân Tỵ (1941), hưởng thọ 68 tuổi, mất vào giờ Tuất, ngày 9 tháng 9 năm Mậu Tý (2008). Thượng tọa Nguyên Thích là một trong những đệ tử đắc pháp của thiền sư Thích Hưng Từ (1911-1991)6. Hòa thượng Thích Hưng Từ có thế 6 - Thượng các vị để tử này có pháp danh chữ Đồng, pháp tự chữ Thông, pháp hiệu chữ Ấn.
Phường 11 - Chùa Phước Quang
295
danh Bùi Vạn Anh, đời 42 dòng Lâm Tế chánh tông, phái Nguyên Thiều, có ảnh hưởng đến việc truyền bá Phật pháp ở vùng Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận. Giai đoạn1963-1964, Hòa Thượng lãnh đạo phong trào đấu tranh bảo vệ Phật giáo và dân tộc Tỉnh Bình Tuy (Hàm Tân). THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Phước Quang, 159/39 Trần Văn Đang, Phường 12, Quận 3. Điện thoại: 028.3884 0233 Năm thành lập: 1964 Người sáng lập: Phật tử Nguyên Cầm (Hoàng Văn Xúc) Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1977, 1981, 1995 Trụ trì tiền nhiệm: HT Thích Thiện Trì Trụ trì hiện nay: Đại đức Thích Quảng Thắng Các ngày lễ lớn trong năm: Rằm tháng giêng, lễ Phật đản, Rằm tháng bảy, 10, Giỗ HT. Thiện Trì.
296 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA BỬU LONG Được thành lập vào năm 1952, Chùa Bửu Long tọa lạc tại số 219/7 Trần Văn Đang, Phường 11, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ CHÙA BỬU LONG
C
hùa Bửu Long được thành lập năm 1952, do Sư bà Thích Nữ Tâm Hương tạo dựng. Tổng diện tích 247,37 m2 , là nơi lễ bái cầu nguyện, hướng dẫn sinh hoạt Phật giáo trong
vùng. Năm 1980, Sư Bà Tâm Hương viên tịch, được sự ủy thác, Hòa thượng Thích Tâm Tấn thừa kế và quản lý ngôi chùa, tiếp tục hướng dẫn Phật tử tu học. Năm 2009, Giáo hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh chính thức bổ nhiệm Hòa
Phường 11 - Chùa Bửu Long
297
thượng Thích Tâm Tấn là Trụ trì chùa Bửu Long. Xưa chùa nằm trong con ngõ nhỏ, khi Quận 3 tiến hành cải trang đô thị, mặt tiền chùa Bửu Long được đưa ra trước đường Trần Văn Đang, với vị trí thuận lợi hơn cho nhiều Phật sự. Hòa thượng Trụ trì Thích Tâm Tấn với chí nguyện hoằng pháp, đã vận động Phật tử xa gần tiến hành trùng tu lại ngôi Tam Bảo cho được trang nghiêm hơn, tạo không gian đáp ứng sinh hoạt thường xuyên của Đạo tràng tu học. KIẾN TRÚC Chùa Bửu Long hiện đang trong quá trình trùng tu lại, với thiết kế 1 tấng trệt, 1 lửng, 2 tầng lầu, với kinh phí trên 10 tỷ đồng, xây dựng trên 10 năm. Bàn thờ Tam Bảo tạm thời được thiết trí ngay chính giữa tầng trệt, phía sau là bàn thờ Tổ.
298 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Tuy đang trong giai đoạn trùng tu, nhưng Hòa thượng vẫn điều hành Phật sự, nhất là duy trì đạo tràng tu học được ổn định liên tục, với tư cách cá nhân, Hòa thượng tham gia tích cực vào công tác Phật sự của Quận 3, đóng góp nhiều cho sự ổn định và phát triển công tác An sinh xã hội trên địa bàn. Hàng năm, được nhiều bằng khen cho cá nhân và tập thể hoàn thành xuất sắc Phật sự, tiếp tục là nơi nương tựa cho nhiều thế hệ Phật tử. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Bửu Long, 219/7 Trần Văn Đang, Phường 11, Quận 3 Điện thoại: 028.3931 5413 Năm thành lập: 1952 Người sáng lập: SB TN Tâm Hương Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1990, 2008 Trụ trì tiền nhiệm: Sư bà Thích Nữ Tâm Hương Trụ trì hiện nay: Hòa thượng Thích Tâm Tấn
PHƯỜNG 13 1 - CHÙA HẢI TUỆ..................................................294
300 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA HẢI TUỆ Được thành lập vào năm 1963, Chùa Hải Tuệ tọa lạc tại số 25/1B, đường Lê Văn Sĩ, Phường 13, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh LƯỢC SỬ CHÙA HẢI TUỆ
C
hùa Hải Tuệ tọa lạc tại số 25/1B, đường Lê Văn Sĩ, Phường 13, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Chùa Hải Tuệ được thành lập vào năm 1963 do Hòa thượng Thích Đăng Quang khai sơn, trong bối cảnh phong trào đấu tranh chống áp bức Phật giáo nổi dậy mạnh mẽ ở Sài Gòn. Chùa được trùng tu lớn vào năm 1982 và trải qua các đời Trụ trì HT.Thích Đăng Quang, TT.Thích Thiện Quang (1963-1995), HT. Thích Thiện Tịnh (1995 - 2016). Trụ trì hiện tại là Thượng tọa Thích Thiện Thuận (từ năm 2016).
Phường 13 - Chùa Hải Tuệ
301
KHÔNG GIAN - KIẾN TRÚC Chùa Hải Tuệ nằm khuất trong các dãy nhà, sau chợ Trương Minh Giảng xưa. Chùa được xây dựng kiên cố với một trệt hai lầu. Tầng trệt, trước đây là nơi tôn thờ Đức Phật Di Lặc, về sau kết hợp làm nơi thờ chư Tổ. Chánh điện được thiết lập tại lầu một cùng với phòng khách, lầu hai là khu Tăng xá dành cho các vị Tăng sư đang cư ngụ. Chùa Hải Tuệ có không gian bày trí các tượng thờ xuất hiện phổ biến hầu hết các ngôi chùa hệ phái Bắc Tông. Cổng ra vào có các ban thờ Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Sĩ Tiêu Diện và Hộ Pháp. Tầng trệt được dành để tôn trí bàn thờ Tổ với tượng của Đạt Ma Tổ sư, chân dung của cố HT. Thích Đăng Quang, HT. Thích Thiện Từ và TT. Thích Thiện Quang.
KIẾN TRÚC THỜ TỰ Từ khi khai sơn, tầng trệt là nơi thờ đức Phật Di Lặc về sau kết hợp với bàn thờ Tổ. Nổi bật tại bàn thờ Tổ là chân dung của cố Hòa Thượng
302 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Thích Thiện Từ. Cùng với Đức Phật Di Lặc còn bài trí tượng Đức Mục Kiền Liên (bên phải) và Địa Tạng Vương Bồ Tát (bên trái) Tại chánh điện của chùa có thờ hai phiên bản nhỏ và lớn của Ta-bà Tam Thánh. Bao gồm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bên hữu là Đức Địa Tạng và bên tả là Quán Thế Âm Bồ Tát. Ta-bà Tam Thánh thể hiện cho lòng từ bi của Đức Phật và các hàng Bồ Tát, cứu giúp chúng sanh trong cuộc sống nguy khốn. Chánh điện còn hiện diện Tây Phương Tam Thánh gồm tượng Đức Phật Di Đà, Đại Thế Chí Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, ngoài ra còn có Thất Phật Dược sư. Một góc lầu một được dùng làm gian phòng khách và tủ sách. Hoành phi, liễn đối Hán-Nôm Câu đối cổng chính: Chính văn: 海量頻開光道業 慧门乍入了塵緣 Phiên âm: Hải lượng tần khai quang đạo nghiệp
Phường 13 - Chùa Hải Tuệ
303
Tuệ môn sạ nhập liễu trần duyên Tạm dịch: Đạo nghiệp sáng ngời biển cả chứa Duyên đời hiểu thấu cửa thiền nương Bàn thờ Tổ được đặt tại tầng trệt với hoành phi và liễn đối bằng chữ quốc ngữ: Hoành phi: TỔ ẤN TRÙNG QUANG Câu đối: Hải nguyện hoằng thâm thiện khải đại thừa hưng pháp phái Tuệ đăng phổ chiếu quang huy tâm ấn chấn tôn phong Câu đối ở hai nhánh cửa HOA KHAI và KIẾN PHẬT đề xướng pháp danh của hai vị Trụ trì tiền nhiệm là Thích Đăng Quang và Thích Thiện Quang. Đăng Quang khai tỏa thiền tông tịnh độ Thiện Quang mở pháp quy y muôn loài Bên cánh trái và cánh phải của bàn thờ Tổ là nơi thờ các hương linh quá cố với các câu đối cùng đại tự: Cánh phải: Đại tự 直往西方 Trực vãng Tây phương Chánh văn: 人生自古誰無死 留首身心照汗青1 Phiên âm: Nhân sanh tự cổ thùy vô tử Lưu thủ thân tâm chiếu hãn thanh Tạm dịch: Đại tự: Thẳng đến trời tây (Trực vãng tây phương) Người đời xưa nay ai không chết Ghi lấy thân tâm vào sử xanh Bên tả: 1 - Câu đối có nguồn gốc từ Quá Linh Đinh Dương 過零丁洋 của Văn Thiên Tường 文天祥: Nhân sanh tự cổ thùy vô tử - Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (人生自古誰無死 - 留首丹心照汗青)
304 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Đại tự 亟樂花開 Cực Lạc Hoa Khai Chánh văn: 本願終時?2極樂 弥陀接引到西方 Phiên âm: Bản nguyện chung thời ? Cực Lạc Di Đà tiếp dẫn đáo Tây Phương Đại tự 往生佛國 - Vãng sanh Phật Quốc Chánh văn: 光念燦爛3極樂國 淨念無生際4涅槃 Phiên âm: Quang niệm xán lạn cực lạc quốc Tịnh niệm vô sanh tế niết bàn Câu đối Chánh điện: 2 - Tại chùa, chữ này bao gồm bộ khứ 去 và bộ lỗi 耒 3 - Tại chùa, chữ lạn được viết dạng dị thể 火冬 4 - Tại chùa, có thể là chữ tế được dùng bộ thổ 土 thay cho bộ phụ 阝
Phường 13 - Chùa Hải Tuệ
305
Chánh văn: 慧光普照蒙熏萬類同證菩提 海德無邊普利眾生咸皈佛道 Phiên âm: Huệ quang phổ chiếu, mông huân vạn loại đồng chứng bồ đề Hải đức vô biên, phổ lợi chúng sanh hàm quy Phật đạo Dịch nghĩa: Ánh sáng trí tuệ chiếu soi khắp mọi nơi, xông ướp muôn loài (khiến cho) cùng chứng quả bồ đề Đức lớn như biển không bờ mé, lợi ích cho tất cả chúng sanh, (khiến) tất cả đều quay về với Phật đạo - con đường giác ngộ CÔNG TÁC PHẬT SỰ Hiện nay, chư Tăng trú xứ tại chùa Hải Tuệ gồm 12 vị đang tham gia tham học tại các trường Phật học các cấp. Hằng năm, chùa Hải Tuệ tổ chức các ngày lễ lớn trong năm theo truyền thống Phật giáo: lễ Tắm Phật, lễ Dâng y mùa Vu Lan,.v.v...Ngoài ra, chùa còn có Tổ chức và điều hành cơ sở phục vụ mai táng Chùa Hải Tuệ (Thiện Quang)5. Cơ sở phục vụ mai táng cho cộng đồng và từ thiện (cho áo quan) đối với các gia đình khó khăn. CÁC TÔN ĐỨC TIÊU BIỂU *Cố Hòa thượng Thích Thiện Từ (1910 - 2006) Cố trưởng lão HT.Thích Thiện Từ, thế danh Dương Văn Trượng, sinh năm 1910 tại làng Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh Châu Đốc nay là huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Sinh ra trong một gia đình thuần nông, có truyền thống tín ngưỡng Phật giáo lâu đời. Thân phụ là ông Dương Văn Cang, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Ký. 5 - Địa chỉ 195/25/7, Lê Văn Sĩ, Phường 13, Quận 3.
306 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Năm 1928, Ngài đến quy y, xuất gia với Hòa thượng pháp húy Hồng Tôi, Trụ trì chùa An Sơn, được Hòa thượng ban pháp húy Nhật Tín, hiệu Thiện Từ, nối tiếp đời 41 dòng Lâm Tế Gia Phổ. Sau khi xuất gia học đạo, Ngài được Bổn sư cho phép tập sự tại chùa Phi Lai. Nhân mùa hạ này, Ngài được Bổn sư cho đăng đàn thọ giới Sa-di, do Tổ Phi Lai Thích Chí Thiềng làm đường đầu Hòa thượng. Năm 1942, Hòa thượng đến chùa Khánh Hưng (Quận 3) học lớp Sơ đẳng Phật học Lục Hòa. Sau đó, Ngài về chùa Phước Hậu (Vĩnh Long) cầu học với Tổ Khánh Anh. Sinh thời, cố Hòa thượng Thích Thiện Từ đảm đương nhiều vị trí và chức vụ trong con đường hành pháp. Ngài là hành viên HĐCM T.Ư, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long, nguyên Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Cửu Long6, chứng minh đạo sư chùa Hải Tuệ hướng dẫn Tăng Ni, Phật tử tu học và từng Trụ trì 12 ngôi chùa khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Ngài mất vào 14 tháng Chạp năm Ất Dậu, nhằm 14/1/2006, hưởng 6 - Năm 1991, chia tỉnh Cửu Long thành hai tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long.
Phường 13 - Chùa Hải Tuệ
307
thọ 97 tuổi với 74 năm tuổi đạo. Linh vị của Ngài được thờ phụng tại chùa Hải Tuệ và Minh Đạo. *Cố Hòa thượng Thích Thiện Tịnh (1995 - 2016) Hòa thượng là đệ tử của Hòa thượng Thiện Từ, khi Bổn sư sức khỏe suy yếu, HT. Thiện Tịnh đã thay nhọc cho sư huynh đệ chăm sóc, hầu cận, chăm sóc ngôi già lam Hải Tuệ. Không những chu đáo việc nội viện, Hòa thượng còn tận tâm phục vụ Phật sự của Phật giáo Quận. Trong 2 nhiệm kỳ, từ 2007 đến 2016, được sự tín nhiệm của Tăng Ni, Hòa thượng giữ vai trò Phó Ban Đại diện ( Phó ban Trị sự), sau đó được suy cử là Cố vấn Ban Trị sự GHPGVN Quận 3. Tuy bệnh duyên chướng ngại nhiều, nhưng với hạnh nguyện sâu dày, Hòa thượng luôn tận tâm tâm tận lực, chu toàn cả trong ngoài, trong huynh đệ vô cùng quý kính, ngoài Tăng Ni hết sức tán dương. Những việc làm tuy thầm lặng nhưng để lại vô vàn ấn tượng và là gương sáng của môn đồ đệ tử. Khi sức khỏe Hòa thượng bắt đầu suy giảm, Hòa thượng đã giao trọng trách Trụ trì cho đệ tử là TT. Thiện Thuận, tiếp nối sự nghiệp giữ gìn ngôi Tam Bảo Hải Tuệ. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Thường kỳ, chùa Hải Tuệ luôn chú trọng về xây dựng đạo tràng tu tập, Tổ chức nhiều buổi thuyết giảng, Bát Quan Trai, lập ban Hộ niệm hỗ trợ gia quyến các gia đình, gặp hoàn cảnh khó khăn thì hỗ trợ chi phí tang lễ,...đây đều là những việc làm rất thiết thực, giúp đưa Phật pháp vào lòng mỗi gia đình, tạo cơ hội gần gũi, quy y Tam Bảo với mọi người. Bên cạnh đó là công tác An sinh xã hội, ngoài các cuộc vận động chung của Giáo hội và chính quyền địa phương, như phát quà, trao học bổng, đóng góp cho Quỹ vì người nghèo,...chùa còn Tổ chức các chuyến đi thập tự, cúng trường hạ, cứu trợ thiên tai bão lụt,...Là một trong những Tự viện tham gia đầy đủ và nghiêm túc với các sinh hoạt của Ban Trị sự,
308 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
nhận được nhiều bằng Tuyển dương công đức và bằng khen. Năm 2020, Thượng tọa Thiện Thuận bắt đầu cho sửa sang một số hạng mục của chùa, phục vụ nhu cầu sinh hoạt của chư Tăng và tạo điều kiện tốt nhất cho Phật tử các đạo tràng thuận tiện tu học. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: Chùa Hải Tuệ, số 25/1B Lê Văn Sỹ, Phường 13, Quận 3. Điện thoại: 028.3843 6982 Năm thành lập: 1973 Người sáng lập: TT. Thích Đăng Quang Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1982 Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: TT.Thích Đăng Quang, TT.Thích Thiện Quang, HT.Thích Thiện Tịnh Trụ trì hiện nay: TT. Thích Thiện Thuận Các ngày kỵ giỗ trong năm: 4-6 al giỗ TT. Thích Đăng Quang. 16-6 al giỗ TT. T.Thiện Quang
PHƯỜNG 14 1 - CHÙA PHÁP HOA..............................................304 2 - CHÙA THÍCH CA...............................................318 3 - CHÙA LONG VINH............................................322 4 - CHÙA PHÁP VÂN..............................................330 5 - CHÙA KIM CƯƠNG...........................................337 6 - CHÙA VĨNH PHƯỚC.........................................346 7 - CHÙA PHƯỚC HUỆ..........................................350
310 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA PHÁP HOA Chùa Pháp Hoa chính thức được xây dựng vào năm 1967, trải qua hai đợt trùng tu vào năm 1984 và năm 2004. Chùa hiện tọa lại tại số 870 đường Trường Sa, P.14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh LƯỢC SỬ CHÙA PHÁP HOA
C
hùa Pháp Hoa mang tên của bộ kinh quan trọng trong Phật giáo Đại thừa, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (hay Kinh Pháp Hoa). Chùa được hình thành từ những năm 1960 với một thảo am bên bờ kinh Nhiêu Lộc. Đến năm 1967, HT. Thích Tuệ Hải cùng các Phật tử tín thành tu sửa ngôi thảo lư thành chùa và lấy tên là Pháp Hoa. Chùa đã trải qua 3 thế hệ Trụ trì và dần được hoàn thiện về hạ tầng
Phường 14 - Chùa Pháp Hoa
311
kiến trúc. HT. Thích Tuệ Hải đảm nhận Trụ trì cho đến khi viên tịch vào năm 1982, sau đó đến năm 2001, TT. Thích Thọ Lạc chính thức được Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh bổ nhiệm Trụ trì chùa Pháp Hoa, chăm lo đời sống tu học của chư Tăng và Phật tử. Chùa Pháp Hoa chính thức được xây dựng vào năm 1967, trải qua hai đợt trùng tu vào năm 1984 và năm 2004. Chùa hiện tọa lại tại số 870 đường Trường Sa, P.14, Quận 3. KHÔNG GIAN - KIẾN TRÚC
Về không gian, chùa Pháp Hoa là một trong những ngôi chùa sở hữu không gian tốt và kiến trúc bậc nhất tại Quận 3 trên khuôn viên rộng 614,7m2 dọc đường Trường Sa, phía chân cầu Lê Văn Sĩ, mặt tiền chùa hướng ra kênh Nhiêu Lộc. Chùa được xây dựng dựa trên phong thái cổ truyền với nhiều hoa văn, họa tiết, điêu khắc kết hợp một số yếu tố hiện đại. Chùa vẫn sở hữu những bộ đại tự, liễn đối bằng chữ Hán như là một hình ảnh truyền thống
312 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Phường 14 - Chùa Pháp Hoa
313
314 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
trong nhà Phật so với những cải biến gần đây về câu đối chữ quốc ngữ ở các chùa. Mặt chính của chùa nổi bật với Pháp Hoa Tự 法華寺 ở giữa và Khai thị chúng sanh 開示眾生 cùng Ngộ nhập Phật tính 悟入佛性. Về Tổng thể, chùa được xây dựng với ba khu chính: khu thiền đường gồm 1 tầng hầm, 1 trệt, 2 lầu và một bảo tháp ba tầng; dãy phòng trù, trai đường và Tăng xá; dãy thư viện và nhà cốt. Tại khu thiền đường, tầng hầm làm kho chứa các trang thiết bị, tầng trệt là Tuệ Hải Đường 慧海堂 là nơi tiếp khách, hội họp Tăng Ni và Phật tử; tầng một là Phụng Tổ Đường 奉祖 堂 làm nơi thờ các vị tiền bối của chùa Pháp Hoa; lầu hai là Pháp Hoa Tự 法華寺 là chính điện của chùa. Đặc biệt, các hoành phi câu đối bằng Hán tự rất đa dạng và thể hiện truyền thống mỹ thuật của Phật giáo Về kiến trúc, chùa Pháp Hoa được xây dựng kiên cố bằng bê tông nhiều tầng đa mái với các khu chức năng cho sinh hoạt Phật sự. Chùa có mái ngói tráng men, các đầu hồi được đính chạm hình ảnh mây hóa rồng độc đáo. Chùa được trang trí bằng nhiều bao lam, phù điêu gỗ và thạch cao nhũ vàng, nổi bật với những hoa văn, họa tiết, tùng, cúc, trúc, mai, hoa lá hóa rồng,… mang đậm phong cách truyền thống dân tộc. Nhằm ca ngợi và tôn vinh giá vị Phật giáo, chùa còn có nhiều phù điêu, cửa sổ được trạm trổ thể hiện chân dung, hình ảnh, cuộc đời và sự nghiệp của Phật Thích Ca, các vị tôn giả và bồ tát. KIẾN TRÚC THỜ TỰ Chùa Pháp Hoa sở hữu các bộ tượng Phật, Bồ tát mới và tinh gọn trong một không gian rộng rãi, điều này làm tăng phần trang nghiêm và thanh dị tại chùa. Không gian rộng của Tuệ Hải đường có an trí Đức Quan Thế Âm Bồ tát cùng Phật Thích Ca sơ sinh, ở Phụng Tổ Đường cũng lập lại hình ảnh của Đức Quan Thế Âm đầu chánh đường cùng các bàn thờ chư Tổ và những Phật tử quá cố. Chánh điện là nơi tôn trí những tượng Phật lớn nhất của chùa. Không gian bao gồm tượng Phật Thích ca nhập định, Quan thế âm Bồ tát bên trái và Địa Tạng Vương Bồ tát bên phải. Ngoài ra, còn có Chuẩn Đề Vương Bồ tát được đặt trang trọng ở chính diện cùng đức Phật Thích Ca. Các bộ câu
Phường 14 - Chùa Pháp Hoa
315
đối ở chánh điện có nguồn gốc và trích dẫn hình ảnh từ bộ kinh Pháp Hoa làm tăng thêm danh khí, tôn chỉ của ngôi thiền tự. Cánh cửa bên phải chánh điện dẫn đến cầu thang đi lên bảo tháp. Bảo tháp này xây chồng ngay lên mái chánh điện, có ba tầng. Trên bảo tháp còn có hoành phi:大悲普濟- Đại từ phổ tế bằng xi măng và một đại hồng chung. Trên chuông khắc lịch sử của chùa Pháp Hoa bằng chữ Hán, đây là một bản văn quan trọng về lịch sử hình thành của chùa, mà rất ít Tự viện có được. Hán văn: 法 華 寺 歴 史 釋 迦 開 教 天 竺 地 僧 會 傳 教 越 南 處 慧 海 顯 法 在 南 天 壽 樂 弘 法 于 法 華 祖 祖 相 續 長 不 继 世 世 法 脈 永 無 亡 重 興 佛 寺 功 德 大 芳 名 歴 史 永 留 傳 若 人 請 問 法 華 寺 開 山 後 繼 如 鍾 上 法 華 寺 由 釋 慧 海 大 師 創 於 陽 歴 一 九 六 七 年。 其 大 師 原 出 於 花 蘆 故 都,臨 濟 宗 古 灣 祖 庭 之 門 人。 一 生, 以 法 華 教 旨 爲 修 行 及 度 衆。於 一 九 八 二 年 圓 寂。此 期 清 檢 長 老 兼 任 住 持 而 心 通 沙 彌 直 接 鑑 寺 數 年。然 後 於 二 零 零 一 五 年 釋 壽 樂 法 師 継 承 主 持。其 法 師 亦 出 於 越 南 北 地 花 蘆 故 都,臨 濟 宗 同 得 祖 庭 人。因 古 灣 與 同 得 皆 岀 於 鳳 斑 祖 庭 與 慧 海 大 師 同 系 派 是 越 南 佛 教 教 會 第 一 法 主 之 弟 子。 於 二 零 零 五 年 與 德 誠 弟 子 等 再 造 重 建 法 華 寺 揚 正 法 。 越 南 主 義 社 會 共 和 國 陽 暦 二 零 零 五 年 二 月 九 日 記。
316 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Phường 14 - Chùa Pháp Hoa
317
Phiên âm: Pháp Hoa tự lịch sử Thích Ca khai giáo Thiên Trúc địa, Tăng Hội truyền giáo Việt Nam xứ. Huệ Hải hiển pháp tại Nam thiên, Thọ Lạc hoằng pháp vu Pháp Hoa. Tổ Tổ tương tục trường bất kế, Thế thế pháp mạch vĩnh vô vong. Trùng hưngPhật tự công đức đại, Phương danh lịch sử vĩnh lưu truyền. Nhược nhân thỉnh vấn Pháp Hoa tự, Khai sơn hậu kế như chung thượng. Pháp Hoa tự do Thích Huệ Hải đại sư sáng ư Dương lịch nhất cửu lục thất niên. Kì đại sư nguyên xuất ư Hoa Lư cố đô, Lâm Tế tông, Cổ Loan Tổ đình chi môn nhân. Nhất sinh, dĩ Pháp Hoa giáo chỉ vi tu hành cập độ chúng. Ư nhất cửu bát nhị niên viên tịch. Thử kì Thanh Kiểm trưởng lão kiêm nhiệm Trụ trì, nhi Tâm Thông Sa di trực tiếp giám tự sổ niên. Nhiên hậu ư nhị linh linh nhất niên Thích Thọ Lạc pháp sư kế thừa chủ trì. Kì pháp sư diệc xuất ư Việt Nam Bắc địa Hoa Lư cố đô, Lâm Tế tông Đồng Đắc Tổ đình nhân. Nhân Cổ Loan dữ Đồng Đắc giai xuất ư Phượng Ban Tổ đình dữ Huệ Hải đại sư đồng hệ phái thị Việt Nam Phật giáo Giáo hội đệ nhất pháp chủ chi đệ tử. Ư nhị linh linh ngũ niên dữ Đức Thành đệ tử đẳng tái tạo trùng kiến Pháp Hoa tự dương chính pháp. Việt Nam Chủ nghĩa Xã hội Cộng hòa quốc, Dương lịch nhị linh linh ngũ niên nhị nguyệt cửu nhật kí. Dịch nghĩa: Lịch sử chùa Pháp Hoa Đức Phật Thích Ca mở ra giáo pháp trên đất Thiên Trúc, Ngài Tăng Hội truyền giáo tại Việt Nam, Đại sư Huệ Hải giáo hóa ở trời Nam, Thọ Lạc hoằng hóa ở chùa Pháp Hoa,
318 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Tổ Tổ truyền nhau mãi không dứt, Đời đời mạch pháp vẫn không cùng, Làm hưng thịnh lại chùa chiền, công đức rất lớn, Tiếng thơm được lưu truyền mãi trong sử sách, Nếu ai muốn hỏi về chùa Pháp Hoa, Người khai sáng, người kế thừa đều như trên chuông. Chùa Pháp Hoa do Đại sư Huệ Hải khai sáng vào năm 1967. Đại sư vốn xuất thân ở cố đô Hoa Lư, là đệ tử của Tổ đình Cổ Loan, thuộc tông Lâm Tế. Cả đời Ngài lấy ý chỉ kinh Pháp Hoa làm phương pháp tu tập và độ chúng. Ngài viên tịch vào năm 1982. Lúc bấy giờ, trưởng lão Thanh Kiểm kiêm giữ chức Trụ trì và để cho Sa di Tâm Thông trực tiếp làm Giám tự trong vài năm. Sau đó, vào năm 2001, pháp sư Thích Thọ Lạc kế thừa chức Trụ trì. Pháp sư cũng xuất thân ở cố đô Hoa Lư trên đất Bắc Việt Nam, là môn đồ của Tổ đình Đồng Đắc thuộc tông Lâm Tế. Nhân vì Cổ Loan và Đồng Đắc đều xuất phát từ Tổ đình Phượng Ban nên cùng hệ phái với đại sư Huệ Hải - cùng là đệ tử của đức Pháp chủ đầu tiên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Vào năm 2005, Pháp sư cùng đệ tử của mình là Đức Thành và các đệ tử tái tạo và xây dựng lại chùa Pháp Hoa để hoằng dương Phật pháp. Ghi vào ngày 9, tháng 2, năm 2005 tại nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Chùa Pháp Hoa hiện là văn phòng thường trú của Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN, Tổ chức nhiều cuộc họp và hội thảo của Ban Văn hóa Tổ chức. Chùa Pháp Hoa Tổ chức các buổi tu học diễn ra theo ngày, tuần, và hằng tháng dành cho đông đảo Phật tử. Khóa tụng kinh (Pháp Hoa, Niết bàn, Đại phương tiện) được Tổ chức hằng ngày vào 18h và 19h. Các khóa tọa thiền, kinh hành - niệm Phật, học giáo lý, thuyết giảng kinh được Tổ chức vào các ngày lẻ và chủ nhật trong tuần. Mỗi tháng từ ngày 14 đến 17 âm lịch, chùa Tổ chức các lễ sám nguyện, lễ kinh Dược sư và thọ Bát quan trai giới.
Phường 14 - Chùa Pháp Hoa
319
Ngoài các lễ rằm quan trọng trong nhà Phật vào tháng Giêng, tháng 7 và tháng 10, Phật đản sinh là ngày lễ có quy mô lớn và trọng thể nhất. Việc trang trí và lễ cúng được diễn ra trong tuần từ ngày 8 đến 15 tháng 4 âl hằng năm. Lễ thả đèn hoa đăng trên kênh Nhiêu Lộc thu hút hàng ngàn Phật tử và người dân tham gia mỗi năm, được ghi nhận là một trong các sự kiện văn hóa được quan tâm bậc nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh, thu hút nhiều du khách đến với Quận 3. Các ngày Lễ Trọng: 19/2 - 19/6 - 19/9 Al Lễ Vía Bồ tát Quán Thế Âm, mùng 8 đến ngày 15/4 Lễ Phật Đản, mùng 8 đến 15/7 Lễ Hội Vu Lan - Báo Hiếu, 22 - đến 28/ Giêng và tháng 9 Pháp hội Dược Sư, 29/10 Giỗ Tổ (HT. Thích Đức Nhuận - Đệ nhất Pháp Chủ GHPGVN, HT. Thích Tuệ Hải). Câu đối Hán-Nôm Câu đối tại nhà thờ Tổ (Phụng Tổ Đường 奉祖堂) được trạm theo kiểu lệ thư:
320 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Chính văn: 祖德高深萬載長興法派 師傳要旨千秋永振宗風 己酉秋月吉日法華寺主壽樂比丘造 Phiên âm: Tổ đạo cao thâm vạn tải trường hưng pháp phái Sư truyền yếu chỉ thiên thu vĩnh chấn tôn phong Lạc khoản: Kỷ Dậu thu nguyệt cát nhật pháp hoa tự chủ Thọ Lạc tỳ kheo tạo
Tạm dịch: Tổ đạo cao sâu muôn năm, phát triển mãi dài chi phái Thầy dạy yếu chỉ ngàn thu, củng cố bền lâu lối đạo Bàn thờ Tổ có đại tự Liên Đăng Tục Diệm 聯燈續爓 (đèn thiền không dứt) ở giữa, Tứ Ân Tổng Báo 四恩總報1 (Bốn ân phải báo) và Tam Hữu Tề Tư 三有齊思2 (Ba cõi đều nhớ). 1 - Nguồn gốc Sám Khể Thủ, hàm nghĩa: có 4 ân mà con người có được và lo báo đáp là ơn cha mẹ, ơn chúng sinh, ơn quốc gia, và ơn Tam bảo. 2 - Nguồn gốc từ Sám Khể Thủ, tam hữu còn gọi là tam giới 三界, ba cõi của vòng sanh tử, là nơi mà loài hữu hình tái sinh.
Phường 14 - Chùa Pháp Hoa
321
Câu đối khác: Chính văn: 眼藏承傳教海生生增瑞氣 心燈相續禅林世世有餘光 Phiên âm: Nhãn tạng thừa truyền giáo hải sanh sanh tăng thoại khí Tâm đăng tương tục thiền lâm thế thế hữu dư quang Tạm dịch: Chánh pháp lưu truyền dạy chúng sinh, sinh thêm vận lành Đèn tâm kế tục đạo gieo vào đời, đời có vinh quang Trên lư hương của chùa có đại tự Phật 佛 ở giữa và một bản khắc Hán văn của Bổ khuyết tâm kinh3. Câu đối ở nhà cốt Đại tự: 南無阿彌陀佛 Nam mô A Di Đà Phật Chính văn: 念佛方能消宿業 竭誠自可转凡心4 Phiên âm: Niệm Phật phương năng tiêu túc nghiệp Kiệt thành tự khả chuyển phàm tâm Tạm dịch: Tưởng Phật mới lần tan nghiệp cũ, Hết lòng người tự đổi tâm phàm. Câu đối Chánh điện Pháp Hoa Tự Câu đối hai bên vách: Chính văn: 法寳度迷津三周九喻使衆生開示佛知見 善道開覺路二門一行攝萬法悟入性毗盧 龍飛己酉年季秋月吉日 3 - Tức Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh 4 - Câu nói của Ấn Quang Đại Sư
322 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Phiên âm: Pháp bảo độ mê tân tam châu cửu dụ sử chúng sanh khai thị Phật tri kiến Thiện đạo khai giác lộ nhị môn nhất hạnh nhiếp vạn pháp ngộ nhập tánh tì lô Lạc khoản: Long Phi Kỷ Dậu niên quý thu ngoạt cát nhật Tạm dịch: Pháp bảo độ kẻ mê, ba châu chín dụ5 , khiến chúng sanh mở lòng thấy Phật Đạo lành mở đường giác, hai cửa một hành, thu ngàn pháp đi vào trí tu Ngôi thờ Quán Âm có đại tự Đại Từ Phổ Tế 大慈普濟 (Lòng từ độ khắp ) Ngôi thời Địa Tạng có đại tự Đại từ nguyện vương 大慈願王 Đại tự ngôi ở giữa chính điện Pháp Hoa Hải Hội 法華海會 Câu đối giữa chánh điện (phía ngoài): Chính văn: 5 - Tam châu cửu dụ: tam châu tức lý thuyết về tam xa, ba cỗ xe Bồ tát, Duyên giác, Thinh văn của nhà Phật; cửu dụ tức là 9 ví dụ đức Phật giảng dạy trong kinh Pháp Hoa.
Phường 14 - Chùa Pháp Hoa
323
萬德雄師福慧两足之特尊世出卋间莫比 十方覺父依正二嚴之殊勝天上天下無如 Phiên âm: Vạn đức hùng sư phúc tuệ lưỡng túc chi đặc tôn thế xuất thế gian mạc tỉ Thập phương giác phụ y chánh nhị nghiêm chi thù thắng thiên thượng thiên hạ vô như Tạm dịch: Bậc thầy tài giỏi ngàn đức, phước huệ đạt đôi đường, vượt bật thế gian không ai sánh, Người cha giác ngộ mười phương, y chánh đều trang kính, hơn hẳn thiên hạ chẳng kẻ bằng. Câu đối giữa chánh điện (phía trong): Chánh văn: 法華會上現百寳金身帝釋梵王呈祥獻瑞 靈鷲山中演大乘妙義群支菩薩見性明心 Phiên âm: Pháp hoa hội thượng hiện bách bảo kim thân đế thích phạm vương trình tường hiến thụy, Linh thứu sơn trung diễn đại thừa diệu nghĩa quần chi bồ tát kiến tánh minh tâm. Tạm dịch: Tại hội Pháp hoa, hiện trăm thân vàng, Phạm Vương, Đế Thích, lộ hiện điềm lành Ở núi Linh Thứu, dạy đạo đại thừa, bồ tát, chúng tánh, thấy tánh sáng lòng. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 870 đường Trường Sa, phường 14, quận 3, TP. Hồ Chí Minh Năm thành lập: 1967 Người sáng lập: HT. Thích Tuệ Hải Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu:1984, 2004 Viện chủ: Thượng tọa Thích Thọ Lạc Trụ trì: Thượng tọa Thích Quảng Minh
324 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA THÍCH CA Chùa Thích Ca, tọa lạc tại số 386/81, đường Lê Văn Sĩ, Phường 14, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ CHÙA THÍCH CA
C
hùa Thích Ca (寺迦釋 ) được thành lập năm 1940 bởi Hòa thượng Thích Thiện Từ. Chùa trải qua các thời kỳ chiến tranh và được trùng tu vào các năm 1987, 1996 để có được kiến trúc như ngày nay. Chùa đã trải qua các đời Trụ trì: Hòa thượng Thích Thiện Từ, Hòa Thượng Thích Đạt Lập, Ni sư Thích Nữ Nguyên Hồng, Ni sư Thích Nữ Như Phụng. Trụ trì hiện tại là Ni sư Thích Nữ Như Trí, thế danh Phùng Thị Hoa, sinh năm 1941, thọ giới năm 1970.
Phường 14 - Chùa Thích Ca
325
KHÔNG GIAN, KIẾN TRÚC Chùa Thích Ca được xây dựng với kiến trúc hiện đại bao gồm phần chánh điện, tháp và nhà hài cốt của Tỳ khưu, Sa di, Cư sĩ, khu ni xá và trù phòng trên khuôn viên rộng 990,3m2. Mái chùa, mái cổng, ngôi chánh điện được trang trí nổi bật với nhiều hình tượng rồng, song long chầu nguyệt và lá hóa rồng.
SỰ THỜ PHỤNG Các đối tượng được tôn thờ tại chùa Thích Ca: Tượng Quán Thế Âm Bồ lộ thiên trong sân chùa; nhà và tháp thờ hài cốt; chánh điện tôn tượng Đức Phật Thích Ca, Tây phương Tam Thế Phật, thất Phật Dược Sư và Chuẩn đề Bồ tát; bàn thờ Tổ gồm hình ảnh Đạt Ma Tổ Sư và các nhà sư tiền bối. Ngoài bàn thờ Tổ, chùa còn dành không gian thờ cúng cho các vong linh quá cố.
326 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Câu đối Hán Nôm Chùa có cổng tam quan có gác trên, bên trong gác được đặt tượng Chuẩn Đề Vương Bồ Tát, cùng với tượng Hộ Pháp Vi Đà và Tiêu Diện Đại Sĩ với câu đối Việt: Ngàn mắt ngàn tay năng hòa đạo, Tối linh một niệm khả thông thần. Ở cổng chính, tên chùa Thích Ca được viết theo lối kết hợp Hán Việt. Câu đối ở cổng chính của chùa cũng được viết bằng chữ quốc ngữ: Duyên nghiệp tự mình thiên đường địa ngục trong gang tấc, Thích Ca Tây Trúc từ bi bác ái khắp đất trời.
Ngôi tam bảo chùa thời Đức Phật Thích Ca, Tây Phương Tam Thánh (Đại Thế Chí - Phật Di Đà - Quán Thế Âm) và tôn tượng của 7 Đức Phật Dược Sư. Đối diện với bàn thờ Phật là Phật Mẫu Chuẩn Đề. Chính văn: 释子諠揚四諦警省愛河名利客, 迦尼宏傳八正開明覺性夢迷人.
Phường 14 - Chùa Thích Ca
327
Phiên âm: Thích tử tuyên dương tứ đế cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách, Ca ni hoằng truyền bát chánh khai minh giác tính mộng mê nhân1. Tạm dịch: Đệ tử Phật đề cao tứ diệu đế thức tỉnh người đời trong danh lợi, Tăng già ni truyền rộng bát chánh đạo mở giấc kẻ tục đắm si mê. Bàn thờ Hậu Tổ có câu đối: Tây phương giáo pháp thông huyền diệu, Đông độ tâm truyền chuyển vi thân. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Các ngày lễ quan trọng như lễ thượng nguyên (rằm tháng Giêng), lễ Trung Ngươn (Lễ Vu Lan), lễ Hạ Ngươn (rằm tháng 10) tại chùa Thích Ca có sự tham dự của đông đảo Phật tử địa phương và một số gia đình Phật tử, như Thiện Minh. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 386/81 Lê Văn Sĩ, Phường 14, Quận 3. Điện thoại: 028.3931 1826 Năm thành lập: 1940 Người sáng lập: HT. Thích Thiện Từ Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1987, 1996 Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: HT. Thích Thiện Từ, HT. Thích Đạt Lập, NS. TN Nguyên Hồng, NS. TN Như Phụng. Trụ trì hiện nay: Ni trưởng Thích Nữ Như Trí Các ngày kỵ giỗ trong năm: 21-01 giỗ NS. TN Như Phụng. 2302 giỗ HT. Thích Đạt Lập. 07-8 giỗ NS TN Nguyên Hồng. 16-9 giỗ HT Thích Thiện Từ. 1 - Một câu đối phổ biến khác: Mộ cổ thần chung cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách - Triêu kinh vãn kệ hoán hồi khổ hải mộng mê nhân. (暮鼓晨鍾警省愛河名利客-朝經晚偈換回苦海夢迷人)
328 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA LONG VĨNH Chùa Long Vĩnh tọa lạc tại 394A Lê Văn Sĩ, Phường 14, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ CHÙA LONG VĨNH
C
hùa Long Vĩnh 隆永寺 hiện tọa lạc tại 394A Lê Văn Sĩ, P. 14. Q.3, Tp. Hồ Chí Minh. Trước 1975, chùa thuộc 394, Trương Minh Giảng. Số điện thoại: (028) 38466996. Chùa Long Vĩnh được thành lập vào năm 1901 bởi Phật tử Hồ Thị Điểu với kiến trúc đơn sơ trên diện tích 416m2 của gia tộc. Chùa trải qua 4 đời Trụ trì và các đợt trùng tu vào năm 1984, 1994 và năm 2005. Trước đó vào thập niên 1950 và 1960, chùa được
Phường 14 - Chùa Long Vĩnh
329
kiên cố bằng tường gạch mái tôn, mái ngói. Vị Trụ trì đầu tiên của chùa Long Vĩnh là Hòa thượng Thích Quảng 1 Đức , vị sư đã tự thiêu vì đạo pháp vào năm 1963. Theo sử liệu, Thích Quảng Đức (1890-1963) thọ giáo dòng thiền Chúc Thánh với hòa thượng Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm năm lên 7 tuổi, rời miền Trung vào Nam năm đầu những năm 1940 và lưu trú lại chùa Long Vĩnh trong thời gian dài, nên Ngài còn được gọi là Hòa thượng Long Vĩnh. Những năm tháng đầu ở Nam Bộ, Ngài châu du các nơi và cũng lưu trú tại hai ngôi chùa dòng chúc Thánh tại Phnom Penh. Đến năm 1953, hòa thượng đảm nhiệm vị trí Phó Trị sự và Trưởng ban Nghi lễ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt kiêm Trụ trì chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ2. Sau khi Thích Quảng Đức hóa duyên nơi khác, các đời Trụ trì kế tục là Hòa thượng Thích Thanh Roản, Thích Thanh Đăng, từ 1980 - 2017 là Hòa thượng Thích Minh Nghị. Năm 2017, HT. Thích Minh Nghị giao trách nhiệm Trụ trì lại cho ĐĐ. Thích Minh Trí KHÔNG GIAN - KIẾN TRÚC Từ năm 1994, chùa được xây dựng bằng bê tông, cốt thép vững chắc và khang trang so với các thời kỳ trước. Cổng chùa ở vị trí mặt tiền đường Lê Văn Sĩ, trước đây là Trương Minh Giảng, vẫn giữ được đường nét kiến trúc cũ. Chùa có một tầng lầu được bố trí làm Chánh điện và Nhà Tổ, các khu chức năng còn lại như Giảng đường Thanh Đăng, nhà Tăng, bếp, kho chứa. Kiến trúc của chùa Long Vĩnh có sự kết hợp các yếu tố hiện đại và truyền thống trong hình tượng và các mô-típ trang trí: mái cong với hình tượng lá hóa rồng, song long chầu bánh xe pháp luân. Nhiều mô- típ trang 1 - Hòa thượng Thích Quảng Đức (1897-1963), thế danh là Lâm Văn Tuất, quê quán thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là ông Lâm Hữu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương. 2 - Theo Tiểu sử Bồ tát Thích Quảng Đức (1898-1963), Giáo hội Phật giáo Việt Nam, http://phatgiao.org.vn, ngày 01/10/2017; Nguyễn Đình Tư, 2003, “Hòa thượng Thích Quảng Đức”, Non nước Khánh Hòa, NXB Thanh Niên, tr. 275-290; Thích Nhật Từ, Nguyễn Tri Tân, 2014, Bồ tát Thích Quảng Đức: Cuộc đời và lửa từ bi, NXB Phương Đông; Nguyễn Văn Tân, 2002, Từ điển địa danh lịch sử, văn hóa du lịch Việt Nam, NXB. Văn hóa thông tin, tr. 773.
330 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
trí ở các cửa mang mang tinh thần Phật giáo như biểu trưng chữ Vạn 卍 hay hoa sen. Hiện nay, chùa có 8 vị Tăng và 2 tiểu đang sinh hoạt và hoạt động Phật sự. SỰ BÀY TRÍ VÀ THỜ PHỤNG
Tầng trệt, nối liền sảnh trước là Giảng Đường Thanh Đăng gắn liền với pháp danh của vị trú trì tiền nhiệm. Giảng đường được hiểu là nơi giảng kinh và thuyết pháp, ở giữa đầu giảng đường có bàn thờ Phật Di Đà, ở cuối giảng đường bày trí tượng Phật Thích Ca tọa dưới gốc bồ đề. Đây cũng là không gian dùng để thực hiện lễ trai đàn Dược sư cầu an. Tại lầu 1, mảng sân trước có bình phong hình cuốn thư với chữ Đức 德 làm tâm. Tượng Quan Thế Âm được bày lộ thiên cùng với không gian xanh được tạo bởi ra các chậu cây kiểng, trúc, sen. Chánh điện nổi bật với tượng Phật Thích Ca, Chuẩn Đề Vương Bồ Tát, Hộ Pháp Vi Đà và Đại Sĩ Tiêu Diện cùng với nhiều phướng xá mang
Phường 14 - Chùa Long Vĩnh
331
tên, xưng tán 12 thần tướng Dược Xoa và bồ tát như Nam Mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát 南無日光徧照菩薩, Chân Đạt La Đại Tướng 真達羅 大將, Tỳ Yết La đại tướng 毘揭羅大將, hay An Để La đại tướng 安底羅 大将,v.v…3
Nhà Tổ là nơi thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma những vị trú trì tiền nhiệm và những nhà sư tu hành tại nhà chùa qua các thời kỳ. 1. 奉為越南佛教變故法難為法燒身諸聖死道真靈座位 (Phụng vì Việt Nam Phật giáo biến cố pháp nạn vị pháp thiêu thân chư Thánh tử đạo chơn linh tọa vị) 2. 臨濟正宗四十三世諱上心下是號善明和尚覺靈法座 (Lâm Tế chánh tông tứ thập tam thế húy thượng Tâm hạ Thị hiệu Thiện Minh hòa thượng giác linh pháp tọa.) 3. 臨濟正宗隆永寺住持諱上清下燈號覺岸和尚覺靈法座 (Lâm Tế chánh tông Long Vĩnh tự trú trì húy thượng Thanh hạ Đăng hiệu Giác Ngạn hòa thượng giác linh pháp tọa.) 3 - 12 thần tướng Dược Xoa được xem là 12 cách thị hiện của chư Phật, Bồ tát để hóa độ chúng sanh, bao gồm Cung Tỳ La, Phạt Chiết La, Mê Súy La, An Để La, Át Nể La, San Để La, Nhân Đạt La, Ba Di La, Ma Hổ La, Chân Đạt La, Chiêu Đổ La và Tỳ Yết La.
332 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Ngoài ra, bàn thờ Tổ là nơi tôn trí trang trọng chân dung Đệ nhị Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Hòa Thượng Thích Trừng Thủy tự Chí Thâm, hiệu Giác Nhiên. Hoành phi – liễn đối Hán-Nôm Câu đối tại tượng Quán Thế Âm lộ thiên: Chính văn: 為眾生一心慈敏顧 唯菩薩千變感人標 Phiên âm: Vị chúng sanh nhất tâm từ mẫn cố Duy bồ tát thiên biến cảm nhân tiêu Câu đối tại cổng chính mặt tiền đường Lê Văn Sĩ: Mặt ngoài: Chính văn: 獨慧日扵禪闿照徹人心些道 扇慈風于覺路掃清石徑車塵 Phiên âm: Độc tuệ nhật ư thiền khải chiếu triệt nhân tâm tá đạo Thiên từ phong vu giác lộ tảo thanh thạch kính xa trần Mặt trong: Chính văn: 覺岸非遙濟度有天皆寳筏 禅闓透潯慈悲無地不祥?4 Hán văn: Giác ngạn phi dao tế độ hữu thiên giai bảo phiệt Thiền khải thấu tầm từ bi vô địa bất tường ? Cổng tam quan dẫn vào chùa bao gồm cổng Từ Bi 慈悲 (phải), Hỷ Xả 喜 捨 (trái), cổng giữa có câu đối: Chính văn: 弘化導不遍隨緣護法 入禪門應無所住修心 4 - Nét chữ bị mờ, không xác định được.
Phường 14 - Chùa Long Vĩnh
333
Phiên âm: Hoằng hóa đạo bất biên tùy duyên hộ pháp Nhập thiền môn ứng vô sở trụ tu tâm Tại Chánh điện thờ Đức Phật Thích Ca Hoành phi: 大覺世尊 Lạc khoản: 胡志明城埔5年2002 隆永寺住持釋明議奉供 佛暦二千五百四十六年歲在壬午孟春吉日 Phiên âm: ĐẠI GIÁC THẾ TÔN Lạc khoản: Hồ Chí Minh Thành phố 2002 Long Vĩnh tự trú trì Thích Minh Nghị phụng cúng Phật lịch nhị thiên ngũ bách tứ thâp lục niên tuế tại Nhâm Ngọ mạnh xuân cát nhật Tạm dịch: Vị giác ngộ lớn ở đời (Đại giác thế tôn). Hoành phi được tạo do hòa thượng Thích Minh Nghị phụng cúng, tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2002, tháng Giêng năm Nhâm Ngọ, Phật lịch 2546. Câu đối tại chánh điện: Chính văn: 雄力战八惡濁世中綠一大事 慈悲也出火宅門外為設三車 Lạc khoản: 隆永寺重建住持釋明議奉造 Phiên âm: Hùng lực chiến bát ác trạc thế trung lục nhất đại sự Từ bi dã xuất hỏa trạch môn ngoại vi thiết tam xa 5 - Tại chùa, chữ phố viết không có bộ thổ 土
334 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Lạc khoản: Long Vĩnh tự trùng kiến trú trì Thích Minh Nghị phụng tạo Chính văn: 智力不韋方大覺 狻座示轉法垂音 Lạc khoản: 佛暦二千五百四十六年歲在辛巳仲冬吉日 Phiên âm: Trí lực bất vi phương đại giác Toan tọa thị chuyển pháp thùy âm Lạc khoản: Phật lịch nhị thiên ngũ bách tứ thập lục niên tuế tại Tân Tỵ trọng đông cát nhật Câu đối bàn thờ Tổ: Chính văn: 生前教順傳从無子而
Phường 14 - Chùa Long Vĩnh
335
沿後留名在世難亡孝 Lạc khoản: 佛暦二千五百四十六年歲在辛巳仲冬吉日 Phiên âm: Sanh tiền giáo thuận truyền tòng vô tử nhi Duyên hậu lưu danh tại thế duy vong hiếu Lạc khoản: Phật lịch nhị thiên ngũ bách tứ thập lục niên tuế tại Tân Tỵ trọng đông cát nhật LỄ HỘI, PHẬT SỰ Ngoài các ngày lễ trọng ngày Rằm trong các tháng Giêng, tháng 7, tháng 10, chùa thường diễn ra các buổi đọc kinh buổi tối hằng ngày, tu tập bát quan trai hằng tháng nhằm đáp ứng nhu cầu tu học của quý Phật tử. Các ngày kỵ giỗ trong năm: 16-9 âl giỗ HT. Thích Thiện Minh, 26-9 âl giỗ HT. Thích Thanh Đăng. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 394 Lê Văn Sĩ, Phường 14, Quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh Năm thành lập: 1901 Người sáng lập: Phật tử Trương Thị Kiểu Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1994 Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: HT Thích Quảng Đức, HT.Thích Thanh Roãn, HT.Thanh Đăng. Viện chủ: Hòa thượng Thích Minh Nghị Trụ trì hiện nay: Đại đức Thích Minh Trí
336 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA PHÁP VÂN Chùa Pháp Vân tọa lạc tại 12/6 Trần Quang Diệu , Phường 14, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ CHÙA PHÁP VÂN
C
hùa Pháp Vân được hình thành trong thời kỳ bùng phát các cuộc đấu tranh Phật giáo tại Sài Gòn - Chợ Lớn. Người có công khai sáng ngôi Tam Bảo là Hòa thượng Thích Minh Thành. Năm 1965, Ngài cho xây dựng Niệm Phật Đường Pháp Vân trên đường Trương Minh Giảng, Quận 3 là tiền thân của Pháp Vân Tự ngày nay. Với hạnh nguyện về giáo dục, Hòa thượng đã Tổ chức nơi đây trở thành Trường Tiểu học Bồ Đề Pháp
Phường 14 - Chùa Pháp Vân
337
Vân và làm hiệu trưởng trường này cho đến năm 1975. Tuy nhiên,ngày nay, người được nhắc đến nhiều hơn là Hòa thượng Thích Thiện Đức (1939 - 1995) với vai trò là tiền Trụ trì và là người thành lập Tự viện. Sau khi HT-. Thiện Đức viên tịch, TT. Thiện Bửu là đệ tử kế đăng Trụ trì từ năm 1995 đến nay. Chùa để lại nhiều hình ảnh và chỉ dấu liên quan đến nhiều Hòa thượng có công lớn trong việc xây dựng và phát triển Tổ đình Ấn Quang. Chùa Pháp Vân hiện tọa lạc tại số 12/6 Trần Quang Diệu, Phường 14, Quận 3, Tp. HCM.
338 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
KHÔNG GIAN - KIẾN TRÚC Hiện tại, chùa Pháp Vân được xây dựng gồm một trệt và một tầng lầu. Tầng trệt là giảng đường và trai đường; tầng lầu là không gian chánh điện và nhà Tổ. Chùa đã qua hai lần trùng tu vào năm 1987, 1996, 2019 để có kiến được kiến trúc như ngày nay. Các gian thờ với phối cảnh trang nghiêm, thanh tịnh, giản dị trong thể hiện các đường nét hoa văn trang trí, điêu khắc.
SỰ THỜ PHỤNG Chánh điện chùa Pháp Vân được thiết kế gồm một mái gác và đơn giản về các họa tiết trang trí Phật giáo. Mái gác được bày trí các tượng Phật A-di-đà, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Quan Thế Âm và Đức Phật Di Lặc. Không gian lớn của chánh điện là nơi tôn thời đức Phật Thích Ca, bên hữu có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, bên tả có Phổ Hiền Bồ Tát, cùng Thất Phật Dược Sư. Ngoài ra còn có đức Phật Chuẩn Đề, Thích Ca sơ sinh, Thiên
Phường 14 - Chùa Pháp Vân
339
Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát, Tiêu diện Đại sĩ, Hộ Pháp. Tại bàn thờ Tổ được đặt sau chánh điện của chùa. Bàn Tổ bao gồm tượng Bồ Đề Đạt Ma cùng chân dung của các cố Hòa thượng như: HT. Thích Chơn Niệm, HT. Thích Minh Thành, HT. Thích Thiện Hòa, HT. Thích Thiện Hoa và HT. Thích Chơn Lý. Một số bài vị được đặt tại bàn thờ Tổ: Bài vị 1: 嗣濟上正宗四十三世諱心行上眞下理號善德阮公上座覺靈蓮座 出世己卯年正月初一日卯时 收神乙亥年十二月初六日酉时 Phiên âm: Tự Tế Thượng Chánh Tông tứ thập tam thế húy Tâm Hạnh thượng Chơn hạ Lý hiệu Thiện Đức Nguyễn Công thượng tọa giác linh liên tọa. Xuất thế Kỷ Mão niên chánh ngoạt sơ nhất nhật Mão thời. Thâu thần Ất Hợi niên thập nhị ngoạt sơ lục nhật Dậu thời. Tạm dịch: Hòa thượng Thích Chơn Lý, hiệu Thiện Đức, húy Tâm Hạnh, thế danh họ Nguyễn, thuộc dòng Tế thượng chánh tông đời thứ 43. Ngài được sinh vào giờ Mão, ngày 1 tháng Giêng năm Kỷ Mão (1939), mất vào giờ Dậu, ngày 6 tháng 12 năm Ất Hợi (1995). Bài vị 2 Chính văn: 奉為嗣濟上正宗四十三世諱心語上善下言和尚覺靈座位 十二月二十五日正忌 Phiên âm: Phụng vì tự Tế Thượng Chánh Tông tứ thập tam thế húy Tâm Ngữ thượng Thiện hạ Ngôn hòa thượng giác linh tọa vị. Thập nhị ngoạt nhị thập ngũ nhật chánh kỵ. Tạm dịch: Hòa thượng Thích Thiện Ngôn, húy Tâm Ngữ, ngày giỗ là 25 tháng 12 âm lịch.
340 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Hoành phi, liễn đối Hán-Nôm Câu đối cổng chùa: Chính văn: 念佛名行法事唯求棵滿功圓 法雲覆慈再露普願民安國泰 Phiên âm: Niệm Phật danh hành pháp sự duy cầu quả mãn công viên Pháp Vân phục từ tái lộ phổ nguyện dân an quốc thái1 Chánh điện có hoành phi ĐẠI HÙNG BẢO ĐIỆN 大雄寶殿 cùng câu đối: Chính văn: 大慈開覺路惟精惟一福菓圓脩 雄力化群生是色是空人寰仰慕 Phiên âm: Đại từ khai giác lộ duy tinh duy nhất phúc quả viên tu, Hùng lực hóa quần sinh thị sắc thị không nhân hoàn ngưỡng mộ . CÁC BẬC TÔN ĐỨC TIÊU BIỂU 1. Hòa thượng Thích Minh Thành ( 1937 - 2000 ) HT. Thích Minh Thành được xem là người khởi xướng lập nên Pháp Vân Tự từ những ngày đầu. Trong quá trình châu du, hành đạo, chùa được quản trị bởi HT. Thích Thiện Đức. Trước đó, vào năm 1963, cố hòa thượng cùng với Ban đại diện Phật giáo Quận 3 đương thời lập nên ngôi Niệm Phật đường Minh Đạo, tiền thân của chùa Minh Đạo ngày nay và Ngài cũng đảm nhiệm vai trò Trụ trì ở chùa Minh đạo đến năm 1992. Đến năm 1993, Ngài hoạt động Phật sự tại Tổ đình Ấn Quang. HT. Thích Minh Thành có pháp danh Nhựt Sanh, pháp tự Thiện Xuân thuộc thiền phái Lâm Thế Gia Phổ đời thứ 41. Ngài có thế danh là Hà Văn Xin, sinh ngày 4/8/1937, tại Châu Đốc, An Giang. Hòa thượng nguyên là Giám đốc Đại Tòng lâm Phật giáo ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Tổng quản sự Tổ đình Ấn Quang thay thế cho HT. Thích Minh Hạnh qua đời và đảm nhận nhiều trọng trách trong Trung ương Giáo hội Tp. Hồ Chí Minh. 1 - Tại chùa, hai câu đối đã bị mặt bằng nâng cao che lấp mất chữ viên 圓 và chữ thái 泰
Phường 14 - Chùa Pháp Vân
341
Các giáo trình Phật học do cố hoàn thượng biên soạn bao gồm: Phật học Đức dục, Luật học cơ bản, Tỳ-ni Sa-di yếu giải, Oai nghi cảnh sách yếu giải, Bồ tát giới yếu giải, Tỳ kheo giới yếu giải, Bồ tát Ưu bà tắc giới kinh và một số khác. Hòa thượng Thích Minh Thành viên tịch vào ngày 15/01/2000, nhằm ngày mồng 9 tháng Chạp năm Kỷ Mão, tại Tổ đình Ấn Quang, trụ thế 63 năm. 2. Hòa thượng Thích Thiện Đức ( 1939 - 1995) Sinh ra và lớn lên tại vùng Châu Đốc, trong gia đình có truyền thống Cách mạng và có căn duyên sâu dày với Tam Bảo. Thuở nhỏ xuất gia với cố HT. Thích Thiện Ngôn Trụ trì chùa Phước Hậu, Long Xuyên, thuộc sơn môn Thiên Thai Thiền Giáo Tông, với bản tính hiền lành, ham học, được Thầy thương bạn mến. Tu học trong giai đoạn đất nước bị chiến tranh, bằng tinh thần dân tộc, cùng chí nguyện nhập thế giúp đời, Hòa thượng đã tham gia hoạt động Cách mạng tại địa phương. Đến thập niên 50, Hòa thượng lên Sài Gòn, y chỉ cố Hòa thượng Thích Thiện Hào để tham gia các hoạt động Phật sự và tiếp tục tham gia Cách mạng tại Sài Gòn. Đến thập niên 70, Hòa thượng được HT. Minh Thành và Phật tử chùa Pháp Vân thỉnh về làm Trụ trì chùa Pháp Vân, hướng dẫn đạo tràng tu học, tiếp Tăng độ chúng. Cũng trong thời điểm này, Hòa thượng vẫn tham gia nhiều Phật sự quan trọng của Giáo hội thời bấy giờ. Sau năm 1975, Hòa thượng là Phó Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước Quận 3, do HT. Thích Pháp Lan làm Trưởng ban.
342 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Năm 1981, Sau khi GHPGVN ra đời, Hòa thượng là Ủy viên BTS Phật giáo TP Hồ Chí Minh, được công cử tham gia thành lập Ban Đại diện Phật giáo Quận 3. Trong nhiệm kỳ I (từ 1983 - 1985), Hòa thượng được suy cử Chánh Đại diện Phật giáo Quận 3.Tiếp đó, Hòa thượng được suy cử Ủy viên thường trực phụ trách Kinh tế nhà chùa của Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh. Với trách nhiệm “Như Lai sứ giả” Hòa thượng có đóng góp rất lớn tới Phật sự của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Phật giáo Quận 3 nói riêng. Với ngôi chùa Pháp Vân, Hòa thượng có công lớn khi xây dựng và duy trì sự phát triển Phật sự liên tục. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Đến cuối năm 1945, Hòa thượng viên tịch, trở về cõi Phật, TT. Thiện Bửu là đệ tử kế vị Trụ trì từ năm 1945 đến nay. Trải qua hơn 40 năm xây dựng, ngôi chùa bị xuống cấp trầm trọng, với tâm nguyện trùng hưng chốn Tổ, báo ân Phật đức, đến năm 2018, TT. Thiện Bửu đứng ra vận động xây dựng lại ngôi Tam Bảo được trang nghiêm, đáp ứng nhu cầu tu học của Tăng chúng và sinh hoạt Phật sự tại bổn tự. Hiện nay, Thượng tọa Thích Thiện Bửu tiếp nối sự nghiệp của Thầy Tổ, Thượng tọa tích cực tham gia công tác Phật sự của Phật giáo tại địa phương, đảm nhiệm Thư ký Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 (2007-2012), từ tháng 4- 2016, là Phó Trưởng ban Thường trực GHPGVN Quận 3. Chùa Pháp Vân thường xuyên Tổ chức các hoạt động An sinh xã hội, phát quà từ thiện, cứu trợ thiên tai,…. tại các địa phương, nhận được sự ủng hộ và cảm tình rất lớn của Phật tử và nhân dân địa phương THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 12/6 Trần Quang Diệu, Phường 14, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. Năm thành lập: 1965 Người khai sơn: HT. Thích Minh Thành, HT. Thích Thiện Đức Hệ phái: Bắc Tông. Năm trùng tu: 1995 - 2019 Trụ trì tiền nhiệm: HT. Thích Thiện Đức Trụ trì hiện nay: TT. Thích Thiện Bửu
Phường 14 - Chùa Kim Cương
CHÙA KIM CƯƠNG Chùa Kim Cương được xây dựng vào năm 1956, tọa lạc tại 108/61, Trần Quang Diệu, Phường 14, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ CHÙA KIM CƯƠNG
C
hùa Kim Cương là một trong những ngôi chùa được thành lập sớm nhất trên địa bàn Quận 3. Chùa được xây dựng vào năm 1956 bởi HT. Thích Thanh Thạnh. Chùa trải qua các đời Trụ trì HT. Thích Thanh Thạnh, HT. Thích Thanh Chữ, HT. Thích Tuệ Đăng, và Trụ trì đương nhiệm là TT. Thích Thanh Trí. Chùa trải qua các đợt trùng tu vào năm 1991, có khuôn viên rộng 587,6m2 tọa lạc tại 108/61, Trần Quang Diệu, P. 14, Q.3, Tp. HCM1. 1 - Theo Quyết định số 3987/QĐ - UBND Tp. HCM ngày 26/7/2017 về công nhận quyền sử dụng đất cho chùa Kim Cang.
343
344 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
KHÔNG GIAN - KIẾN TRÚC
Với diện tích đã có, Phật điện của chùa Kim Cương được xây dựng và bố trí tạo cảm giác rộng và thoáng đãng. Chùa được xây dựng một trệt, một lầu bao gồm hệ thống cổng tam quan, cửa chính, Điện thờ Tổ (tầng trệt), Chánh điện (lầu 1), khu Tăng xá sau chùa và tiểu cảnh trang trí xung quanh chùa. Cổng tam quan của chùa có đắp nổi hai vị Hộ pháp, những linh thần có chức năng răn quỷ dữ và bảo vệ Phật pháp xuất phát từ các tích truyện Phật giáo. Chùa nổi bật với các vật dụng được bàn ghế và tủ gỗ nơi điện thờ Tổ. Các vật trưng thờ được chạm khắc nổi các linh vật long, lân, qui, phụng, lá-hoa hóa rồng. Các bộ bao lam, bông gió cũng lấy các hoạt tiết rồng, lân làm chủ đạo. Tùng, cúc, trúc, mai được sử dụng làm họa tiết cho cửa sổ và cửa ra vào nơi chánh điện. Kiến trúc bê tông hiện đại kết hợp với mái cong được trang trí lá hóa rồng-phụng, các tiểu tiết trang trí truyền thống, không gian xanh của tiểu cảnh làm hài hòa giữa các nét truyền thống và hiện đại.
Phường 14 - Chùa Kim Cương
345
SỰ THỜ PHƯỢNG Điện thờ Tổ Điện thờ Tổ là một không gian rộng lớn tại tầng trệt thờ lịch đại Tổ sư thiền tông và các bậc tôn đức. Bài vị chữ Hán lớn được đặt làm trọng yếu thờ Lịch đại Tổ sư Thiền tông của Việt Nam: NAM MÔ VIỆT NAM PHẬT GIÁO LỊCH ĐẠI TỔ SƯ THIỀN TÔNG 南無越南佛教歷代祖師禪宗. Bàn thờ tôn trí bài vị của hai hòa thượng Thích Thanh Thạnh (1) và Thích Tuệ Đăng (2) lập công đức với chùa Kim Cương và HT. Thích Quảng Thiệp của chùa Viên Âm:
1. 金剛堂上法諱清盛大老和尙覺靈 Kim Cương đường thượng pháp húy Thanh Thạnh đại lão hòa thượng giác linh. 2. 金剛堂上法諱清純慧燈和尙覺靈 Kim Cương đường thượng pháp húy Thanh Thuần Tuệ Đăng hòa thượng giác linh.
346 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
3. 圓音堂上法諱廣涉道芽和尙覺靈 Viên Âm đường thượng pháp húy Quảng Thiệp Đạo Nha hòa thượng giác linh2. Ngoài ra, không gian nơi thờ Tổ còn bày trí tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát và Đức Phật A Di Đà. Chánh điện Chánh điện là nơi diễn ra các nghi thức lễ thường nhật và trọng lễ (như Phật đản). Hằng ngày, chánh điện là nơi đạo tràng Phật tử địa phương đến công phu bái sám. Chánh điện được sắp đặt đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm. Tượng Phật Thích Ca là điểm nhấn cho không gian rộng lớn. PHẬT SỰ, LỄ HỘI Thời khóa Công phu Hằng ngày, Phật tử địa phương thường tham gia công phu bái sám lúc 7h tối. Chùa Kim Cương Tổ chức một thời khóa cụ thể cho các lễ thường nhật và lễ lớn trong năm. Thời khóa Tụng kinh - Sám hối - Thuyết pháp tại chùa Kim Cương: Lễ sám hối mỗi ngày 14 và 30 âm lịch hằng tháng, Lễ Bố tát và Cầu an: Tối 7h lễ Bố tát (tụng giới cho Phật tử) và lễ cầu an vào ngày 15 và mùng 1 âm lịch hằng tháng. Đàn Dược Sư Thất châu: Mỗi năm tại chùa khai đàn dược sư vào ngày 23 tháng Giêng và 23 tháng 9 âm lịch với chương trình riêng. Thuyết pháp: Tối 7h Chủ Nhật hàng tuần chùa có Tổ chức Thuyết pháp. Tết Nguyên đán, Rằm tháng Giêng, Lễ Phật đản, Lễ Vu lan là những ngày lễ lớn trong năm được chùa Tổ chức quy mô lớn với chương trình cụ thể. Đại lễ Phật đản Đại lễ Phật đản diễn ra tại chùa Kim Cang được xem như là một lễ hội lớn tại địa phương với nhiều lớp trình diễn đặc sắc về âm nhạc và hình ảnh. 2 - Viên Âm tịnh thất tại Hoa Kỳ của cố Hòa thượng Thích Quảng Thiệp, Đ/c: 14431 Flower St. Garden Grove, CA 92843. Tel (714) 839-7289
Phường 14 - Chùa Kim Cương
347
Mỗi năm, Lễ Phật Đản được Tổ chức kéo dài trong một tuần với các buổi thuyết pháp, quy y, rước kiệu Phật từ mồng 8 tháng 4 đến rằm tháng 4. Tuần đại lễ không chỉ thu hút Phật tử, các đội nhóm tình nguyện tham gia, mà còn ảnh hưởng đến không khí sinh hoạt của người dân địa phương. Điểm đặc sắc trong buổi lễ rước kiệu Phật là tôn vinh các nét văn hóa trong lễ hội truyền thống của Việt Nam. Chùa Kim Cương kết hợp đội rước kiệu Phật theo sau đoàn múa long, phụng. Đoàn rước bao gồm nam nữ trong trang phục áo dài truyền thống Việt Nam và sử dụng đoàn nhạc cụ dân tộc làm âm thanh chủ đạo cho nghi lễ. Đoàn rước kiệu Phật diễu hành qua các tuyến đường lớn như Trần Quang Diệu, Lê Văn Sĩ góp phần tạo nên không khí sống
động của ngày lê Phật giáo đối với đời sống trong khu vực thành thị. Câu đối Hán-Nôm Chánh điện của chùa có hoành phi Pháp Vương Bảo Điện 法王寶殿 cùng với câu đối có nguồn gốc từ chùa Quán Sứ (Hà Nội)3: Chính văn: 法界不思議耀古騰今於一毛端現寶王剎 3 - Tham khảo “Đặc sắc câu đối chùa Quán Sứ”, http://phatgiao.org.vn , ngày 16/12/2017.
348 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
世間真調御隨機逗教坐微塵裏4轉大法輪5 Phiên âm: Pháp giới bất tư nghị diệu cổ đằng kim ư nhất mao đoan hiện bảo vương sát, Thế gian chân điều ngự tùy cơ đậu giáo tọa vi trần lý chuyển đại pháp luân. Tạm dịch: Giáo pháp không thể nghĩ bàn, thấu xưa vượt nay, ở trên đầu một sợi lông hiện lên tòa nhà vương báu, Bậc Điều ngự của thế gian, theo cảnh dạy đạo, bên trong hạt bụi mà chuyển bánh xe pháp luân. Ngoài chánh điện, các câu đối còn lại của chùa được bố trí chủ yếu ở cổng ra vào. Các đại tự và câu đối được sử dụng đan xen giữa những câu đối Hán tự và chữ Quốc ngữ. Câu đối chính ở cổng giữa tam quan: Tới cửa từ bi ngào ngạt hương thơm hoa giải thoát, 4 - Chùa Quán Sứ dùng chữ lý dạng 裡, tại chùa Kim Cang dùng chữ lý dạng 裏. 5 - Câu đối Hán tự này do HT. Thích Doãn Hài (tổ Tế Cát) đặt ra vào năm 1942 và được bố trí tại ban thờ Chuẩn Đề Vương Bồ Tát nơi chùa Quán Sứ, Hà Nội.
Phường 14 - Chùa Kim Cương
349
Vào nhà trí tuệ rạng ngời ánh đạo nụ bồ đề. Đại tự Pháp hải thường lưu 法海常流 và câu đối ở cửa chính: Bước tới Kim Cương theo đường giới định giũ sạch mê mờ phiền não, Quay về tự tín tỏa ánh từ quang khơi nguồn trí tỏa chân như. Hai cửa Từ Bi 慈悲 và Trí Huệ 智慧 hợp với câu đối: 入門瞻視黄金殿 Nhập môn chiêm thị hoàng kim điện, 進步皈依大法王 Tiến bộ quy y đại pháp vương. Tạm dịch: Vào cửa ngưỡng thấy điện vàng, Quy y theo Phật đạo đàng bước lên. CÁC TÔN ĐỨC TIÊU BIỂU 1. HT. Thích Thanh Thạnh Năm 1956, HT. Thích Thanh Thạnh lập nên Kim Cương Đường là tiền thân của chùa Kim Cương ngày nay. Ngài được biết đến là Thượng thủ Giáo hội Tăng già Bắc Việt tại Miền Nam. Năm 1955, Nhóm Gia đình Phật tử Giác Minh được thành lập và trong năm 1957, nhóm đã dời đến chùa Kim Cương sinh hoạt do ĐĐ. Thích Chánh Tiến đang đảm đương Trụ trì chùa Kim Cương, sau đó dời về chùa Giác Minh. HT. Thích Thanh Thạnh được xem là người khai sơn Kim Cương đồng thời sinh hoạt Phật sự tại chùa Giác Minh (578, Phan Thanh Giảng, Saigon). Lúc bấy giờ, chư Tăng tại chùa Giác Minh bao gồm các sư Đức Nhuận, Bình Minh, Quảng Độ, Chính Tiến, Huyền Minh, Tuệ Hải, Thanh Roãn (Trụ trì chùa Long Vĩnh) tham gia vào các phong trào Gia đình Phật tử. Vào năm 1964, sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, HT. Thích Tuệ Đăng đảm nhận Trụ trì chùa Kim Cương.
350 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
2. HT. Thích Tuệ Đăng (1927-1997)6 HT. Thích Tuệ Đăng, húy Thanh Thuần, hiệu Tuệ Đăng, thế danh là Nguyễn Đức Nhung, quê quán thuộc Vân Bồng, Yên Khánh, Ninh Bình. Ngài là con thứ 3 trong gia đình 7 anh em có truyền thống Nho học. Năm lên 6 tuổi, Ngài đã thông dạt các bộ sách căn bản Nho gia được học từ trường làng và gia đình. Năm 1936, Ngài bước vào cửa thiền, xuất gia cầu đạo. Ngài quy y với hòa thượng Thích Quảng Thân, Trụ trì chùa Phúc Sanh (chùa Bến, Hải Dương). Bổn sư ban pháp danh cho Ngài là Thanh Thuần, hiệu Tuệ Đăng. Từ đó, Hòa thượng dốc lòng cầu đạo và thông đạt hai bề Phật, Nho. Trong giai đoạn 1940-1946, Ngài tiếp tục thọ giới và đảm nhiệm các chức vị ban đầu tại Hải Dương. Năm 1954, sau Hiệp định Genève, HT. Thích Tuệ Đăng vào Nam hoằng hóa với vai trò là Giám viện chùa Giác Hoa - Gia Định. Sau đó, Ngài Trụ trì chùa Văn Thánh - Thị Nghè năm 1956, Trụ trì chùa Kim Cương năm 1964. Ngài đã có công vận động tài chính để phát triển cơ sở 6 - Tham khảo Thích Đồng Bổn (chủ biên), “Hòa thượng Thích Tuệ Đăng” trong Tiểu sử Danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, Tập II, 2001, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
Phường 14 - Chùa Kim Cương
351
chùa Kim Cương trở thành cơ sở đào tạo Tăng tài. Từ sau 1975 đến 1981, Ngài giảng dạy Phật học và Nho học ở nhiều tu viện như Ấn Quang, Từ Nghiêm, Vĩnh Nghiêm và Kim Cương. Ngài còn biên soạn, dịch thuật nhiều công trình Phật, Nho có giá trị. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 108/61 Trần Quang Diệu Điện thoại: 028.3843 9880 Năm thành lập: 1956 Người sáng lập: HT Thích Thanh Thạnh Hệ phái: Bắc tông Năm trùng tu: 1991 Chư vị Trụ trì tiền nhiệm: HT Thích Thanh Thạnh, HT Thích Thanh Chữ, HT Thích Tuệ Đăng(1931-1996) Trụ trì hiện nay: Thượng tọa Thích Thanh Trí Các ngày kỵ giỗ trong năm: 04/01 ÂL giỗ Tổ Kim Cương
352 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA VĨNH PHƯỚC Chùa Vĩnh Phước tọa lạc tại 80/96 đường Trần Quang Diệu, Phường 14, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ CHÙA VĨNH PHƯỚC
C
hùa Vĩnh Phước là ngôi chùa hạ tầng cơ sở và kiến trúc đơn giản, tọa lạc tại 80/96 đường Trần Quang Diệu, P.14, Q.3, Tp.HCM. Chùa được thành lập năm 1942 do ông Trần Văn Giác để làm nơi tu tập tại gia và được trùng tu vào năm 2012. Chùa được hình thành trên khuôn viên Thiền đường của gia đình họ Trần. Đến năm 2012, gia đình bà Tăng Thị Lành ( pháp danh Diệu Thiện) hiến cúng cho Thượng tọa Thích Thanh Phong- Trụ trì Tổ đình Vĩnh Nghiêm, đồng thời cũng trong năm này, TT. Thanh Phong ủy quyền cho ĐĐ. Thích
Phường 14 - Chùa Vĩnh Phước
353
Vạn Thiện về quản tự và lập thủ tục xin gia nhập Giáo hội, dựng bảng hiệu thành cơ sở tôn giáo trực thuộc GHPGVN Quận 3 và TP. Hồ Chí Minh. KHÔNG GIAN - KIẾN TRÚC Từ khi tiếp nhận vai trò quản tự, ĐĐ. Thích Vạn Thiện đã quyết tâm trùng tu lại toàn diện ngôi Tam Bảo cho kiên cố, trang nghiêm hơn, Tổ chức nhiều Khóa tu học cho chư Tăng các nơi về tạm trú tham gia học tập các trường Phật học tại Tp. Hồ Chí Minh.
Năm 2012, Chánh điện của chùa được xây dựng trong không gian mở, nằm dưới mái che lớn và chưa hoàn thiện về kiến trúc, hạ tầng cơ sở. Không gian bên trong chùa là một khoảng sân lớn. Tiền diện có tượng Phật Thích Ca sơ sinh tạo không gian phân định ngôi chánh điện với sân ngoài. Chánh điện của chùa được phân chi thành nhiều ban thờ như Tây Phương Tam Thánh cùng Thất Phật Dược Sư; Thích Ca Mâu Ni, tả Quán Thế Âm, hữu Địa Tạng Vương Bồ Tát; Phật Mẫu Chuẩn Đề.
354 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Bàn thờ Tổ là nơi an trí tượng Bồ đề đạt ma và các bậc cao Tăng của Phật giáo, đồng thời bên cạnh là bàn thờ tưởng niệm gia tộc họ Trần đã có công thành lập chùa. Chùa vẫn còn lưu lại ban thờ bà Ngũ Hành, chúa Tiên Nương nương và Phật Địa Mẫu, chỉ dấu của tín ngưỡng thờ Mẫu tại địa phương. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Ngoài việc duy trì các hoạt động tôn giáo hằng tháng, hằng quý, chùa Vĩnh Phước còn tham gia các hoạt động từ thiện, cứu trợ đồng bại bị thiên tại tại các tỉnh miền Trung và miền Tây. Chùa còn Tổ chức các buổi
Phường 14 - Chùa Vĩnh Phước
355
sinh hoạt tôn giáo cộng đồng cho cư dân địa phương nhân ngày lễ Vu Lan hay Ngày Quốc Tế Thiếu Nhi. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 80/96 Trần Quang Diệu, Phường 14, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. Năm thành lập: 1942 Người sáng lập: Cụ Trần Văn Giác Hệ phái Bắc Tông Năm trùng tu: 2012 Quản tự tiền nhiệm: Cụ Trần Văn Giác, Trần Thị Kiều, Trần Kim Đồng, bà Tăng Thị Lành ( Pháp danh Diệu Thiện) Quản tự hiện nay: TT. Thích Vạn Thiện
356 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CHÙA PHƯỚC HUỆ Chùa Phước Huệ hiện tọa lạc tại số 45 cư xá Trần Quang Diệu- Trần Huy Liệu, Phường 14, Quận 3 , Thành phố Hồ Chí Minh. LƯỢC SỬ CHÙA PHƯỚC HUỆ
C
hùa Phước Huệ phát triển từ Tịnh thất Phước Huệ, do ông Nguyễn Gia Tường thành lập năm 1965 với Tổng diện tích 87,6 m2 trong khu cư xá Trần Quang Diệu, cư dân chủ yếu là lớp trí thức, với tâm nguyện nơi đây sẽ trở thành đạo tràng tu học cho nhân dân trong vùng dưới sự hướng dẫn của Tăng Ni. Duyên lành hội đủ, ông Nguyễn Gia Tường thỉnh Sư cô Như Long (là cháu gái trong gia tộc của ông đã xuất gia từ lâu) về Trụ trì Tịnh thất. Qua nhiều thập niên, dưới
Phường 14 - Chùa Phước Huệ
357
sự điều hành Phật sự của Ni sư Như Long, tịnh thất Phước Huệ nay trở thành Chùa Phước Huệ, với thiết kế đầy đủ, đáp ứng nhu cầu tu học của Tăng Ni và Phật tử. Năm 2015, do niên cao lạp trưởng, với tha thiết nối dài mạng mạch ân đức chư Phật, Ni sư Như Long đối thỉnh Ban Trị sự Phật giáo Quận 3 mời ĐĐ. Thích Quảng Hiếu hiện là Phó Thư ký BTS Phật giáo Quận 3 quản tự, giúp đỡ điều hành Phật sự. Năm 2020, Ban Trị sự GHPGVN TP. Hồ Chí Minh chính thức bổ nhiệm ĐĐ. Thích Quảng Hiếu làm Trụ trì chùa Phước Huệ, quản lý và điều hành Phật sự tại bổn tự. KIẾN TRÚC Tầng trệt: Nhà Tổ và Nhà hương linh Tầng 1: Liêu phòng của đại chúng Chánh Điện: bài trí tôn tượng Phật Thích Ca, Phật Dược Sư Tầng thượng: thiết trí tôn tượng Quán Âm Bồ Tát
358 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ Tuy tuổi cao, sức yếu nhưng Ni sư Thích Nữ Như Long luôn quan tâm công tác An sinh xã hội tại địa phương bên cạnh Tổ chức Đạo tràng tu học thường niên tại chùa. Với nhiều đóng góp nhất định, Chùa Phước Huệ đã nhận được nhiều Bằng Tuyên dương công đức của Ban Trị sự, Bằng khen của nhiều Tổ chức xã hội, được sự kính mến của đông đảo Phật tử. Chùa là nơi quy hướng của các gia đình Phật tử trong vùng, góp phần vào sự hoằng truyền Chánh pháp khắp muôn nơi. THÔNG TIN LIÊN LẠC Địa chỉ: 45 cư xá Trần Quang Diệu- Trần Huy Liệu, Phường 14, Quận 3
Phường 14 - Chùa Phước Huệ
Điện thoại: 028.3935 1389 Năm thành lập: 1984 Người sáng lập: Cụ Nguyễn Gia Tường Hệ phái: Bắc tông Viện chủ: Ni sư Thích Nữ Như Long Trụ trì: Đại đức Thích Quảng Hiếu
359
360 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
CÔNG VIÊN TƯỢNG ĐÀI BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC Công viên nằm tại giao lộ Cách Mạng Tháng Tám Nguyễn Đình Chiểu, Q.3, TP.HCM thuộc Quản lý UBND Quận 3
P
hật giáo năm 1963 đã đạt đến một trạng thái thống nhất mới, trong điều kiện mới và tỏ rõ đặc tính chủ động trong biểu hiện của sự thống nhất đó. Phải có tự tin tới mức nào về sự thống nhất đó mà Hòa thượng Quảng Đức đã đi đến một quyết định phản kháng quyết liệt là tự thiêu, và do đó lại càng thúc đẩy sự thống nhất ra đời năm 1964 là kết quả hữu cơ của sự thống nhất đó. Giáo hội này đã đóng vai trò lịch sử xứng tầm của nó. Nó chính là tiền đề thiết yếu để dẫn đến một cuộc đại thống nhất vào năm 1981 của Phật giáo Việt Nam theo nghĩa hoàn chỉnh nhất của danh xưng này. Nguyễn Quốc Tuấn - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. “Xin có một vài ý kiến tự đáy lòng để trình bày với chư Tăng và Phật tử. Thích Quảng Đức đã vị Pháp thiêu thân. Trong lòng tôi mấy mươi năm nay chỉ biết Thích Quảng Đức vị quốc thiêu thân. Và tôi thường nói Hòa thượng Thích Quảng Đức như là một người yêu nước. Không biết có
Công Viên Tượng Đài Bồ Tát Thích Quảng Đức
361
đúng không nhưng mà Thích Quảng Đức cũng là một vị đại anh hùng của dân tộc”- Giáo sư Trần Văn Giàu
Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu từ lâu đã là một biểu tượng cao quý cho ngọn lửa từ bi, trí tuệ sáng rỡ nhất của Phật giáo Việt Nam, vị Thánh Tăng mà lịch sử của Ngài được lớp lớp thế hệ Phật giáo đều tự hào về sức mạnh của Phật pháp mầu nhiệm. Không những vậy còn rung động thế giới, tiếp sức cho phong trào đấu tranh bất bạo động tại các nước thuộc địa, tác động thay đổi diện mạo chính trị của miền Nam Việt Nam, góp phần vào công cuộc thống nhất đất nước vĩ đại của dân tộc ta “Sự kiện vị Pháp thiêu thân của Bồ-tát Quảng Đức là một biểu trưng tâm linh bất diệt, cần phải được phân tích dưới nhiều góc độ khoa học, lịch sử, tôn giáo, để các thế hệ kế thừa ngày nay được học tập và nhận thức rõ ràng về ý nghĩa hành động vị Pháp thiêu thân ấy, vốn là động cơ, là sức mạnh của sự tập hợp đoàn kết, làm nên đại cuộc cho Đạo pháp và Dân tộc”- Giáo sư Lê Mạnh Thát Với nhiều ý nghĩa lịch sử đầy giá trị, nhân văn đó, Chính quyền
362 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định xây dựng một khu tưởng niệm Bồ Tát Thích Quảng Đức, đặt ngay trên địa danh lịch sử nơi Bồ Tát tự thiêu, nay thuộc địa bàn Quận 3. Theo Quyết định số 4711/QĐ-UBND của UBND Thành phố, trong năm 2007 Sở Văn hóa - Thể thao đã phối hợp với Thành hội Phật giáo tổ chức cuộc thi sáng tác mẫu tượng đài và phù đêu công trình Công viên tượng đài Bồ Tát Thích Quảng Đức. Kết quả trong số 15 tác phẩm dự thi của các nhà điêu khắc và họa sỹ, Ban Tổ chức đã chọn một giải chính thức thuộc về điêu khắc gia Võ Công Thắng và bốn giải khuyến khích của tác giả Lê Lan Biên, Võ Công Chiến, Trần Mai Quốc Khánh và Nguyễn Trung Tín. Tác phẩm đoạt giải chính thức của điêu khắc gia Võ Công Thắng đã được Thành hội Phật giáo và các sở, ban ngành liên quan của Thành phố đóng góp ý kiến, chỉnh sửa, nâng cấp hoàn chỉnh trước khi đưa ra thi công. Tượng đài Bồ Tát Thích Quảng Đức được đúc bằng đồng nguyên chất, cao 6m, nặng 12 tấn; thể hiện Bồ Tát với dáng ngồi uy nghi, khuôn mặt bình thản, xung quanh là hình tượng những ngọn lửa bao trùm kim thân của Ngài.
Công Viên Tượng Đài Bồ Tát Thích Quảng Đức
363
Phía sau tượng đài là tấm phù điêu dài 16m, cao 3m, mô tả cảnh đấu tranh chống chính sách kỳ thị Phật giáo của nhân dân miền Nam vào năm 1963. Công viên tượng đài Thích Quảng Đức được xây dựng nhằm ghi dấu sự kiện vào ngày 11 tháng 06 năm 1963, cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã vị pháp thiêu thân để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo. Diện tích của Công viên tượng đài Bồ Tát Thích Quảng Đức rộng 1.850m2, bao gồm nhiều hạng mục công trình như tượng đài, phù điêu, thảm cỏ, hồ sen, cây xanh..., thời gian thi công trong vòng năm năm với kinh phí đầu tư hơn 23 tỷ đồng. Công viên mang giá trị văn hóa, lịch sử quan trọng của Thành phố, hàng năm thu hút nhiều du khách đến tham quan và Phật tử đến chiêm bái. BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC... “Sinh thời, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã lưu nhiều dấu tích hành trạng tại mảnh đất linh thiêng Quận 3, Ngài từng Trụ trì Chùa Long Vĩnh, Chùa Phước Hòa (đường Bàn Cờ)...gắn bó Phật sự với nhiều Tổ chức Hội, Giáo hội đặt trụ sở tại Quận 3. Tăng Ni, Phật tử và nhân dân Quận 3 hoàn toàn có thể tự hào vì ngay chính nơi quận nhà của chúng ta, những bậc Bồ Tát cao Tăng đã từng dừng chân hành đạo, cứu khổ giúp đời. Để giúp bạn đọc có thể tìm hiểu đầy đủ và nhận thức giá trị của sự kiện Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu năm 1963, chúng tôi xin trích lại phần tiểu sử của Hòa thượng Quảng Đức do Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam biên soạn, tại Hội thảo “Bồ Tát Quảng Đức - Vị pháp thiêu thân” được tổ chức năm 2005.” - Ban biên tập Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Ngài sinh trong một gia đình có 7 anh chị em, thân sinh là cụ ông Lâm Hữu Ứng và cụ bà Nguyễn Thị Nương.
364 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Lên 7 tuổi, Ngài được song thân cho xuất gia thụ giáo với Hòa thượng Như Đạt - Minh Lý, tự Hoằng Thâm, thuộc dòng thiền Chúc Thánh, là cậu ruột, được Hòa thượng nhận làm con và chính thức đổi tên họ là Nguyễn Văn Khiết. Năm 15 tuổi, Ngài thọ giới Sa Di, năm 20 tuổi thọ giới Tỳ Kheo và Bồ
Công Viên Tượng Đài Bồ Tát Thích Quảng Đức
365
Tát, được pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hạnh Pháp, pháp hiệu Quảng Đức. Sau đó Ngài phát nguyện nhập thất tu ba năm trên một ngọn núi ở Ninh Hòa. Về sau Ngài có lập trên núi này một ngôi chùa lấy hiệu là Thiên Lộc Tự. Rời núi, Ngài vân du hóa đạo một mình với chiếc bình bát theo hạnh đầu đà (khất thực). Hai năm mãn nguyện, Ngài lại quay về nhập thất tại
366 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
chùa Sắc Tứ Thiên Ân ở Ninh Hòa, gần Thành phố Nha Trang. Năm 1932 hội An Nam Phật Học ra đời, Đại lão Hòa thượng Hải Đức đến nơi Ngài đang nhập thất thăm hỏi, mời Ngài nhận chức Chứng minh Đạo sư cho Chi hội Phật học Ninh Hòa. Ba năm sau, Ngài được thỉnh cử giữ chức Kiểm Tăng cho Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa. Trong thời gian hành đạo tại miền Trung, Ngài đã kiến tạo và trùng tu tất cả 14 ngôi chùa. Năm 1943, rời Khánh Hòa vào Nam, Ngài hành đạo khắp các tỉnh Sàigòn, Gia Định, Định Tường, Tây Ninh, Bà Rịa xuống đến Hà Tiên. Ngài cũng đã từng sang Nam Vang lưu trú ba năm, vừa giáo hóa các Phật tử kiều bào, vừa nghiên cứu kinh điển PàLi và Phật giáo Nam Tông. Lúc mới vào Nam, Ngài đã lưu trú tại chùa Long Vĩnh (Quận 3 - Sài gòn) một thời gian dài, nên dân chúng quen gọi Ngài là Hòa thượng Long
Công Viên Tượng Đài Bồ Tát Thích Quảng Đức
367
Vĩnh, Ngài còn có hiệu là Thích Giác Tánh. Suốt thời gian hóa độ chúng sinh, bất cứ nơi nào, Ngài cũng dốc lòng làm tròn nhiệm vụ của một sứ giả Như Lai, kế tục các thế hệ Tổ sư truyền giáo, chăm lo tô bồi công đức, hoằng dương chánh pháp.
368 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Năm 1953, Ngài được thỉnh cử vào chức vụ Phó Trị Sự và Trưởng ban Nghi lễ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, đồng thời lãnh nhiệm vụ trú trì chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ, là nơi đặt trụ sở đầu tiên của Hội Phật Học Nam Việt. Năm 1958, khi trụ sở của Hội dời về chùa Xá Lợi, Ngài nhận thấy tuổi già sức yếu, và với bản nguyện “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, Ngài xin
Công Viên Tượng Đài Bồ Tát Thích Quảng Đức
369
thôi mọi chức vụ để có đủ thì giờ an tâm tu niệm. Tuy nhiên, vốn có tâm từ bi, Ngài vẫn để cho gót chân vân du hành đạo ghi dấu nhiều nơi, khi thì chùa Quan Thế Âm ở Gia Định, lúc lại tới chùa Long Phước, xã Ninh Quang, tỉnh Khánh Hòa, dùng mọi phương tiện thích ứng hướng dẫn hậu sinh mê mờ quay về chánh đạo. Trong phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam vào năm 1963 đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, tuy tuổi đã già, Ngài vẫn tích cực tham gia. Chính sách kỳ thị tôn giáo và đàn áp Phật tử của Ngô Đình Diệm ngày một nặng nề và khốc liệt. Máu Phật tử đã đổ ở Đài Phát Thanh Huế. Chùa chiền bị phong tỏa, Phật tử bị bắt bớ khắp nơi. Để thức tỉnh ông Ngô Đình Diệm và tập đoàn của ông đang đắm chìm trong vô minh sớm thỏa mãn 5 nguyện vọng của Phật giáo đồ, đồng thời để cho thế giới nhận thấy cuộc đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng của Phật tử Việt Nam là chính đáng, Ngài đã quyết định thực hiện tâm nguyện của mình là được thiêu đốt nhục thân để cúng dường chư Phật và bảo vệ Đạo pháp, bởi Ngài nhận ra rằng thân ngũ
370 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
uẩn này chỉ là giả tạm, chỉ có làm sao cho Chánh pháp được trường tồn mới là hạnh nguyện cao cả để Ngài phục vụ chân lý bất diệt. Ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão, tức ngày 11-6-1963, cuộc diễn hành rước di ảnh các Thánh tử đạo của trên 800 vị Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni và Phật tử từ chùa Phật Bửu đến chùa Xá Lợi, khi đoàn diễn hành tiến đến ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu và CMT8), Ngài từ trên xe hơi bước xuống, tự tẩm xăng thấm ướt mấy lớp cà sa, ngồi kiết già trên mặt đường, tự châm lửa giữa hằng mấy trăm Tăng Ni đang vây quanh chấp tay cầu nguyện. Ngọn lửa bốc cao, phủ kín thân mình, Ngài vẫn an nhiên chấp tay tĩnh tọa. Gần 15 phút sau, lửa tàn và Ngài ngã xuống, tay vẫn còn quyết ấn Tam muội. Nhục thân của Ngài được rước về quàn tại chùa Xá Lợi hơn một tuần lễ. Đến ngày 20. 06. 1963, Ủy bàn Liên phái Bảo vệ Phật giáo, cùng tất cả chư Tăng, Ni và Phật tử Tổ chức lễ rước đưa về An dưỡng địa, cử hành trọng thể lễ Trà tỳ. Sau khi hỏa thiêu suốt ngày, trong lò điện thiêu đến 4.000 độ xương thịt cháy tiêu hết. Duy chỉ có trái tim của Ngài vẫn còn nguyên, được thiêu lần thứ hai vẫn không cháy. Cái chết phi phàm của Bồ Tát Thích Quảng Đức đã làm chấn động dư luận khắp hoàn cầu. Báo chí thế giới đăng tin lên trang đầu cùng hình ảnh tự thiêu của Ngài. Việc Ngài tự thiêu, được đồng bào cả nước biết ngay chiều hôm đó, và đã gây xúc động sâu xa trong mọi tầng lớp, không phân biệt tôn giáo. Sự hy sinh vì đạo của Ngài đã làm cho Ngô Đình Diệm vô cùng hoảng hốt và lo sợ, tìm mọi cách đối phó với Phật giáo bằng những thủ đoạn thâm độc hơn, đồng thời nó cũng đẩy mạnh phong trào đấu tranh của Phật giáo cuồn cuộn như sóng thần để đi đến kết thúc là ngày 01-111963 chế độ độc tài, gia đình trị của họ Ngô sụp đổ, Phật giáo Việt Nam thoát qua một pháp nạn. Trước khi tự thiêu, Ngài có để lại một bức thư gọi là “Lời nguyện tâm quyết”, nói rõ chủ định và nguyện vọng của Ngài. Điều đáng ghi nhớ là toàn văn bức thư này đã không chứa đựng một mảy may hận thù và tuyệt vọng nào, mà trái lại còn toát lên tình thương và hy vọng:
Công Viên Tượng Đài Bồ Tát Thích Quảng Đức
371
“Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, Trụ trì chùa Quan Thế Âm, Phú Nhuận, Gia Định. Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa, tôi là một tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức, Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây: 1/ Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt nam ghi trong bản tuyên ngôn. 2/ Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt. 3/ Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố, bắt bớ, giam cầm của kẻ ác gian. 4/ Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc... Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gửi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với Quốc dân và thi hành chánh sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở. Tôi thiết tha kêu gọi chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử nên đoàn kết nhất trí để bảo toàn Phật pháp. NAM MÔ ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT. Tỳ Kheo Thích Quảng Đức kính bạch”. Ngoài ra, Ngài còn để lại năm bài kệ, dặn dò bổn đạo và đệ tử sống theo Bát chánh đạo và Lục hòa, đoàn kết và giữ vững niềm tin trong đạo pháp. Cũng như ở miền Trung, hai mươi năm hành đạo ở miền Nam, Ngài đã khai sơn và đại trùng tu được 17 ngôi chùa. Cảnh chùa cuối cùng Ngài trú trì là chùa Quan Thế Âm, tại Gia Định, Sài Gòn. Như vậy, Ngài đã có công xây dựng và trùng tu cả thảy 31 ngôi chùa ờ miền trung và miền nam Việt Nam.
372 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
Để ghi nhớ công hạnh của Ngài, sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Hội đồng Lưỡng viện Tăng Thống và Hóa Đạo trong một phiên họp trước ngày Phật Đản năm 1964, đã đồng thanh quyết nghị suy tôn Ngài pháp vị BỒ TÁT. Sau ngày đất nước thống nhất. Nhà nước dùng pháp hiệu của Ngài đặt tên cho đường Nguyễn Huệ cũ chạy qua trước chùa Quan Thế Âm là đường Thích Quảng Đức, quận Phú Nhuận. Quả tim Bồ Tát Quảng Đức là một chứng minh cụ thể cho tấm lòng của muôn người con Phật luôn yêu chuộng hòa bình tự do và bình đẳng nhưng cũng bất khuất trước nạn cường quyền và áp bức. Trái tim ấy trở thành biểu tượng tinh thần của Phật giáo Việt Nam và là trái tim của nhân loại đã và đang đấu tranh mãi cho tự do hòa bình, hạnh phúc nhân sinh1.
DẤU ẤN TÂM LINH CỦA THẾ KỶ... Khánh thành năm 2010, Công viên Tượng đài Bồ-tát Thích Quảng Đức được hình thành từ biết bao tấm lòng, ở một góc ngã tư lịch sử, giờ đã 1 - BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM, Lê Mạnh Thát (Chủ biên), NXB Tổng Hợp TP. HCM 2005. Hoặc tra cứu trên website: https://thuvienhoasen.org/p61a13460/bo-tat-quang-duc-ngon-lua-va-trai-tim-le-manhthat-chu-bien
Công Viên Tượng Đài Bồ Tát Thích Quảng Đức
373
là công viên xanh,. Công viên Tượng đài Bồ-tát Thích Quảng Đức rộng gần 2.000m2 với hồ sen, đường đi dạo, cây xanh, thảm cỏ...Trung tâm là tượng đài Bồ-tát uy nghiêm. Sau lưng tượng là tấm phù điêu dài mô tả cuộc đấu tranh bảo vệ đạo pháp và dân tộc, trước mặt tượng là sân hành lễ… tất cả đều hài hòa, hiện đại. Hình tượng Bồ-tát ngồi uy nghi với ngọn lửa bao quanh được đúc bằng đồng nguyên chất, cao 6m, nặng 12 tấn; tấm phù điêu dài 16m, cao 3m, mô tả sinh động phong trào đấu tranh chống chính sách kỳ thị Phật giáo, bảo vệ Chánh pháp năm 1963 của Tăng Ni, Phật tử. Toàn bộ các hạng mục bao quanh khu tượng đài gồm: Tượng đài, thảm cỏ, hồ sen, cây xanh...được xây dựng trên diện tích 1.850m2, thi công trong 3 năm với kinh phí đầu tư hơn 23 tỷ đồng2 . Đối diện với Công viên là Bảo tháp thờ Bồ tát Thích Quảng Đức. Và có thể nói, những năm qua, Công viên Tượng đài Bồ-tát Thích Quảng Đức đã trở thành một góc nhỏ, một khoảng lặng nghiêm trang giữa nhịp sống hối hả ngay tại trung tâm Thành phố. Điều quan trọng là từ thảm cỏ, cho đến những cây xanh, từ hồ sen quanh hồ cho đến cây bồ-đề sừng 2 - Nguồn Báo Giác Ngộ.
374 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
sững… tất cả đều có bàn tay chăm sóc một cách chỉn chu của các nhân viên, giữ gìn bảo vệ ngày và đêm nơi này… khiến công viên lúc nào cũng trang nghiêm, thoáng đạt và sạch sẽ, một ngọn đèn luôn cháy đỏ, hương sẵn cho bất kỳ ai ghé đảnh lễ, cầu nguyện. Hàng năm, Ban Trị sự GHPGVN Quận 3 trang trọng Tổ chức Lễ Tưởng niệm Bồ tát Thích Quảng Đức tại khu Công viên Tượng đài Bồ tát với sự tham dự của chư Tôn giáo phẩm Hội đồng Chứng Minh, Hội Đồng Trị sự Trung ương, BTS GHPGVN TP. Hồ Chí Minh, các cấp lãnh đạo chính quyền Thành phố, Quận 3, quý vị khách quý và đông đảo nhân dân, Phật tử, du khách quốc tế, nhận được nhiều sự quan tâm của mọi tầng lớp xã hội.
Trong Đại lễ Phật Đản hàng năm, được sự quan tâm tạo điều kiện của Lãnh đạo chính quyền Quận 3, Ban Trị sự Phật giáo Quận 3 chọn Công viên Tượng đài Bồ Tát Thích Quảng Đức là Lễ đài chính của Ban Trị sự, trang trí cờ hoa dọc theo các tuyến đường xung quanh, nơi cử hành nghi lễ Tắm Phật trang nghiêm, thể hiện sự đoàn kết và hòa hợp của Tăng Ni Quận 3, tình cảm gắn bó giữa “Đạo pháp và Dân tộc”, trở thành đóa hoa thơm ngát giữa lòng Quận 3.
Công Viên Tượng Đài Bồ Tát Thích Quảng Đức
375
Đây còn là địa chỉ du lịch nổi tiếng, một điểm văn hóa - tâm linh thiêng liêng của Thành phố sôi động vào bậc nhất của cả nước này, thu hút đông đảo du khách Quốc tế và nhân dân gần xa về thăm quan, chiêm bái, điểm nhấn trong phát triển văn hóa giáo dục, xã hội của Quận 3. THÔNG TIN: Địa chỉ: giao lộ Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Đình Chiểu, Q.3, TP.HCM Quản lý: UBND Quận 3
376 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
PHỤ LỤC Phụ lục 1: LÃNH ĐẠO PHẬT GIÁO QUẬN 3 CÁC THỜI KỲ (Ban Trị sự GHPGVN Quận 3 tiền thân là Ban Đại diện Phật giáo Quận 3 được đặt nền móng từ Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước) * Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước (1975 - 1981) HT. Thích Pháp Lan- Trưởng Ban; TT. Thích Thiện Đức - Phó Ban ĐĐ. Thích Như Hiệp - Thư ký. * Ban Đại diện Phật giáo Quận 3: - Nhiệm kỳ 1 (1983 - 1985): TT. Thích Thiện Đức - Chánh Đại diện; ĐĐ. Thích An Ngộ - Phó Đại diện ; ĐĐ. Thích Tịnh Hạnh - Thư ký. - Nhiệm kỳ 2 (1985- 1987): TT. Thích Tịnh Hạnh - Chánh Đại diện; ĐĐ. Thích An Ngộ - Phó Đại diện; ĐĐ. Thích Thiện Quang - Thư ký. - Nhiệm kỳ 3 (1987 - 1992): TT. Thích Tịnh Hạnh - Chánh Đại diện; TT. Thích An Ngộ - Phó Đại diện; ĐĐ. Thích Thiện Bảo - Thư ký. - Nhiệm kỳ 4 (1992 - 1997): TT. Thích An Ngộ - Chánh đại diện; TT. Thích Phổ Chiếu - Phó Đại diện, TT. Thích Thiện Bảo - Thư ký. - Nhiệm kỳ 5 (1997 - 2002): HT. Thích Tịnh Hạnh - Chánh Đại diện; TT. Thích Phổ Chiếu - Phó Đại diện, TT. Thích Thiện Bảo - Thư ký. - Nhiệm kỳ 6 (2002 - 2007): HT. Thích Phổ Chiếu - Chánh Đại diện, TT. Thích Minh Hiền - Phó Đại diện, ĐĐ. Thích Thanh Phong - Thư ký.
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
377
- Nhiệm kỳ 7 (2007 - 2012) : HT. Thích Minh Hiền - Chánh Đại diện, TT. Thích Thiện Tịnh - Phó Đại diện, ĐĐ. Thích Thiện Bửu - Thư ký. - Nhiệm kỳ 8 (2012 - 2016): HT. Thích Minh Hiền - Trưởng ban Trị sự), HT. Thích Thanh Vân - Phó ban Thường trực, HT. Thích Thiện Tịnh - Phó ban, ĐĐ. Thích Thiện Châu - Thư ký. - Nhiệm kỳ 9 (2016 - 2021): HT. Thích Minh Hiền - Trưởng ban Trị sự, ĐĐ. Thích Thiện Bửu - Phó ban Thường trực, ĐĐ. Thích Nhuận Thuận - Phó ban, ĐĐ. Thích Thiện Châu - Phó ban kiêm Chánh Thư ký.
378 Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. “Bồ Tát Quảng Đức Ngọn Lửa Và Trái Tim”, Lê Mạnh Thát Chủ biên - Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM, 2005. 2. “Danh mục tu viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường Thành phố Hồ Chí Minh” Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2001 3. “Đất Gia Định xưa”, Sơn Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1984. 4. “Địa chí Thành phố Hồ Chí Minh”, Trần Văn Giàu & Trần Bạch Đằng - NXB Tổng Hợp Tp.HCM, năm 1998. 5. “Lửa thiêng nhiệm mầu”, Phú Tiên - Nguyễn Duy Tinh, Sài Gòn, 1963. GHPGVN TP.HCM tái bản 2013. 6. “Lược Khảo Phật Giáo Sử Việt Nam”, Vân Thanh biên soạn, các Phật học viện xuất bản, Sài gòn, 1974. 7. “Lược sử 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh”, Đoàn Thanh Hương- Hồ Hữu Nhựt (chủ biên) , NXB trẻ, (1698 - 1998),. 8. “Phật Giáo Việt Nam Sử Luận”, Nguyễn Lang, Lá Bối xuất bản, Paris 1980 9. “Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963”, Lê Cung, NXB. ĐHQG Hà Nội, 1999. 10. “Tiểu sử Danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX - tập II”, Thích Đồng
Lịch Sử Những Ngôi Chùa Phật Giáo Quận 3
379
Bổn Chủ biên, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành. 11. “Tôn giáo & chính trị Phật giáo”, 1963-1967, Chính Đạo, Văn Hóa xuất bản . Houston-Texas 1994. 12. “Tự điển Hán - Việt”, Thiều Chửu , NXB Văn hóa - Thông tin, 2002 13. “Từ điển Phật học Huệ Quang (quyển 1 - 7”), Thích Minh Cảnh (chủ biên), NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2003 - 2005. 14. “Từ điển Tiếng Việt”, Hoàng Phê (chủ biên), NXB Khoa học Xã hội Hà Nội, 1988. 15. “Từ điển Thiền tông Hán - Việt”, Hân Mẫn - Thông Thiền, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2002. 16. Tạp chí Nam Bộ xưa và nay, NXB T.P Hồ Chí Minh, năm 2003. 17. Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo 18. Tạp chí Từ Quang, trọn bộ, hội Phật học Nam Việt ấn hành, thư viện Xá Lợi tàng bản. 19. Tập sách “Hội Thảo Khoa Học 300 Năm Phật Giáo Sài Gòn Gia Định- Thành phố Hồ Chí Minh”, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. * Tài liệu trên các Website: 1. Cơ sở Dữ liệu số Giáo hội Phật giáo Việt Nam: https://vbgh.vn/ index.php?language=vi 2. Thư viện Hoa Sen: https://thuvienhoasen.org/
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUẬN 3 Tác giả: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Quận 3
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
Số 53 Tràng Thị, Hoàn Kiếm - Hà Nội Điện thoại: 024.378 2845 - Fax: 024. 3782 2841 Email: nhaxuatbantongiao@gmail.com
LỊCH SỬ NHỮNG NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO QUẬN 3 Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc Ths. NGUYỄN HỮU CÓ Cố vấn và chỉ đạo: Hòa thượng THÍCH MINH HIỀN (Trưởng Ban Trị sự GHPGVN Quận 3) Chịu trách nhiệm nội dung: ĐĐ. THÍCH THIỆN CHÂU, ĐĐ. THÍCH MINH ÂN, ĐĐ. CHÂU HOÀI THÁI, Tiến sĩ PHAN ANH TÚ Sửa bản in: ĐĐ. THÍCH THIỆN CHÂU, ĐĐ. THÍCH MINH ÂN Minh Ngộ Biên tập, trình bày và hình ảnh: Lê Hồng Sơn, Nguyễn Thị Hà, Tâm Nguyên, Minh Ngộ, Đăng Huy Đối tác liên kết: BAN TRỊ SỰ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM QUẬN 3 12/3c Kỳ Đồng - Phường 9 - Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh Số lượng in 1.000 bản khổ 19 x 27 cm. In tại: Công ty CP in thương mại Đông Dương - 161/1 Luỹ Bán Bích, P. Hiệp Tân, Q. Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh ĐT: 028 3816 4414 - 3816 4415 Số ĐKXB: 721-2021/CXBIPH/01-25/TG Số mã ISBN: 978-604-61-7600-8 QĐXB: 76/QĐ-NXBTG ngày 08 tháng 3 năm 2021 In xong nộp lưu chiểu quý II năm 2021