14 minute read
Phụ khảo. Cải cách quan phục năm 1396 và trang phục thời Hồ Phụ lục 1. Trang phục cư tang và quan
from Ngàn năm áo mũ
năm 1804, song tên gọi của một số loại trang sức và số lượng trang sức trên mũ có sự thay đổi. như thời gia Long, trang sức bác sơn được gọi là khỏa kiều, hốt (trang sức trên mũ) được gọi là khóa giản v.v. ngoài ra, từ năm 1845 trở về sau, chỉ có các quan từ lục phẩm trở lên mới được mặc Triều phục.
Advertisement
BẢng SO SÁnh QUY ChẾ TRAng SỨC MŨ PhỐC ĐẦU nĂM 1804 VÀ nĂM 1845 (theo Hội điển)
Bá quan Quy chế năm 1804
Trên nhất phẩm (Tôn nhân phủ tôn nhân lệnh) -Phốc Đầu tròn: 1 khỏa kiều vàng, 2 hốt vàng cao 6 phân; ngạch tường vàng, hoa vàng ở mặt trước và sau, hai cánh chuồn viền bọc vàng, sức giao long vàng
-Phốc Đầu vuông: 1 khỏa kiều vàng, 2 hốt vàng 5 phân; còn lại như trên
Quy chế năm 1845
Tôn thất được phong tước thân vương, quận vương 1 bác sơn vàng, 1 ngạch tường vàng cao 4 phân trổ hình giao long, 2 khóa giản vàng, phía trước 1 hoa vàng, 2 giao long vàng, phía sau 2 hoa vàng; hai cánh chuồn viền bọc vàng, bề mặt sức giao long vàng vờn ngọc châu, đầu cánh chuồn đều sức vàng; 2 như ý vàng, 2 nhiễu tuyến vàng
Tôn thất được phong tước thân công, quốc công
Tôn thất được phong tước quận công, huyện công
Tôn thất được phong hương công, huyện hầu, hương hầu như trên, riêng ngạch tường cao 3 phân trổ hình hoa; hai cánh chuồn sức giao long vàng, đầu cánh chuồn không sức vàng là khác biệt
như tôn thất được phong tước thân công, quốc công, nhưng không có ngạch tường
So với tôn thất được phong tước quận công, mũ Phốc Đầu vuông lược đi 1 hoa vàng phía sau, mặt mũ lược trang sức giao long vàng Chính tòng nhất phẩm -Chính nhất phẩm: như quan trên nhất phẩm (1 khỏa kiều vàng, 2 hốt vàng cao 6 phân; ngạch tường vàng, hoa vàng ở mặt trước và sau, hai cánh chuồn viền bọc vàng, sức giao long vàng) -Tòng nhất phẩm: 1 khỏa kiều vàng, 2 hốt vàng cao 5 phân, còn lại như quan trên nhất phẩm -Chính nhất phẩm: 1 bác sơn vàng, 1 ngạch tường vàng cao 4 phân, phía ngoài trổ hình giao long; 2 khóa giản vàng; phía trước 1 hoa vàng, 2 giao long vàng; phía sau 2 hoa vàng; hai cánh chuồn viền bọc vàng, bề mặt sức giao long bỡn ngọc bằng vàng, đầu cánh chuồn đều sức vàng; 2 như ý vàng, 2 nhiễu tuyến vàng -Tòng nhất phẩm: như chính nhất phẩm; riêng ngạch tường cao 3 phân, trổ hình hoa; mặt mũ không có ngọc châu; đầu hai cánh chuồn không sức vàng
Hoàng tử, thân vương, tôn thất được phong kỳ ngoại hầu, kỳ nội hầu, đình hầu, trợ quốc khanh
Hoàng tử, thân vương, tôn thất được phong tá quốc khanh, phụng quốc khanh, trợ quốc úy, tá quốc úy
Hoàng tử, thân vương, tôn thất được phong phụng quốc úy, trợ quốc lang, tá quốc lang, phụng quốc lang 1 bác sơn bạc, 2 khóa giản vàng, trước sau 1 hoa vàng; hai cánh chuồn viền bọc bạc; 2 như ý bạc, 2 nhiễu tuyến bạc
1 bác sơn bạc, 2 khóa giản bạc, trước sau 1 hoa bạc; hai cánh chuồn viền bọc bạc; 2 như ý bạc, 2 nhiễu tuyến bạc
Trước sau 1 hoa bạc, hai cánh chuồn viền bọc bạc, 2 như ý bạc, 2 nhiễu tuyến bạc.
Chính tòng nhị phẩm
Chính tòng tam phẩm 1 khỏa kiều vàng, hoa vàng ở mặt trước và sau, hai cánh chuồn viền bọc vàng, sức giao long vàng -Chính nhị phẩm: 1 bác sơn vàng; 2 khóa giản vàng; phía trước 1 hoa vàng, 2 giao long vàng; phía sau 2 hoa vàng; hai cánh chuồn viền bọc vàng, bề mặt sức giao long vàng; 2 như ý vàng, 2 nhiễu tuyến vàng -Tòng nhị phẩm: như chính nhị phẩm; riêng bỏ trang sức giao long ở mặt mũ
1 khỏa kiều vàng, hoa vàng ở mặt trước và mặt sau; hai cánh chuồn viền bọc vàng -Chính tam phẩm: 1 bác sơn vàng; 2 khóa giản vàng; phía trước phía sau đều có 1 hoa vàng; 2 giao long vàng; 2 cánh chuồn viền bọc vàng; 2 như ý vàng, 2 nhiễu tuyến vàng -Tòng tam phẩm: như chính tam phẩm; riêng bỏ 2 giao long vàng
Chính tòng tứ phẩm
Chính tòng ngũ phẩm
Chính tòng lục phẩm
Chính tòng thất phẩm 1 khỏa kiều bạc, hoa vàng ở mặt trước và sau, hai cánh chuồn viền bọc vàng 1 bác sơn bạc; 2 khóa giản vàng; phía trước và sau đều 1 hoa vàng; hai cánh chuồn viền bọc vàng; 2 như ý bạc; 2 nhiễu tuyến bạc
1 khỏa kiều bạc, hoa bạc ở mặt trước và sau, hai cánh chuồn viền bọc bạc 1 bác sơn bạc; 2 khóa giản bạc; phía trước và sau đều 1 hoa bạc; hai cánh chuồn viền bọc bạc; 2 như ý bạc; 2 nhiễu tuyến bạc
hoa bạc ở mặt trước và sau, hai cánh chuồn viền bọc bạc Phía trước, sau đều có 1 hoa bạc; hai cánh chuồn viền bọc bạc; 2 như ý bạc, 2 nhiễu tuyến bạc
hoa bạc trước sau đều 1 bông, hai cánh chuồn viền trơn
e. Bào phục
Quy chế Triều phục mũ Phốc Đầu kết hợp với Bổ phục thời Lê Trung hưng vẫn tiếp tục được áp dụng đối với các chức quan ngũ, lục phẩm triều nguyễn. Bên cạnh đó, quy chế triều nguyễn quy định: các quan nhất, nhị, tam phẩm mặc Mãng bào; quan tứ phẩm theo quy chế năm 1804 mặc hoa bào, từ năm 1845 trở về sau đổi sang mặc giao bào. Về sắc phục của áo bào Đại Triều, theo Hội điển, quy chế năm 1804 quy định, áo bào Triều phục dành cho các quan trên nhất phẩm là Mãng bào cổ tròn màu tía, từ nhất phẩm trở xuống, các màu xanh, lục, lam, đen cho được tùy Quan ngũ phẩm triều Nguyễn mặc nghi. Quy chế này được sửa đổi vào năm Triều phục. (Ảnh: Nguyễn Giang). 1845, lúc này các quan từ Tam phẩm trở lên đều mặc Mãng bào, trong đó quan trên nhất phẩm mặc màu tía, quan chính nhất phẩm mặc màu cổ đồng, tòng nhất phẩm mặc màu thiên thanh, chính nhị phẩm mặc màu cam bích, tòng nhị phẩm mặc màu quan lục, chính tam phẩm mặc màu bảo lam, tòng tam phẩm màu ngọc lam. Quan tứ phẩm mặc giao bào màu quan lục. Quan ngũ phẩm mặc Bổ phục Vân nhạn màu bảo lam, áo bào làm bằng trừu thêu hoa. Quan lục phẩm mặc Bổ phục Bạch nhàn màu ngọc lam, áo làm bằng trừu bóng không thêu hoa. Nam phương danh vật bị khảo chép: “Mãng bào là áo Đại triều của các quan từ tam phẩm trở lên, thêu hình mãng. Quan chính nhất phẩm màu đồng hồng, tòng nhất phẩm màu xanh, chính nhị phẩm màu biếc, tòng nhị phẩm màu lục, chính tam phẩm màu bảo lam, tòng tam phẩm Võng cân, lưới bọc tóc, đai, hốt, màu ngọc lam. Giao bào là áo Đại triều của Hia. (BAVH). quan tứ phẩm, thêu hình giao long. Lam bào là áo Đại triều của quan ngũ phẩm và lục phẩm, áo của quan ngũ phẩm thêu thêm hoa. Hoa bào là áo vua ban cho các vị tam khôi. Lục bào là áo vua ban cho tiến sĩ.”(1) Tại Trung Quốc, Mãng bào xuất hiện từ thời Minh, được gọi là Mãng y hoặc Mãng phục, nếu không được vua đặc ban, bá quan không được sử dụng. Vào thời Thanh, Mãng bào được sử dụng làm Lễ phục cho hoàng tử, thân vương và văn võ bá quan, phần nhiều được dùng trong các dịp lễ tết lớn như lễ Vạn Thọ, Tết Thượng nguyên và Tết nguyên Đán v.v. Khâm định Đại Thanh hội điển cho biết: “Mãng bào, màu lam và màu thạch thanh cho được tùy nghi sử dụng, viền vàng. Thân vương, quận vương Mãng bào rồng mây sóng nước dành cho thường dùng áo bào thêu 9 hình mãng. Hoàng tử triều Thanh (Thanh Hội Điển).
1. (Việt) Nam phương danh vật bị khảo - Thượng - Phục dụng môn. Nguyên văn: 蟒袍:今三品以上大朝衣 繡蟒。正一銅紅,從一青,正二碧,從二綠,正三寶藍,從三玉藍。蛟袍:今四品以上朝衣繡蛟。 藍袍:今大品以上朝衣,五品加花。花袍:今三魁賜衣。綠袍:今进士賜衣
Bối lặc trở xuống tới các quan văn võ tam phẩm, quận quân ngạch phò, phụng quốc tướng quân, nhất đẳng thị vệ đều dùng áo bào thêu 9 hình mãng bốn móng. Quan văn võ tứ, ngũ, lục phẩm, phụng ân tướng quân, huyện quân ngạch phò, nhị đẳng
Mặt trước và mặt sau của Mãng bào và Hoa bào triều Nguyễn. (BAVH). thị vệ trở xuống dùng áo bào thêu 8 hình mãng bốn móng. Quan văn võ thất, bát, cửu phẩm, quan vị nhập lưu dùng áo bào thêu 5 hình mãng bốn móng. Vạt áo, tôn thất, thân vương trở xuống đều xẻ bốn vạt, bá quan văn võ chỉ xẻ hai vạt trước sau. ”(1) Tại Việt nam, quy chế Mãng bào được áp dụng làm Triều phục cho bá quan văn võ Đàng Trong kể từ năm 1744 sau cải cách của chúa nguyễn Phúc Khoát. Đại Nam thực lục ghi: “Chúa […] châm chước chế độ các đời, định Triều phục văn võ. Văn từ quản bộ đến chiêm hậu, huấn đạo, võ từ chưởng dinh đến cai đội, mũ sức vàng bạc, áo dùng Mãng bào hoặc gấm đoạn theo cấp bậc.” (2) Lê Quý Đôn cũng ghi nhận sau cải cách này, các quan Đàng Trong “dùng Mãng bào thủy
ba (hoa văn sóng nước), mũ
mão dùng vàng bạc trang sức”(3) . Mãng bào triều nguyễn nhìn chung
1. Mãng bào (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Ảnh: TQĐ); 2. Mãng bào màu tía của quan Chính nhất phẩm và Bổ phục Vân nhạn của quan ngũ phẩm (Bảo tàng Quân sự Pháp. Ảnh: Nguyễn Như Đan Huyền).
1. (Trung) Khâm định Đại Thanh hội điển - Q.47. Nguyên văn: 蟒袍,藍及石青諸色隨所用,片金緣。親 王、郡王,通繡九蟒。貝勒以下至文武三品官、郡君額駙、奉國將軍、一等侍衛,皆九蟒四爪。文 武四五六品官、奉恩將軍、縣君額駙、二等侍衛以下,八蟒四爪。文武七八九品、未入流官,五蟒 四爪。裾,宗室親王以下皆四開,文武官前後開 2. (Việt) Đại Nam thực lục. Tập I. Tr.153. 3. (Việt) Phủ biên tạp lục. Nguyên văn: 貴者用蟒袍水波,其帽飾以金銀 đã tham khảo bố cục rồng mây, sóng nước của Mãng bào Trung Quốc giai đoạn cuối Minh đầu Thanh. Tuy nhiên, Mãng bào của bá quan triều nguyễn còn được thêu hình phượng, kỳ lân và rùa, đồng thời có tên gọi là áo bào Tứ linh. năm 1832 vua Minh Mạng ra chỉ dụ, “xưa nay áo bào của quan tam phẩm trở lên, tục gọi là áo bào Tứ linh, có hình rồng nằm trong số đó […] cách gọi như vậy đều không phù hợp, bởi hình phượng, lân, rùa chỉ là hình phụ họa mà thôi, chỉ cần gọi Mãng bào là được.”(1) Mặt khác, trên lưng áo bào triều nguyễn còn bảo lưu hai cánh lá phú hậu thời Minh
(nhà Lê Trung hưng cũng mô phỏng dạng thức
Các quan võ mặc Triều phục; Một trong ba vị Tam khôi triều Nguyễn mặc áo Hoa bào, cài hoa bạc trên mũ. Quan nhị phẩm mặc Mãng bào và quan tứ phẩm mặc Giao bào. (Ảnh: Albert Kahn). này), phụ kiện này không xuất hiện trên áo bào của các quan nhà Thanh Trung Quốc. ngoài ra, khác với quy chế áo mão thời Lê Trung hưng, bất kể Cổn phục, Lễ phục, Triều phục hay Thường phục của vua quan triều nguyễn đều phối với thường - Kế y, một dạng xiêm áo mặc lót bên trong
Xiêm - thường của quan triều Nguyễn.
1. (Việt) Hội điển - Q.78. Tr.50. Nguyên văn: 諭向來三品以上袍俗呼四靈袍則龍在其中[…]均屬不合。 鳳、麟、龜係是附和,只須名為蟒袍
Hiện vật Mãng bào triều Nguyễn (Ảnh: Trịnh Bách). Hiện vật Mãng bào (Ảnh: Philippe Trương), Giao bào triều Nguyễn (Ảnh: Trịnh Bách).
Hoàng phái sắc phục tự thiên tử chí tôn thất (Nguyễn Văn Nhân vẽ năm 1902). Ảnh 1: Hoàng đế, thái giám, hiệp lĩnh thị vệ mặc Triều phục. Ảnh 2: Quan văn Chính nhất phẩm mặc Triều phục Phốc Đầu - Mãng bào. Ảnh 3: Hoàng thân mặc Triều phục mũ Kim Quan - Mãng bào. Ảnh 4: Quan văn Chính, Tòng Ngũ phẩm mặc Triều phục Phốc Đầu - Hoa bào (Theo Hội điển và tư liệu ảnh chụp chúng tôi có, quan Ngũ phẩm không mặc Hoa bào mà mặc Bổ phục. Hoa bào chỉ dành cho các vị đỗ Tam khôi).
áo bào. Tuy nhiên, thường của vua quan nhà nguyễn khác với loại thường Tiện phục được sử dụng phổ biến thời Lý - Trần. Thường thời Lý - Trần là loại váy quây màu đen gấp nếp, còn thường thời nguyễn gắn với áo cộc tay cổ tròn, đồng thời được thêu lên vô số hoa văn mây Bá quan nhà Nguyễn trong buổi chầu Thường triều. nước, cổ đồ, bát bảo và linh thú. Đây có thể coi là quy chế trang phục mặc lót độc đáo của riêng triều nguyễn.
3. Thường phục
Quy chế Triều phục của bá quan nhà nguyễn được đặt định dựa trên hai nguồn tham khảo chính là quy chế Bổ phục của triều Lê Trung hưng và kiểu dáng Mãng bào của Trung Quốc giai đoạn cuối Minh đầu Thanh. Còn trong quy chế Thường phục, triều đình nhà nguyễn tiếp tục kết hợp quy chế Bổ phục của triều Lê Trung hưng với quy chế Bổ phục của nhà Minh, song song với việc đặt định một số dạng mũ mão độc đáo như mũ Văn Công, hổ Đầu, Đông Pha, Xuân Thu v.v. Đặc biệt, Bổ phục của nhà Lê và nhà Minh là dạng áo bào đoàn lĩnh cổ tròn gắn Bổ tử, nhà nguyễn đã kế thừa một phần quy chế này áp dụng làm Triều phục cho các quan ngũ, lục, thất phẩm. Quy chế Thường phục lại quy định Bổ Tử đính lên áo giao lĩnh.
3.1. Quy chế mũ mão
a. Mũ Văn Công 文公冠 Mũ Văn Công là mũ Thường phục áp dụng cho quan văn nhất, nhị, tam phẩm, Mũ Văn Công (BAVH); Quan văn mặc Thường phục Văn Công. (Việt trang sức toàn bằng vàng, có hai dải Anh Nam qua tranh khắc). sức hoa vàng khảm ngọc châu(1). Đây cũng
1. (Việt) Đại Nam điển lệ toát yếu. Nguyên văn: 文以下至三品同常朝冠,文用文公,絕金飭。兩纓飭金 chính là loại mũ được các quan triều Tây Sơn sử dụng từ thế kỷ XVIII qua lời ghi nhận của văn thần Triều Tiên Kim Chính Trung. Kết hợp với mũ Văn Công là Bổ phục giao lĩnh. Trong đó, áo giao lĩnh được làm bằng sa, đoạn, các màu xanh, lục, lam, đen được tùy nghi, riêng cổ áo trắng(1). Bổ tử dành cho quan nhất, nhị phẩm là Tiên hạc, Bổ tử của quan Mũ Đông Pha, Văn Tú Tài (BAVH). tam phẩm là Cẩm kê. Thường, hia và Quan văn Lục phẩm đội mũ Đông Pha. tất tương tự quy chế Đại triều. b. Mũ Đông Pha, Văn Tú Tài, Phong Cân 東坡巾、文秀才巾、風巾 Nam phương danh vật bị khảo chỉ rõ: “Mũ Đông Pha là mũ Thường triều của quan văn lục phẩm trở lên, mũ Văn Tú Tài là mũ Thường triều của quan văn cửu phẩm trở lên.”(2) Theo Hội điển, mũ Văn Tú Tài còn được áp dụng làm mũ Thường phục cho quan võ tòng thất phẩm, tòng bát phẩm và tòng cửu phẩm (quan võ thất
phẩm trở xuống chỉ đặt tòng, không đặt chính).
Quan văn chưa nhập lưu được quy định đội mũ Phong Cân. Đây cũng chính là mũ Lễ phục của dân gian, áp dụng cho thứ dân sau khi tròn 20 tuổi, có tính chất tương tự như loại mũ Ô Sa đơn dạng của triều Lê Trung hưng. Quốc sử di biên ghi nhận, “văn giai chưa nhập lưu, sĩ tử thi đỗ, hoặc mãn đại nhiêu học, hoặc sáu năm nhiêu học, mũ dùng Phong Cân, trước sau mũ thêu hoa bạc đều một cái, mặc theo “thân phận” mình, áo giao lĩnh, sa đoạn các sắc xanh, lục, lam, đen, không Bổ tử. Thứ dân chưa làm
“Làm mũ Tú Tài” (Kỹ thuật của người An Nam).
花,嵌珠. (Việt) Nam phương danh vật bị khảo. Nguyên văn: 文公帽:今文三品以上常朝冠 1. (Việt) Hội điển - Q.78 - Văn võ quan phục. Nguyên văn: 衣一品至三品竝用白領交領紗緞,青綠藍黑 隨用 2. (Việt) Nam phương danh vật bị khảo. Nguyên văn: 東坡巾今文六品以上常朝冠。文秀才巾今文九品 以上常朝冠