APARTMENT | No.33 Hệ thống đường ống nước trong tòa nhà ( Phần 3)

Page 1

Apartmen Chuyên đề: Hệ thống đường ống nước trong toà nhà ( Phần 3 )

Biên tập bởi

S.M.A.C

Chất lượng cảm quản Phương diện sức khỏe Phân loại rủi ro

33

LƯU HÀNH NỘI BỘ


nt Quý Độc giả thân mến! Chúng tôi rất vui mừng vì đã tiếp tục được đón chào Quý vị ở số tạp chí mới này và được cùng nhau khám phá thêm những tri thức mới của nhân loại. Ở lần trước chúng ta đã đi những bước đầu trong việc tìm hiểu về hệ thống đường ống nước trong các tòa nhà khi ước tính mức sử dụng, lưu lượng và lưu trữ nước. Ngày hôm nay, chúng ta tiếp tục đi sâu tìm hiểu một khía cạnh khác là các Yêu cầu và Quy định về hệ thống nước. Những Yêu cầu và Quy định này được đặt ra nhắm đến một đích đến quan trọng nhất đó là bảo vệ sức khỏe của người sử dụng nước. Đây vẫn sẽ luôn là mục tiêu hàng đầu cần phải hoàn thành đối với mọi hệ thống bất kể ở đâu hay khi nào vì sức khỏe và tính mạng của con người luôn luôn là tài sản quý giá nhất với chúng ta. Đội ngũ chúng tôi hy vọng rằng sẽ tiếp tục nhận được sử ủng hộ và đón đọc của Quý độc giả để có thể tiếp tục mang đến những sản phẩm ngày một hoàn thiện và chất lượng hơn. Xin chân thành cảm ơn!

Đỗ Công Biên Phó Tổng biên tập

2 Apartment


Chịu trách nhiệm nội dung

Hội đồng biên tập Nguyễn Danh Hải Nguyễn Hồng Minh Nguyễn Hoàng Thanh Nguyễn Quang Huy Hoàng Minh Nguyễn Lưu Hồng Hải Nguyễn Cảnh Toàn Phạm Hoàng Hải Lê Tất Anh Hoàng Bá Thuận Cam Văn Chương Đỗ Trung Hiếu Cao Tiến Trung Tổng biên tập Nguyễn Tất Hồng Dương Phó Tổng biên tập Đỗ Công Biên Biên tập & Thiết kế Phòng phát triển Cộng động Website www.iirr.vn facebook.com/iirr.com

Apartment 3


Yêu cầu và Quy định về hệ thống Nước

11 Chất lượng cảm quan

4 Apartment


16 Phương diện sức khỏe

32 Phân loại rủi ro

38 Các loại chất lỏng trong quy định

Apartment 5


YÊU CẦU VÀ QUY ĐỊNH VỀ HỆ THỐNG NƯỚC 6 Apartment


Trong nhiều thế kỷ, ‘nước bẩn’ đã bị nghi ngờ là một nguyên nhân gây bệnh. Lần đầu tiên vào năm 1845, bệnh tả được chứng minh là có liên quan đến việc uống nước bị nhiễm bẩn. John Snow đã chấm dứt đại dịch tả bằng cách tháo tay cầm của bơm tay trên Phố Broad ở lân cận London, nơi hơn 500 người đã chết vì căn bệnh này; giếng cấp nước cho máy bơm này gần với một cống thoát nước.

Các cuộc điều tra về sự lây lan của bệnh tả, bệnh sốt thương hàn và bệnh kiết lỵ đã giúp xác định đặc điểm của các sinh vật gây ra các bệnh này và cho thấy sự hiện diện của chúng trong nước bị ô nhiễm. Vào cuối thế kỷ 19, các yêu cầu an toàn về mặt vi sinh của nước uống đã được xác định: ngăn cho nguồn nước không bị nhiễm bẩn bởi chất bài tiết và giữ nước đã qua xử lý không bị nhiễm bẩn. Trong những năm gần đây, các cuộc điều tra kỹ lưỡng tập trung vào vấn đề ô nhiễm hóa chất nhằm thiết lập các biện pháp kiểm soát thích hợp. Apartment 7


Các công ty nước ở Anh đã áp dụng các khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Bộ Y tế và An sinh Xã hội (DHSS) và Bộ Môi Trường (DOE) để kiểm soát chất lượng vi sinh và hóa học trong nước mà họ cung cấp. Điều này nhằm đảm bảo nguồn cấp nước cho các tòa nhà phù hợp với nhu cầu sử dụng của con người, tức là có thể uống được và không có mùi vị khó chịu, mặc dù đôi khi chất lượng nước từ điểm xử lý đến điểm sử dụng có thể bị suy giảm. Chỉ thị của Cộng Đồng Châu Âu về chất lượng nước đã thay thế các khuyến nghị này vào năm 1985, chỉ thị được dự định áp dụng tại thời điểm mà nước được cung cấp cho người tiêu dùng. Các quy định của Bộ Môi trường đã được đưa ra ở Anh năm 1989 làm cơ sở cho việc áp dụng Chỉ thị và yêu cầu các công ty cấp nước lấy mẫu tại các vòi nước của người dùng để kiểm tra xem các tiêu chuẩn có được đáp ứng hay không. Bộ Thanh tra Nước uống báo cáo lần đầu tiên vào năm 1990 (Bộ Môi trường/ Văn phòng Welsh), cho thấy mức độ tuân thủ cao đối với các yêu cầu, kết quả dần dần được cải thiện với việc có 99,82% trong 3 triệu thử nghiệm được thực hiện bởi các công ty nước vào năm 1999 đáp ứng các tiêu chuẩn. Với mong muốn tiếp tục cải thiện chất lượng nước uống, đã có một vài cập nhật ở một số Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu vào năm 1998 và bản sửa đổi các quy định của Cộng đồng Châu Âu, bản mới nhất được áp dụng từ năm 2004.

8 Apartment


Trong những thập kỷ gần đây, mức độ suy giảm chất lượng nước trong đường ống và các hệ thống trong các tòa nhà đã được chú ý nhiều hơn. Trong quá khứ, các điều luật được thực hiện theo Đạo luật về Nước từ năm 1945 đến năm 1989 và gần đây nhất là năm 1991 đã giúp ngăn chặn sự suy giảm chất lượng nước với mục đích là ngăn chặn việc sử dụng sai mục đích, lãng phí và tiêu thụ quá mức cũng như ô nhiễm nguồn cấp nước chính. Các điều luật này đã được thay thế vào năm 1999 ở Anh và xứ Wales theo Quy định về Cấp nước (Thiết bị Nước), có mục đích giống như các điều luật trên, liên quan đến việc kiểm soát nguồn cấp nước trong các hệ thống đường ống cho sinh hoạt và thương mại. Cũng như các điều luật trên, Cam kết về nguồn nước được thiết lập nhằm thực thi các Quy định. Tại Scotland, điều luật về nước năm 2000 phần lớn phản ánh các Quy định năm 1999 cho Anh và xứ Wales. Apartment 9


Số này này đề cập đến một số cân nhắc chủ đạo liên quan đến chất lượng nước và việc xây dựng các quy định, dẫn đến các Quy định năm 1999 và Điều luật năm 2000 để kiểm soát trong các tòa nhà. Các yêu cầu của người sử dụng các công trình như vậy nói chung rộng hơn so với các yếu tố có trong quy định, và sẽ được tóm tắt ở số sau. Các khía cạnh thực tế của việc duy trì chất lượng nước thông qua thiết kế và bảo trì trong các tòa nhà cũng sẽ được nói đến ở các số sau.

10 Apartment


CHẤT LƯỢNG CẢM QUAN Apartment 11


Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu năm 1980 đã liệt kê và cố gắng định lượng các ‘thông số cảm quan’ bao gồm màu sắc, độ đục, mùi và vị cũng như công nhận tầm quan trọng của chúng đối với người sử dụng. Hầu hết các phàn nàn của người sử dụng về vấn đề nhiễm bẩn liên quan đến chất lượng cảm quan dù nước có đạt hay không. Một nghiên cứu ở London bởi tiến sĩ J.S. Colbourne năm 1981 cho thấy sự phát triển của các vi sinh vật được gọi là nấm trong hệ thống ống nước là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra các phàn nàn về mùi hoặc vị. 12 Apartment

Nguồn gốc được cho là các sản phẩm chuyển hóa được đưa vào nước do nấm sinh sôi trên các vật liệu được sử dụng trong thi công. Sự kết hợp giữa sự ấm lên của nước và chất dinh dưỡng từ các vật liệu, đặc biệt là những vật liệu có thành phần tự nhiên, khuyến khích sự phát triển của nấm. Các phàn nàn khác bao gồm ‘vị kim loại’ dường như bắt nguồn từ việc rửa trôi đồng từ các đường ống mới (thu nhỏ đi như một lớp phim cacbonat tích tụ trên bề mặt đường ống) và ‘vị nhựa’ liên quan đến một số đường ống làm từ polythene.


Năm 1974, R. K. Felstead đã báo cáo một trường hợp ô nhiễm đồng nghiêm trọng, được phát hiện trong một tòa nhà mới xây của bệnh viện. Các nhân viên phàn nàn về mùi vị và màu sắc của nước uống và việc lấy mẫu cho thấy ô nhiễm đồng ở mức khoảng 300 mg/l, so với mức 3 mg/l tối đa sau 16 giờ tiếp xúc theo khuyến nghị của WHO (Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu năm 1980 quy định mức 3 mg/l sau 12 giờ mà nước được cung cấp cho người tiêu dùng). Hệ thống này có các đường ống dài nằm ngang để cung cấp nước uống cho các điểm sử dụng, và bề mặt bên trong của các đường ống này khi được nghiên cứu đã bị ăn

mòn và được bao phủ một phần bởi một lớp màng oxit đen. Lời giải thích nằm ở thực tế là đường ống đã không được thoát hết nước hoàn toàn sau khi thử nghiệm áp suất. Một số đường ống nằm ngang đã bị lấp đầy một phần trong một thời gian ở nhiệt độ từ 25 đến 30oC và dường như không có màng cacbonat bảo vệ được hình thành trong những điều kiện này. Việc thay thế đường ống đã được thúc đẩy nhưng chi phí và sự gián đoạn hoạt động bệnh viện là không thể chấp nhận được. Thay vào đó, đường ống đã được làm sạch bằng hóa chất với giá khoảng một phần mười chi phí thay thế.

Apartment 13


Đồ uống từ các máy bán hàng tự động đôi khi là đối tượng bị phàn nàn do nhiễm bẩn từ các chất dạng hạt hoặc chất nhờn. Trong hầu hết các trường hợp này, chất gây ô nhiễm có nguồn gốc từ vi sinh vật. Nếu các bộ phận máy móc bên trong không được làm sạch, các chất bột có thể đọng lại trong các kẽ hở một thời gian và trở thành trung tâm hoạt động của vi sinh vật. Mùi vị sinh ra có thể làm hỏng nước uống. Do đó, nguyên liệu đồ uống được sử dụng trong máy bán hàng tự động phải được đánh giá dựa trên các thông số kỹ thuật được chấp thuận. Máy cũng có thể bị nhiễm bẩn nếu sử dụng ống không phù hợp để kết nối máy với nguồn nước. Một ví dụ được đưa ra là sự phát triển của nấm men trong một ống nhựa PVC ngắn trong suốt, dẻo không đi kèm với máy mà được công ty sử dụng để lắp cho nhà hàng nơi đặt máy. Sự xâm nhập của vi khuẩn trên các thiết bị nha khoa đôi khi cũng diễn ra theo một mô hình tương tự, trong khi sự phát triển của vi khuẩn và nấm cũng được quan sát thấy trong đường ống và thiết bị làm mềm nước gắn với thiết bị lọc thận trong nhà.

14 Apartment


Sự đổi màu chiếm một tỷ lệ đáng kể trong số các khiếu nại về chất lượng mà một công ty cấp nước nhận được. Sắt hoặc mangan thường là nguyên nhân chính, phát sinh từ việc loại bỏ không đồng đều trong các công đoạn xử lý hoặc do sự ăn mòn của đường ống chính khi lớp phủ bên trong xấu đi. Do đó, hệ thống ống nước thường không phải là nguyên nhân chính gây ra bất kỳ sự đổi màu nào. Apartment 15


PHƯƠNG DIỆN SỨC KHỎE

Có tính cụ thể và chính xác so với các quy định trước đó, Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu năm 1980 liệt kê khoảng 60 thông số giới hạn. Những thông số này bao gồm các kim loại độc hại khác nhau như chì, cadmium, asen, các hợp chất phenolic, nitrat, v.v. Việc ban hành chỉ thị đã thúc đẩy các cuộc điều tra về chất lượng nước uống ở nhiều quốc gia thành viên Châu Âu, do đó cần có nhiều hoạt động khác nhau để đảm bảo tuân thủ luật của Cộng đồng Châu Âu. 16 Apartment


Ở Anh, sự chú ý đặc biệt tập trung vào chì và nitrat. Việc sử dụng đường ống bằng chì trước đây để cấp nước cho các tòa nhà là nguyên nhân gây ra nhiều lo ngại nhất, vì chì có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần của trẻ em và là một yếu tố gây ra các vấn đề về hành vi. Trong một cuộc khảo sát năm 1975 ở một số khu vực của Vương quốc Anh, đã phát hiện nồng độ chì vượt quá mức khuyến nghị của WHO; sự thay đổi phụ thuộc vào mức độ mà nước có khả năng hòa tan chì, trong đó nước mềm là mối nguy lớn nhất. Trong một cuộc khảo sát gần đây (Bộ Môi trường/ Văn phòng Welsh năm 1990), trong số 200.000 mẫu được thử nghiệm, khoảng 1% mẫu vượt quá nồng độ giới hạn 50 mg/l được quy định trong Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu năm 1980, và xa hơn là 1991. Chì cũng có thể xuất hiện ở dạng hạt (không hòa tan) có kích thước khác nhau, điều này có thể phụ thuộc vào chất lượng nước và sự xáo trộn do các điều kiện thủy lực như hiện tượng búa nước hoặc vận tốc dòng chảy cao.

Apartment 17


Trước những lo ngại về sức khỏe, đặc biệt là với trẻ em, WHO đã đề xuất giảm giới hạn từ 50 xuống 10 mg/l. Do đó, Chỉ thị của Cộng đồng Châu Âu năm 1998 thắt chặt tiêu chuẩn đối với chì từ 50 xuống 25 mg/l vào năm 2004 và xuống 10 mg/l vào năm 2014, các giá trị được áp dụng như giá trị trung bình hàng tuần mà người tiêu hấp thụ. Những vấn đề như yêu cầu lấy mẫu, tính thực tế và chi phí của việc lấy mẫu và các biện pháp khắc phục đang được xem xét. Các bước cần thiết cuối cùng để đạt được sự tuân thủ sẽ phụ thuộc vào các cam kết về nước. Một đánh giá về việc đáp ứng tiêu chuẩn cao hơn đã được thực hiện bởi Hayes và cộng sự năm 1997.

18 Apartment


Các khía cạnh vi sinh vật của chất lượng nước và sức khỏe đã được xem xét bởi Dadswell vào năm 1990, dựa trên một cuộc kiểm tra sâu rộng về các bệnh lây truyền qua đường nước ở Anh từ năm 1937 đến năm 1986 bởi Galbraith và cộng sự năm 1987. Năm 1937 là năm có ý nghĩa đặc biệt, liên quan đến một đợt bùng phát thương hàn đáng chú ý ở Croydon. Các cuộc rà soát ghi nhận 34 đợt bùng phát thuộc nhiều loại khác nhau trong thời kỳ đó, trong đó 21 đợt bùng phát do nguồn cung cấp nước công cộng: 11 đợt là do ô nhiễm tại nguồn, 10 đợt còn lại do ô nhiễm trong hệ thống phân phối nước.

Năm 1990, Dadswell đã lưu ý rằng nguy cơ mầm bệnh xâm nhập vào nước đã qua xử lý tại hệ thống đường ống nước và cống rãnh cũ cũng như công trình thi công kéo dài là lớn hơn. Do đó, việc đảm bảo chất lượng hệ thống phân phối là một yếu tố quan trọng trong việc cung cấp nước sinh hoạt. Thiết kế, vận hành và bảo trì hệ thống ống dẫn trong các tòa nhà một cách thích hợp là một trong những khía cạnh quan trọng trong các yêu cầu tổng thể đối với nguồn cấp đó. Apartment 19


Các vi sinh vật được tìm thấy trong nước bao gồm vi khuẩn, vi rút và ký sinh trùng đường ruột. Đối với hệ thống ống nước, vi khuẩn là đối tượng đáng quan tâm nhất. Cũng như với nấm, sự phát triển của vi khuẩn dựa trên các yếu tố như nhiệt độ, thời gian, chất dinh dưỡng và độ pH (cường độ axit hoặc kiềm). Nhiệt độ là yếu tố quan trọng: dưới 10oC nhiều vi khuẩn ngừng hoạt động hoặc sinh sôi; ở 50 oC trở lên, vi khuẩn bắt đầu chết do bị tổn thương nhiệt, khoảng một giờ ở 50oC và một khoảng 1 phút hoặc hơn ở 70oC. Nhiệt độ tối ưu cho sự phân đôi của vi khuẩn thường nằm trong khoảng từ 25 đến 40oC, các loài gây bệnh thường thuộc khoảng nhiệt độ trên. Ảnh hưởng được minh họa rõ hơn trong bảng 2.1.

20 Apartment


Bệnh viện

Vị trí Ống nước chính

A

Sau thiết bị làm mềm nước Trong bể chứa lạnh Ở 60○C từ các vòi Trong bể chứa lạnh

B

Vi khuẩn/ml 25 487 1384 13 190

Từ nước trữ trong bộ cấp nhiệt ở 43○C danh nghĩa

11 840

Trong bể chứa lạnh

130

Ở 41○C từ vòi được cấp nước C

từ bộ cấp nhiệt ở 65○C trộn với nước ở 15○C từ bể chứa

46

Bảng 2.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ và hệ thống làm nóng đến sự phát triển của vi khuẩn, dựa trên nghiên cứu của Meers năm 1981

Apartment 21


Legionella pneumonia gây ra một loại viêm phổi được gọi là bệnh Legionnaires và cũng có thể dẫn đến một bệnh giống cúm ít nghiêm trọng hơn được gọi là sốt Pontiac.

22 Apartment


Nhìn chung, vi khuẩn được tìm thấy trong nước đã qua xử lý ở Anh không phải là mối nguy hại đáng kể đối với sức khỏe cộng đồng, nhưng một số trong đó có thể gây nguy hiểm cho bệnh nhân suy nhược trong bệnh viện. Pseudonymous aeruginosa là một trong những nguyên nhân chính gây ra lây nhiễm chéo . Sinh vật được tìm thấy trong nước máy liên quan đến một số vật liệu xây dựng; bên cạnh đó, các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy một số vòng đệm, miếng đệm lót, sơn và chất bôi trơn có khả năng hỗ trợ sự phát triển của vi sinh vật ở nhiệt độ thuận lợi

Apartment 23


Loại chất lỏng 1

Mô tả

Nước sinh hoạt Chất lượng nước sinh hoạt suy giảm do: a. Thay đổi nhiệt độ

2

3

Ví dụ Nước trực tiếp từ nhà cung cấp nước chính Nước nóng pha với nước lạnh Chất làm mềm nước sinh hoạt (tái tạo muối thông thường) Máy làm đá

b. Thay đổi về hương vị, màu sắc hoặc ngoại hình tức là suy giảm cảm quan

Máy bán đồ uống tự động không có thành phần hoặc carbon dioxide được thêm vào

Nước có nguy cơ về sức khỏe rất nhỏ do sự hiện diện của các chất có độc tính thấp, bao gồm:

Nước trong hệ thống sưởi trong nhà

a. ethylene glycol, dung dịch đồng sunphat của các chất phụ gia hóa học tương tự,

Máy giặt quần áo và máy rửa bát trong nhà Máy bán đồ uống tự động có thêm phụ chất hoặc carbon dioxide

b. natri hypoclorit (clo và các chất khử trùng thông thường)

Máy lọc máu tại nhà Vòi mềm cầm tay trong nhà

24 Apartment

Chậu rửa, bồn tắm và vòi hoa sen


Nước có nguy cơ đáng kể đối với sức khỏe do sự hiện diện của các chất độc hại bao gồm:

Nước trong các hệ thống sưởi ấm ngoài nhà

a. Hóa chất, chất gây ung thư hoặc thuốc trừ sâu

Máy rửa bát thương mại; máy rửa chai

4

Hệ thống phun nước chữa cháy sử dụng chất chống đông

Hệ thống tưới cỡ nhỏ cho vườn, với đầu tưới popup hoặc ống tưới thẩm thấu b. hóa chất xử lý môi trường có nguy cơ đáng kể với sức khỏe

Một số thiết bị chế biến thực phẩm Các thiết bị công nghiệp và thương mại khác nhau

Nước có nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe do sự hiện diện của các sinh vật gây bệnh, các chất phóng xạ hoặc rất độc hại bao gồm: 5

a. Phân hoặc chất thải khác của con người b. Chất thải từ lò mổ hay động vật khác hoặc c. Mầm bệnh từ bất kỳ nguồn nào khác

Chậu rửa, bồn tiểu, bồn cầu và bidet Bể nước công nghiệp, các nhà máy và thiết bị khác nhau Hệ thống tái chế nước xám Các thiết bị y tế; thiết bị chế biến thực phẩm và phục vụ đồ ăn; các thiết bị nông nghiệp khác nhau bao gồm các đầu tưới tiêu thương mại đặt trên hoặc dưới mặt đất và/hoặc các ống tưới thẩm thấu

Bảng 2.2 Các loại rủi ro dựa trên các Quy định về Nước năm 1999

Apartment 25


Một đợt bùng phát lớn bệnh viêm phổi này lần đầu tiên được ghi nhận xảy ra vào năm 1976 giữa các thành viên của Quân đoàn Hoa Kỳ tham dự hội nghị thường niên tại một khách sạn ở Philadelphia. Sinh vật gây ra sự cố này đã được xác định vào năm sau đó và được đặt tên là Legionella pneumophila.

26 Apartment


Kể từ đó, nhiều vụ bùng phát khác đã được báo cáo từ các khu vực khác nhau trên thế giới, trong đó nguy cơ lây nhiễm cao nhất được xác định là ở các tòa nhà và địa điểm được công chúng hoặc người lao động sử dụng trong một thời gian tương đối lớn bao gồm khách sạn, bệnh viện, cơ sở kinh doanh và khu dân cư. Phòng thí nghiệm Y tế Công cộng của Vương quốc Anh đã cung cấp nhiều dữ liệu, bao gồm một số được báo cáo bởi Viện Kỹ thuật Hệ thống nước năm 1990.

Apartment 27


Tình trạng nhiễm trùng xảy ra do người bệnh hít phải những giọt nước nhỏ (kích thước khoảng 5 micromet) có chứa legionella. Một số nhóm người nhất định có nhiều khả năng bị ảnh hưởng hơn những người khác, trong đó nam giới có nguy cơ nhiễm bệnh nhiều gấp ba lần phụ nữ. Bên cạnh đó, những người trên 40 tuổi, người nghiện thuốc lá hoặc rượu nặng, những người có hệ thống miễn dịch bị suy giảm do thuốc họ đang dùng hoặc mắc bệnh mãn tính đều có nguy cơ mắc bệnh cao. Trong một số đợt bùng phát dịch, khoảng 10% số người bị viêm phổi đã tử vong. Một ví dụ về một đợt bùng phát nghiêm trọng là tại Stafford vào năm 1985 khi hơn 20 người được xác nhận đã tử vong.

28 Apartment


Để bùng phát dịch bệnh, cần phải có một lượng nước trữ có chứa legionella, với các điều kiện thích hợp để phát triển với nồng độ cao. Phải có một phương tiện để tạo ra hiệu ứng phun sương hoặc son khí, và các điều kiện khí quyển để cho phép sinh vật duy trì hoạt động. Cuối cùng, người dễ bị nhiễm trùng phải hít phải legionella. Việc lắp đặt hệ thống ống nước và điều hòa không khí hiện đại thường tạo ra những nơi sinh sôi tốt cho sinh vật, chúng có thể xâm nhập các hệ thống như vậy theo một số cách. Legionella có thể tồn tại với số lượng thấp trong các đường cấp nước chính cho các tòa nhà, tức là nước đã qua xử lý; legionella cũng có thể xâm nhập vào các tòa nhà thông qua các điểm mở như lỗ thông hơi và bể chứa hoặc trong quá trình thi công hoặc sửa chữa đường ống, chúng hiện diện rộng rãi trong môi trường.

Apartment 29


Một khi vi khuẩn có mặt trong các hệ thống cung cấp nước trong tòa nhà, chúng có thể sinh sôi nảy nở. Legionella phát triển tốt ở nhiệt độ nước từ 20 đến 45°C, với mức tăng trưởng tối ưu là ở khoảng 36°C. Nó có thể tồn tại trong nước dưới 20°C. Mặc dù thời gian là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của legionella, tuy nhiên nước có thể bị ứ đọng trong một thời gian đáng kể trong quá trình thi công đường ống và bể chứa. Hơn nữa, sự xuất hiện của cặn lắng, tảo và chất nhờn có thể cung cấp chất dinh dưỡng cho legionella phát triển, thúc đẩy bởi sự hiện diện của một số loại vật liệu xây dựng.

30 Apartment

Trong các hệ thống hạ tầng dịch vụ trong tòa nhà cũng vậy, ví dụ vòi hoa sen, spa, tháp giải nhiệt, bình ngưng bay hơi… thường là phương tiện tạo thành tia xịt hoặc son khí; tác động của nước lên bề mặt cứng hoặc mở vòi nước có thể làm phát sinh các giọt nước. Năm 1993, Ellis đã cung cấp một đánh giá toàn diện về chủ đề này với nhiều tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu thực địa.


Vi khuẩn sẽ phát triển trong hệ thống cung cấp nước chính được khử trùng bằng clo đến nồng độ 0,5 mg/l nhưng dễ bị nhiễm clo dư tự do ở nồng độ cao hơn. Do đó, xử lý để loại bỏ khả năng tái phát bệnh dịch Legionnaires trong một tòa nhà bao gồm việc thường xuyên làm sạch hệ thống và khử trùng nước bằng clo kể cả nước không để uống, để đảm bảo cung cấp nước lạnh có chứa 1−2 mg/l clo dư tự do đến các đầu cấp nước lạnh.

Phương pháp khử trùng sử dụng clo được mô tả trong BS 6700 và HS (G)70 do Cơ quan Điều hành An toàn và Sức khỏe ở Anh cấp. Loại thứ hai, trong phiên bản năm 2001, yêu cầu đánh giá rủi ro và lập kế hoạch quản lý cho tất cả các hệ thống nước không phải nước sinh hoạt, và chú trọng nhiều đến việc bảo trì toàn bộ tòa nhà.

Apartment 31


PHÂN LOẠI RỦI RO

Trong nhiều năm, việc duy trì chất lượng tốt nhất khi nước được đưa vào tòa nhà, nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc thiết kế và lắp đặt hệ thống đường ống và phụ kiện, được coi là vấn đề trọng tâm cho những quy định và tiêu chuẩn được soạn thảo. Vấn đề này được giải quyết bằng cách kiểm tra và phân loại các rủi ro liên quan.

32 Apartment


Vì vậy, các nghiên cứu ban đầu ở Vương quốc Anh và lục địa Châu Âu đã hình thành cơ sở cho các cuộc thảo luận ba bên giữa Anh, Pháp và Đức và sau đó là trong tổ chức tiêu chuẩn CEN. Một đề nghị của nhóm làm việc ba bên là phân loại thành hai cấp: (i) Khả năng nhiễm bẩn vĩnh viễn hoặc không thường xuyên có thể làm nước có hại cho sức khỏe; và (ii) Khả năng nhiễm bẩn nhưng không gây hại cho sức khoẻ nhưng có thể làm người sử dụng khiếu nại.

Apartment 33


Báo cáo của Bộ Môi Trường tại Anh năm 1974 đã đi xa hơn trong việc phân (i) thành hai cấp riêng, và ba phân loại này đã tạo cơ sở cho sự phát triển của vấn đề này trong các quy phạm mẫu của Vương quốc Anh và quy chuẩn về dịch vụ cấp nước trong các tòa nhà, BS 6700 năm 1987.

Thực tế, hệ thống phân loại ba cấp của Vương quốc Anh (ở đây gọi là phương pháp 1) đã công nhận bốn đặc tính của nước: nước mà con người uống được và nước bị ô nhiễm ở ba mức độ rủi ro theo thứ tự tầm quan trọng giảm dần, là: 1.

34 Apartment

Nguy cơ ô nhiễm nghiêm trọng có khả năng gây hại cho sức khỏe (liên tục hoặc thường xuyên).


Nguy cơ này có thể phát sinh, ví dụ, từ bồn cầu và bồn tiểu; thiết bị y tế; các quy trình công nghiệp và quá trình nghiên cứu; hệ thống rửa xe ô tô tự động; giặt tẩy; một số quy trình nông nghiệp; chậu máng; tàu chở dầu; đầu cấp chữa cháy; các kết nối giữa tàu và cảng; xe thông cống; vòi gắn ống mềm.

2.

Nguy cơ bị ô nhiễm bởi một chất không xuất hiện liên tục hoặc thường xuyên mà có thể gây hại cho sức khỏe. Nguy cơ này có thể phát sinh từ các thiết bị trong nhà ví dụ như vòi ở chậu rửa, bồn tắm và bồn rửa, máy giặt, bồn xả nước, vòi sen gắn ở bồn tắm hoặc bồn rửa, vòi gắn ống mềm, hệ thống làm nóng (mạch sơ cấp và hệ thống làm nóng gián tiếp trung tâm bao gồm bình cấp nước); một số máy bán đồ uống tự động; thiết bị làm mềm nước (không dùng trong nhà); mạch gia nhiệt trong máy giặt.

3. Nguy cơ ô nhiễm bởi một chất không gây hại cho sức khỏe nhưng người sử dụng có thể khiếu nại. Nguy cơ này có thể phát sinh từ các thiết bị trong nhà ví dụ như vòi sen, vòi nóng lạnh trong một số tình huống nhất định, thiết bị làm mềm nước sinh hoạt, bể chứa nước tự chảy.

Apartment 35


Trong khi việc phân loại này được thực hiện ở Anh, vẫn có những nỗ lực liên tục đặc biệt là ở Pháp, để làm cho cách tiếp cận này trở nên ít chủ quan hơn bằng cách kiểm tra sự nhiễm bẩn trên một tiêu chuẩn cụ thể. Do đó, cách tiếp cận thay thế (phương pháp 2) có thể xác nhận năm phẩm chất của nước trên các ý sau: (i) Nước con người uống được; (ii) Nước phù hợp để con người sử dụng, bao gồm cả nước từ hệ thống phân phối nước sinh hoạt mà đã bị giảm chất lượng về mùi vị, màu sắc hoặc trở nên ấm hơn hoặc lạnh hơn (so sánh với 3 điều trên); (iii) Nước có nguy cơ gây hại cho sức khỏe con người do có một hoặc nhiều chất độc hại; liều gây chết người có thể nằm trong khoảng LD50 hơn 200 mg cho mỗi kg trọng lượng cơ thể;

36 Apartment


(iv) Như (iii) nhưng với LD50 nhỏ hơn hoặc bằng 200 mg mỗi kg hoặc với một hoặc nhiều chất phóng xạ, chất gây ung thư hoặc chất gây đột biến; (v) Nước có nguy cơ gây hại cho sức khỏe con người do sự hiện diện của vi khuẩn hoặc vi rút có hại. Thuật ngữ LD50 được công nhận rộng rãi và có nghĩa là liều lượng uống vào cần thiết để tiêu diệt 50% quần thể mục tiêu, ở đây là chuột. Hệ thống phân loại thứ hai này vẫn có các yếu tố chủ quan. Câu hỏi về tần suất và thời gian nhiễm bẩn có thể gây khó khăn trong thực tế. Sự thiếu chắc chắn về một số khía cạnh như “sự cố gây nhiễm bẩn trong thời gian ngắn, sau đó được làm sạch” là không thể tránh khỏi. Do đó, vẫn còn phải xem xét liệu một hệ thống như vậy có mang lại những lợi ích thực tế đáng giá trong dài hạn hay không. Apartment 37


38 Apartment

CÁC LOẠI CHẤT LỎNG TRONG QUY ĐỊNH NĂM 1999


Trong Quy định năm 1999, rủi ro được xử lý bằng cách nhìn nhận năm đặc tính của nước như trong ví dụ (phương pháp 2) được mô tả ở trên. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không xác định chất lỏng có bị nhiễm bẩn hay không bằng một bài kiểm tra khách quan. Yếu tố chủ quan được giữ nguyên và điều này có vẻ đơn giản và thiết thực hơn. Năm mục được mô tả trong bảng 2.2, dựa trên các Quy định năm 1999. Yêu cầu chính là nước sạch uống được không có mùi vị khó chịu phải được cung cấp bởi công ty cấp nước và tuân thủ các quy định được đưa ra theo pháp luật. Theo sau là các mục ít quan trọng hơn. Cả hai cân nhắc về cảm quan và sức khỏe đều xuất hiện trong danh sách, với nguy cơ tăng dần từ mục 1 đến mục 5. Một vài ví dụ minh họa không toàn diện một số tình huống liên quan. Phải có sự gia tăng tương ứng về an ninh với các biện pháp bảo vệ được sử dụng để đề phòng các rủi ro ngày càng gia tăng.

Apartment 39


40 Apartment


Apartment 41


42 Apartment


Apartment 43


40 Apartment


Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.