Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM
Văn phòng Hà Nội:
Điện thoại: 0243.7713699
Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội
Phòng Quảng cáo:
Quảng cáo: 028.62777616
Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn
Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT
ISSN: 0866-8043
Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV Lê Quang Lộc (TP HCM)
Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ
Thư tòa soạn
Thưa quý bạn đọc!
Trong tháng 10/2024, ngành thủy sản Việt Nam sẽ cùng lúc đón 02 Đoàn thanh tra từ Liên minh Châu Âu (EU). Theo đó, EU sẽ thanh tra toàn diện lĩnh vực nuôi trồng thủy sản (từ 24/9 - 17/10) và Ủy ban châu Âu (EC) sẽ thanh tra lần 05 về việc chấp hành các quy định chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU), đồng thời xem xét việc gỡ “thẻ vàng” thủy sản cho Việt Nam (dự kiến trong tháng 10).
Chính vì vậy, đây được coi là thời điểm vô cùng quan trọng và nhạy cảm đối với ngành thủy sản nước ta. Kết quả thanh tra của EU sẽ tác động rất lớn đến ngành thủy sản nói riêng và nền kinh tế nói chung theo bất kể chiều hướng nào. Bởi EU không chỉ là thị trường trọng điểm của Việt Nam mà còn là “thước đo tiêu chuẩn” cho các mặt hàng xuất khẩu khi chúng ta tìm kiếm, mở rộng thị trường. “Thời khắc quyết định” là chủ đề chính của Tạp chí Thủy sản Việt Nam phát hành trong tháng 10. Số báo kỳ này sẽ cập nhật thông tin mới nhất liên quan đến các đợt thanh tra của EU đối với ngành thủy sản Việt Nam. Thông qua góc nhìn từ nhà quản lý, chuyên gia để đưa ra những kịch bản có thể xảy ra sau đợt thanh tra của EU, từ đó thấy được tính cấp thiết của việc phát triển ngành thủy sản theo hướng xanh, bền vững. Trên số báo phát hành kỳ này, Tạp chí sẽ thông tin tới quý bạn đọc những con số thống kê về thiệt hại do siêu bão Yagi (bão số 3) gây ra cho ngành thủy sản, cũng như các chỉ đạo của Chính phủ, Bộ, ban ngành, địa phương nhằm khắc phục hậu quả, phục hồi sản xuất sau bão.
Ngoài ra, Tạp chí Thuỷ sản Việt Nam số 10 còn cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thuỷ sản trong và ngoài nước; phòng chống dịch bệnh thủy sản sau mưa bão, kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản, cùng các hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.
Trân Trọng! Ban Biên tập
EU thanh tra toàn diện thủy sản nuôi: Nghiêm túc thực thi
Cảnh Nghi 14
EC thanh tra thủy sản khai thác lần 5: Thời khắc quyết định
Thiện Tâm 16
Hãy để những cuộc kiểm tra thành hoạt động thông thường Thu Hồng
20
Kiến tạo không gian, nâng cao giá trị cho rong biển
Thùy Khánh 27 Hành trình “Dinh dưỡng xanh”: Bước tiến bền vững cho ngành thủy sản
50
Hội nghị Giải pháp đột phá hiệu suất tại tỉnh Trà Vinh
C.P. Việt Nam
52
Vinhthinh Biostadt: Chia sẻ
tình cảm với đồng bào miền Bắc bị thiệt hại do cơn bão số 3
Vĩnh Thịnh
Nuôi tôm mùa nghịch: Cơ hội và rủi ro
Xuân Trường
36
Nâng cao sức cạnh tranh
của ngành tôm và câu
chuyện phát triển bền vững
Công ty CP Tập đoàn Thủy sản
44
Oanh Thảo (Thực hiện) 32
Ứng dụng các giải pháp
bền vững hơn trong NTTS
Phần 2: Tăng cường sức khỏe tôm, cá bằng giải pháp tự nhiên - Kỳ 1
Joao Sendao 48
Grofarm Pro: Giải pháp năng suất cao, chi phí thấp đem lại lợi nhuận tối đa cho người nuôi tôm
Lược dịch từ Phileo by Lesaffre Ông Chuang Jie Cheng
Tập đoàn Việt Úc đồng hành cùng người nuôi tôm vượt thử thách sau bão Yagi
Tập đoàn Việt Úc
Chức năng sức khỏe trong thức ăn tôm: Kết hợp khoa
học với thực tế ở trang trạiPhần 1
Tháo gỡ vướng mắc về nguyên liệu
thủy sản sau kỳ kiểm tra của EC
Quy định “Không trộn lẫn nguyên liệu
thủy sản có nguồn gốc từ khai thác nhập khẩu với nguyên liệu thủy sản có nguồn gốc từ khai thác trong nước vào cùng một lô hàng xuất khẩu” gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được cơ quan chức năng rà soát sau đợt thanh tra lần thứ 5 của Ủy ban châu Âu. Theo Thứ trưởng Bộ
NN&PTNT Phùng Đức Tiến, quy định mới tại hai nghị định để đảm bảo việc kiểm soát nguyên liệu nhập khẩu, chế biến xuất khẩu đi châu Âu, minh bạch về nguồn gốc xuất xứ lô hàng xuất khẩu theo yêu cầu của EC. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, các doanh nghiệp hội viên VASEP cho rằng, quy định nêu trên gây ra một số khó khăn cho doanh nghiệp. Để tháo gỡ vướng mắc này, Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ rà soát quy định mới tại các nghị định nêu trên sau đợt thanh tra lần thứ 5 của EC vào tháng 10 tới. Nội dung sẽ thực hiện rà soát bao gồm quy định về trộn lẫn nguyên liệu và xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến trộn lẫn nguyên liệu và các quy định khác có liên quan.
Đồng thời, tăng cường chỉ đạo, đôn đốc các địa phương triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật Thuỷ sản và các văn bản hướng dẫn mới ban hành.
EU phát ra nhiều cảnh báo với nông sản Việt
Thị trường EU có 3 quy định an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động thực vật (SPS) đối với nông sản thực phẩm và thủy sản nhập khẩu. Theo thống kê của Văn phòng SPS Việt Nam, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2024, các quốc gia thành viên WTO đã đưa ra 551 thông báo và dự thảo biện pháp SPS được gửi đến Việt Nam; trong đó có 115 thông báo về thay đổi mức dư lượng tối đa thuốc bảo vệ thực vật hoặc kháng sinh; sau đó là sức khỏe động vật, sức khỏe thực vật, thức ăn chăn nuôi... Đáng chú ý, chỉ riêng trong 6 tháng năm 2024, số lượng cảnh báo an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động thực vật với nông sản
từ EU tăng bất thường, tăng gần 20%, nhiều nhất trong các đối tác thương mại nông sản
Ảnh: Thành Long
của Việt Nam. Nhằm giúp doanh nghiệp tận dụng tốt hơn ưu đãi từ EVFTA cũng như các
FTA khác, Bộ Công Thương xác định tiếp tục nắm bắt khó khăn, vướng mắc về sản xuất, xuất khẩu thông qua mối liên hệ chặt chẽ với các hiệp hội ngành hàng để kịp thời giải quyết; bám sát tình hình thực tế, chỉ đạo kịp thời, điều hành linh hoạt công tác xuất khẩu.
Tăng cường kiểm soát buôn bán, vận chuyển trái phép tôm hùm giống
Tôm hùm giống nhập lậu từ nước ngoài vào đã và đang diễn ra rất phổ biến, phức tạp, dẫn đến nguy cơ rất cao xâm nhiễm các loại mầm bệnh (đốm trắng, bệnh sữa,...) ảnh
hưởng nghiêm trọng đến phát triển ngành nuôi tôm hùm. Vì vậy, Bộ NN&PTNT đề nghị
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chỉ đạo các sở, ban ngành và chính quyền các cấp của địa phương tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát tại các cảng hàng không, cửa khẩu, đường mòn, lối mở khu vực biên giới, đường sông, đường biển... để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn bán, nhập lậu, vận chuyển tôm hùm giống trái phép vào Việt Nam. Đồng thời, chỉ đạo lực lượng Công an, Bộ đội Biên phòng, Ban chỉ đạo 389 địa phương lập chuyên án đấu tranh với các đối tượng nhập lậu, vận chuyển trái phép tôm hùm giống vào Việt Nam. Phối hợp với chính quyền địa phương, cơ quan chuyên môn có liên quan để tăng cường kiểm tra các cơ sở nuôi cách ly, cơ sở nuôi tôm để kịp thời phát hiện, bắt giữ và xử lý nghiêm các trường hợp nhập lậu, buôn bán, vận chuyển trái phép tôm hùm giống.
Tôm hùm nhập lậu gây nhiều hệ lụy cho ngành thủy sản
Ảnh: ST
TP. HCM Sớm xây dựng trung tâm thủy sản
TP. HCM là đầu mối quan trọng về logistics, chế biến, xuất khẩu thủy sản, nhưng đến nay, thành phố vẫn chưa hình thành một trung tâm phục vụ riêng biệt cho sự phát triển ngành thủy sản, đặc biệt là lĩnh vực chế biến và các dịch vụ hậu cần nghề cá. Vì vậy, việc hình thành Trung tâm Thủy sản Thành phố có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tháo gỡ những khó khăn trong thực thi công tác chống khai thác IUU. Theo Phân viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản phía Nam, dự án Trung tâm Thủy sản TP.HCM đặt tại xã Bình Khánh, huyện Cần Giờ. Dự án có quy mô 100 ha, gồm 2 phân khu: Khu Cảng cá – Chợ cá (20 ha) và Khu chế biến thủy sản và cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá (80 ha). Tuy nhiên, dự án đang gặp phải một số khó khăn chính, đặc biệt liên quan đến tiến độ thực hiện và nguồn vốn đầu tư. Mặc dù đã hoàn thành dự án giải phóng mặt bằng vào năm 2014, nhưng hai dự án thành phần còn lại vẫn chỉ dừng ở giai đoạn quy hoạch và chưa được phê duyệt để đầu tư xây dựng. Điều này có thể xuất phát từ việc gặp khó khăn trong quá trình hoàn thiện các thủ tục pháp lý và cơ chế đầu tư.
Quảng Trị
51 vụ vi phạm khai thác thủy sản sau đợt thanh tra lần thứ 4 của EC
Theo Sở NN&PTNT Quảng Trị, từ tháng 10/2023, sau đợt thanh tra của Ủy ban châu Âu lần thứ 4 về chống khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) đến nay, cơ quan chức năng ở tỉnh này đã tiến hành xử phạt nghiêm đối với các tàu cá vi phạm. Cụ thể, quá trình kiểm tra, đã phát hiện 51 vụ tàu cá vi phạm hành chính các hành vi vi phạm, trong đó có 9 vụ mất kết nối hệ thống giám sát hành trình tàu cá nhưng không gửi vị trí về đúng quy định, gồm 1 tàu cá ngoại tỉnh và 8 tàu cá trong tỉnh. Tổng số tiền xử phạt 51 vụ vi phạm là hơn 415 triệu đồng, do Thanh tra Sở NN&PTNT xử phạt 40 trường hợp, 11 trường hợp do lực lượng Biên phòng Quảng Trị xử phạt. Số liệu Sở NN&PTNT Quảng Trị cho thấy, tổng số tàu cá toàn tỉnh tính đến nay là 2.648 chiếc, với tổng công suất 147.952 CV. Đến ngày 25/9, tàu cá có nguy cơ cao vi phạm khai thác thủy sản bất hợp pháp là 192 tàu.
Tăng quy mô gói tín dụng hỗ trợ ngành lâm nghiệp và thủy sản
Sau bão số 3 (bão Yagi), ngành thủy sản Việt Nam, đặc biệt tại các tỉnh miền Bắc, bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trước tình hình này, trong phiên họp thường kỳ hồi tháng 8/2024, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng tiếp tục giảm chi phí, hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân. Trong đó, nghiên
cứu tăng quy mô gói tín dụng ưu đãi cho lĩnh vực lâm nghiệp và thủy sản từ 30.000 tỷ đồng lên 60.000 tỷ đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu phục hồi sau bão lũ. Theo đó, việc bổ sung thêm hạn mức cho gói tín dụng hỗ trợ lâm, thủy sản này, hầu hết các chi nhánh Ngân hàng thương mại đang khá tích cực trong giải ngân nguồn vốn vay hỗ trợ lãi suất đối với lĩnh vực thủy sản. Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến giữa tháng 9/2024, gói tín dụng lâm, thủy sản đã giải ngân cho vay đạt 36.000 tỷ đồng, vượt 6.000 tỷ đồng so với hạn mức 30.000 tỷ đồng được bổ sung hồi tháng 2/2024.
Sóc Trăng Kiểm soát chặt chẽ chất lượng vật
tư NTTS
Sở NN&PTNT Sóc Trăng cho biết, trong 9 tháng năm 2024, Sở đã tổ chức 4 cuộc thanh tra, trong đó có 2 cuộc thanh tra theo kế hoạch và 2 cuộc thanh tra đột xuất về lĩnh vực kinh doanh thức ăn và sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh. Qua đó đã thực hiện thanh tra 45 tổ chức, cá nhân kinh doanh thủy sản, lấy 20 mẫu để thử nghiệm chất lượng. Kết quả có 6 mẫu thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường không đạt chất lượng, qua đó ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên 213 triệu đồng. Cùng với đó, công tác chống gian lận thương mại, hàng giả trong hoạt động kinh doanh thức ăn và thuốc thú y dùng trong nuôi trồng thủy sản
được Cục Quản lý thị trường tỉnh quan tâm
đẩy mạnh. Từ đầu năm đến nay, Cục Quản lý thị trường đã kiểm tra và phát hiện, xử lý 24 vụ với tổng số tiền thu phạt trên 122 triệu đồng.
Chưa có lịch cụ thể của EC đến thanh tra gỡ “thẻ vàng IUU”
Mới đây, Cục trưởng Cục Thủy sản Trần Đình Luân thông tin phía Việt Nam đã có báo cáo gửi Ủy ban Châu Âu (EC) về kết quả mà phía Việt Nam thực hiện các yêu cầu, khuyến nghị từ phía EC. Tuy nhiên, phía EC chưa thông báo lại ngày, giờ cụ thể sẽ sang Việt
Các ngân hàng hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất. Ảnh: Toàn Vũ
Nam thanh tra, xem xét gỡ bỏ thẻ vàng cho thủy sản. Đợt thanh tra lần thứ 5 của EC được đánh giá là thời điểm quan trọng để Việt Nam gỡ cảnh báo “thẻ vàng” IUU. Trong khi đó, hiện có một đoàn kiểm tra của châu Âu cũng đang có mặt tại Việt Nam để tiến hành thanh tra thực địa từ ngày 24/9 - 17/10, nhằm kiểm tra việc tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, đặc biệt là dư lượng hóa chất và kháng sinh trong sản phẩm thủy sản nuôi trồng xuất khẩu sang các nước châu Âu (EU).
Thái Bình
Thận trọng bệnh đốm trắng trên tôm nuôi
Trong tháng 9, Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã phối hợp với các địa phương lấy mẫu tại các xã có cơ sở nuôi tôm tập trung thuộc huyện Tiền Hải và Thái Thụy để giám sát dịch bệnh trên tôm định kỳ trong năm 2024. Kết quả giám sát cho thấy, có 8/16 mẫu (50%) và 10/60 mẫu (16,7%) dương tính với virus
WSSV gây bệnh đốm trắng trên tôm. Trong đó, huyện Thái Thụy phát hiện 2 mẫu dương tính tại xã Thụy Hải; huyện Tiền Hải phát hiện 16 mẫu dương tính (xã Đông Minh 7 mẫu, xã
Nam Cường 2 mẫu, xã Nam Thịnh 5 mẫu và xã Nam Thắng 2 mẫu); 100% mẫu âm tính với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy cấp; 100 % mẫu âm tính với virus DIV-1. Để tập trung phòng, chống dịch bệnh đốm trắng trên tôm nuôi tái phát và lây
lan trên địa bàn tỉnh, Chi cục Chăn nuôi và Thú y đề nghị UBND các huyện Thái Thụy, Tiền Hải thông báo về về việc có sự lưu hành virus gây bệnh đốm trắng trong môi trường. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phát hiện sớm dịch bệnh tại các vùng nuôi thủy sản trên địa bàn; kịp thời phát hiện hiện tượng tôm nuôi chết bất thường để kiểm tra, xác minh nguồn gốc và hướng dẫn biện pháp phòng, chống bệnh dịch phù hợp.
Đồng Tháp
Thu hoạch hơn 442.000 tấn cá tra trong 9 tháng đầu năm
Theo Sở NN&PTNT Đồng Tháp, trong 9 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh có 2.242 ha nuôi cá tra, sản lượng thu hoạch hơn 442.000 tấn. Toàn tỉnh hiện có 374 cơ sở nuôi cá tra được cấp mã số nhận diện với 1.623 ha mặt nước. Trong đó, có 85 cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm với diện tích 663,85 ha; 38 cơ sở áp dụng và được chứng nhận các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, ASC, BAP với diện tích 242 ha. Về giống, 9 tháng đầu năm, các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã sản xuất hơn 10,2 tỷ con cá tra bột (đạt 75,61% chỉ tiêu kế hoạch quý III/2024); sản xuất được 47,7 triệu con cá tra hương; sản xuất được 812 triệu con cá tra giống (đạt 85,51% chỉ tiêu kế hoạch quý III/2024).
Sản lượng cá hồi toàn cầu dự kiến tăng 4 lần
Theo dự báo, sản lượng cá hồi nuôi toàn cầu sẽ gia tăng đáng kể vào năm 2025. Trong đó, Na Uy
dự kiến tăng ít nhất 40.000 tấn cá nguyên con, các nước châu Âu khác tăng khoảng 35.000 tấn. Dự báo này dựa trên mức tăng trưởng 5% trong sản lượng thu hoạch của năm 2024 từ Quần đảo Faroe, Iceland, Na Uy và Vương quốc Anh. Nhu cầu cao từ các nhà hàng sushi tại châu Âu, Bắc Hoa Kỳ và châu Á (Trung Quốc, Hồng Kông) đã phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch Covid-19, góp phần duy trì giá cao trong nửa đầu năm 2025. Dự kiến khoảng 60% sản lượng cá hồi toàn cầu sẽ được thu hoạch và tiêu thụ mạnh vào nửa cuối năm 2025, chủ yếu qua kênh bán lẻ. Giá cá hồi dự kiến sẽ giảm khoảng 3 euro/kg giữa năm 2025. Các nhà sản xuất cần chuẩn bị cho sự biến động thị trường và có thể đẩy mạnh các hợp đồng với cơ sở bán lẻ để cân bằng cung cầu.
Thay thế dầu cá trong thức ăn cho cá cam ở Nam Úc
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Flinders vừa công bố một nghiên cứu về việc sử dụng các loại dầu thay thế cho dầu cá trong thức ăn nuôi cá cam. Từ lâu, dầu cá đã là thành phần quan trọng trong thức ăn thủy sản nhờ hàm lượng chất béo và các dưỡng chất, đặc biệt là axit béo omega-3. Tuy nhiên, việc khai thác cá từ tự nhiên để sản xuất dầu cá đang bị coi là không bền vững về mặt sinh thái. Để giảm thiểu tác động sinh thái và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thủy sản nuôi, các nhà khoa học từ Đại học Flinders đã thử nghiệm các loại dầu thay thế như dầu hạt cải và dầu gia cầm. Kết quả cho thấy, hai loại dầu này có thể thay thế dầu cá để sản xuất thức ăn cho cá cam. Tuy nhiên các nhà khoa học cho biết cần có thêm các nghiên cứu để điều chỉnh công thức thức ăn tối ưu cho loài cá này.
Trung Quốc
Sản xuất tôm trì trệ
Tại Diễn đàn Tôm Toàn cầu 2024 tổ chức tại Utrecht, Hà Lan vào đầu tháng 9, ông Luca Micciche - Giám đốc kỹ thuật thủy sản và quản lý phát triển kinh doanh của Verdesian Life Sciences tại Cary, Bắc Carolina cho biết, sản xuất tôm ở Trung Quốc đang gần như đứng yên do nhu cầu nội địa giảm. Trong 4 - 5 năm qua, mức tăng trưởng sản lượng tôm của Trung
Quốc đã giảm từ trên 5% hàng năm xuống chỉ còn 1%. Các nhà sản xuất tôm Trung Quốc đang đối mặt với chi phí sản xuất tăng cao và giá thị trường giảm. Mặc dù có những đợt giá cao vào mùa Tết Nguyên Đán, nhưng họ vẫn gặp khó khăn trong các tháng giữa năm như tháng 6, 7, cũng như tháng 11 và 12. Một số nông dân đã ngừng thả giống để chờ giá tốt hơn. TTCT hiện chiếm 93% sản lượng tôm của Trung Quốc, tôm sú chiếm 5% và tôm he chiếm 2%. Tăng trưởng TTCT và tôm he chỉ khoảng 1% hàng năm, tôm sú tăng 2%.
Tập trung nguồn lực cho nuôi biển
Theo Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung
Quốc, sản lượng nuôi biển của nước này trong
7 tháng đầu năm đạt 13 triệu tấn, tăng 5,2% so cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng hải sản của
tăng 4% trong cùng kỳ, với 58,1 triệu tấn. Trung
Quốc đã chú trọng gia tăng sản lượng từ các cơ sở nuôi biển lớn dọc bờ biển, đồng thời tăng cường giám sát các cơ sở nuôi trồng nước ngọt. Điều này đã thu hút đầu tư từ các tập đoàn nhà nước vào hoạt động nuôi biển cũng như mô hình hệ thống nuôi tuần hoàn tại các cơ sở nội địa.
Peru
Sản lượng khai thác tăng mạnh
Theo dữ liệu từ Bộ Sản xuất Peru (Produce), tháng 6/2024, Peru khai thác 362.200 tấn cá, tăng 133,2%. Nguyên nhân chủ yếu do sự bùng nổ 481,6% trong sản lượng khai thác cá cơm phục vụ tiêu dùng gián tiếp, và mức tăng nhẹ 6% trong khai thác cho tiêu dùng trực tiếp. Giá trị khai thác cũng tăng đáng kể, đạt 274,9 triệu PEN (72,3 triệu USD), tăng 56,8% so với tháng 6/2023. Sản lượng khai thác cá cơm chủ yếu tập trung ở vùng trung bắc Peru, với 41.500 tấn
trị giá 103 triệu PEN. Trong khai thác cho tiêu dùng trực tiếp (120.600 tấn), có 52,9% là sản phẩm đông lạnh, 31,3% tiêu dùng tươi, 12,3% đóng hộp, và 3,5% chế biến. Tuy nhiên, khai thác sản phẩm đông lạnh giảm 9,6% xuống còn 63.800 tấn do sự suy giảm đáng kể trong khai thác mực khổng lồ, giảm 29,4%. Các loài cá khác như cá mòi, cá thu và cá ngừ cũng giảm, nhưng khai thác cá thu, cá ngao, cá tuyết hake và cá ngừ bonito tăng.
Hoa Kỳ Tiếp tục mất cân bằng thương mại thủy sản
Theo Cơ quan Quản lý Đại dương và Khí quyển Quốc gia (NOAA), trong nửa đầu năm 2024, giá trị xuất khẩu thủy sản của Hoa Kỳ chỉ chiếm 16% so với tổng giá trị nhập khẩu thủy sản, giảm so với tỷ lệ 20% của năm 2023. Hoa Kỳ đã nhập khẩu 238.087 tấn cá hồi trị giá 2,9 tỷ USD, giảm 5% về khối lượng và 10% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập khẩu tôm đạt 351.025 tấn trị giá 2,7 tỷ USD, giảm 3% về khối lượng và 10% về giá trị. Nhập khẩu cá ngừ đạt 143.734 tấn trị giá 922,4 triệu USD, giảm 2% về khối lượng và 5% về giá trị. Tuy nhiên, trong nửa đầu năm 2024, Hoa Kỳ cũng nhập khẩu 28.210 tấn tôm hùm trị giá 797 triệu USD, tăng 9% về khối lượng và 12% về giá trị, cùng với 41.954 tấn cua tuyết trị giá 650 triệu USD, tăng 18% về khối lượng và 42% về giá trị. Tổng giá trị nhập khẩu thủy sản đạt 12,5 tỷ USD, trong khi xuất khẩu chỉ đạt 2,1 tỷ USD. Nếu xu hướng này tiếp tục, năm 2024 sẽ là năm mất cân bằng thương mại thủy sản lớn nhất của Hoa Kỳ kể từ năm 2015.
An Vy
CON SỐ & SỰ KIỆN
7,16 TỶ USD Là giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2024, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước.
500 KG
Là số lượng tôm nguyên liệu có chứa tạp chất agar vừa được phát hiện tại Kiên Giang khi số tôm này đang được mang đi tiêu thụ.
6.972,4 NGHÌN TẤN
Là sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2024, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
6.100 TỶ ĐỒNG
Là con số ước tính thiệt hại về nuôi trồng thủy sản do bão số 3 và mưa lũ. Trong đó, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản bị vỡ bờ ao và ngập lụt khoảng 30.137 ha diện tích ảnh hưởng.
Ảnh: Oanh Thảo
EU thanh tra toàn diện thủy sản nuôi
Nghiêm túc thực thi
Kết quả thanh tra của EU không chỉ ảnh hưởng đến các đơn vị, cơ sở
liên quan mà ảnh hưởng đến toàn ngành thủy sản Việt Nam.
Tác động to lớn
Dự kiến từ ngày 24/9 đến 17/10, Đoàn thanh tra của Liên minh châu Âu (EU) sẽ sang Việt Nam để thanh tra toàn diện lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Trong khoảng thời gian này, Đoàn thanh tra sẽ đánh giá hoạt động của chương trình kiểm soát dư lượng đối với các sản phẩm được phép xuất khẩu sang thị trường EU và thẩm tra độ tin cậy về đảm bảo thủy sản nuôi
không chứa dư lượng theo quy định.
Theo Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), Việt
Nam là quốc gia sản xuất và xuất khẩu cá tra lớn nhất thế giới, chiếm 52% sản lượng và 90% thương mại cá tra của thế giới; xuất
khẩu tôm đứng thứ 2 thế giới với giá trị xuất
khẩu chiếm 13 - 14% tổng giá trị xuất khẩu tôm của toàn thế giới.
Cục Thủy sản cho rằng, để duy trì vị thế của Việt Nam cũng như hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước, công tác chuẩn bị tiếp các đoàn thanh tra nhằm chứng minh tính tương đương trong hệ thống quản lý của cơ quan thẩm quyền và năng lực thực thi của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, chế biến cần được chú trọng.
Thị trường Hoa Kỳ và EU là những thị trường khó tính với những yêu cầu cao về kiểm soát dư lượng thuốc, hóa chất, nguồn gốc sản phẩm cũng như tính bền vững. Trong 6 tháng đầu năm tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam sang Hoa Kỳ và EU đạt 1,27 tỷ
USD, đây là những thị trường giúp khẳng định uy tín, chất lượng của thủy sản Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Băng Tâm - Chuyên viên của
Cục thủy sản đánh giá, Hoa Kỳ và EU là hai thị trường “đầu kéo” cho cả ngành thủy sản xuất
khẩu đi quốc tế. “Hai thị trường này có vấn
đề sẽ gây hiệu ứng “domino”, ảnh hưởng toàn
bộ ngành hàng thủy sản Việt Nam”, bà Tâm nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, đại diện Phòng An toàn
thực phẩm, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát
triển thị trường (Bộ NN&PTNT) cho rằng, EU
là một trong các thị trường tiêu thụ thủy sản
chủ lực của Việt Nam. Kết quả thanh tra tiêu cực sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động chế
biến xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp và
ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
EU có phương pháp tiếp cận theo hướng kiểm tra, công nhận hệ thống. Do vậy, kết quả thanh tra không chỉ ảnh hưởng đến các đơn vị, cơ sở liên quan mà ảnh hưởng đến toàn ngành thủy sản Việt Nam.
Kết quả thanh tra tiêu cực có thể ảnh hưởng đến việc xuất khẩu thủy sản không chỉ riêng thị trường EU mà sang cả các thị trường khác. Vì vậy, việc giữ vững uy tín, chất lượng thủy sản của Việt Nam tại thị trường EU là tiền đề quan trọng để các thị trường khác chấp thuận và mở cửa đối với thủy sản Việt Nam, đóng góp quan trọng vào việc giữ vững tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
Tập trung cao độ
Chia sẻ tại Hội nghị phổ biến, chuẩn bị chương trình, nội dung làm việc với Đoàn thanh tra của Liên minh châu Âu cho đại diện các địa phương, doanh nghiệp diễn ra vào đầu tháng 8/2024, ông Nguyễn Như TiệpCục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường nhận định, việc khắc phục những cảnh báo của EU đối với nuôi thủy sản là rất khó nhưng vẫn phải nỗ lực để khắc phục, tháo gỡ nếu không sẽ đánh mất thị trường. Để làm được điều này, vai trò của địa phương, doanh nghiệp, người dân và người dân rất quan trọng.
Theo ông Tiệp, trong Luật An toàn thực phẩm, trách nhiệm sử dụng nguyên liệu để chế biến thực phẩm đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm là trách nhiệm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không kiểm soát được là do doanh nghiệp, doanh nghiệp không thể đổ lỗi do người dân. Doanh nghiệp mua nguyên liệu
của người dân phải có trách nhiệm giám sát, hỗ trợ để người dân cung ứng nguyên liệu đủ tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.
“Mặc dù, doanh nghiệp có đội đi mua hàng, lấy mẫu test nguyên liệu trước khi mua nhưng việc lấy mẫu test chắc chắn không bao giờ kiểm soát được an toàn thực phẩm. Muốn kiểm soát được an toàn thực phẩm thì phải kiểm soát cả quá trình. Doanh nghiệp phải theo sát người nuôi nguyên liệu (hỗ trợ kỹ thuật, phương pháp nuôi,...) cho doanh nghiệp”, ông Tiệp nhấn mạnh. Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường lưu ý, tất cả doanh nghiệp (đặc biệt là những doanh nghiệp có lô hàng cảnh báo) phải có hồ sơ kiểm soát môi trường, hồ sơ kiểm soát tồn dư hóa chất, kháng sinh tại doanh nghiệp, hồ sơ khắc phục cảnh báo. Các hồ sơ này phải khớp với hồ sơ tại cơ quan địa phương, cơ quan trung ương (hồ sơ điều tra phát hiện, hồ sơ điều tra xác định nguyên nhân, hồ sơ khắc phục).
Đối với các doanh nghiệp đã có lô hàng cảnh báo, nếu không có đủ hồ sơ sẽ không được xuất khẩu trở lại hoặc bị áp dụng biện pháp tăng cường. Dù có những quy định mới gây khó khăn nhưng đã xuất khẩu sang thị trường nào thì phải đáp ứng yêu cầu, quy định của thị trường đó. Về phía nhà nước, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường sẽ tiếp tục cập nhật thông tin định hướng triển khai đến các đơn vị, cơ quan, địa phương,
Ảnh: Shutterstock
nghiệp khi tiếp nhận các văn bản cập nhật thông tin định hướng triển khai kế hoạch nên đọc kỹ và làm theo yêu cầu hướng dẫn, nhằm tránh xảy ra sự cố khi Đoàn thanh tra EU sang kiểm tra. Chẳng hạn, trước đây quy định doanh nghiệp khi đăng ký xuất khẩu sản phẩm sang châu Âu chỉ cần đăng ký tên doanh nghiệp sản xuất và sản phẩm cuối cùng xuất khẩu. Nhưng hiện nay, trừ vùng nuôi, tổ cá thì những cơ sở cung ứng, bảo quản, sơ chế cũng phải đăng ký.
Ngoài ra, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường cũng sẽ tổ chức đi kiểm tra, rà soát thực trạng giúp các doanh nghiệp, địa phương chuyển biến tốt. Các địa phương lưu ý kiểm tra danh mục, nhãn mác, thành phần thuốc thú y, chế phẩm sinh học tại các cửa hàng bán lẻ thuốc; Cục sẽ quản lý chặt các phòng kiểm nghiệm dư lượng hóa chất, kháng sinh trong mẫu tôm, cá; các doanh nghiệp lưu ý lựa khi chọn phòng kiểm nghiệm mẫu;... Theo Hệ thống cảnh báo nhanh về thực phẩm và thức ăn (RASFF) của Cơ quan thực thi các chính sách của EU về an toàn sức khỏe và thực phẩm (DG-SANTE), các lô hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu vào EU bị cảnh báo dư lượng hóa chất, kháng sinh đang tăng nhanh ở mức nghiêm trọng. Tỷ lệ mẫu vi phạm trong chương trình giám sát dư lượng vẫn chưa có dấu hiệu được cải thiện. Chỉ tiêu hóa chất, kháng sinh cấm, không được phép sử dụng vẫn được phát hiện sử dụng trên thủy sản.
VĂN BẢN MỚI
Cảnh Nghi
Ngày 14/8/2024, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển Thị trường, Bộ NN&PTNT, đã có Công văn 1548/ CCPT-GSĐG: EU chấp nhận bổ sung đối tượng, vùng nuôi thủy sản vào chương trình giám sát dư lượng 2024. Theo đó, để đáp ứng quy định của EU, cũng như chuẩn bị tốt cho đợt thanh tra sắp tới của EU về dư lượng trong thủy sản nuôi, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường đề nghị, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản sang EU sử dụng nguyên liệu là đối tượng thủy sản nuôi được Cơ quan thẩm quyền EU chấp thuận bổ sung nêu trên cập nhật Chương trình quản lý chất lượng theo HACCP; lập kế hoạch và thực hiện giám sát đầy đủ các chỉ tiêu tương ứng nêu
tại Mục 2 Phụ lục gửi kèm theo hướng dẫn của Cục đã nêu tại công văn số 1155/CCPT-GSĐG ngày 19/6/2024. Chỉ thu mua các đối tượng thủy sản nuôi bổ sung được Cơ quan thẩm quyền EU chấp thuận từ vùng nuôi được Chi cục Nam bộ thông báo phạm vi, kết quả giám sát dư lượng theo quy định tại Thông tư 31. Lưu ý không thu mua, chế biến và xuất khẩu vào EU đối với thủy nuôi có nguồn gốc từ cơ sở có mẫu bị phát hiện vi phạm hóa chất, kháng sinh theo các thông báo cụ thể của Chi cục Nam bộ.
Ngày 08/9/2024, Chính phủ ban hành Nghị quyết 128/NQ-CP về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 năm 2024. Theo đó, để phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra năm 2024, trong đó, lạm phát phải kiểm soát dưới 4,5% và phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP cả năm 2024 khoảng 7%, Chính phủ yêu cầu các đơn tiếp tục tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra. Trong đó chú trọng một số nội dung trọng tâm liên quan đến ngành thủy sản như sau: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với cơ quan liên quan: Kịp thời tháo gỡ vướng mắc, triển khai hiệu quả gói tín dụng 140 nghìn tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội; nghiên cứu nâng quy mô chương trình tín dụng ưu đãi đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản lên khoảng 50 - 60 nghìn tỷ đồng; Bộ Quốc phòng chủ trì, Bộ NN&PTNT phối hợp với cơ quan địa phương thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và quy định về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định cho ngư dân, góp phần thúc đẩy Ủy ban châu Âu gỡ bỏ “Thẻ vàng” cho ngành thủy sản Việt Nam sau lần kiểm tra lần thứ 5 của Đoàn Thanh tra Ủy ban châu Âu.
Ngày 27/9/2024, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành Công văn số 13975/UBND-VP yêu cầu các Sở, cơ quan, đơn vị liên quan tập trung triển khai thực hiện công tác chống khai thác IUU trên địa bàn tỉnh (tuần 38 năm 2024). Theo đó, UBND tỉnh yêu cầu Sở NN&PTNT tỉnh tiếp tục và khẩn trương thực hiện hoàn thành các nội dung, nhiệm vụ đã giao tại Thông báo số 5164-TB/BCSĐ ngày 17/9/2024 của Ban cán sự đảng UBND tỉnh đối với 604 tàu chưa đủ điều kiện để đi khai thác thủy sản. Đối với tàu cá “3 không” khẩn trương thực hiện theo chỉ đạo của UBND tỉnh tại công văn số 13150/ UBND-VP ngày 16/09/2024; Đối với tàu cá mất kết nối thiết bị giám sát hành trình (VMS) trên 6 giờ, yêu cầu giám đốc Sở NN&PTNT thường xuyên tổ chức họp hàng tuần và lập Biên bản cuộc họp để chỉ đạo xử lý nhanh, dứt điểm, báo cáo rõ từng nhóm đã xử lý bao nhiêu trường hợp; Ngoài ra, báo cáo hàng tuần cần bổ sung số liệu và kết quả xử lý các tàu cá mất kết nối VMS do Cục Thủy sản thông báo trên 6 giờ đến dưới 10 ngày, trên 10 ngày và kết quả xử lý số tàu mất kết nối.
EC thanh tra thủy sản khai
thác lần 5
THỜI KHẮC QUYẾT ĐỊNH
Nếu không gỡ được “thẻ
vàng” của EC, có thể
phải vài năm nữa Việt
Nam mới có cơ hội gỡ, thậm chí có nguy cơ
chuyể n sang “thẻ đỏ” và bị hạn chế xuất khẩu
thủy hải sản vào các thị trường quan trọng khác.
Cơ hội cuối cùng…
Hoạt động khai thác thủy sản
bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất tới việc khai
thác bền vững nguồn tài nguyên sinh vật biển. Ngày 23/10/2017, EC có thông báo áp dụng biện pháp cảnh báo th ẻ ph ạ t (th ẻ vàng) đối với sản phẩm thủy sản
khai thác xuất khẩu của Việt
Nam vào thị trường các nước
thuộc Liên minh châu Âu (EU).
Điều này đồng nghĩa thủy sản
của nước ta xuất khẩu sang thị
trường EU bị kiểm soát 100%,
thay vì kiểm tra xác suất. Đ ồ ng
th ờ i, hi ệ u ứ ng t ừ thị trư ờ ng này
c ũ ng t ác đ ộ ng r ấ t l ớ n tới c ác th ị
trư ờ ng khác, d ẫ n đ ế n nh ữ ng rào
c ả n nh ấ t đ ịnh đ ối vớ i thủy s ả n
Vi ệ t Nam.
Thời gian qua, Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc thực hiện các
khuyến nghị của EC trong việc
hoàn thiện khung khổ pháp lý về
khai thác thủy sản; giám sát đội
tàu; truy xuất nguồn gốc thủy
sản. Chính phủ, Bộ NN&PTNT đã ban hành rất nhiều văn bản về chống khai thác IUU như: Chỉ thị số 45/CT-TTG ngày 13/12/2017 về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để khắc phục cảnh báo của EC về chống khai thác IUU; Nghị quyết số 89/NQCP ngày 06/7/2018 của Chính phủ về việc gia nhập Hiệp định về biện pháp quốc gia có cảng nhằm ngăn chặn, chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định,... Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 10/4/2024 về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định và phát triển bền vững ngành thủy sản.
Mặc dù tích cực tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ, quyết liệt chống khai thác IUU và thu nhiều kết quả quan trọng được EC ghi nhận đánh giá cao, song như vậy là chưa đủ. Trên cơ sở khuyến cáo
của EC sau đợ t kiểm tra lần thứ 4 của EC (tháng 10/2023), B ộ NN&PTNT đã yêu cầu 28 tỉnh ven biển phải thống nhất cùng phối hợp để quản lý tốt tàu cá, phải dứt điểm xử lý tình trạng tàu cá “3 không” (Giấy phép, đăng ký, đăng kiểm), giám sát 100% sản lượng hải sản khai thác với mục tiêu gỡ cảnh báo “thẻ vàng” vào tháng 10 tới đây của EC. Có thể nói, đợt thanh tra của EC lần thứ 5 vào tháng 10 được xem thời điểm quyết định để Việt Nam gỡ “thẻ vàng” thủy sản. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan cho biết, hiện tại Bộ gần như đã hoàn thành tất cả những thể chế, quy định cuối cùng theo kiến nghị của EC.
“Không chỉ là sự quyết liệt ở Trung ương mà ngư dân cũng hiểu được đây là sự sống còn, không phải
triển bền vững”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.
L à một trong nhữ ng đơn v ị
tr ự c tiếp tham gia vào công tác kiểm tra, phối hợp xử lý vi phạm IUU, ông Nguyễn Quang HùngCục trưởng Cục Kiểm ngư (Bộ NN&PTNT) nhận định, lần thanh tra thứ 5 của EC rất quan trọng, bởi nếu không gỡ được “thẻ vàng”, có thể phải mất vài năm nữa mới có cơ hội gỡ, thậm chí có nguy cơ chuyển sang “thẻ đỏ” và bị hạn chế xuất khẩu thủy hải sản vào các thị trường quan trọng khác.
Theo ông Hùng, sau lần kiểm tra cuối năm 2023, EC khuyến nghị Việt Nam cần áp dụng các cơ chế kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo tất cả các tàu cá đã hủy
đăng ký không được phép tham gia khai thác thủy sản; rà soát lại quy trình xử lý đối với việc ngắt kết nối thiết bị hành trình (VMS).
Đến nay vấn đề này đã có nhiều chuyển biến, song vẫn còn tình
trạng tàu khai thác bị ngắt kế t nối VMS với nhiều lý do, trong đó
có mục đ ích nhằm trốn tránh cơ quan chứ c năng.
Giải pháp quyết liệt
Để tháo gỡ “thẻ vàng”, Bộ
NN&PTNT đã đề ra một số giải
pháp cụ thể như: Thực hiện các
biện pháp mạnh, kiên quyết ngăn
chặn không để xảy ra tình trạng
tàu cá khai thác hải sản bất hợp
pháp ở vùng biển nước ngoài;
thực hiện truy xuất nguồn gốc
thủy sản khai thác; tập trung cao
điểm xử lý các hành vi khai thác
IUU; tăng cường công tác truyền
thông, nâng cao hiệu quả phối hợp, bảo đảm nguồn lực; kiên
quyết từ chối thu mua, chế biến, xuất khẩu các sản phẩm thủy sản
có nguồn gốc từ khai thác IUU. Về phía các địa phương cần
thực hiện tốt 4 nhóm khuyến
nghị: Hoàn thiện khung pháp lý; tăng cường quản lý tàu cá; kiểm soát việc truy xuất nguồn gốc
thủy sản khai thác; xử lý tàu cá vi
phạm ở vùng biển nước ngoài để
phục vụ công tác kiểm tra, đánh
giá của EC.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các địa phương kiên quyết xử lý nghiêm trách nhiệm các tổ chức, cá nhân, lực lượng chức năng có liên quan không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao trong thi hành công vụ; bao che, dung túng, tiếp tay cho hành vi khai thác IUU, để tàu cá vi phạm khai thác IUU ra vào cảng, xuất nhập bến tham gia hoạt động khai thác thủy sản.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê
Minh Hoan lưu ý, để ngành thủy
sản của Việt Nam phát triển bền
vững cần phải thực hiện Chiến
lược phát triển thủy sản Việt
Nam đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045; Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn
bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Trong đó, phát triển thủy sản dựa
trên ba trụ cột: Giảm khai thác, tăng nuôi trồng và bảo tồn biển
để bảo đảm trữ lượng thủy sản
dành cho thế hệ mai sau.
Về phần mình, ông Trần Đình
Luân - Cục trưởng Cục Thủy sản
(Bộ NN&PTNT) cho hay, từ khi
EC cảnh báo “thẻ vàng” đối với
sản phẩm thủy sản khai thác của
Việt Nam vào tháng 10/2017, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam vào thị trường EU sụt giảm
bình quân từ 6 - 10%/năm. Đây là
thị trường nhập khẩu thủy sản lớn
thứ 2 của Việt Nam nhưng đã tụt xuống vị trí thứ 5 (sau Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và ASEAN).
Ngoài ra, việc này đã ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Nó cũng gây tổn thất về mặt kinh tế - xã hội đối với cộng đồng ngư dân ven biển và các doanh nghiệp. Vì vậy, Cục trưởng Cục Thủy sản đề nghị các cơ quan chức năng và toàn bộ ngư dân cần vào cuộc một cách đồng bộ và có hiệu quả. Tất cả hoạt động phải cực kỳ tuân thủ và thượng tôn pháp luật; đồng bộ trong quản lý, truy xuất nguồn gốc, minh bạch trong sản xuất, chế biến xuất khẩu… Gỡ “thẻ vàng” IUU là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết bởi tác động của nó tới ngành thủy sản nói riêng và nền kinh tế nói chung là rất lớn. Nếu gỡ được “thẻ vàng” IUU, ngành thủy sản Việt Nam sẽ lấy lại được uy tín trên thị trường quốc tế, đồng thời là bước tiến quan trọng trong quá trình cấu trúc lại nghề cá minh bạch, trách nhiệm và phát triển bền vững. Thiện Tâm
HÃY ĐỂ NHỮNG
CUỘC KIỂM TRA THÀNH HOẠT
ĐỘNG THÔNG THƯỜNG
Thị trường châu Âu đóng vai trò rất quan trọng, nhất là lĩnh vực nông
nghiệp, đặc biệt là khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đi vào thực thi. Tuy nhiên, thị trường này cũng
không hoàn toàn là dễ thở đối với doanh nghiệp Việt Nam khi nhiều
quy định nghiêm ngặt, nhất là với các sản phẩm nông thủy sản. Sự
tăng hay giảm nhập khẩu của thị trường này ít nhiều đều để lại những
“dư chấn” lớn. Để hiểu rõ hơn về điều này, hãy cùng Tạp chí Thủy sản
Việt Nam lắng nghe những nhận định, phân tích của Chuyên gia kinh
tế - PGS.TS Đinh Trọng Thịnh về tầm quan trọng của thị trường EU đối
với tình hình xuất khẩu của nước ta.
EU là thị trường rất quan trọng
Phóng viên: Thưa ông Đinh Trọng Thịnh, theo số liệu báo cáo hàng năm, EU là một trong 5 thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam với sự tiếp nhận đa dạng sản phẩm và với kim ngạch xuất khẩu rất lớn. Ông có thể phân tích thêm về tầm quan trọng của thị trường này đối với xuất khẩu của nước ta? PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: Chúng ta biết
của Việt Nam chúng
Ảnh: VNA
ta. Đặc biệt từ sau khi hai bên ký Hiệp định thương mại tự do thì việc xuất khẩu vào thị trường EU đã có rất nhiều thuận lợi, và từ đó EU trở thành thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Trong những năm gần đây, thị trường EU cũng là nơi cung cấp thặng dư thương mại cho nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu vào EU chủ yếu là các hàng điện thoại, màn hình máy tính, thiết bị công nghiệp điện tử, dệt may, da giày, các sản phẩm nông lâm thủy sản. Đó là những
Chuyên gia kinh tế PGS.TS Đinh Trọng Thịnh
mặt hàng chính có giá trị xuất khẩu lớn của Việt Nam vào thị trường EU, và cũng là thị trường chúng ta có kim ngạch xuất khẩu lớn trong tất cả các mặt hàng.
Phóng viên: Theo ông, sau khi Hiệp định EVFTA đi vào thực thi, thị trường này có những biến động như thế nào và lĩnh vực xuất khẩu nào của nước ta được hưởng lợi nhiều nhất, thưa ông?
PGS.T S Đinh Trọng Thịnh: Thực ra, sau khi Việt Nam và EU ký Hiệp định EVFTA thì tất cả các mặt hàng xuất khẩu của nước ta vào EU đều được lợi. Tuy nhiên, mức độ lợi ích đem lại cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam có khác nhau. Chúng ta biết rằng, thường thì xuất khẩu nhiều sẽ đem lại lợi ích ngày càng lớn và vì thế công nghệ cũng là một trong những mặt hàng mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích. Nhưng nhìn vào một góc độ nào đó thì những mặt hàng này phần lớn là của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Và những mặt hàng cũng được lợi tương
hiện Hiệp định là nông lâm thủy sản. Thực ra, chúng ta biết rằng Liên minh châu Âu đang rất cần các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, cũng như các sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của họ, và nông lâm thủy sản là một trong những mặt hàng được các nhà nhập khẩu châu Âu chú ý. Tuy nhiên, do việc xem xét các tiêu chuẩn về định mức cũng như các tiêu chuẩn về vấn đề thuế trong quá trình xuất nhập khẩu và các vấn đề có liên quan đến các kiểm định tiêu chuẩn chất lượng kỹ thuật nó tương đối khắt khe, nên thực tế những năm trước đây EU không phải thị trường mạnh của các sản phẩm nông lâm thủy sản Việt Nam. Thế nhưng, sau Hiệp định, cùng với việc Bộ Công Thương và cơ quan liên quan phổ biến các tiêu chuẩn, định mức cũng như các hạn ngạch phi thuế quan thi được xóa bỏ nên ngành nông lâm thủy sản của nước ta cũng đã thu được lợi ích tương đối lớn, khi mà chúng ta thực hiện được các tiêu chuẩn mà Liên minh châu Âu đề ra về dư lượng, nguồn gốc xuất xứ hay các yêu cầu có liên quan đến việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Vị thế xuất khẩu nông lâm thủy sản của nước ta sau Hiệp định này tăng lên một cách đáng kể, tốc độ tăng thường trên 20%, và nó hơn cả tốc độ tăng trưởng thương mại giữa Việt Nam với các nước trong Liên minh châu Âu.
Muốn xuất khẩu tốt phải tuân thủ nguyên tắc
Phóng viên: EU là thị trường xuất khẩu lớn của ngành nông nghiệp Việt Nam, nhưng thị trường này lại có những quy định rất nghiêm ngặt khiến không ít sản phẩm nông nghiệp nước ta bị cảnh báo, đặc biệt là về dư lượng. Ông có nhận định gì về điều này?
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: Thực ra, chúng ta biết rằng những quy định về tiêu chuẩn, về dư chất kháng sinh hay dư chất về thuốc trừ sâu, phân bón hóa học là một trong những đòi hỏi bắt buộc đối với việc đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng cũng như đảm bảo cho hoạt động kiểm tra, giám sát một cách đầy đủ của các cơ quan hữu quan. Nói về bảo vệ sức khỏe thì không phải chỉ Liên minh châu Âu mà có lẽ cả thế giới hiện đang quan tâm. Khi mà đời sống vật chất ngày càng cao thì việc bảo đảm an toàn sức khỏe và bảo đảm vệ sinh môi trường trở thành yếu tố quan trọng trong nhập khẩu các mặt hàng nông sản. Bởi
CÁC THỊ TRƯỜNG NHƯ
HOA KỲ VÀ EU ĐỀU RẤT
KHÓ TÍNH, VỚI NHỮNG YÊU
CẦU KHẮT KHE VỀ KIỂM
SOÁT DƯ LƯỢNG THUỐC,
HÓA CHẤT, NGUỒN GỐC SẢN
PHẨM VÀ TÍNH BỀN VỮNG.
thế nên trước hay sau thì chúng ta vẫn phải thực hiện vấn đề này. Và rõ ràng việc làm giả, làm dối, phun thuốc kháng sinh, thuốc trừ sâu hóa học hay thu hoạch sớm hơn quy
định… sẽ không chỉ bị các nước nhập khẩu mà ngay cả người dân trong nước từ chối, không sử dụng. Và có lẽ đã đến lúc các nhà sản xuất nông nghiệp cũng như là các nhà sản xuất nói chung phải thực hiện đúng quy trình, quy định và bảo đảm đúng an toàn vệ sinh, an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Phóng viên: Trong tháng 10, EU sẽ sang kiểm tra thủy sản nuôi của nước ta. Ngành nông nghiệp đang có những bước chuẩn bị tích cực để tiếp đón. Với góc nhìn của một chuyên gia kinh tế, ông có thể chia sẻ một chút về điều này?
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: Đây là một vấn đề rất quan trọng. Thực tế từ khi hội nhập kinh tế quốc tế đến nay, đặc biệt là sau khi chúng ta vào WTO thì những chuyện như kiểm tra nguồn gốc xuất xứ, kiểm tra kỹ thuật cũng như là kiểm tra cách thức chăn nuôi, nuôi trồng các loại cây con đã được các quốc gia trên thế giới quan tâm. Và kể cả họ có kiểm tra hay không thì điều này cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với người sản xuất, đó là trách nhiệm và tinh thần sản xuất vì sự an toàn của xã hội, sự an toàn của người tiêu dùng. Vì thế nên việc kiểm tra chúng ta cũng quen rồi. Nếu không có các cuộc kiểm tra mà khi có kiện cáo gì đó người ta lại sẽ cử phái đoàn đến thanh tra thì sẽ nặng nề hơn. Và vì vậy, chúng ta đã có sự chuẩn bị, các cơ sở sản xuất kinh doanh, nuôi trồng thủy sản của chúng ta cũng đã có chuẩn bị, và có thói
quen đối với các quy trình kiểm tra. Thực tế sẽ có những khó khăn, áp lực nhưng đồng thời là động cơ để các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản nói riêng và doanh nghiệp sản xuất của chúng ta nói chung quan tâm hơn đến chất lượng và an toàn vì người tiêu dùng, vì cộng đồng.
Cần thêm chế tài xử phạt nghiêm ngặt hơn
Phóng viên: Có thể nói, tháng 10 này sẽ có tính chất quyết định đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU. Trong trường hợp nếu kết quả cuối cùng không như ý muốn, điều này có tác động đến tình hình xuất khẩu của nước ta sang thị trường này không, thưa ông?
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: Có và thậm chí rất lớn là đằng khác. Vì nếu người ta kiểm tra mà lại thấy rằng việc nuôi trồng thủy sản của chúng ta không đảm bảo vệ sinh an toàn môi trường, đảm bảo an toàn cho người nuôi trồng cũng như đảm bảo cho xã hội, rồi cũng không đảm bảo cho sản phẩm theo tiêu chuẩn
hạn mức đối với những mặt hàng không đạt tiêu chuẩn. Nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng ngay đến cái gọi là chi phí, đến khối lượng xuất khẩu vào EU. Vì thế, cũng rất cần các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý quan tâm và có trách nhiệm để giải trình cũng như thực thi đúng quy trình mà Liên minh châu Âu đã đặt ra nói riêng cũng như quy trình nuôi trồng thủy sản nói chung đối với các sản phẩm thủy sản xuất khẩu vào các quốc gia.
Phóng viên: Dưới góc nhìn của chuyên gia, ngành thủy sản Việt Nam nói riêng, ngành nông nghiệp nói chung cần có giải pháp gì để đảm bảo đúng quy định của EU và tránh được các đợt các đợt kiểm tra tương tự này, thưa ông?
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: Việc nâng cao chất lượng hàng hóa đảm bảo cho xuất nhập khẩu của chúng ta gia tăng một cách mạnh mẽ, đồng thời làm cho các đợt kiểm tra này trở thành công việc thông thường thì rõ ràng việc tổ chức sản xuất, chăn nuôi, cho đến việc chấp hành những quy định nhỏ nhất của quy trình chăn nuôi, đánh bắt cũng phải được các doanh nghiệp chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Để làm được điều đó, ngoài ý thức của người nông dân, của các cơ sở chăn nuôi ra thì việc rất quan trọng là sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần phải được tăng cường. Đồng thời phải có chế tài xử phạt nghiêm minh đối với những cá nhân, doanh nghiệp không làm đúng theo quy định của nhà nước, gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu cũng như việc chấp hành những quy định của nhà nước và đối tác trong quá trình chăn nuôi sản xuất. Từ đó, chúng ta mới có thể yên tâm rằng bất kỳ lúc nào, bất kỳ ai có kiểm tra, giám sát thì cũng là việc bình thường. Và rõ ràng khi chúng ta làm ăn nghiêm chỉnh, đúng quy trình thì chả có gì phải ngại, chả có gì phải sợ cả. Đấy là điều chúng ta phải làm trong tương lai.
Trân trọng cảm ơn ông!
GÓC NHÌN KHÁC
Giá trị con tôm nằm ở đâu?
Ông Lê Văn Quang
Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản
Minh Phú
Tôm Việt Nam là một trong hai loài thủy sản nằm trong chiến lược phát triển nuôi của quốc gia, với tổng giá trị xuất khẩu 3,5 - 4 tỷ USD, chiếm 13 - 14% tổng giá trị tôm toàn cầu. Việt Nam là quốc gia được đánh giá có công nghệ chế biến tôm hiện đại nhất và có thế mạnh về sản xuất hàng giá trị gia tăng, hàng cao cấp. Và trong nước hiện có khoảng 2 triệu nông dân liên quan đến ngành tôm. Những con số thống kê rất lớn, nhưng hiện vẫn có nhiều băn khoăn đặt ra, nhất là vấn đề giá trị con tôm nằm ở đâu?
Điều tiên quyết đầu tiên là tôm phải sạch kháng sinh. Thế nhưng tôm Việt Nam sạch kháng sinh bao nhiêu %? Theo tôi thống kê thì chỉ khoảng 70%, 30% còn lại không sạch kháng sinh, nhưng con số 30% này (tương đương 300.000 tấn tôm thương phẩm) đã làm ngành tôm Việt Nam phải bỏ ra 7.000 - 10.000 tỷ
đồng để kiểm soát kháng sinh. Như vậy, để sản xuất 1 kg tôm chúng ta đã “đốt” đi 7.700 - 11.000 đồng/kg (tính cho tổng 900.000 tấn tôm thương phẩm của Việt Nam) và 23.300 - 33.300 đồng/kg (tính cho 300.000 tấn tôm không sạch kháng sinh). Như vậy, nếu tôm Việt Nam 100%
sạch kháng sinh thì người nuôi tôm và doanh nghiệp được tăng thêm 7.70011.100 đồng/kg tôm thương phẩm, đồng thời mở rộng cánh cửa bán tôm ra thị trường thế giới. Cái giá như vậy có đáng để chúng ta làm cho tôm Việt Nam 100% sạch kháng sinh không? Vấn đề thứ hai là chứng nhận. Tôm nuôi Việt Nam đạt chứng nhận ASC, BAP, cùng các chứng nhận khác được bao nhiêu %?
Theo thống kê của tôi thì không quá 20%, trong khi Ecuador có trên 70% tôm đạt chứng nhận. Tôm đạt chứng nhận ASC/ BAP chúng ta có thể bán được giá cao hơn 5 - 10%, còn tôm đạt chứng nhận hữu cơ/sinh thái giá bán cao hơn 10 - 20%.
Hơn nữa, tôm đạt chứng nhận chúng ta mới bán được vào các hệ thống siêu thị lớn, các nhà hàng/khách sạn lớn và các hệ thống phân phối lớn… Như vậy, chỉ với 20% tôm đạt chứng nhận, chúng ta tự thu hẹp cánh cửa bán hàng của mình ra thị trường thế giới.
Vấn đề thứ ba là giá. Đây cũng là vấn đề nan giải khi giá thành tôm thương phẩm Việt Nam quá cao, cao hơn 30% so với Ấn Độ/Indonesia và cao hơn gấp đôi so với Ecuador, khiến tôm Việt Nam rất khó để cạnh tranh.
Với 3 điều như thế thì con tôm Việt Nam sẽ ra sao trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện tại. Đó là câu hỏi mà tất cả chúng ta phải trả lời để ngành tôm Việt Nam tồn tại và phát triển?
Chính vì thế, theo tôi trước hết chúng ta cần thay đổi tư duy, tức là thay vì chạy theo sản lượng, công nghệ cao thì cần phải chú trọng vấn đề bền vững và hiệu quả, đặc biệt là về chất lượng, môi trường, sức khỏe và giá bán.
KIẾN TẠO KHÔNG GIAN, NÂNG CAO GIÁ TRỊ CHO RONG BIỂN
Rong biển không chỉ có giá trị kinh tế cao mà còn được xem là nguyên liệu xanh, có thể hấp thụ carbon từ khí quyển và trung hòa axit đại dương. Chính bởi vậy, Bộ NN&PTNT đang khuyến khích đưa rong biển trở thành
đối tượng nuôi trồng thủy sản chủ lực.
Lợi ích đa chiều
Tại Việt Nam, hiện có hơn 827
loài rong tự nhiên, trong đó 88
loài có giá trị kinh tế. Rong chia làm 3 nhóm loài chính gồm rong sụn, rong câu, rong nho. Năm 2023, tổng diện tích trồng rong
biển khoảng 16.500 ha, sản
lượng 150.000 tấn, tập trung ở một số địa phương như Quảng
Ninh, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Kiên Giang. Lợi nhuận từ trồng rong nho đạt khoảng 150 - 200 triệu/ha; trồng rong sụn khoảng 60 - 80 triệu đồng/ha.
Cục trưởng Cục Thủy sản
Trần Đình Luân nhận định, chi phí đầu tư để nuôi rong biển rất thấp, tuy nhiên đây lại là ngành
hàng có giá trị kinh tế cao và góp phần bảo vệ môi trường. “Trồng rong đem lại ích lợi đa chiều, giúp hấp thu khí carbon dưới biển. Có giống rong hấp thu CO2 gấp 20 lần. Có giống rong sau khi chiết xuất các chất quan trọng, phần bã có thể chế biến thành thức ăn cho bò sữa. Đây là một trong những thứ mà chúng tôi đang ấp ủ để nâng cao giá trị cho rong biển. Tuy nhiên, chúng ta đang đi chậm, nếu nhìn sang các nước xung quanh, điển hình như Indonesia, đã có những doanh nghiệp nhanh chân hơn khi đầu tư vào ngành nuôi rong và chế biến rong”. Cục trưởng Trần Đình Luân khẳng định,
Những hướng đi lâu dài
Ngành hàng rong biển của nước ta hiện tại đang có nhiều
cơ hội để phát triển bởi đây là
lĩnh vực đang nhận được sự quan tâm ngày càng cao, do quy mô thị trường thương mại
toàn cầu dự kiến sẽ được mở
rộng với tốc độ khoảng 10,8%
mỗi năm.
Để rong biển phát triển ổn định, Cục trưởng Cục Thủy sản Trần
Đình Luân cho rằng, thời gian tới
cần mở rộng nghiên cứu, chọn
tạo các giống rong chất lượng, phục vụ cho những mục đích khác nhau.
ta sẽ phải tính đến phương án
đồng hành với các tổ chức quốc
tế để tính toán việc bán tín chỉ
từ việc trồng rong. “Đây là một
việc làm khả thi. Khi chúng tôi
đặt vấn đề với các tổ chức quốc
tế, họ thấy rằng việc làm này là
cần thiết và có thể làm được, họ cũng mong muốn thực hiện
điều này để giúp cho người dân
có cuộc sống tốt hơn và đặc biệt
phát triển mạnh mô hình trồng rong để bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học”. Cục trưởng chia sẻ thêm.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông
Lê Bền, Phó giám đốc Công
tương lai ngành rong sẽ phát triển rất mạnh.
Cùng chung quan điểm, ông Phạm Anh Tuấn, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho rằng, chúng ta cần quan tâm đến tiềm năng từ rong biển, hiện tại hầu như đang bị lãng quên, ít được quan tâm hơn so với các đối tượng như cá hoặc giáp xác. Rong biển có lợi thế bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh, đáp ứng nhu cầu thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón. Do vậy, theo ông Tuấn, để hướng đến nuôi biển bền vững, cần đẩy mạnh các đối tượng giàu tiềm năng như rong biển.
“Chúng ta có diện tích mặt biển lớn, nhiều giống rong chất lượng là điều kiện thuận lợi để
mở rộng và phát triển vùng trồng rong biển. Do đó, mục tiêu phát
triển vùng trồng rong lên đến 900.000 ha hoàn toàn khả thi.
Có những khu vực phải tính toán
đến việc chỉ trồng rong và khai thác rong, nhưng rất nhiều khu vực khác, trồng rong có thể kết
hợp với các đối tượng nuôi thủy
sản khác để phát huy giá trị cao hơn”. Cục trưởng Luân gợi mở.
Nhắc đến mục tiêu xa hơn, khi nuôi trồng rong biển hướng đến bán tín chỉ carbon, ông Luân cho hay, khi diện tích trồng phát triển tới một mức độ nhất định, chúng
ty TNHH Trí Tín kiến nghị Bộ NN&PTNT cần có chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển đối tượng nuôi trồng này. Ngoài ra, Bộ NN&PTNT và các Bộ ngành chức năng liên quan sớm ban hành bộ tiêu chí báo cáo về hấp thụ và phát thải CO2 của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nói chung và rong biển nói riêng, giúp các doanh nghiệp sớm tham gia vào thị trường tín chỉ carbon.
Các chuyên gia đánh giá tiềm năng diện tích trồng rong lớn và ngày càng tăng, hơn nữa vùng tiềm năng có thể thay đổi theo thời gian. Nếu như năm 1997, ở Vân Đồn (Quảng Ninh) không trồng được rong thì tới năm 2022
rong biển đã phát triển tốt tại đây. Do đó, để mở rộng nuôi rong biển, ông Nguyễn Văn Nguyên, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Hải sản đề xuất 5 giải pháp: Ưu tiên quy hoạch trồng rong biển; Hỗ trợ nâng cao hiệu quả nghề trồng rong; Chọn giống, nhập giống cải tạo giồng rong câu; Tăng cường kết nối mạng lưới sản xuất rong biển; Tăng cường đầu tư nghiên cứu. Trong chiến lược phát triển ngành thủy sản, Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, sản lượng rong, tảo biển các loại đạt khoảng 180.000 tấn; năm 2030 là 500.000 tấn. Để đạt được các mục tiêu đó, thời gian tới, ngành rong biển nước ta sẽ tập trung phát triển nuôi trồng gần bờ các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận với đối tượng chính là rong nho, rong câu chỉ vàng, rong sụn. Đồng thời, phát triển nuôi trồng xa bờ tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Đối tượng trồng chính là rong sụn và giống nhập. Cùng với đó, để thúc đẩy ngành hàng rong biển phát triển, Bộ NN&PTNT chỉ đạo Cục Thủy sản cần sớm phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ và các chuyên gia thủy sản xây dựng chiến lược và kế hoạch của ngành hàng này, đồng thời xúc tiến các thủ tục thành lập hiệp hội ngành hàng để cùng nhau kiến tạo không gian, giá trị mới cho rong biển. Trên cơ sở này, Bộ NN&PTNT sẽ báo cáo, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ để chính thức đưa rong biển thành ngành hàng chính của lĩnh vực thủy sản.
Thùy Khánh
Trồng rong nho có mái che ở Khánh Hòa
Ảnh: ST
SỞ HỮU LỢI THẾ
CẠNH TRANH
TOÀN DIỆN VỚI
TRIẾT LÝ LẤY
KHÁCH HÀNG
LÀM TRUNG TÂM
Ông Chuang Jie Cheng
Tổng Giám đốc Tập đoàn Thăng Long | INTERVIEW
Hành trình “Dinh dưỡng xanh”
BƯỚC TIẾN BỀN VỮNG
CHO NGÀNH THỦY SẢN
Trong bối cảnh ngành thủy sản đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường
và nguồn cung cấp nguyên liệu, “dinh dưỡng xanh” nổi lên như một hướng đi tất yếu để đảm
bảo sự phát triển bền vững. Trong cuộc trò chuyện với ông Chuang Jie Cheng, Tổng Giám đốc Tập đoàn Thăng Long - Shenglong Biotech, Tạp chí Thủy sản Việt Nam có cơ hội trao đổi rõ hơn về vấn đề này.
TSVN: Tập đoàn Thăng Long là một trong những thương hiệu thức ăn thủy sản hàng đầu tại Việt Nam. Tuy vậy, người nuôi thủy sản biết đến ông và Thăng Long như những người bạn gần
gũi hơn là một vị Tổng Giám đốc hay đối tác kinh doanh. Thưa ông, điều gì
đã tạo nên sự khác biệt này?
Ông Chuang Jie Cheng: Sự khác biệt này xuất phát từ cách Thăng Long xây dựng mối quan hệ với khách hàng. Chúng tôi tạo nên sự kết nối chặt chẽ với đại lý và hộ nuôi bằng cách thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ trực tiếp, không chỉ để lắng nghe nhu cầu về chất lượng sản phẩm
và kỹ thuật, mà còn quan tâm đến đời sống của họ. Chính sự gắn kết này khiến khách hàng cảm nhận được sự tôn trọng và thấu hiểu, dần dần họ coi chúng tôi như những người bạn thay vì chỉ là đối tác kinh doanh.
Tại Việt Nam, việc xây dựng mối quan hệ thân thiết với khách hàng luôn được đội ngũ của Thăng Long ưu tiên và chúng tôi đặc biệt tôn trọng những giá trị văn hóa này. Thăng Long giành được lòng tin của khách hàng bởi chúng tôi làm việc không chỉ dựa trên lợi nhuận ngắn hạn, mà còn bằng cách cùng họ hướng tới một tương lai phát triển bền vững. Mô hình kinh doanh dựa trên tình hữu nghị đã giúp
tạo nên sự gắn bó và tin tưởng sâu sắc hơn giữa Tập đoàn Thăng Long và khách hàng.
TSVN: Theo ông, điều gì giúp Tập đoàn Thăng Long chinh phục được những khách hàng khó tính nhất?
Ông Chuang Jie Cheng: Trước tiên, tôi muốn nhấn mạnh rằng sự thành công của Tập đoàn Thăng Long không chỉ là công lao của một cá nhân hay nhóm cụ thể mà là nỗ lực chung của toàn thể công ty. Với chúng tôi, chất lượng sản phẩm vượt trội chính là nền tảng quan trọng để chinh phục được mọi khách hàng khó tính. Thăng Long cam kết cung cấp các sản
phẩm chất lượng cao, từ thức ăn, con giống đến chế phẩm sinh học, với quy trình kiểm soát nghiêm ngặt. Chúng tôi sở hữu lợi thế cạnh tranh toàn diện, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng và luôn giữ triết lý lấy khách hàng làm trung tâm.
Bên cạnh đó, Tập đoàn Thăng Long không ngừng đổi mới công nghệ và đẩy mạnh nghiên cứu phát triển sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường và duy trì vị thế dẫn đầu trong ngành. Chúng tôi tự hào về đội ngũ nhân viên am hiểu về sản phẩm và kỹ thuật, luôn nắm bắt xu hướng thị trường cũng như nhu cầu khách hàng, từ đó cung cấp những giải pháp tối ưu.
Chính sự kết hợp của những yếu tố này đã giúp Tập đoàn Thăng Long duy trì niềm tin từ những khách hàng khó tính nhất.
TSVN: Nhiều năm qua, chúng ta liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Theo ông, điều gì đã làm cho “dinh dưỡng xanh” trở thành một xu thế nổi bật trong bối cảnh này?
Ông Chuang Jie Cheng: “Dinh dưỡng xanh” là khái niệm liên quan đến việc sản xuất và lựa chọn các loại thức ăn lành mạnh, an toàn và thân thiện với môi trường, tập trung vào việc cân bằng dinh dưỡng, đồng thời đảm bảo tính bền vững. Khái niệm này nhấn mạnh đến nguồn gốc của thức ăn, quy trình sản xuất, bảo vệ sức khỏe và lợi ích của con người.
Theo tôi, “dinh dưỡng xanh” đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của toàn nhân loại vì nhiều lý do. Trước tiên, xu hướng tiêu dùng hiện nay đang thay đổi mạnh mẽ khi con người ngày càng quan tâm đến sức khỏe và chất lượng của thực phẩm. Họ không chỉ tìm kiếm những sản phẩm tốt cho sức khỏe mà còn chú ý đến yếu tố môi trường. Trong khi đó, các phương thức sản xuất thực phẩm truyền thống thường gây ra nhiều tác động tiêu cực đến hệ sinh thái.
Chính vì vậy, “dinh dưỡng xanh” xuất hiện như một giải pháp mới nhằm khắc phục những hạn chế của các phương thức sản xuất truyền thống. Xu hướng này khuyến khích việc áp dụng các phương pháp sản xuất bền vững, từ việc sử dụng nguyên liệu sạch, quy trình sản xuất ít phát thải cho đến quản lý tài nguyên một cách hiệu quả. Nhờ đó, “dinh dưỡng
“Tập đoàn Thăng Long cam kết mạnh mẽ vì sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Mục tiêu cuối cùng của chúng tôi là cung cấp các giải pháp đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về thức ăn chất lượng cao và giảm thiểu tác
động đến môi trường”
xanh” giúp giảm thiểu áp lực lên thiên nhiên và
bảo vệ môi trường, đồng thời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
TSVN: Xin ông cho biết sự chuyển giao
từ “dinh dưỡng truyền thống” sang “dinh dưỡng xanh” có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả sản xuất và chi phí vận hành của ngành thủy sản? Và làm thế nào để các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành thủy sản có thể tiếp cận và triển khai xu hướng mới này?
Ông Chuang Jie Cheng: Việc chuyển đổi từ “dinh dưỡng truyền thống” sang “dinh dưỡng xanh” chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất và chi phí cho toàn bộ ngành thủy sản, mang đến cả thách thức và cơ hội.
Ban đầu, chi phí sản xuất sẽ tăng lên do các doanh nghiệp cần đầu tư vào công nghệ và thiết bị mới để nâng cao tính bền vững.
Trong quá trình này, hiệu suất sản xuất có thể tạm thời bị ảnh hưởng. Ví dụ, khi người nuôi thủy sản chuyển sang sử dụng thức ăn hữu cơ, họ cần thời gian để điều chỉnh cách cho ăn sao cho phù hợp. Nhân viên cũng phải học hỏi và làm quen với các kỹ thuật mới, dẫn đến hiệu suất giảm trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp dần thích nghi với mô hình này, hiệu suất sản xuất không chỉ phục hồi mà còn có thể tăng lên. Áp dụng các phương pháp nuôi trồng bền vững và sử dụng thức ăn chất lượng cao giúp môi trường nuôi trở nên lành mạnh, giảm đáng kể nguy cơ bùng phát các loại
bệnh tật, từ đó giảm chi phí điều trị và phòng bệnh. Sự cải thiện này không chỉ mang lại lợi ích về mặt sức khỏe cho các loài thủy sản mà còn tối ưu hóa quy trình sản xuất, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả lâu dài.
Hiện nay, thị trường ngày càng ưa chuộng các sản phẩm bền vững, tạo cơ hội cho các sản phẩm “dinh dưỡng xanh” có giá trị cao và giúp tăng cường niềm tin vào thương hiệu. Điều này có thể giúp doanh nghiệp bù đắp chi phí đầu tư ban đầu.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tham gia các chương trình đào tạo về “dinh dưỡng xanh” do Hiệp hội hoặc cơ quan Chính phủ tổ chức sẽ giúp nhân viên nắm vững kỹ thuật và phương pháp triển khai. Doanh nghiệp có thể bắt đầu áp dụng “dinh dưỡng xanh” vào một phần nhỏ của quy trình sản xuất, sau đó dần dần mở rộng khi đã tích lũy đủ kinh nghiệm. Cách tiếp cận này không chỉ giúp giảm thiểu rủi ro mà còn kiểm soát chi phí hiệu quả, tránh gánh nặng đầu tư lớn ngay từ đầu. Tóm lại, việc chuyển đổi sang “dinh dưỡng xanh” tuy gặp nhiều thách thức ban đầu, nhưng với nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm bền vững, đây là cơ hội quan trọng để các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao lợi thế cạnh tranh và phát triển bền vững trong tương lai.
TSVN: Ông dự đoán thế nào về tương lai của xu hướng “dinh dưỡng xanh” trong ngành thủy sản?
Ông Chuang Jie Cheng: Như tôi đã đề cập, “dinh dưỡng xanh” đang nổi lên như một xu hướng quan trọng và sẽ có ảnh hưởng lớn trong tương lai.
Thứ nhất, với sự khan hiếm tài nguyên, việc sử dụng các nguồn protein thay thế như từ côn trùng, vi tảo và vi sinh vật lên men đang trở nên phổ biến.
Thứ hai, mô hình tái sử dụng phụ phẩm chế biến làm nguyên liệu cho thức ăn thủy sản đang nhận được sự quan tâm rất lớn. Giải pháp này giúp giảm lãng phí tài nguyên, chi phí sản xuất thức ăn, đồng thời thúc đẩy tính bền vững của ngành bằng cách tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên sẵn có. Thứ ba, công nghệ truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang trở
Thứ tư, trong tương lai, thức ăn bổ sung các thành phần như axit béo Omega-3, chất chống ôxy hóa và lợi khuẩn sẽ được thị trường ưa chuộng. Ngoài ra, việc cải thiện giống và ngăn ngừa bệnh tật ở vật nuôi cũng giúp nâng cao hiệu suất nuôi trồng và giảm sử dụng kháng sinh.
Thứ năm, chính phủ các quốc gia đang ngày càng chú trọng đến việc phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững. Các chính sách và quy định hỗ trợ “dinh dưỡng xanh” dự kiến sẽ được triển khai trên diện rộng, bao gồm các hình thức trợ cấp cho thức ăn bền vững, hỗ trợ công nghệ thân thiện với môi trường và tăng cường giám sát ngành nhằm đảm bảo tính bền vững và an toàn của sản phẩm thủy sản.
TSVN: Với xu hướng người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến các nguồn protein thay thế, Thăng Long có kế hoạch hợp tác với những doanh nghiệp lớn khác trong ngành để nghiên cứu và phát triển các giải pháp protein thay thế cho thủy sản bền vững không, thưa ông?
Ông Chuang Jie Cheng: Một trong những khoản chi phí lớn trong ngành công nghiệp thức ăn thủy sản chính là đầu tư vào protein. Các nguồn protein truyền thống như bột cá và bột đậu nành vốn đóng vai trò quan trọng trong ngành, nhưng trước thực trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, việc tìm kiếm các nguồn protein thay thế đã trở thành chiến lược dài hạn mà Tập đoàn Thăng Long đang hướng tới. Chúng tôi rất coi trọng việc hợp tác với các doanh nghiệp dẫn đầu trong ngành thủy
sản, bao gồm các công ty công nghệ sinh học và các viện nghiên cứu. Việc này cho phép chúng tôi chia sẻ tài nguyên và công nghệ, từ đó đẩy nhanh quá trình nghiên cứu và thương mại hóa các nguồn protein thay thế. Tập đoàn Thăng Long tin rằng sự hợp tác chặt chẽ với các đơn vị đầu ngành sẽ tạo ra những bước tiến quan trọng trong việc phát triển các giải pháp bền vững cho ngành thủy sản.
Ngoài ra, viện nghiên cứu của tập đoàn hiện cũng đang tập trung vào việc phát triển các sản phẩm protein từ nhiều nguồn khác nhau như thực vật, côn trùng, công nghệ lên men và nuôi cấy tế bào, đáp ứng tiêu chuẩn ngành về giá trị dinh dưỡng, hương vị và đảm bảo tính bền vững trong toàn bộ quy trình sản xuất.
Tập đoàn Thăng Long cam kết mạnh mẽ vì sự phát triển bền vững của ngành thủy sản thông qua nhiều chính sách và hoạt động cụ thể. Việc nghiên cứu và phát triển các nguồn protein thay thế là một phần quan trọng trong sứ mệnh của chúng tôi. Chúng tôi tin rằng việc tìm kiếm các giải pháp protein bền vững không chỉ giúp giảm thiểu tác động đến môi trường mà còn cung cấp các sản phẩm protein chất lượng cao trong một thế giới đang ngày càng khan hiếm tài nguyên. Mục tiêu cuối cùng của chúng tôi là cung cấp các sản phẩm protein thay thế đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về thức ăn chất lượng cao và bền vững. Chúng tôi cam kết rằng các sản phẩm này sẽ cạnh tranh về giá cả, chất lượng và nguồn cung, đồng thời mang đến lựa chọn đa dạng hơn cho người nuôi trồng.
TSVN: Vào cuối tháng 5/2024, Thăng Long đã khánh thành nhà máy thức ăn thủy sản đầu tiên tại miền Bắc. Điều này có phải là một phần trong cam kết của Thăng Long nhằm giúp người nuôi trồng thủy sản tiếp cận sản phẩm chất lượng cao của công ty không?
Ông Chuang Jie Cheng: Đúng vậy, thị trường thức ăn thủy sản ở miền Bắc Việt Nam có dung lượng gần 400.000 tấn. Trước khi xây dựng nhà máy, Thăng Long đã phải cung cấp hàng từ các cơ sở ở miền Nam, điều này dẫn đến hai vấn đề chính: Chi phí vận chuyển cao và sản lượng không đủ đáp ứng nhu cầu. Để cải thiện tình hình, việc rút ngắn thời gian vận chuyển là rất cần thiết. Điều này không chỉ giúp bảo đảm độ tươi và chất lượng sản phẩm mà còn giảm chi phí vận hành, từ đó nâng cao hiệu quả nuôi trồng và sức cạnh tranh. Việc xây dựng nhà máy tại miền Bắc sẽ giúp kiểm soát quy trình sản xuất tốt hơn, đảm bảo sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng cao nhất và được tối ưu hóa cho môi trường cũng như nhu cầu địa phương. Nhà máy mới không chỉ thể hiện cam kết mạnh mẽ của Tập đoàn Thăng Long trong việc cung cấp thức ăn chất lượng cao cho người nuôi mà còn đánh dấu một bước quan trọng trong chiến lược phát triển của chúng tôi tại thị trường thủy sản Việt Nam. Đây là minh chứng cho niềm tin kiên định của chúng tôi vào việc tiếp tục đầu tư và phát triển trong lĩnh vực thức ăn thủy sản.
Oanh Thảo (Thực hiện)
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
NHANH CHÓNG KHÔI PHỤC
NUÔI
TRỒNG THỦY
SẢN SAU BÃO YAGI
Bão số 3 (bão YAGI) đã gây ra
những thiệt hại nghiêm trọng đối
với các hộ nuôi trồng thủy sản tại
các tỉnh ven biển miền Bắc, đặc
biệt là những người nuôi lồng bè
trên biển. Việc dồn tổng lực để
hỗ trợ người dân và doanh nghiệp
vượt qua giai đoạn khó khăn, từng
bước khôi phục sản xuất là nhiệm
vụ hết sức cấp bách hiện nay.
Siêu bão đi qua, nhiều người trắng tay
Tính đến ngày 20/9/2024, theo báo cáo sơ bộ của địa phương các tỉnh phía Bắc từ Quảng
Ninh đến Nghệ An, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản bị vỡ bờ bao, ngập lụt và ước thiệt hại khoảng 23.595 ha. Riêng diện tích nuôi
tôm nước lợ thiệt hại 8.104,14 ha, thủy sản
nước ngọt bị ảnh hưởng do ngập lụt 14.241 ha; diện tích nuôi nhuyễn thể và thủy sản khác là 4.070,20 ha; số lồng bè bị thiệt hại khoảng 4.592 ô lồng, (khoảng 154.680 m3). Trong đó, ô lồng nước ngọt khoảng 1.772 ô lồng và ô lồng nước mặn 2.820 ô lồng. Ước tính thiệt
hại về NTTS do bão số 3 và mưa lũ sau bão là khoảng 2.503,045 tỷ đồng.
Mặc dù chưa có con số chính xác về thiệt hại của người dân, doanh nghiệp ở lĩnh vực NTTS, nhưng theo thống kê ban đầu thì hàng nghìn tỷ đồng của ngư dân Quảng Ninh đã bay theo bão YAGI. Trước bão, huyện Vân Đồn có hàng trăm hợp tác xã nuôi biển, vậy mà cơn bão đi qua đã cuốn trôi tất cả. Trung bình mỗi hộ gia đình ở đây có khoảng 20 - 25 dây hàu, nếu được thu mỗi dây cũng được khoảng 5 tấn, nhưng tất cả đều mất hết. Ước tính trên 1.340 cơ sở nuôi nhuyễn thể (hàu, sò thưng, sò sần, ngao, tu hài, ốc) và nuôi cá (song, giò, chim) bị thiệt hại.
Khẩn trương khắc phục hậu quả
Căn cứ vào tình hình thực tế, Bộ NN&PTNT, Cục Thủy sản đã có Thư ngỏ gửi các Công ty, doanh nghiệp chung tay ủng hộ, hỗ trợ ngư dân phục hồi sản xuất, hỗ trợ ngư lưới cụ, phao cứu sinh, thiết bị thông tin liên lạc, vật
liệu làm lồng bè, lưới, con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, hóa chất, thuốc thú y thủy sản và các vật tư khác để khắc phục thiên tai,
sớm khôi phụ sản xuất. Ngày 18/9/2024, Cục
Thủy sản đã có Công văn số 1831/TS-GTATS
gửi Sở NN&PTNT các tỉnh về việc khẩn
trương chỉ đạo, tổ chức đánh giá nhu cầu và khả năng cung ứng giống thủy sản, khôi phục sản xuất thủy sản sau thiên tai do bão số 3. Tại Hội nghị phối hợp hỗ trợ khôi phục sản xuất chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản sau bão số 3 diễn ra ngày 21/9 vừa qua, ông Trần Đình Luân - Cục trưởng Cục Thủy sản cho biết, tính đến ngày 20/9/2024, các mạnh thường quân, doanh nghiệp, công ty ủng hộ, hỗ trợ với số tiền khoảng 84.605.000.000 đồng thông qua các hình thức như tiền mặt, giống, thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường, nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ khôi phục sản xuất, NTTS. Về tổ chức thực hiện, Cục Thủy sản đã phối hợp với Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I, Viện Nghiên cứu Hải sản hỗ trợ các địa phương bị ảnh hưởng quan trắc cảnh báo môi trường và hướng dẫn khôi phục sản xuất. Đồng thời, liên hệ, kết nối với các doanh nghiệp sản xuất vật liệu làm lồng bè, con giống, thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường, vật tư, trang thiết bị phục vụ NTTS để cung ứng hoặc hỗ trợ khôi phục sản xuất tại các vùng bị thiệt hại. Trước mắt, Cục trưởng Cục Thủy sản Trần Đình Luân lưu ý các địa phương tiếp tục thống
Các đại biểu tham dự Hội nghị phối hợp hỗ trợ khôi phục sản xuất chăn nuôi và nuôi trồng
Khánh
kê đầy đủ thiệt hại đối với nuôi trồng thủy sản các tỉnh miền Bắc, đề xuất chính sách hỗ trợ kịp thời cho người dân theo quy định tại Nghị
định số 02/2017/NĐ-CP ngày 09/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức quan trắc, giám sát môi trường NTTS tại các vùng bị ảnh hưởng do bão, kịp thời thông tin tới người dân về chất lượng nước nuôi trồng thủy sản, đảm bảo khôi phục sản xuất sớm.
Về lâu dài, ông Luân cho rằng, cần rà soát lại các vùng nuôi tập trung và đầu tư hạ tầng đáp ứng yêu cầu công tác phòng chống thiên tai. Tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết, kiên quyết di dời các cơ sở nuôi ra khỏi vùng có nguy cơ cao bị ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lũ, biến động môi trường. Rà soát, dự báo ngư trường; hướng dẫn ngư dân đi khai thác trên biển hiệu quả để đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Sớm ổn định, tái sản xuất
Ở góc độ hiệp hội, PGS.TS Nguyễn Hữu
Dũng - Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt
Nam nhận định, sau bão cũng là dịp để Bộ
NN&PTNT, các địa phương tính toán giao mặt
biển cho ngư dân lâu dài, để bà con yên tâm
đầu tư làm ăn bài bản, áp dụng công nghệ cao nhằm tránh thiệt hại như vừa qua.
Cùng chung quan điểm, bà Nguyễn Thị Hải
Bình - Tổng Giám đốc STP Group chia sẻ, nếu bà con được tái sản xuất vào vùng biển được cấp thì sẽ yên tâm để đầu tư mới. Bên cạnh
đầu tư về công nghệ lồng nuôi, bà Bình khẳng
định, đã đến lúc cần tích hợp công nghệ hiện
đại để tìm kiếm lại được lồng khi có thiên tai. Là doanh nghiệp chuyên nghiên cứu, phát
triển giống, tổ chức vùng nguyên liệu và chế biến, cung ứng sản phẩm rong sụn, ông Đỗ Linh Phương - Giám đốc điều hành, nhà sáng lập Công ty DBLP (tỉnh Phú Yên) cho biết, công ty sẵn sàng hỗ trợ ngư dân 1 triệu cây giống rong biển giúp bà con nhanh chóng tái sản xuất (tương đương với số tiền khoảng 10 tỷ đồng). Ông Phương cũng đề xuất, các doanh nghiệp khác cùng vào cuộc với DBLP hỗ trợ bà con lưới, dây buộc rong. Theo ông Phương, trồng rong biển không tốn nhiều chi phí đầu tư như các đối tượng nuôi thủy sản khác bởi rong không cần ăn gì cả, có thể thu hồi vốn nhanh. Về lâu dài, đây cũng là hướng đi bền vững, vì chúng ta sẽ còn phải đối diện với những cơn bão khác chứ không riêng YAGI.
Chủ trì Hội nghị phối hợp hỗ trợ khôi phục sản xuất chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản sau bão, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến khẳng định, Bộ sẽ kiến nghị với Chính phủ để sớm có nghị quyết về hỗ trợ thiệt hại cũng như phục hồi sản xuất cho tất cả lĩnh vực trong ngành nông nghiệp, trong đó có thủy sản.
“Đây là văn bản quan trọng để chúng ta phục hồi sản xuất nông nghiệp, nhất là đối với các tỉnh bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3. Bộ cũng đề xuất Chính phủ hoãn, giãn nợ và có những hỗ trợ nhất định đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình và đặc biệt phải tiếp tục giải quyết vấn đề về bảo hiểm, tái bảo hiểm để phát triển thủy sản cũng như các lĩnh vực khác một cách bền vững hơn”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Thùy Khánh
Nuôi tôm
mùa nghịch
CƠ HỘI
và RỦI RO
Nếu thả nuôi từ nay đến cuối năm (còn gọi là vụ nghịch), người nuôi tôm sẽ không phải quá bận tâm đến chuyện giá cả, do nhu cầu thị trường tăng cao trong khi nguồn cung thì hạn chế. Cơ hội đang mở ra rất lớn với người nuôi tôm ở vụ nghịch này, nhưng để nắm bắt cơ hội từ thị trường mang lại, người nuôi tôm cần vượt qua nhiều rủi ro, thách thức.
Cơ hội là rất lớn
Theo các nhà máy, hiện nguồn cung tôm nguyên liệu trong nước đã giảm khá mạnh, trong khi nhu cầu thu mua chế biến xuất khẩu của các nhà máy vẫn khá cao, nên giá tôm chắc chắn sẽ còn tăng thêm và giữ ở mức cao từ nay cho đến cuối năm.
Nguyên nhân thiếu hụt tôm nguyên liệu, đẩy giá tôm tăng mạnh trong thời gian gần đây, ngoài việc có nhiều hộ ngưng nuôi vì thua lỗ giá tôm giảm mạnh kéo dài, còn do sự xuất hiện của dịch bệnh khiến tôm nuôi phát triển không như ý và thiệt hại dần nên phải thu hoạch sớm. Thu sớm thì sản lượng giảm và nhất là thiếu hụt tôm cỡ lớn.
Cung ít, cầu nhiều khiến giá
tôm trong hơn 1 tháng trở lại đây
liên tục tăng mạnh. Ban đầu, chỉ có giá tôm cỡ lớn là tăng mạnh nhất, nhưng càng về cuối tháng
9 này, cả tôm cỡ trung lẫn cỡ nhỏ
cũng bắt đầu tăng nhanh và tăng mạnh khi cả nước hầu như chỉ còn vùng nuôi ở ĐBSCL là còn
tôm để cung cho thị trường xuất khẩu lẫn tiêu thụ nội địa. Theo ước tính, nếu việc thả nuôi được tăng tốc ở thời điểm hiện tại thì chí ít cũng gần cuối tháng 12 mới có tôm để thu hoạch, còn muốn có tôm cỡ lớn thì phải đợi đến gần hết tháng 1 của năm 2025. Theo ông Võ Văn Phục - Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam (Vinacleanfood), chỉ trong vòng 1 tháng nay thôi, giá tôm đã tăng từ 20.000 – 60.000 đồng/kg (tùy theo kích cỡ). Với diễn biến trên, theo ông Phục, giá tôm sẽ còn tiếp tục tăng thêm trong thời gian tới, nhất là tôm cỡ lớn và cỡ trung vì đây là thời điểm rất khó để nuôi tôm về kích cỡ lớn do độ mặn đã giảm mạnh và dịch bệnh cũng nhiều hơn. Rủi ro là không nhỏ Sau giấc ngủ đông khá dài, từ giữa tháng 8 giá tôm nguyên liệu bất ngờ
Ảnh: PTC
năm, thậm chí là kéo dài sang cả quý I/2025 do tôm Ecuador đã qua cao điểm thu hoạch, tồn kho tại các thị trường lớn đã giảm mạnh và nguồn cung tôm thế giới đã không còn dồi dào như những tháng đầu năm. Diễn biến trên khiến không ít người nuôi tôm không khỏi phân vân, đắn đo trước quyết định có nên thả nuôi tiếp trong mùa nghịch hay không khi mà cơ hội bán được tôm với giá cao đang mở ra rất lớn, thậm chí là rất chắc chắn nữa. Người nuôi đắn đo, phân vân là bởi, ngoài yếu tố thuận lợi về giá ra thì các yếu tố còn lại, như: thời tiết, dịch bệnh, môi trường… hầu hết đều bất lợi cho nghề nuôi. Hiện các tỉnh nuôi tôm trọng điểm khu vực ĐBSCL đang bước vào cao điểm mùa mưa bão, nên việc quản lý, chăm sóc ao tôm luôn gặp rất nhiều khó khăn.
Do đó, cho đến thời điểm hiện tại, vẫn có khá ít người dám thả nuôi, một phần do độ mặn đã giảm mạnh tại nhiều vùng nuôi, phần khác do dịch bệnh trên tôm vẫn còn dai dẳng và phần còn lại lo ngại chuyện mưa bão dồn dập dịp cuối năm.
Theo ghi nhận của phóng viên Tạp chí Thủy sản Việt Nam, ngoại trừ 4 tháng đầu năm tôm lớn khá nhanh và dễ đạt kích cỡ lớn, từ tháng 5 đến nay, tình hình thả nuôi không mấy thuận lợi mà nguyên nhân theo người nuôi chủ yếu là do dịch bệnh. Đặc biệt là tình hình chất lượng con giống không ổn định, con giống còn mang mầm bệnh làm cho tỷ lệ nuôi tôm thành công ở vụ nghịch càng thêm thấp, rủi ro thua lỗ càng thêm cao.
Để nắm bắt tốt cơ hội
Nếu thả nuôi ở thời điểm hiện tại gần như chắc chắn đến lúc thu hoạch sẽ bán được giá cao, nhưng cũng đồng thời đánh cược với không ít rủi ro. Đây cũng chính là cơn đau đầu không dễ chịu chút
nào của người nuôi tôm, bởi “Nuôi thì lo, không nuôi thì tiếc”. Và cũng rất khó cho ngành chức năng để
đưa ra một khuyến cáo chung
nhất về việc có nên thả nuôi tiếp hay không. Nói như giám đốc một
doanh nghiệp có vùng nuôi lớn:
“Cơ hội này chỉ dành cho những
“cao thủ” trong nghề nuôi tôm, tức những người có bản lĩnh, trình độ và khả năng tài chính mạnh”.
Là một doanh nghiệp có vùng nuôi tôm lớn, được đầu tư trang
thiết bị, kỹ thuật nuôi tôm hiện đại, có thể nuôi với mật độ rất cao, nhưng theo ông Phục, nghề nuôi tôm ngày càng bấp bênh, nhất là ở vụ nghịch này.
“Mấy năm gần đây, nghề nuôi tôm ngày càng có nhiều rủi ro hơn, nhất là rủi ro về dịch bệnh. Ngay
cả trang trại của Vinacleanfood của chúng tôi, dù được đầu tư rất bài bản, tích lũy được không ít kinh nghiệm, kỹ thuật trong phòng
trị bệnh trên tôm nhưng cũng hết sức vất vả mới có thu hoạch, nhất là ở vụ nghịch này. Cũng do dịch bệnh gây thiệt hại ngày càng
Hiện tại, nếu thu hoạch tôm đạt năng suất và tôm đạt kích cỡ lớn, người nuôi sẽ có lợi nhuận khá cao nhờ giá tôm tăng mạnh trong thời gian gần đây
nhiều nên không ít người ngại thả nuôi, diện tích giảm, gây thiếu hụt tôm nguyên liệu khi vào cao điểm chế biến xuất khẩu. Theo tôi, ở vụ nghịch này, tuy tôm có giá cao nhưng những hộ nuôi theo mô hình ao đất hay những mô hình cấp thấp khác cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định thả nuôi, nếu không sẽ bị lỗ vì dịch bệnh, thời tiết bất lợi”, ông Phục cho chia sẻ.
Khó khăn ở vụ nghịch là điều không thể tránh khỏi, nên muốn nuôi được phải có kiến thức, kinh nghiệm quản lý… nhất là khâu quản lý an toàn sinh học. Còn theo ông
Phục, quan trọng nhất ở vụ nuôi này vẫn là tôm giống vì một khi con giống đã mang mầm bệnh EHP rồi
thì dù áp dụng giải pháp gì cũng
khó đưa tôm nuôi về đích được.
Ông Phục chia sẻ: “Ngoài yếu
tố mưa bão thất thường thì dịch bệnh ở vụ này cũng rất nhiều.
Trong đó, bệnh do EHP là điều mà người nuôi tôm hiện nay, kể cả ao bạt hay ao đất cũng đều rất sợ. Do vậy, để nuôi được thành
công ở vụ này thì việc quản lý an toàn sinh học là rất quan trọng”.
Hiện Chi cục Thủy sản các tỉnh khu vực nuôi tôm ở ĐBSCL tiếp tục chủ động khuyến cáo người dân các giải pháp nhằm quản lý hiệu quả quá trình thả nuôi thủy sản; triển khai các chương trình giám sát dịch bệnh chủ động và bị động tại vùng nuôi; tăng cường kiểm tra tôm giống nhập tỉnh nhằm xác định tác nhân gây bệnh để thông tin cảnh báo kịp thời đến người nuôi chủ động trong sản xuất; đẩy mạnh công tác quan trắc môi trường vùng nuôi, khuyến cáo giải pháp ngăn ngừa dịch bệnh trong tôm nuôi. Về phía người nuôi, nên thường xuyên cập nhật bản tin thời tiết, khí tượng thủy văn, bản tin giá cả thị trường để có thể đưa ra quyết định kịp thời và đúng đắn nhất, nhằm đảm bảo cho vụ nuôi đạt hiệu quả cao nhất, để tận dụng tốt nhất cơ hội từ giá tôm mang lại.
Xuân Trường
NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH TÔM VÀ CÂU
CHUYỆN
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Trong phiên họp tại Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với các doanh nghiệp lớn về giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước vào ngày 21/9/2024, ông Lê Văn Quang, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú đã tham gia thảo luận về các giải pháp tháo gỡ khó khăn, đồng thời nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp trong việc tham gia vào các dự án lớn và đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Nhiều cơ hội và thách thức
Theo ông Lê Văn Quang, tôm là một trong hai loài thủy sản chủ lực trong chiến lược phát triển nuôi trồng của Việt Nam. Tổng giá trị xuất khẩu tôm hàng năm của Việt Nam đạt từ 3,5 - 4 tỷ USD, chiếm khoảng 13 - 14% giá trị tôm toàn cầu. Việt Nam được đánh giá cao về công nghệ chế biến tôm hiện đại, đồng thời có thế mạnh trong sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng và hàng cao cấp. Nhiều sản phẩm tôm chế biến của Việt Nam có giá trị gia tăng cao mà các quốc gia như Ecuador và Ấn Độ khó có thể chế biến hoặc chế biến với số lượng hạn chế.
Tuy nhiên, cho đến nay, ngành tôm Việt Nam và ngành nông nghiệp nói chung đang gặp phải không ít thách thức. Năm 2023, sản lượng tôm giảm mạnh 32%, trong khi các đối thủ như Ecuador tăng 14%; Ấn Độ tăng 2%; Thái Lan giảm 9% và Indonesia giảm 12%. Giá bán tôm thương phẩm sụt giảm nghiêm trọng do suy thoái kinh tế toàn cầu, khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu.
Trong khi đó, chi phí nuôi tôm tại Việt Nam lại rất cao, gây khó khăn trong việc cạnh tranh trên thị trường. Chi phí nhân công chế biến cao do các khu công nghiệp thường nằm xa khu dân cư, làm tăng chi phí đưa đón công nhân và ảnh hưởng đến năng suất lao động. Chi phí sinh hoạt cao cũng gây áp lực tăng lương, đẩy mức lương công nhân Việt Nam lên cao so với khu vực. Bên cạnh đó, chi phí xử lý nước thải cũng là gánh nặng cho các doanh nghiệp chế biến.
Ngoài ra, nông dân nuôi tôm chưa chủ động áp dụng các chứng nhận quốc tế như BAP, ASC hay chứng nhận hữu cơ, khiến giá bán tôm khó đạt mức cao. Tỷ lệ thành công trong nuôi tôm tại Việt Nam chỉ đạt 40%, thấp hơn nhiều so với Ecuador
(90%) và Ấn Độ (60 - 70%). Việt
Nam tiếp cận nuôi tôm sạch bệnh lớn nhanh và mật độ cao đến 500 con/m2, gây stress cho tôm, dẫn
đến ô nhiễm môi trường và phát sinh dịch bệnh, trong khi đó Ecuador áp dụng phương pháp nuôi tôm kháng bệnh, thích nghi
và vừa sức tải của môi trường với mật độ chỉ 15 - 30 con/m2, giúp tôm kháng bệnh và thích nghi, không gây ô nhiễm môi trường nên giá thành rất thấp chỉ bằng nửa của Việt Nam. Đây là cách tiếp cận rất thông minh.
Chất lượng tôm giống cũng là vấn đề lớn khi nhiều cơ sở cung cấp
giống kém chất lượng, làm giảm tỷ
lệ nuôi thành công. Hơn nữa, hầu
hết các hộ nuôi tôm tại Việt Nam
là nhỏ lẻ, không có hệ thống kênh
cấp và thoát nước riêng, dễ dẫn
đến lây lan dịch bệnh.
Trong chuỗi giá trị tôm, Việt
Nam có lợi thế ở khâu chế biến, nhưng ở khâu nuôi trồng và phân
phối, khả năng cạnh tranh còn hạn chế so với các quốc gia khác.
Trong tương lai, các đối thủ có thể bắt kịp và vượt qua Việt Nam về công nghệ chế biến do họ đang tích cực đầu tư.
Tóm lại, ngành tôm Việt Nam đang đối mặt với 5 thách thức chính: (1) chính sách quy hoạch và quản lý về giống; (2) phương pháp nuôi trồng; (3) hệ thống kênh cấp và thoát nước; (4) vật
tư nông nghiệp sinh học; (5) phát triển các khu công nghiệp chế biến và nuôi tôm chuyên nghiệp, cùng với các trung tâm thương mại, logistics và phân phối sản phẩm nông nghiệp.
Đã đến lúc ngành tôm không thể chạy theo số lượng
Ông Lê Văn Quang nhận định, để nâng cao sức cạnh tranh của ngành tôm và phát triển nông nghiệp bền vững, cần thay đổi tư duy, thay vì tập trung vào sản
lượng và công nghệ cao, gia
tăng số lượng chúng ta cần chú
trọng đến yếu tố bền vững và hiệu
quả, tăng chất lượng, bảo vệ môi trường, sức khỏe của con tôm và nâng cao giá trị sản phẩm.
Với chính sách quy hoạch và quản lý về giống, ông Lê Văn
Quang kiến nghị: Bộ NN&PTNT cần nghiên cứu và đề xuất sửa
đổi các quy định về sản xuất tôm giống. Điều này bao gồm cho phép các doanh nghiệp nuôi tôm lớn thực hiện quá trình gia hóa, chọn lọc tự nhiên nhằm tạo ra giống tôm kháng bệnh, phù hợp với khí hậu và môi trường của từng vùng nuôi.
Về phương pháp nuôi trồng: Áp dụng công nghệ sinh học thân thiện với môi trường, giảm thải carbon và vừa sức tải của môi trường. Hiện nay, Minh Phú đang chuyển giao công nghệ nuôi tôm sinh học MPBiO tích hợp 10 công nghệ nuôi tôm hàng đầu thế giới, giúp nâng cao tỷ lệ thành công lên hơn 90%, giá thành cạnh tranh với Ecuador và tạo ra sản phẩm tôm có màu sắc đẹp, hương vị thơm ngon, bán được giá cao hơn 20%.
Về hệ thống thủy lợi cho nuôi tôm cần tiếp cận theo hướng thuận thiên, nước ngọt tới đâu trồng lúa tới đó, nước mặn tới đâu
nuôi tôm đến đó, mùa mưa nước
ngọt về thì nuôi tôm, mùa khô nước mặn xâm nhập thì nuôi tôm.
Nhà nước cần đầu tư xây dựng hệ
thống kênh rạch, đê điều, và hệ thống cấp thoát nước riêng biệt nhằm giảm thiểu nguy cơ lây lan dịch bệnh và tối ưu hóa hiệu quả nuôi trồng.
Về vật tư nông nghiệp sinh học: Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển và ứng dụng phân bón, thức ăn sinh học và các chế phẩm sinh học cho ngành nông nghiệp. Hướng đến mô hình kinh tế tuần hoàn, biến chất thải và phế phẩm nông nghiệp thành các sản phẩm có giá trị, quay lại phục vụ quá trình sản xuất bền vững. Nhà nước cũng cần quan tâm đầu tư cơ sở nền tảng số hóa, AI hóa cho ngành nông nghiệp. Bên cạnh đó, cần đầu tư xây dựng các khu công nghiệp đô thị và khu công nghiệp nuôi tôm chuyên nghiệp, đặc biệt là các khu phức hợp tích hợp giữa công nghiệp chế biến, công nghiệp nuôi tôm và khu dân cư đô thị tiện ích. Đồng thời, xây dựng các trung tâm thương mại, logistics và phân phối sản phẩm nông nghiệp. Nhà nước cần hỗ trợ trong khâu quy hoạch, còn Minh Phú sẵn sàng đầu tư xây dựng, với dự kiến xây dựng các khu công nghiệp tôm tại Kiên Giang, Cà Mau và 2 trung tâm xúc tiến nông sản tại Hà Nội và TP HCM.
Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú
cá
bằng giải pháp tự nhiên - Kỳ 1
Như đã đề cập ở Phần 1, Skretting cam kết phát triển bền vững toàn diện, kết hợp chặt chẽ các yếu tố môi trường, xã hội và kinh tế. Chúng tôi tự hào là doanh
nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực thủy sản, đóng góp tích cực qua đổi mới, khai
thác nguyên liệu bền vững và hợp tác chiến lược, nhằm bảo đảm an ninh lương
thực và dinh dưỡng toàn cầu.
Với những nỗ lực không
mệt mỏi trong thời gian qua, chúng tôi có thể chứng minh rằng tính bền vững và lợi nhuận luôn song hành cùng nhau và là tiền đề cho hệ thống thực phẩm toàn cầu có trách nhiệm và bền vững hơn.
Với sứ mệnh “Nuôi dưỡng tương lai”, Skretting đã góp phần thúc đẩy sự thay đổi tích
cực trong ngành NTTS, đóng góp nguồn thực phẩm bền vững và an toàn cho dân số toàn cầu.
Điều này đồng nghĩa với việc chúng tôi đã đầu tư mạnh vào nghiên cứu, phát triển để tạo ra
các giải pháp sáng tạo giúp tăng
cường tính bền vững của NTTS, phát triển thức ăn thủy sản, các
sản phẩm và dịch vụ giúp cải thiện sức khỏe của tôm, cá, nâng
cao hiệu quả thức ăn, giảm sự phụ thuộc vào tài nguyên biển và thuốc kháng sinh. Điều này cho thấy, Skretting hoàn toàn ủng hộ các hoạt động NTTS có trách nhiệm bảo vệ môi trường, hỗ trợ
cộng đồng và đảm bảo phúc lợi cho vật nuôi.
Trong quá trình NTTS, người nuôi thường sử dụng nhiều loại kháng sinh nhằm kiểm soát dịch bệnh, cải thiện tốc độ tăng
trưởng, và cải thiện hiệu quả thức ăn. Việc sử dụng quá nhiều kháng sinh trong NTTS dẫn đến sự phát triển của vi khuẩn kháng kháng sinh, có thể lây lan sang
người và các động vật khác, gây ra rủi ro đáng kể cho sức khỏe
cộng đồng. Hơn nữa, kháng sinh có thể tích tụ trong môi trường, dẫn đến phá vỡ sự cân bằng của hệ vi sinh vật trong tự nhiên. Điều này có thể dẫn đến sự phát triển quá mức của vi khuẩn kháng thuốc trong môi trường và tác động đến các sinh vật khác Mối lo ngại về tình trạng kháng kháng sinh, tác động đến môi
trường và sức khỏe người tiêu dùng đã khiến nhiều quốc gia phải ban hành các quy định nghiêm ngặt về việc sử dụng kháng sinh trong NTTS, hạn chế sử dụng kháng sinh và chuyển sang sử dụng nhiều loại thức ăn bổ sung ở dạng tự nhiên như một giải pháp thay thế bền vững và an toàn hơn. Các vấn đề về bệnh tật đã trở thành mối lo ngại lớn của người nuôi thủy sản. Trong các giải pháp hạn chế bệnh, đặc biệt là nuôi tôm và cá, phòng bệnh luôn được ưu tiên hàng đầu tại nhiều trang trại. Phòng ngừa không chỉ ngăn chặn sự lây nhiễm mà còn đảm bảo dinh dưỡng tối ưu, thiết kế trại nuôi phù hợp và quản lý hợp lý. Những biện pháp này giúp tăng cường khả năng chống lại các bệnh nguy hiểm cho vật nuôi. Đảm bảo phúc lợi giúp vật nuôi khỏe mạnh, thể hiện tập tính tự nhiên, tăng sức đề kháng và giảm dịch bệnh, điều này cũng đúng trong NTTS. Để tăng khả năng kháng bệnh, vật nuôi cần tránh căng thẳng (stress). Các chất phụ gia thức ăn chức năng tự nhiên ngày càng quan trọng trong NTTS bền vững. Khi ngành này mở rộng để đáp ứng nhu cầu toàn cầu, việc duy trì bền vững trở nên cấp thiết. Các chất phụ gia chức năng giúp nâng cao hiệu quả thức ăn, cải thiện sức khỏe, giảm tác
cải thiện các chức năng miễn dịch, qua đó cải thiện khả năng tăng trưởng, phản ứng miễn dịch và khả năng kháng bệnh.
Bằng cách cải thiện khả năng kháng bệnh, sẽ giúp vật nuôi càng ít mắc bệnh hơn hoặc bệnh
sẽ ít nghiêm trọng hơn trong trường hợp nhiễm khuẩn. Ngoài ra, vật nuôi sẽ phục hồi nhanh hơn khi chúng có khả năng kháng bệnh tốt hơn. Do đó, việc cải thiện khả năng kháng bệnh trên vật nuôi đóng một vai trò quan trọng, ngay cả khi chúng chưa được phát hiện bệnh.
Một số chất phụ gia chức năng được sử dụng trong NTTS là probiotic, prebiotic, axit hữu cơ, phytogenics, enzyme, chất kích thích miễn dịch,... Mỗi nhóm sẽ thể hiện các tính năng và lợi ích riêng của chúng.
Probiotic (Lợi khuẩn)
Probiotic được định nghĩa là
một hoặc một nhóm các sinh vật sống, khi được sử dụng với số lượng thích hợp sẽ có lợi cho sự tồn tại và phát triển của vật chủ. Probiotic có thể chứa một hoặc nhiều chủng vi sinh có lợi, có thể được bổ sung riêng lẻ vào thức ăn hoặc vào nước, hoặc cũng có thể kết hợp với các chất phụ gia khác. Các nhóm lợi khuẩn probiotic phổ biến được sử dụng trong NTTS bao gồm các loài Bacillus, Lactobacillus, Pediococcus, Bifidobacterium, Enterococcus và các loài khác. Việc ứng dụng probiotic trong NTTS là một phương pháp bền vững và hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích cho cả người nuôi trồng và môi trường. Nhóm lợi khuẩn này, khi được bổ sung vào môi trường nước hoặc được cung cấp trực tiếp vào thức ăn sẽ mang lại nhiều lợi ích, bao gồm việc giúp tôm, cá tăng trưởng nhanh hơn, khả năng kháng bệnh tốt hơn và chất lượng nước tốt hơn.
Probiotic giúp phòng ngừa và
kiểm soát bệnh bằng cách cạnh tranh chất dinh dưỡng và nơi
cư ngụ với vi khuẩn gây bệnh, kích thích sản xuất các hợp chất
kháng khuẩn và tăng cường hệ
miễn dịch của tôm, cá. Bằng cách
này, chúng ngăn chặn sự xâm
nhập và phát triển của các tác
nhân gây bệnh, thúc đẩy sự cân
bằng của hệ vi sinh đường ruột, cải thiện tiêu hóa và hấp thụ chất
dinh dưỡng, dẫn đến tốc độ tăng
trưởng tốt hơn và chuyển đổi thức
ăn hiệu quả hơn ở tôm, cá.
Probiotic cũng tăng cường
phản ứng miễn dịch của các
loài nuôi thủy sản bằng cách
kích thích sản xuất các enzyme
liên quan đến miễn dịch và cải
thiện khả năng phục hồi tổng thể
của vật chủ chống lại các bệnh
nhiễm khuẩn.
Việc lựa chọn sản phẩm vi sinh
phù hợp để sử dụng phải đảm bảo
các tiêu chí sau: sản phẩm phải
có hàm lượng vi sinh vật sống
cao (> 1 tỷ CFU/g), các nhóm lợi
khuẩn hoặc các chủng được lưu trú và hoạt động trong ruột của
động vật thủy sản, dễ dàng tồn tại và phát triển trong các điều
kiện nuôi tôm, cá, đảm bảo ổn
định trong quá trình sản xuất và bảo quản cũng như tính an toàn của chủng vi sinh phải được đảm
bảo rằng nó không thúc đẩy sự lây truyền kháng kháng sinh hoặc plasmid độc lực.
Prebiotic
Prebiotic là thành phần thức
ăn không được tiêu hóa, có tác dụng kích thích sự phát triển và
chuyển hóa của các vi khuẩn có
lợi trong đường ruột, giúp cải thiện sức khỏe và hiệu suất tăng trưởng. Trong NTTS, prebiotic đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường hệ vi sinh đường ruột, thúc đẩy khả năng kháng bệnh và thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng bền vững.
Các prebiotic thường được
sử dụng trong thủy sản bao gồm: Mannanoligosaccharides (MOS), fructooligosaccharides (FOS), Galactooligosaccharidae (GOS), Beta Glucans và inulin. Mặc dù các loại đường và chất xơ này là những chất không tiêu hóa được bởi tôm, cá nhưng có thể được lên men bởi vi khuẩn đường ruột, từ đó kích thích sự phát triển và tăng khả năng hoạt động của một hoặc một nhóm vi khuẩn có lợi tại đường ruột, làm giảm quần thể vi khuẩn gây bệnh, điều hòa miễn dịch, tăng khả năng tiêu hóa, hấp thụ khoáng chất và vitamin, duy trì độ pH của ruột, tối đa hóa trong việc hấp thu dinh dưỡng và có khả năng cải thiện sự tăng trưởng của vật nuôi. Một ví dụ về cơ chế hoạt động của MOS, MOS sẽ liên kết với các thụ thể của tác nhân gây bệnh, ngăn chặn sự bám dính của mầm bệnh trên bề mặt tế biểu mô ruột của vật chủ. Hoạt động này sẽ làm giảm sự bám dính của mầm bệnh trên đường tiêu hóa, khiến chúng bị đào thải qua phân. Hiện tượng này giúp gia tăng phản ứng miễn dịch dịch thể do sự trình diện nhiều hơn của các kháng nguyên đối với hệ thống miễn dịch. Trong khi đó, Beta-glucan 1,3/1,6 kích hoạt hệ miễn dịch một cách trực tiếp vì chúng liên kết với các thụ thể tế bào có trong ruột non và thực bào, qua đó, chúng kích hoạt một loạt các phản ứng viêm với việc kích hoạt kháng thể (IgA) và tăng cường tiết chất nhầy, và đây cũng là tuyến phòng thủ đầu tiên của ruột chống lại các tác nhân gây bệnh. Ngoài ra, beta-glucan còn kích hoạt đại thực bào, tế bào NK (tế bào tiêu diệt tự nhiên), tế bào lympho B và lympho T làm tăng sản xuất cytokine và các hoạt động thực bào.
Joao Sendao (Trinh Trương lược dịch)
GROFARM PRO
Giải pháp năng suất cao, chi phí thấp đem lại lợi nhuận tối đa cho người nuôi tôm
Để đạt mục tiêu phát triển bền
vững và giá trị xuất khẩu đạt 10
tỷ USD vào năm 2025, ngành tôm
Việt Nam cần có giải pháp tối ưu,
giúp tăng năng suất, giảm thiểu
chi phí và đảm bảo chất lượng
sản phẩm. Mô hình GROFARM
PRO do Grobest Việt Nam phát
triển đã nhanh chóng trở thành
giải pháp nuôi tôm công nghệ cao
“quốc dân”, giúp nhiều hộ nuôi
trên cả nước đạt hiệu quả kinh tế
vượt trội. Với mục tiêu mang lại
các vụ nuôi “Năng suất cao - Chi
phí thấp”, GROFARM PRO không
chỉ là lời giải cho thách thức
trước mắt mà còn là chìa khóa
để mở ra tương lai phát triển bền
vững cho ngành tôm Việt Nam.
Từ mục tiêu xuất khẩu 10 tỷ USD tới thực
tế khó khăn
Việt Nam sở hữu tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực NTTS, nổi bật nhất là ngành nuôi tôm. Sự gia tăng nhu cầu tôm trên thị trường toàn cầu không ngừng mở rộng và chưa đạt giới hạn, mang lại cơ hội cho ngành thủy sản Việt Nam.
Năm 2018, Chính phủ Việt Nam đề ra mục tiêu lớn cho ngành tôm với Quyết định 79/ QĐ-TTg, nhằm tăng diện tích nuôi tôm lên 750 nghìn ha, sản lượng trên 1 triệu tấn vào năm 2025 và đạt mục tiêu xuất khẩu đạt 10 tỷ USD. Tuy nhiên, tình hình xuất khẩu tôm hiện tại không mấy khả quan do nhiều yếu tố từ bên ngoài tác động tiêu cực tới giá tôm. Giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam hiện nay chỉ bằng 2/3 so với 5 năm trước.
Có 2 nguyên nhân chính dẫn tới giá tôm xuất khẩu thấp. Thứ nhất, giá tôm xuất khẩu sang các thị trường thấp do phải cạnh tranh với các nguồn cung lớn như Ecuador, Ấn Độ. Thứ hai, dịch bệnh trên tôm diễn biến phức tạp, chưa được khắc phục làm suy giảm năng suất và chất lượng tôm.
Hội Thủy sản Việt Nam nhận định rằng chi phí đầu vào tăng cao đang tạo áp lực cạnh tranh về giá đối với Việt Nam khi so sánh với Ecuador và Ấn Độ. Thêm vào đó, biến đổi khí hậu cũng là một thách thức đáng kể đối với ngành xuất khẩu tôm của Việt Nam. Theo Cục Thủy sản, chi phí sản xuất tôm tại Việt Nam vẫn cao hơn so với các nước trong khu vực, chủ yếu do chi phí thức ăn chiếm hơn 65% giá thành nuôi tôm công nghiệp. Trong hoàn cảnh khó đối mặt với thách thức hiện nay, việc tổ chức lại mô hình sản xuất và tái cơ cấu ngành nông khăn này, các hộ nuôi tôm nỗ lực tìm kiếm các mô hình và phương pháp nuôi mới nhằm tăng năng suất, giảm chi phí và đảm bảo chất lượng
sản phẩm. Một trong những giải pháp được nhiều hộ nuôi đánh giá cao và ứng dụng rộng rãi chính là mô hình nuôi tôm công nghệ cao GROFARM PRO của Grobest.
Giải pháp nuôi tôm công nghệ cao GROFARM PRO: Năng suất caoChi phí thấp
Được thiết kế theo từng khu vực và điều kiện thực tế, GROFARM PRO trở thành “cầu nối” trong quá trình Grobest đồng hành cùng bà con ngay từ giai đoạn xây dựng ao nuôi, chọn giống tới khi thu hoạch và xuất bán thương phẩm. Mô hình này sử dụng công nghệ tiên tiến để quản lý môi trường nuôi tôm và cung cấp thức ăn chất lượng cao cho tôm. Nhờ đó, bà con có thể nuôi tôm với mật độ cao hơn mà không lo lắng về vấn đề ô nhiễm môi trường hay chất lượng tôm. Khi áp dụng mô hình nuôi tôm GROFARM PRO năng suất thu hoạch tôm có thể cao hơn 30% so với các phương pháp truyền thống. Đồng thời, chi phí sản xuất giảm tới 20%, giúp người nuôi tiết kiệm đáng kể. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ thành công sau khi áp dụng GROFARM PRO lên đến 92%, giúp người nuôi giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, GROFARM PRO đảm bảo tôm nuôi có chất lượng cao, an toàn hơn cho người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, giảm ô nhiễm.
Mô hình nuôi tôm công nghệ cao GROFARM PRO là sự kết hợp của bốn yếu tố nền tảng (hỗ trợ, con giống, hiệu quả, dịch vụ Mobile Lab) cùng ba yếu tố nâng cấp đặc biệt về chương trình dinh dưỡng, công nghệ mới và tính bền vững. Trong đó, với định vị là chuyên gia dinh dưỡng thủy sản hàng đầu thị trường, Grobest cung cấp chương trình dinh dưỡng phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng của tôm giúp ưu hóa khả năng phát triển.
Thức ăn của Grobest nổi bật nhờ các chất phụ gia độc quyền kết hợp cùng vitamin và khoáng chất hữu cơ, được phát triển và sản xuất riêng biệt, không có sẵn trên thị trường. Các chất phụ gia này kết hợp với protein, chất béo và carbohydrate chất lượng cao, tạo nên giải pháp dinh dưỡng 360 toàn diện, đảm bảo sự phát triển và tăng cường khả năng sống sót cho tôm. Quy trình dinh dưỡng được áp dụng trong toàn bộ chu trình nuôi, kiểm soát nghiêm ngặt từ giai đoạn ương đến thu hoạch, điều chỉnh theo điều kiện môi trường và mô hình canh tác cụ thể.
Bên cạnh đó, điểm đặc biệt của GROFARM
PRO là áp dụng công nghệ xử lý nước và chất
thải tiên tiến, đảm bảo quy trình nuôi bền vững và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Đồng thời, sự hỗ trợ từ dịch vụ Mobile Lab giúp giám sát sức khỏe tôm tại chỗ, chẩn đoán và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Điều này giúp người nuôi tôm luôn tự tin trong
quá trình nuôi, giảm thiểu rủi ro và tăng tỷ lệ thành công.
Lan tỏa mô hình nuôi tôm hiệu quả
Trong bối cảnh ngành tôm Việt Nam đang
áp dụng những giải pháp giúp duy trì vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, GROFARM
PRO là giải pháp lý tưởng để người nuôi tôm có thể đạt được mục tiêu “Năng suất cao -
Chi phí thấp”. Với sự cam kết đồng hành lâu
dài cùng người nuôi tôm, Grobest Việt Nam không chỉ mang đến các giải pháp công nghệ tiên tiến mà còn xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của ngành tôm trong tương lai.
Hiện nay, Grobest Việt Nam đang tích cực tư vấn miễn phí mô hình GROFARM PRO cho các hộ nuôi tôm trên khắp cả nước. Mục tiêu của Grobest là hỗ trợ người nuôi vượt qua thời điểm khó khăn, đồng thời thúc đẩy ứng dụng rộng rãi mô hình nuôi tôm công nghệ cao.
Anh Ng.X.Phố, một hộ nuôi tôm tại Bạc Liêu, đã chia sẻ về những thay đổi tích cực sau khi áp dụng mô hình GROFARM PRO: “Trước đây, chúng tôi thường gặp khó khăn trong việc kiểm soát dịch bệnh và duy trì năng suất ao nuôi. Việc áp dụng GROFARM PRO đã đem lại nhiều chuyển biến tích cực. Mô hình này còn giảm thiểu sự phụ thuộc vào thời tiết và giúp việc quản lý ao nuôi đơn giản. Tôm phát triển nhanh hơn, tỷ lệ sống cao hơn và lợi nhuận tăng đáng kể”. Grobest Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục mang lại nhiều giá trị thiết thực thông qua mô hình GROFARM PRO, góp phần phát triển ngành tôm Việt Nam, đồng hành cùng người nuôi tôm trên hành trình hướng tới mục tiêu “Năng suất cao - Chi phí thấp” và tạo ra lợi nhuận bền vững.
Ông Boonlap Watcharawanichakul, Phó Tổng Giám Đốc cấp cao của C.P. Việt Nam phát biểu khai mạc tại hội nghị tỉnh Trà Vinh
Hội nghị Giải pháp đột phá hiệu suất tại tỉnh Trà Vinh
Vào ngày 18/9/2024 vừa qua, hội nghị khách hàng với chủ đề “Giải pháp đột phá hiệu suất” được C.P. Việt Nam tổ chức
thành công tại tỉnh Trà Vinh. Tham dự hội nghị có Ông Boonlap
Watcharawanitchakul Phó Tổng giám đốc cấp cao C.P. Việt Nam, cùng với một số lãnh đạo các bộ phận đã đồng hành chia sẻ về giải pháp nuôi tôm lớn nhanh, năng suất cao với chi phí tối ưu. Đặc biệt có sự tham gia đông đảo của gần 300 đại biểu là đại lý, khách hàng và bà con nuôi tôm trong tỉnh Trà Vinh.
Kết quả nuôi ấn tượng
Bên cạnh đó, hội nghị còn cho thấy rõ hiệu quả nuôi thành công của hàng loạt khách hàng C.P. Việt Nam tại tỉnh Trà vinh trong thời gian vừa qua. Bằng việc sử dụng các sản phẩm tôm giống, thức ăn, chế phẩm sinh học và mô hình nuôi từ C.P. Việt Nam, khách hàng tại Trà Vinh không chỉ nuôi tôm về được kích cỡ lớn mà còn nuôi tôm được kích cỡ kỷ lục, với tốc độ lớn cực nhanh, hệ số chuyển đổi thức ăn FCR thấp, giúp rút ngắn thời gian nuôi, tiết kiệm chi phí và thu về lợi nhuận vô cùng hấp dẫn trong vụ nuôi. Điển hình kết quả nuôi ấn tượng đến từ các khách hàng tại Trà Vinh: - Anh Đặng Trường Đồ (Duyên Hải –Trà Vinh); Với lượng thả nuôi 300.000 Tôm
Giống CPF-TURBO G20, sử dụng thức GOAL CARE, MAKRO, GOAL RED và các chế phẩm sinh học từ C.P. Việt Nam, trong vụ nuôi vừa qua anh Đồ đã xuất sắc chinh phục kích cỡ 12,5 con/kg chỉ sau 128 ngày nuôi, tôm lớn nhanh đột phá với tốc độ tăng trưởng (ADG) cao lên đến 0,62 g/ngày, giúp anh rút ngắn thời gian nuôi, tiết kiệm chi phí và thu về lợi nhuận hơn 500 triệu đồng.
- Anh Lâm Quốc Cường (Duyên Hải-Trà Vinh); Với tổng diện tích 3 ao nuôi 1500m2 theo mô hình CPF-Combine, vụ nuôi vừa qua anh Cường thả 210.000 tôm giống CPFTURBO G20, sử dụng thức ăn GOAL CARE, GOAL RED và cho thu hoạch 9 tấn tôm ở kích
cỡ kỷ lục 14,2 con/kg chỉ sau 121 ngày nuôi, tốc độ tôm lớn nhanh vượt trội (ADG) 0,58 g/ ngày giúp anh thu về lợi nhuận 630 triệu đồng.
Đạt kết quả nuôi hết sức ấn tượng, khi đã
xuất sắc chinh phục kỷ lục thu hoạch tôm thẻ kích cỡ 15 con/kg trong năm 2024, tại hội nghị
C.P. Việt Nam cũng vinh danh và trao tặng các quà tặng có giá trị đến 2 Quý khách hàng. Ngoài ra, còn có những kết quả nuôi xuất sắc như anh Diệp Văn Linh (Duyên Hải-Trà Vinh). Bằng việc sử dụng 100% sản phẩm từ
C.P. Việt Nam, anh Linh cho thu hoạch hơn 11 tấn tôm lần lượt ở các size 30 - 25 con/kg chỉ sau 92 - 106 ngày nuôi, tôm lớn nhanh hiệu quả, hệ số chuyển đổi thức ăn thấp FCR 1,22 giúp anh tiết kiệm chi phí và thu về lợi nhuận 666 triệu đồng trong vụ nuôi.
Hướng đi bền vững
Hội nghị diễn ra thành công tốt đẹp với sự hưởng ứng và tham dự nồng nhiệt từ Quý khách hàng. Thông qua hội nghị, C.P. Việt Nam mong muốn mang đến các thông tin,
giải pháp hữu ích giúp Quý khách hàng canh tác đạt hiệu quả tối đa trong thời gian sắp tới. Mặc dù trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá tôm nhiều biến động nhưng với bộ giải pháp nuôi hiệu quả từ thức ăn, tôm giống, mô hình và các chế phẩm sinh học, C.P. Việt nam luôn khẳng định giá trị của mình, khi không những giúp khách hàng nuôi tôm về được kích cỡ lớn mà còn lớn nhanh với tốc độ đột phá. Có thể nói kết quả nuôi của Quý khách hàng nêu trên là minh chứng tiêu biểu cho hiệu quả ấn tượng của các sản phẩm C.P. Việt Nam. Xin cảm ơn Quý khách hàng đã luôn tin yêu, ủng hộ, đồng hành cùng C.P. Việt Nam, kính chúc Quý khách hàng có vụ mùa thành công, thắng lợi.
Kết quả nuôi ấn tượng
hình của Quý khách tại Trà Vinh
C.P. Việt Nam Vinh danh 2 khách hàng nuôi tôm kích cơ
huyện Duyên Hải tỉnh Trà Vinh, anh Lâm Quốc Cường
VINHTHINH BIOSTADT
Chia sẻ tình cảm với đồng bào miền Bắc bị thiệt
hại do cơn bão số 3
Trước thiệt hại to lớn do ảnh hưởng của cơn bão số 3 gây ra với đồng bào một số tỉnh miền Bắc. Đặc biệt, mất mát là vô cùng to lớn về người (hàng trăm người chết và mất tích), rất nhiều làng bản, nhà cửa, tàu bè, hoa màu, vùng nuôi trồng thủy sản, cầu, đường, điện nước,… bị tàn phá, hư hỏng. Mỗi người con dân Việt Nam cùng chung một nguồn cội hết sức xót xa, lo lắng trước những đau thương, mất mát, thiệt hại vô cùng to lớn của đất nước, đồng bào của mình.
“Bầu ơi thương lấy bí cùng.
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Trong cơn hoạn nạn ấy, tinh
thần “tương thân, tương ái”
truyền thống của Người Việt
Nam một lần nữa tỏa sáng và
phát huy. Khắp mọi miền Tổ
Quốc, đã có rất nhiều hoạt động
khác nhau do chính quyền hay do nhân dân tự phát nhằm hỗ trợ
kịp thời, mong muốn chia sẻ một
phần khó khăn, mất mát với bà
con khu vực bị ảnh hưởng nặng
nề bởi cơn bão số 3.
Ban lãnh đạo của Vinhthinh
Biostadt đã phát động phong trào và công ty đã tổ chức buổi lễ đóng góp ủng hộ đồng bào miền
Bắc bị thiệt hại do cơn bão số 3
tại văn phòng công ty. Tất cả các thành viên của công ty dù đang sản xuất tại nhà máy hay đi công tác (tham gia online) đều tham gia đầy đủ buổi lễ và xúc động dành một phút mặc niệm tưởng nhớ đồng bào, chiến sĩ đã từ trần do cơn bão số 3. Ông Nguyễn Trần Nghiêm Cung, Chủ tịch HĐQT - Tổng
Giám đốc của Vinhthinh Biostadt đã phát biểu mục đích của hoạt động này, chia sẻ những thông tin thiệt hại do bão gây ra, tình hình khắc phục hậu quả, tinh thần đoàn kết và thương yêu nhau của dân tộc đến tất cả cán bộ công nhân viên của công ty. Đại diện người
lãnh đạo đã tham gia đóng góp theo khả năng của mình để giúp đỡ bà con vơi đi một chút khó khăn và nhanh chóng ổn định lại từng bước cuộc sống.
Ngày 17/9/2024, Ông Chang Gim Thye - Phó Tổng Giám Đốc đã đại diện công ty đến Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM để trao tặng số tiền 78.309.000 đồng do tập thể ban lãnh đạo, quản lý, nhân viên và gia đình lãnh đạo đóng góp.
Trong quá trình hoạt động của mình, Vinhthinh Biostadt đã rất nhiều lần tham gia các hoạt động xã hội, chung tay chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng. Mỗi hoạt động đó vừa thể hiện tấm lòng của cả tập thể Vinhthinh
Biostadt với bà con vùng bị thiệt hại vừa góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần nhân ái, đoàn kết của dân tộc.
Vinhthinh Biostadt cùng đồng bào cả nước gửi gắm tình cảm yêu thương chia sẻ và mong rằng, bà con miền Bắc bị ảnh hưởng cơn bão số 3 sẽ nhanh chóng vượt qua những khó khăn trước mắt, từng bước ổn định lại cuộc sống, hướng đến tương lai tốt đẹp.
V ĩnh Thịnh
Ông Chang Gim Thye – Phó Tổng Giám Đốc Vinhthinh Biostadt trao Quỹ
Tập đoàn Việt Úc
đồng hành cùng người
nuôi tôm vượt thử thách sau bão Yagi
Việt Úc cùng
các doanh nghiệp cam kết đồng hành
cùng người nuôi vượt thử thách
Bão Yagi (bão số 3) đi qua, để lại quá nhiều mất mát,
thiệt hại cho ngành nuôi trồng thủy sản miền Bắc.
Bão tan, tình người và những tấm lòng sẽ là điểm tựa vững chắc để gieo trồng nên những mầm xanh
hy vọng. Đồng hành cùng Bộ NN&PTNT, Tập đoàn
Việt Úc, doanh nghiệp đại diện cho mảng tôm giống, đã và đang chung tay góp phần giúp người nuôi tôm
khu vực miền Bắc vượt thử thách.
Sau những ngày vất vả “chạy bão”, người nuôi tôm nói riêng và bà con miền Bắc nói chung vẫn đang
tìm cách nhanh nhất khắc phục
hậu quả để tiếp tục trở về cuộc sống thường ngày. Ngay trung
tâm chịu ảnh hưởng do bão như Quảng Ninh, Hải Phòng… nhiều hộ nuôi tôm dù phòng bị kỹ lưỡng cũng không thể ngăn cản được sức tàn phá khủng khiếp của bão Yagi. Khung cảnh tan hoang sau bão như sập nhà màng, vỡ ao, tốc mái, rách bạt bờ, hư hỏng và thiệt hại nặng về cơ sở vật chất, khiến các hộ nuôi hầu như phải xây dựng lại từ đầu. Đặc biệt, sau bão là tình trạng ngập lụt, do đó bà con phải cải tạo về môi trường thật kỹ lưỡng để tránh ảnh hưởng cho vụ nuôi sắp tới.
Trước tình hình này, Bộ NN&PTNT phát động kế hoạch hỗ trợ khôi phục sản xuất nuôi trồng thủy sản sau bão số 3. Đại diện cho mảng tôm giống, Tập đoàn Việt Úc đã chủ động lên
kế hoạch đồng hành cùng người nuôi khu vực miền Bắc, với hơn 57 triệu tôm giống Việt Úc (tương đương hơn 8 tỷ VNĐ), sẽ được trao tặng và hỗ trợ phần nào giúp bà con nuôi tôm miền Bắc chuẩn bị cho vụ nuôi mới. Không chỉ trao tặng 100% tôm giống cho
Niềm vui của chú Vũ Bá Quang – hộ nuôi tại Hải Phòng khi nhận
được sự đồng hành và niềm tin vào vụ mùa đầu tiên sau bão
những người nuôi thiệt hại nặng, từ 60 - 80% cho những hộ nuôi cùng chịu ảnh hưởng, Việt Úc
còn sẵn sàng đồng hành về mặt kỹ thuật, các giải pháp thiết thực nuôi sau bão, làm sao để giúp bà con sớm bắt đầu vụ nuôi mới an
toàn và hiệu quả.
Tôm vẫn là mặt hàng thủy sản chủ lực trong chiến lược phát
triển nông nghiệp của quốc gia và người nuôi đóng vai trò hết
sức quan trọng với toàn ngành, do đó, những hành động dù nhỏ cũng sẽ tạo nên sức mạnh và niềm tin lớn lao giúp bà con vượt khó, góp phần vực dậy ngành
nuôi trồng thủy sản. Chuỗi ngày
hồi phục sau bão lũ vẫn kéo dài, nhưng với tinh thần lạc quan, kiên cường của bà con khiến chúng ta thêm tin tưởng rằng khó khăn sẽ
sớm qua đi, những vùng đất đau thương hôm nay sẽ gượng dậy, hồi sinh mạnh mẽ sau bão lũ.
xe chở tôm giống
Tháng 9/2024: Giá tôm xuất khẩu có xu hướng tăng
Theo VASEP, 8 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu tôm của nước ta đạt hơn 2,4 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ. Trong đó, tháng 8 ghi nhận đơn hàng giá trị cao nhất kể từ đầu năm, đạt 404 triệu USD, tăng 20% so với tháng 8/2023. Trong tuần thứ 2 của tháng 9/2024, giá TTCT ướp lạnh nguyên con tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm 2023. So với đầu tháng 8/2024, giá TTCT cỡ 30 - 40 con/kg tăng khoảng 40%. Tôm cỡ nhỏ hơn tăng 13% - 19% so với mức đầu tháng 8. Giá xuất khẩu TTCT Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng có xu hướng tăng kể từ tháng 2 năm nay. Ngay cả thị trường Nhật Bản, giá xuất khẩu TTCT dự kiến cũng tăng do các sản phẩm giá trị gia tăng, chế biến sẵn của Việt Nam vẫn được ưa chuộng và đồng yên tăng giá.
Quảng Ngãi
Giá cá muối tăng cao trong mùa biển động
Vào vụ cá Nam, nhiều ngư dân trong tỉnh đã tranh thủ thời tiết thuận lợi để đánh bắt cá, mực và làm mắm, muối mặn nhằm bán vào mùa biển động. Ngư dân Nguyễn Sự cho biết, ông và các bạn thuyền đã chuẩn bị thùng phuy để muối cá cơm và mực sữa ngay trên biển. Với hơn 150 lít mắm cá và mực, ông bán được với giá 40.000 đồng/lít, thu về hơn 6 triệu đồng, giúp gia đình có thêm thu nhập. Tương tự, ông Nguyễn Hai ở xã Bình Châu cũng tận dụng thời điểm giá cá giảm để muối cá, chuẩn bị cho mùa mưa. Cá muối của ông bán được giá 8.000 - 15.000 đồng/con, cao gấp đôi so với cá tươi. Tại các chợ, các loại thực phẩm từ cá muối, mắm rất được ưa chuộng trong mùa mưa khi hải sản tươi khan hiếm.
Vĩnh Long Giá cá linh non giảm mạnh do nguồn cung và sức mua yếu
Hiện tại, giá bán cá linh non tại các chợ thuộc huyện An Phú (tỉnh An Giang) dao động từ 120.000 - 150.000 đồng/kg, trong khi cá linh đã làm sạch có giá cao hơn, khoảng 20.000 - 30.000 đồng/kg. Theo các tiểu thương, năm nay lượng cá linh non tự nhiên về trễ và sản lượng giảm mạnh so với mọi năm. Nguyên nhân là do sự cạnh tranh với cá linh nuôi, khiến giá bán không còn cao như trước. Bên cạnh đó, sức mua của người tiêu dùng cũng giảm khi nhiều gia đình thắt chặt chi tiêu, dẫn đến việc giá cá linh, một loại cá đặc sản được ưa chuộng, đã “giảm nhiệt” đáng kể. Cụ thể, giá cá linh non đã giảm khoảng 50.000 đồng/kg so với năm trước. Dù đây là thời điểm mùa cá linh, nhưng với bối cảnh thị trường hiện tại, mức giá này có thể duy trì ổn định cho đến khi nguồn cung thay đổi hoặc sức mua tăng trở lại.
Giá bong bóng cá tăng cao
Hiện nay, bong bóng cá basa và cá tra loại đẹp đang có giá bán lẻ khoảng 1,6 triệu đồng/kg, trong khi bong bóng cá chẽm dao động từ 3 - 5 triệu đồng/kg. Theo các tiểu thương và doanh nghiệp, giá bong bóng cá tăng cao do nhu cầu từ thị trường Trung Quốc tăng mạnh trong thời gian qua. Trong 6 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu bong bóng cá của các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng 30% so với cùng kỳ năm trước, phần lớn là nhờ sự gia tăng tiêu thụ từ Trung Quốc. Tại thị trường này, giá bong bóng cá dao động từ 450 - 1.000 USD/kg, tùy vào loại và chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, ở Hồng Kông (Trung Quốc), giá bong bóng cá có thể lên đến 7.700 USD/kg, cho thấy đây là mặt hàng có giá trị cao và được ưa chuộng trong ngành ẩm thực cao cấp.
Bà Rịa - Vũng Tàu
Giá hải
sản tại Vũng Tàu tăng nhẹ từ 10 - 15%
Theo khảo sát tại một số chợ hải sản trên địa bàn TP Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), giá nhiều loại hải sản đang có xu hướng tăng nhẹ, từ 10 - 15%. Cụ thể, giá ốc hương trước đây dao động từ 240.000330.000 đồng/kg, nay đã tăng lên mức 280.000 - 380.000 đồng/kg. Mực ống loại 1 cũng ghi nhận sự tăng giá, từ 300.000 đồng/kg lên khoảng 340.000 - 350.000 đồng/kg. Tương tự, giá ghẹ loại 1 (3 - 4 con/kg) đã tăng từ 550.000 đồng/kg lên khoảng 600.000 đồng/kg và tôm sú, tùy theo kích cỡ, hiện có giá từ 240.000 - 350.000 đồng/kg. Sự tăng giá này có thể phản ánh tình hình cung cầu trong bối cảnh đánh bắt khó khăn hơn do thời tiết hoặc sự biến động của thị trường tiêu thụ, đặc biệt trong những tháng có bão.
Long An Giá cá đồng tăng do mực nước lũ thấp
Mỗi năm, vào mùa lũ, người dân thường đánh bắt được lượng lớn cá đồng tự nhiên và mang về bán tại chợ với sự đa dạng về số lượng và chủng loại. Tuy nhiên, năm nay, mực nước lũ thấp đã khiến các chợ đầu nguồn trở nên vắng vẻ, không còn cảnh mua bán nhộn nhịp như trước. Theo các tiểu thương, lượng cá đồng hiện nay rất khan hiếm, chủ yếu bao gồm các loại cá lóc, cá chốt, cá lăng, cá mè và cá linh. Với nguồn cá ít ỏi này, giá bán đã tăng khoảng 10 - 20% so với các năm trước. Cụ thể, cá lóc và cá trê hiện có giá từ 80.000 - 130.000 đồng/kg; cá chốt và cá lăng dao động từ 60.000 - 80.000 đồng/kg; trong khi cá mè dinh và cá dảnh trắng có giá từ 40.000 - 50.000 đồng/kg. Sự khan hiếm này không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập của người dân mà còn khiến thực phẩm truyền thống trở nên đắt đỏ hơn, làm cho nhiều gia đình phải cân nhắc kỹ lưỡng trong việc chi tiêu cho thực phẩm.
Thu nhập khá từ việc bắt ốc bươu vàng trong mùa lũ
Mùa lũ thấp tạo điều kiện thuận lợi cho ốc bươu vàng phát triển nhanh vì không bị nước cuốn trôi. Ngư dân tại các vùng trũng như
Tuyên Bình Tây (Vĩnh Hưng) và Vĩnh Thạnh (Tân Hưng) tranh thủ thời gian nhàn rỗi ra ruộng bắt ốc để kiếm thêm thu nhập. . Ốc bươu vàng được các hộ dân đánh bắt và các hộ thu gom đem về điểm tạp kết thu mua, sau khi sơ chế, phân loại, ốc được đưa lên xe bán cho các hộ dân nuôi tôm, cá. Anh Bùi Công Hậu (xã Tuyên Bình Tây) cho biết, mỗi đêm anh có thể bắt được 500 - 600 kg ốc và bán với giá 1.200 đồng/kg, mang về thu nhập khoảng 500.000 đồng sau khi trừ chi phí. Nhiều hộ dân tại các vùng thấp này cũng tham gia bắt ốc bươu vàng, với thu nhập từ 400.000 - 800.000 đồng/đêm, tùy vào lượng ốc bắt được. Việc thu mua ốc từ tháng 7 - 11 âm lịch tạo thu nhập cho nhiều hộ gia đình và người lao động trong khu vực, giúp họ vượt qua mùa lũ khó khăn. Việc làm này còn có ý nghĩa quan trọng là góp phần giảm số lượng ốc bươu vàng gây hại cho mùa màng.
Lan Khuê
Brazil
Mở cửa cho hải sản Na Uy
Theo một thỏa thuận mới đây, hải sản Na Uy đã chính thức được phê duyệt vào thị trường Brazil. Cơ quan An toàn thực phẩm Na Uy (Mattilsynet) cho biết, phía doanh nghiệp Na Uy sẽ được xuất khẩu cá tự nhiên, cá nuôi và phụ phẩm cá sang Brazil nếu Cục thanh tra các sản phẩm có nguồn gốc động vật của Brazil (DIPOA) chấp thuận. Brazil có dân số đông và được coi là một trong những thị trường tiêu thụ cá hồi rất tiềm năng. Trên trang web, Mattilsynet cũng hướng dẫn quy trình thâm nhập thị trường Brazil và công khai danh sách các công ty tiềm năng được cấp phê duyệt. Theo đó, cơ quan này cũng lưu ý các doanh nghiệp Na Uy phải đáp ứng các yêu cầu đặc biệt sau để được cấp giấy phép vào thị trường Brazil: Động vật dùng làm nguyên liệu chế biến không có nguồn gốc từ khu vực dịch bệnh hoặc cơ sở không đảm bảo vệ sinh, hoặc có dấu hiệu lâm sàng của dịch bệnh/ký sinh trùng; cá và sản phẩm đông lạnh không chứa phosphate hoặc chất tương tự trước khi cấp đông.
Trung Quốc Giá bột cá Peru giảm 16%
Giá bột cá Peru đang giảm mạnh tại Trung Quốc do nguồn cung tràn ngập thị trường. Cụ thể, giá bán bột cá cao cấp ở Thượng Hải đã hạ xuống 13.850 CNY/tấn (1.954USD/tấn), trong khi giá đỉnh điểm năm ngoái lên đến 18.950 CNY/tấn. Theo nhiều nguồn cung, mức giá bột cá hiện nay đang thấp hơn 2.500 CNY/tấn so với thời điểm cách đây 3 tháng. Một số lô hàng bột cá Peru được giao dịch thành công ở giá bán chỉ 13.300 CNY/tấn. Theo các hãng kinh doanh, sản lượng bột cá Peru và nhập khẩu của Trung Quốc đều tăng đã khiến giá mặt hàng này đột ngột lao dốc. Peru hiện là nước xuất khẩu bột cá lớn nhất thế giới, riêng lượng hàng sang Trung Quốc trong 8 tháng đầu năm 2024 tăng 82% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 714.849 tấn. Được biết, ngoài bột cá Peru, Trung Quốc cũng ồ ạt nhập khẩu bột cá xuất xứ khác nhau. Trong khi đó, sản lượng bột cá nội địa cũng tăng đáng kể, bổ sung vào nguồn cung dồi dào tại các cảng biển Trung Quốc. Theo thống kê mới nhất đến 12/9, trữ lượng bột cá của Trung Quốc khoảng 328.750 tấn.
Brazil
Giá rô phi giảm, xuất khẩu hạ nhiệt
Bắt đầu từ tháng 8/2024, giá cá rô phi nuôi trên khắp các vùng thuộc Brazil hạ nhiệt, chấm dứt chu kỳ tăng kéo dài trong nhiều tháng, theo Cơ quan nghiên cứu nâng cao và ứng dụng kinh tế của Brazil (CEPEA). Thống kê cho thấy, giá rô phi nguyên liệu trong tháng 8/2024 tại Gandes Lagos đã hạ xuống 7,97 BRL/kg (1,41 USD); tại Bắc và Tây Parana, giá rô phi giảm lần lượt xuống 9,03 BRL/kg và 8,08 BRL/kg trong khi giá cá
ở Morada Nova da Minas chỉ 8,02 BRL/kg. Sang tuần 36 (2-8/9/2024), giá rô phi tại Bắc Parana, Tây Panrana, Morada Nova de Minas lần lượt giảm tiếp xuống 8,93 BRL/kg; 8,01 BRL/kg; 7,96 NRL/kg và 7,08 BRL/kg. Ủy ban Ngoại thương, thuộc Bộ Phát triển, Công nghiệp, Thương mại và
Dịch vụ Brazil cho biết, xuất khẩu rô phi cũng giảm trong tháng 8 trước làn sóng giá cá nguyên liệu lao dốc. Cụ thể, khối lượng xuất khẩu fillet rô phi đã hạ xuống 1.300 tấn, giảm 21% so với tháng 7/2024 và giảm 2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Mexico, Mauritania
Giá bạch tuộc đông lạnh tăng vọt do nguồn cung
khan hiếm
Giá bạch tuộc đông lạnh tăng vọt do sản lượng khai thác giảm mạnh tại những khu vực chính như Mexico và Mauritania. Cùng đó, sản lượng khai thác bạch tuộc của Ma Rốc, một trong những “vựa” bạch tuộc của thế giới, cũng thấp hơn trước. Do vậy, giá bạch tuộc chế biến cũng leo thang nhưng được dự báo chỉ diễn ra trong ngắn hạn. Nhiều nhà máy cho hay, nguồn cung bạch tuộc ngày càng eo hẹp nên giá liên tục tăng cao. Tại Ma Rốc, giá bạch tuộc cỡ lớn nhất đã tăng lên 14 EUR/kg. Giá bạch tuộc của Mauritania thậm chí cao hơn Ma Rốc từ đầu vụ khai thác đến nay. Mexico cũng hạn chế khai thác do chi phí cao và chủ yếu tiêu thụ sản phẩm tại Hoa Kỳ, Chile hoặc nội địa. Tại Tây Ban Nha, một trong những thị trường tiêu thụ bạch tuộc lớn nhất châu Âu đã chứng kiến giá mặt hàng này tăng vọt lên 14,8 EUR/kg.
Thái Lan Tôm thẻ nguyên liệu cỡ lớn tăng
giá
Trong tuần 36 (2-8/9/2024), giá TTCT HOSO cổng trại tại Thái Lan bắt đầu tăng. Theo dữ liệu chợ bán buôn tôm Talay Thai, giá TTCT cỡ 60 con/kg đã tăng 2,50 THB/kg lên 145 THB/kg (4,27 USD). Tương tự, giá các mặt hàng TTCT cỡ 70 con/kg tăng 5 THB/kg, chạm mốc 140 THB/ kg (4,13 USD) trong tuần 36. Mặc dù hầu hết TTCT cỡ lớn tăng giá, TTCT cỡ nhỏ 80 con/kg vẫn giữ mức giá 125 THB/kg (3,69 USD) suốt 3 tuần liên tiếp. Trong khi đó, giá TTCT tại Việt Nam và Indonesia cao thứ 3 và thứ 4 trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Thái Lan, lần lượt ở các mức 4,09 USD/kg (trong tuần 34) và 4,11 USD/kg (trong tuần 36). Đứng thứ 5 là TTCT cỡ 60 con/kg từ Andhra Pradesh của Ấn Độ với mức giá duy trì ổn định 3,81 USD/kg trong tuần 36. Giá tôm các cỡ 50/60 và 60/70 của Ecuador tăng nhẹ lên các mức 3,30 USD/kg và 3 USD/kg.
Hoa Kỳ Giá cua tuyết tăng trở lại do Canada giảm nguồn cung
Theo Urner Barry ghi nhận ngày 12/9, giá bán buôn trung bình mặt hàng chân cua tuyết tại thị trường Hoa Kỳ dao động 6,55 - 6,75 USD/pound với cỡ 5-8 ounce (142 - 227 g) xuất xứ Newfoundland và Labrador, Canada; tăng 8% so với giá tháng trước. Chân cua tuyết cỡ 5-8 ounce là mặt hàng nhập khẩu phổ biến nhất tại thị trường Hoa Kỳ, phần lớn có nguồn gốc từ Canada. Số ít còn lại được nhập khẩu từ Na Uy, với giá trung bình 6,40 – 6,55 USD/pound vào tháng 9/2024, tăng khoảng 6-7% so với giá tháng 8. Các sản phẩm kích cỡ lớn hơn như chân cua tuyết 8-10 ounce từ Newfoundland cũng tăng giá 1% lên mức 10-11 USD/pound. Các hãng kinh doanh cua tuyết tại Seattle, Washinhton cho hay, giá cua tuyết tăng trở lại do nguồn cung từ Canada giảm dần. Ngoài ra, lệnh cấm của Hoa Kỳ đối với hải sản Nga từ giữa năm 2022 vẫn còn hiệu lực, cũng góp phần thu hẹp nguồn cung cua biển cho thị trường này. Trong 7 tháng đầu năm 2024, Hoa Kỳ nhập khẩu 45.588 tấn từ Canada, trị giá 713,3 triệu USD, tăng 4% khối lượng và 27% giá trị so cùng kỳ năm ngoái.
Tuấn Minh
GTHỊ
Châu Âu
iao dịch thương mại thủy sản tại châu Âu vượt 140 tỷ EUR hàng năm với mạng lưới 140.000 doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp lại có sở thích, yêu cầu riêng về số lượng hàng hóa cùng mức giá khác nhau. Trong suốt chuỗi cung ứng từ trang trại đến bàn ăn, một con cá thường được “đổi chủ” trung bình khoảng bảy lần. Đôi khi phải mất ít nhất 3 ngày lưu thông, các sản phẩm mới đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Do đó, nhiều công ty trong ngành thủy hải sản đang áp dụng số hóa để đẩy nhanh quy trình và cắt giảm chi phí.
Số hóa từ nuôi trồng Châu Âu đã đạt được những tiến bộ số hóa trong nuôi trồng và khai thác thủy sản bằng công cụ trí tuệ nhân tạo (AI) và Internet vạn vật (IoT). Trong nuôi trồng thủy sản, các nền tảng phân tích dữ liệu giúp tối ưu hóa sản xuất, giám sát tăng trưởng và sức khỏe của cá, giảm thiểu sức lao động và chi phí sản xuất. Ví dụ, Smart Feeder của e-fishery, một hệ thống cho ăn tự động, thu
thập dữ liệu quan trọng về sự phát triển của cá và điều chỉnh mô hình cho ăn phù hợp. XpertSea sử dụng hệ thống nhận dạng hình
ảnh để phát hiện tốc độ tăng trưởng và đánh giá sức khỏe của tôm. AquaByte theo dõi
lây nhiễm và phát triển của rận biển trong trại cá hồi qua AI; trong khi Aquacloud dùng cảm biến độ phân giải cao từ IoT để thu thập dữ liệu và truyền đến các thiết bị khác trong mạng lưới. Máy bay không người lái Deep Trekker quản lý lưới của lồng nuôi cá ngoài khơi ở độ sâu lên tới 100 m. Ngoài ra, nền tảng công cụ lập bản đồ Aquascape hỗ trợ người nuôi tôm giám sát chất lượng nước và phát hiện đợt bùng phát dịch bệnh tiềm ẩn trong ao nuôi.
Các nền tảng kỹ thuật số cũng góp phần “cách mạng hóa” lĩnh vực khai thác cá. Ứng dụng SkyTruth và SnapIT sử dụng vệ tinh, AI và hệ thống đám mây để giám sát tàu cá trên biển. Hệ thống nhận dạng tự động (AIS) góp phần đẩy lùi nạn đánh bắt cá bất hợp pháp (IUU). Trong một số trường hợp, công nghệ theo dõi tàu và nền tảng thu thập dữ liệu được tích hợp vào chuỗi cung ứng, giúp truy xuất nguồn gốc hoàn chỉnh. Cùng đó, các hệ thống nhận dạng hình ảnh tiên tiến như FishFace chạy trên nền tảng AI giúp xác định từng loài cá, kích thước và chất lượng của chúng. Tương tự, TunaScope và GoMicro là công cụ mạnh mẽ giúp phân loại cá ngừ dựa trên nhiều tiêu chí chất lượng khác nhau.
...đến thị trường
Số hóa đang bắt đầu len lỏi vào các mô hình kinh doanh
B2B – trực tuyến giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp tại châu Âu. Các cổng thông tin
B2B kết nối người mua và bán khắp nơi trên thế giới, cho phép giao dịch vào bất kỳ thời điểm bào trong ngày. Không giống các cửa hàng bán cá truyền thống, các nền tảng kỹ thuật số loại bỏ nhu cầu gặp gỡ tại các địa điểm và thời gian cụ thể. Những thị trường không thể tiếp cận trước đây, nay đã mở cửa nhờ không giao ảo của giao dịch
trực tuyến toàn cầu. Ngoài ra, kết nối trực tiếp giữa nhà
cung cấp và người mua cho phép vận chuyển sản phẩm tươi, đông lạnh hoặc chế biến đến điểm đến cuối cùng, bỏ qua các bước trung gian tốn kém. Sử dụng internet cho các giao dịch thương mại giúp tăng cường tính minh bạch và đơn giản hóa mọi yêu cầu về tài liệu
để truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản tại
thị trường châu Âu.
Tuy nhiên, lĩnh vực kinh doanh thủy sản
B2B đối mặt thách thức đáng kể khi hầu hết
dự án kỹ thuật số thương mại ban đầu gặp
khó khăn hoặc thất bại. Theo ước tính từ thị
trường trực tuyến Yorso của Nga, vài năm
trước, chưa đến 0,7% doanh số bán hải sản
được thực hiện trực tuyến thông qua nền
tảng B2B. Mặc dù thị phần của nền tảng giao
dịch kỹ thuật số được kỳ vọng sẽ tăng một số
người mua và người bán vẫn lưỡng lự do ngờ vực sự thiếu minh bạch từ phía nguồn cung. Một số nhà cung cấp châu Âu lựa chọn tiếp cận người tiêu dùng cuối cùng thông qua mô hình B2C. Thay vì mua cá và hải sản từ siêu thị hoặc kênh bán lẻ, dân châu Âu có thể được giao hàng tận nhà thuận tiện và kịp thời. Các nhà cung cấp dịch vụ B2C từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng gồm Amazon, Alibaba, eBay, Airbnb, Uber, Menulog, Wotif, hoặc Expedia đang không ngừng mở rộng.
Tuy nhiên, tỷ lệ thành công của B2C tại châu Âu khá hạn chế, đặc biệt tại Đan Mạch, Đức, Estonia và Tây Ban Nha do yêu cầu nghiêm ngặt về truy xuất nguồn gốc, giao dịch tài chính và an toàn dữ liệu. Ngoài ra, công tác hậu cần phức tạp liên quan đặt ra thách thức đáng kể
bởi cung cấp thực phẩm tươi sống đến tận tay khách hàng không đơn giản. Ngay cả những nền tảng có kinh nghiệm như Amazon, từng giới thiệu AmazonFresh vào năm 2007, cũng gặp khó khăn về vấn đề này. Do đó, nhiều nhà cung cấp đã giới hạn dịch vụ ở một số khu vực cụ thể như các thành phố lớn.
Triển vọng hứa hẹn
Người mua hàng ở châu Âu luôn yêu cầu sự minh bạch trong mọi giao dịch. Yếu tố then chốt quyết định sự thành công của bất kỳ hoạt động bán hàng trực tuyến nào luôn là niềm tin. Các công ty vẫn trụ vững trên thị trường quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh trực tuyến gồm các eWorldTrade, SeaFoodDe- mand, Seafood Xchange, Made- In-China, G-Fresh, Procsea, Meatex.Co, HKDTC, DHGate và Alibaba.
Bất chấp khó khăn, các nền tảng trực tuyến và thương mại điện tử vẫn tiếp tục hấp dẫn trong giao dịch thủy hải sản, và dự kiến còn phát triển hơn nữa trong tương lai. Hiện, không chỉ các sàn giao dịch mà nhiều công ty chế biến đang mạo hiểm thâm nhập vào thị trường thủy sản trực tuyến ở châu Âu để bỏ qua trung gian và tiếp cận người tiêu dùng cuối cùng. Tiếp thị qua internet cũng mang lại cơ hội quý giá cho doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là những doanh nghiệp phục vụ thị trường ngách. Mô hình kinh doanh thủy hải sản trực tuyến vẫn đang ở giai đoạn phát triển ban đầu với các nền tảng như Syunzai (Nhật Bản, 2009), Yorso (Nga, 2014), Gfresh (Trung Quốc, 2015), InterFishMarket (Thụy Sĩ, 2016), ProSea (châu Âu, 2016) và TunaSolutions (Australia, 2017). Gần đây, một loạt nhà cung cấp trẻ xuất hiện khiến thị trường châu Âu sôi động hơn, gồm ShoreTrade (Australia), Seafood Souq (UAE), Marine Fish Trade (Na Uy), và Seafoodportal (Na Uy). Thành công lâu dài và vị thế trên thị trường của những nền tảng này khó dự đoán. Tuy nhiên, những mô hình bán hàng như vậy vẫn được kỳ vọng một tương lai đầy hứa hẹn. Tuấn Minh
Chức năng sức khỏe trong thức ăn tôm
Kết hợp khoa học với thực tế ở
trang trại - Phần 1
Do nhu cầu thị trường
ngày càng tăng cùng
với những hạn chế về
nước và đất, các trang
trại tôm chuyển sang
nuôi thâm canh, tạo
điều kiện cho mầm
bệnh phát triển. Ngành
nuôi tôm đối mặt với
nhiều loại bệnh từ vi
khuẩn, vi rút, nấm và
ký sinh trùng, với triệu
chứng phức tạp, chẩn
đoán khó khăn và chi
phí điều trị cao.
Cũng không có phương
pháp điều trị hiệu quả nào chống lại một số
bệnh xảy ra trên tôm đáng chú ý
nhất như Virus đốm trắng và EHP, dẫn đến thu hoạch không ổn định
và gây thiệt hại tài chính đáng kể.
Trước những thách thức này, ngày
càng có nhiều mối quan tâm đến các chiến lược phòng ngừa nhằm
tăng cường cơ chế phòng vệ tự nhiên của tôm, cải thiện khả năng đối phó với các tình huống có thể dẫn đến bệnh tật.
Thức ăn không chỉ đáp ứng về mặt dinh dưỡng - giải pháp chức năng hay chỉ là hình thức tiếp thị?
Một số nghi vấn liên quan đến
hiệu quả về mặt chi phí của các chất phụ gia này, người ta lập luận rằng nếu không có các quy trình chuẩn hóa thì không thể
tư rủi ro.
số ý kiến khác tin rằng dinh
tối ưu và công thức thức ăn phù hợp sẽ cung cấp cho tôm những chất dinh dưỡng cần thiết để duy trì sức khỏe tốt và chống lại mầm bệnh một cách tự nhiên. Mặc dù cả hai quan điểm đều có lý nhưng thực tế thường cho thấy rằng mặc dù đầu tư vào thức ăn chất lượng cao, tôm giống sạch bệnh, khử trùng nước và các biện pháp an toàn sinh học khác, mầm bệnh vẫn tiếp tục tìm cách xâm nhập vào hệ thống nuôi tôm thông qua nhiều cách khác nhau.
Mặc dù các chất phụ gia chức năng dùng trong thức ăn không phải là mới nhưng việc sử dụng chúng trong thức ăn thủy sản vẫn đang là chủ đề tranh luận.
Sự nhạy cảm này của tôm phát sinh từ sự phức tạp của các đặc điểm sinh lý vốn có và điều kiện
nuôi. Ví dụ, khi mầm bệnh xâm nhập vào trang trại, chúng có thể lây lan nhanh chóng do điều kiện thuận lợi từ nhiệt độ nhiệt đới cần thiết cho nuôi tôm và lượng nước dồi dào, một môi trường quan trọng để truyền mầm bệnh và nhân lên. Ngoài ra, tôm sống ở đáy ao, nơi chúng tiếp xúc thường xuyên với chất nền và các vi sinh vật có khả năng gây bệnh. Chúng cũng trải qua quá trình lột xác thường xuyên, khiến chúng dễ bị nhiễm trùng và ký sinh trùng hơn trong giai đoạn quan trọng này trong khi dạ dày của chúng không có hàng rào axit giúp bảo vệ chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh giống như ở
động vật có vú và một số loài cá. Sau khi bị nhiễm bệnh, khả năng miễn dịch thích ứng của tôm cũng hạn chế hơn và hiện không có vắc xin thương mại nào để bảo vệ chống lại các bệnh nhiễm
trùng trong tương lai.
Đồng thời, ngành tôm cũng dần chuyển dịch theo hướng thâm canh hơn. Mật độ cao hơn và sự thay đổi thường xuyên của chất lượng nước gặp phải trong các hệ thống như vậy, chưa nói đến biến đổi khí hậu, có thể là
Hình 1: Tác động của độ mặn đến tổng số lượng tế bào máu của TTCT (theo Wang và Cheng, 2005).
nguyên nhân quan trọng gây ra
căng thẳng và làm suy giảm khả
năng miễn dịch, làm tăng thêm
tính nhạy cảm của tôm. Điều này
đã được Jiang và cộng sự (2005)
chứng minh rằng nồng độ oxy
dưới mức tối ưu có thể dẫn đến
giảm đáng kể lượng tế bào máu
- tế bào miễn dịch chính của tôm.
Tương tự, Wang và Cheng (2005) phát hiện ra rằng sự thay đổi độ
mặn đột ngột cũng có thể làm tổn
hại đến khả năng phòng vệ miễn
dịch của tôm trong vòng vài giờ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhiễm V. alginolyticus (Hình 1).
Tình trạng này đã đẩy nhanh việc người nuôi sử dụng các chất phụ gia chức năng, họ thường xuyên trộn các chất phụ gia khác nhau để cải thiện sự
khỏe mạnh cho tôm theo cách
thủ công vào thức ăn thương
mại trong vụ nuôi của họ. Mặc
dù việc trộn tại trại này đã được
chứng minh là có hiệu quả trong
việc giảm thiểu bùng phát dịch
bệnh nhưng việc trộn trực tiếp
các chất phụ gia này tại nhà máy
sản xuất thức ăn có thể mang lại
một số lợi ích. Trộn tại nhà máy
sản xuất thức ăn đảm bảo liều lượng chính xác và đồng nhất, cải thiện lượng tiêu thụ đáng tin cậy, đơn giản hóa việc quản
lý, nâng cao hiệu quả về chi phí và hạn chế sự xâm nhập của các chất phụ gia giả hoặc chất lượng kém vào trang trại. Mặc dù đôi khi được coi là một rào cản, việc sử dụng các chất phụ gia tại ao tôm cũng có thể là cơ hội để các nhà sản xuất thức ăn chuyển đổi người nuôi thành người sử dụng phụ gia chức năng và vượt qua những khó khăn đối với việc tăng chi phí trong công thức
năng mong muốn.
Lược dịch từ Phileo by Lesaffre
Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh
Địa chỉ: Lô LF26, đường số 2, KCN Xuyên Á, Mỹ Hạnh Bắc, Đức
Hòa, Long An
Hotline: 091616.8200 - Website: khoahocxanh.com
Vi khuẩn gây bệnh phân trắng có yếu tố vi bào
tử trùng
Dấu hiệu nhận biết bệnh do vi bào tử trùng - EHP
Hiện nay, hầu hết tất cả các vùng miền ở Viêt Nam đều có tỷ lệ nhiễm EHP rất cao trong các ao nuôi, đa phần người nuôi chọn
cách thu tôm và nuôi lại vụ mới.
Dấu hiệu nhận biết:
+ Có nhiều đốm trắng đục trên cơ thể tôm.
+ Tôm bị lỏng ruột, phân đứt khúc, đường ruột bị cong, xoắn lò xo.
+ Tôm bị phân trắng, chết rải rác và có thể chết lên đến 100 kg/ ngày sau 1 tuần nhiễm EHP.
Cách xử lý tôm bị phân trắng có yếu tố vi bào tử trùng
1. Tình trạng ao tôm trước khi
xử lý
Khách hàng dự định sẽ thu tôm vào ngày sau (đã thu ao trước đó), nhưng sau khi xem xét, đánh giá về sức khỏe tôm và môi trường
nước, Công ty Thái Nam Việt đã đề nghị giữ lại để xử lý ngăn chặn
bệnh EHP.
Ngày bắt đầu: 11/07/2022
- Ao 6.000 m3, thả 500.000 post, lượng ăn ban đầu 50 kg/
ngày (do đó lượng tôm hao hụt do bệnh nhiều).
- Tôm 49 ngày tuổi, size 150 con/kg.
- Tôm bị nhiễm EHP kéo theo phân trắng với các biểu hiện: đục cơ thân, ốp, ruột xoắn, kích cỡ không đồng đều.
2. Kết quả sau khi ứng dụng quy trình Thái Nam Việt
Sau 1 ngày: Tôm sáng bóng hơn, phần cơ bị đục chuyển sang màu sáng, ruột giảm cong xoắn, lên mồi nhẹ.
Sau ngày 3: Đáy ao không còn đen, chuyển sang bùn xám, tôm khỏe hơn, hết xoắn ruột, lượng ăn tăng lên 54 kg/ngày.
Sau ngày 7: Tôm khỏe, ruột gan đen và đầy, lượng ăn 75 kg/ ngày, nước màu trà trong, đáy dẻ, bùn xám.
Sau đó dùng định kỳ
Ngày 31/08/2022: Sau 51 ngày dùng vi sinh để ức chế ngăn chặn phân trắng, kết quả thu tôm: - Tôm 100 ngày, lượng ăn 100 kg/ngày. - Tôm sáng bóng, chắc khỏe, màu đẹp. - Thu hoạch được 4,1 tấn.
- Tỷ lệ sống 89,65% (tính từ lúc bắt đầu dùng vi sinh Thái Nam Việt).
- Tôm không đồng đều do ảnh hưởng của EHP.
- Lợi nhuận hơn 200 triệu (có giảm do dùng kháng sinh nhiều trong 49 ngày đầu).
Kết luận
Vi bào tử trùng làm suy giảm chức năng các cơ quan gan tụy, mô tôm, và là cơ hội cho các bệnh khác tấn công, gây ra thiệt hại rất lớn cho người nuôi. Việc xử lý sớm kịp thời, chính xác
và toàn diện sẽ giúp ngăn chặn được sự tiến triển mạnh mẽ của EHP cũng như các bệnh khác, giúp giảm thiểu thiệt hại cho tôm. Bằng kinh nghiệm thực tế cùng với các sản phẩm chất lượng cao, Công ty Thái Nam Việt tin rằng có thể hỗ trợ đưa người nuôi về đích, mang lại một vụ mùa thành công.
Thông tin liên hệ: Công ty TNHH Công nghệ-Kỹ thuật-Sinh hóa Thái Nam Việt Địa chỉ: 126 KP3 Lã Xuân Oai, P. Tăng Nhơn
- Website: thainamviet.com
Tôm xoắn ruột Tôm ốp thân Tôm đục cơ
Sau 3 ngày xử lý Xiphông bùn xám Sau 7 ngày xử lý
ếch nuôi thương phẩm
Chướng bụng (sình hơi) là bệnh thường gặp trên ếch nuôi thương phẩm. Bệnh
kéo dài làm ảnh hưởng đến sức khỏe, khiến ếch bỏ ăn, yếu dần và có thể chết.
Những năm gần đây nghề nuôi ếch tại Việt
Nam ngày càng phát triển, đem lại lợi nhuận đáng kể cho người nuôi. Hiện có nhiều mô hình nuôi phổ biến ở nước ta như: nuôi ếch trong bể xi măng, trong giai (vèo), trong ao,… mang lại hiệu quả cao. Hiện nay ếch được nuôi với mật độ cao và người nuôi cho ếch ăn hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp. Tuy nhiên về bản chất tập tính ăn của ếch là ăn thiên về động vật, thích ăn mồi sống. Do vậy, trong quá trình nuôi ếch bằng thức ăn công nghiệp, người nuôi cần thực hiện tốt các biện pháp chăm sóc, quản lý để hạn chế dịch bệnh. Nhất là những bệnh liên quan bộ máy tiêu hóa, sưng chướng bụng ảnh hưởng tỷ lệ sống, sản lượng thu hoạch sau này.
Nguyên nhân
Có 2 nguyên nhân chính gây
nên bệnh sưng chướng bụng: - Ếch ăn không tiêu hóa được do thức ăn chất lượng kém hoặc
ếch ăn phải thức ăn bảo quản
không tốt, bị nhiễm nấm mốc,… - Ếch được nuôi với mật độ dày, cùng với thức ăn cho ếch
đạm cao nên môi trường nuôi
rất dễ ô nhiễm, phát sinh nhiều
vi khuẩn có hại, chúng xâm nhập vào cơ thể qua con đường ăn gây
bệnh đường ruột cho ếch.
Biểu hiện
Ếch có bụng căng to, phản ứng
chậm chạp, vận động khó khăn.
Một số ếch có hậu môn bị lòi ra,
sưng và xung huyết đỏ, trong ruột có dịch lỏng lẫn thức ăn,…
Phòng bệnh
Trong quá trình cho ếch ăn
cần bổ sung thêm men tiêu hóa
BIOZYME For Fish liều 5 g/kg
thức ăn/ngày và BIO-METASAL
For Aquaculture (với thành phần
Buta phosphan, B12 và Vitamin C) liều 5 ml/kg thức ăn, giúp tăng
khả năng tiêu hóa, hấp thu tốt thức ăn công nghiệp, ếch nhanh lớn, đường ruột khỏe mạnh.
Bên cạnh đó, cần diệt khuẩn môi trường nuôi bằng BIOIODINE COMPLEXFor Fish (liều
1 lít/500 m3 nước) hoặc BIOPARACIDEFor Aquaculture (liều
1 lít/2.000 m3 nước). Đồng thời, định kỳ 1 - 3 ngày/lần thay nước (tùy mật độ nuôi) để kìm hãm sự bùng phát vi khuẩn gây bệnh, cũng như giúp môi trường thông thoáng, ếch ít khi bị nhiễm bệnh.
Trị bệnh
Trong quá trình nuôi, cần theo dõi hoạt động của ếch nuôi, nhất là thời điểm khi cho ếch ăn xem chúng ăn có tốt
không? Nếu có hiện tượng ếch ăn yếu hơn, hoạt động kém, tách đàn,… thì nhanh chóng lấy mẫu bệnh phẩm gửi phòng xét nghiệm để phân tích tìm nguyên nhân gây bệnh. Tùy thuộc vào kết quả chẩn đoán sẽ có các giải pháp điều trị khác nhau. Nếu ếch bị bệnh do thức ăn thì cần thay thức ăn mới phù hợp, đảm bảo chất lượng, dưỡng chất sẽ giúp ếch ăn khỏe, phát triển cân đối, mau hết bệnh. Nếu ếch bị bệnh do nhiễm vi khuẩn có hại gây sưng chướng bụng thì ngưng cho ăn 1 ngày, sau đó tiến hành điều trị bằng cách trộn kháng sinh liên tục trong 7 ngày. Có rất nhiều kháng sinh có thể sử dụng để điều trị bệnh như: Sulfamid, Amox, Oxytetra, Doxy,… Sau điều trị kháng sinh cần trộn men BIOZYME For Fish để bổ sung vi sinh có lợi đường ruột, giúp ếch sớm phục hồi sức khỏe, bộ máy tiêu hóa, từ đó ếch bắt mồi mạnh, mau dứt bệnh. Kết hợp thay nước mới rồi diệt khuẩn bằng BIO-IODINE COMPLEX For Fish (liều 1 lít/500 m3 nước) hoặc BIO-PARACIDE for Aquaculture (liều 1 lit/1.000 m3 nước) để tạo môi trường sạch bệnh, không ô nhiễm. Ếch sống trong môi trường ít ô nhiễm, cùng với nguồn thức ăn tốt chứa đầy đủ dưỡng chất, được bảo quản tốt, sẽ phát triển nhanh, ít dịch bệnh, đạt năng suất cao.
ĐẶNG HỒNG ĐỨC Cố vấn kỹ thuật Công ty Bio Pharmachemie
Mô hình nuôi ếch tại Đồng Tháp
Bệnh sữa trên tôm hùm là một trong những mối
đe dọa lớn đối với tôm hùm bởi bệnh thường gây
chết hàng loạt, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 70%
tổng đàn. Để giúp người nuôi chủ động bảo vệ tôm
hùm khỏi căn bệnh nguy hiểm này, sau gần 2 năm
tiến hành các nghiên cứu và thử nghiệm, VMC Việt
Nam đã cho ra đời bộ sản phẩm thuốc phòng bệnh
chủ động bệnh sữa.
Bệnh dịch khó kiểm soát
Bệnh sữa do vi khuẩn nội ký sinh Rickettsia like bacteria gây ra trên tôm hùm bông hay còn gọi tôm sao (Panulirus ornatus), tôm hùm xanh hay còn gọi tôm hùm đá (Panulirus homarus), tôm hùm tre (Panulirus polyphagus)... nuôi lồng.
Khi nhiễm bệnh tôm hoạt động kém, phản ứng chậm, giảm ăn hoặc bỏ ăn. Sau khi nhiễm bệnh từ 3 - 7 ngày, các đốt ở bụng chuyển từ màu “trắng trong” sang màu “trắng đục” giống với
màu của sữa. Mô cơ phần bụng ở những con bị bệnh chuyển sang màu “trắng đục” hoặc “vàng đục”, cơ nhão và có mùi hôi. Gan, tụy chuyển màu nhợt nhạt và có dấu hiệu hoại tử. Khoảng 10 ngày sau khi nhiễm bệnh, tôm sẽ chết rải rác, có thể chết hàng loạt, tỷ lệ chết lên đến hơn 70%.
Bệnh sữa trên tôm hùm thường xảy ra vào thời điểm giao mùa, từ tháng 3 - 4 hàng năm và bùng phát mạnh vào tháng 9 - 10 hàng năm. Bệnh thường xuất hiện do tôm hùm ăn phải thức ăn bị ôi
thiu, có mang mầm bệnh; từ tôm bị bệnh lây truyền sang tôm khỏe trong cùng một lồng hoặc gián tiếp qua môi trường nhiễm bệnh; từ lồng, bè có tôm bệnh sang lồng, bè khác trong vùng nuôi.
Chủ động phòng bệnh Khi mắc bệnh, tôm hùm sẽ giảm hoặc bỏ ăn nên việc điều trị là rất khó. Bởi, lúc này tôm kém tiếp nhận thức ăn và thuốc. Vì vậy, việc phòng bệnh từ ban đầu là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của vụ nuôi.
Theo một số khuyến cáo từ cơ quan chức năng, cần áp dụng các biện pháp sau để phòng bệnh tổng hợp cho tôm hùm:
Vị trí đặt lồng, bè: Đặt đáy lồng
cách đáy biển ít nhất
1m vào lúc mực nước
thủy triều thấp nhất.
Đặt lồng nuôi tôm ở
nơi có độ sâu tối thiểu khi triều thấp là 4m
(đối với nuôi lồng găm) hoặc từ 4 – 8 m (đối với nuôi lồng nổi). Cách xa các
cửa sông để tránh nước ngọt từ sông
đổ ra trong mùa
mưa làm giảm độ mặn gây sốc hoặc có thể nước sông bị ô nhiễm, có các chất độc hại.
Khoảng cách giữa các lồng, bè: Khoảng cách tối thiểu giữa các lồng trong cùng một bè hoặc cùng một cụm lồng là 1 m, khoảng cách giữa các bè hoặc cùng một cụm lồng của 1 cơ sở nuôi không dưới 50 m.
Mật độ lồng nuôi: 30 - 60 lồng/ ha (đối với lồng có kích thước dài x rộng x cao = 3 m x 3 m x 1,5 m).
Con giống: Lựa chọn tôm hùm giống đạt chất lượng tốt, khỏe mạnh, được cung cấp từ nguồn sạch bệnh. Khi thả giống cần
đảm bảo các điều kiện để tôm giống thích nghi với môi trường
Liều lượng và cách dùng:
Dùng 1 Combo (1,225 kg) với 60 kg thức ăn mồi, cho ăn 1 ngày 1 lần
Thức ăn mồi cần chọn thức ăn mới, được rửa sạch
và để khô ráo trước khi
trộn với thuốc, sau khi trộn thuốc cần để ráo để thuốc ngấm trước khi cho tôm ăn.
Mỗi liệu trình dùng 3 - 5
ngày trước và trong thời gian có nguy cơ mắc bệnh hoặc dùng định kỳ mỗi tháng 3 ngày trong suốt thời gian nuôi tôm. Ngưng sử dụng thuốc: 21 ngày trước khi xuất bán.
nước mới, không bị sốc nhiệt độ, sốc độ mặn.
Thức ăn: Chọn thức ăn tươi
được bảo quản tốt, sát trùng
trước khi cho ăn.
Chăm sóc: Bổ sung vitamin tổng hợp, axit amin, khoáng chất, men tiêu hóa, Beta - glucan… trộn vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho tôm. Theo dõi tình
hình sức khỏe tôm, tách riêng cá thể yếu, loại bỏ vỏ lột xác và thức ăn dư thừa hàng ngày. Định kỳ vệ sinh lồng nuôi tránh bị rong rêu bám làm bít lỗ lưới. Không di chuyển lồng bè từ vùng nuôi có tôm bệnh sang vùng nuôi chưa xuất hiện bệnh nhằm hạn chế sự lây lan dịch bệnh.
Kiên trì tìm giải pháp
Từ tháng 2/2022, một nhóm nghiên cứu bao gồm chuyên gia bệnh học thủy sản và nhân
viên kỹ thuật Trung tâm Xét nghiệm và Chẩn đoán bệnh VMC Laboratory đã ra các bè nuôi tôm hùm tại vịnh Xuân Đài, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Qua nhiều chuyến đi lấy mẫu, xét nghiệm nhanh, làm các kháng sinh đồ… cho thấy, việc nuôi tôm hùm vịnh với mật độ dày dẫn đến môi trường bị ô nhiễm. Từ đó, các chỉ tiêu bất lợi tác động lên
sức khỏe tôm, cá nuôi như NH3, DO, Vibrio,… tiềm ẩn nhiều rủi ro, gây thiệt hại lớn khi có sự cố môi trường, dịch bệnh xảy ra.
Nhận thấy vấn đề này, công ty VMC Việt Nam đã thực hiện chương trình hỗ trợ dài hạn tầm soát bệnh cho bà con nuôi tôm hùm khu vực thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên trong thời gian gần 2 năm. Cùng với sự hỗ trợ, giúp
VỀ CÔNG TY VMC VIỆT NAM
Được thành lập từ từ năm
2004 tại Hà Nội, VMC Việt Nam là doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuốc thú y, thuốc sát trùng, probiotics, phụ gia thức ăn cho ngành chăn nuôi Thú y và nuôi trồng thủy sản.
đỡ nhiệt tình từ chuyên gia của Hiệp hội nuôi biển Việt Nam (VSA), Sở NN&PTNT Phú Yên và đặc biệt là bà con nuôi tôm hùm tại thị xã Sông Cầu, sau nhiều lần thử nghiệm, nhóm nghiên cứu đã đưa ra Combo sản phẩm phòng bệnh chủ động bệnh sữa do công ty VMC Việt Nam sản xuất. Sau khi làm các xét nghiệm, xác định nguyên nhân gây bệnh, theo dõi dịch tễ học và làm kháng sinh đồ từ tháng 3/2022, các nhà khoa học đã xác định được loại kháng sinh Doxycycline có hiệu quả điều trị cao đối với vi khuẩn Rickettsia like bacteria. Dưới sự hỗ trợ của chuyên gia bệnh học thủy sản, công ty VMC Việt Nam đã tính liều dùng và sản xuất thành công bộ sản phẩm Combo chuyên dùng “Phòng bệnh chủ động cho tôm hùm”. Combo bao gồm thuốc kháng sinh Doxycycline và các chất tăng sức đề kháng, vitamin, probiotics, chất kết dính.
VMC Việt Nam
Slogan “Với VMC Việt Nam bạn có được sự tin cậy”, công ty VMC Việt Nam cam kết cung cấp và sản xuất những sản phẩm chất lượng cao và đóng góp tích cực vào thành công của trang trại chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam.
Văn phòng Hà Nội: Villas D8, the Manor, P. Mỹ Đình 1, Q. Nam Từ Liêm, Hà Nội - Email: vietnamvmc@gmail.com - Điện thoại: 024.37876448 - 22177589
Nhà máy GMP - WHO: Cụm công nghiệp Cầu Giát, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam - Email: vmcvietnam.factory2016@gmail. com - Điện thoại: 022 635 51 528
Trung tâm Chẩn đoán Xét nghiệm bệnh VMC LABORATORY: Xã Chuyên Ngoại, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam - Email: v mcvietnamlab@gmail.com - Điện thoại: 036 2866 568
Tìm giải pháp “tiết kiệm” Artemia
Các trại giống cần khoảng
3,4 kg trứng Artemia và 8kg thức ăn khô để sản xuất một triệu ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Hai thành phần thức ăn này có chi phí trung bình 480 - 520 USD/triệu tôm post. Trứng Artemia có giá cao hơn 350% so với thức ăn khô và tốn thêm chi phí ấp thành ấu trùng nauplii. Do đó, thay thế Artemia bằng thức ăn khô là phương pháp giảm chi phí sản xuất tôm giống nếu không tác động tiêu cực đến năng suất và chất lượng tôm giống.
Trung tâm thử nghiệm thức ăn tôm giống Growel đã đánh giá hiệu quả và tính kinh tế khi thay thế 25% Artemia bằng 25% thức ăn khô. Thử nghiệm được thực hiện trong bể với hai mật độ thả tôm post khác nhau gồm 60 PL/L và 80 PL/L. Thử nghiệm sử dụng thức ăn tôm giống Growel Origin® do hãng Growel Feeds Private Limited sản xuất tại Ấn Độ.
Phương pháp thử nghiệm
Trung tâm Growel nằm trong khuôn viên trại giống thương mại gần Ongole, Andhra Pradesh, Ấn Độ. Trung tâm có 25 bể nhựa hình chữ U thể tích 140L, là mô hình thu nhỏ của bể xi măng hình chữ nhật thường gặp trong các trại giống. Các bể được sục khí liên tục qua ống PVC 25mm dưới đáy bể và nối với máy thổi đầu sò 1HP.
Nước mặn được dẫn qua máy
lọc UF (<0,5µm) trước khi vào trong bể. Trung tâm Growel lựa chọn ấu trùng tôm thẻ (PL3) sạch bệnh (SPF) từ một đơn vị sản xuất thương mại. Thả tôm vào bể theo mật độ 8.000 hoặc 11.500 PL/bể, tương ứng 60 PL/L và 80 PL/L. Cho tôm ăn 6 lần/ngày, mỗi lần cách nhau 4 tiếng. Khẩu phần ăn gồm ấu trùng nauplii sống và thức ăn khô cho trại giống Growel Origin.
Ở mỗi mật độ thả giống, trung tâm Growel thực hiện 2 quy trình
cho ăn: Quy trình tiêu chuẩn
được áp dụng ở hầu hết các trại giống; và Quy trình thử nghiệm (giảm 25% Artemia và thay bằng 25% Growel Origin). Trung tâm
sử dụng 2 kích cỡ thức ăn Growel
Origin: 150µm cho tôm post PL7 và 300µm cho tôm post PL5.
Độ mặn giảm dần 3ppt/ngày, từ 30 xuống 5ppt vào ngày thu hoạch cuối cùng để tôm giống
thích nghi với độ mặn thấp khi
thả vào ao. Thu thập 20 tôm post mỗi ngày để đánh giá chiều dài chủy, chiều dài cơ thể, và tỷ lệ cơ ruột.
Khi ấu trùng tôm phát triển
đến giai đoạn PL12, các bể được thu hoạch toàn bộ để đánh giá
tỷ lệ sống (%), chiều dài PL
trung bình (mm) và sinh khối (g).
Ngoài ra, thu thập 20 tôm giống mỗi bể để đánh giá khả năng
chịu căng thẳng. Ấu trùng tôm
sau mỗi lần xử lý được đóng gói
trong túi nhựa chứa ôxy và để trong 12 giờ trước khi đánh giá
tỷ lệ sống.
Trong thử nghiệm thứ 2, chuyển ấu trùng tôm trong nước
mặn 5ppt sang 30ppt trong 30 phút, sau đó chuyển lại nước
ngọt trong 30 phút để đánh giá
hoạt động bơi của ấu trùng, sự thay đổi màu sắc và tỷ lệ chết.
đáng kể. Nhìn chung, tôm tích cực bơi ngược dòng, khỏe mạnh và không bị căng thẳng.
Tiết kiệm 10% chi phí thức ăn Giảm 25% Artemia, đồng thời tăng 25% thức ăn khô giúp tiết kiệm 24 - 25 USD/triệu PL, tương ứng 10% chi phí thức ăn. Mặc dù nhóm tôm được thả ở mật độ 60 PL/L đạt hiệu suất nhỉnh hơn so với nhóm 80 PL/L, nhưng nhóm 80 PL/L vẫn đạt hiệu suất trong ngưỡng chấp
Ảnh: ST
Hiệu suất tăng trưởng
Trong thời gian thử nghiệm 11 ngày, các thông số chất lượng nước vẫn nằm trong phạm vi tối
ưu đối với ấu trùng tôm, và không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức (nhiệt độ 30 - 32 0 C, pH 8,1 và tổng nitơ amoniac 2 - 3 mg/L).
Tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng của tôm post luôn duy trì giá trị cao trong tất cả các nghiệm thức. Trong nhóm tôm giống được cho ăn theo quy trình tiêu chuẩn, tỷ lệ sống của nhóm
60 PL/L cao hơn một chút so với nhóm 80 PL/L.
Tổng chiều dài trung bình của tôm giống khi thả ở mật độ 60 PL/L cao hơn so với nhóm tôm
80 PL/L. Trọng lượng cơ thể trung bình cao nhất được ghi
nhận ở mức 8,95 mg/PL ở nhóm
tôm 60 PL/L và được cho ăn theo quy trình giảm Artemia và tăng
thức ăn khô.
Kết quả từ các thử nghiệm căng
thẳng cho thấy tỷ lệ sống của tôm
post đạt trên 95% ở cả hai đợt
kiểm tra. Tôm không có dấu hiệu
căng thẳng nào khi được chuyển
từ nước mặn 5 ppt sang 30 ppt và
quay lại nước ngọt. Hành vi bơi lội
của ấu trùng tôm giữa các nghiệm
thức cũng không có sự khác biệt
suất vượt trội khi cho ăn theo quy trình giảm 25% Artemia và tăng 25% thức ăn khô Growel Origin. Quan trọng hơn, chi phí thức ăn để sản xuất 1 triệu tôm PL sẽ thấp hơn khi tôm được thả ở mật độ cao hơn, vì thức ăn hoặc ấu trùng Artemia trong nước phải có mật độ đủ cao để tôm giống có thể dễ dàng tìm thấy thức ăn. Hầu hết các chi phí khác để sản xuất tôm giống cũng thấp hơn khi mật độ thả giống cao hơn, miễn là năng suất trên môi bể (chủ yếu do tỷ lệ sống) hoặc chất lượng tôm giống không bị ảnh hưởng tiêu cực. Trung tâm Growel kết luận, mật độ thả giống cao hơn 80 PL/L vẫn mang lại hiệu suất tốt nếu trại giống sử dụng thức ăn khô thay thế Artemia và quản lý tốt. Giảm 25% Artemia sống và thay thế bằng cách tăng thêm 25% thức ăn khô không gây bất kỳ tác động tiêu cực tới chất lượng nước, tỷ lệ sống, tăng trưởng hoặc khả năng chịu căng thẳng của tôm PL3 và PL12 ngày cả khi tôm được thả ở mật độ 80 PL/L. Chiến lược dinh dưỡng này giúp tiết kiệm 10% chi phí thức ăn cho trại giống.
Dũng Nguyên
Sóc Trăng
Khuyến ngư hiệu quả từ những mô hình điểm
Thời gian qua, Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng đã phối hợp với các địa phương xây dựng nhiều mô hình khuyến ngư hiệu quả, góp phần nâng cao
giá trị sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, thay đổi tư duy sản xuất của người
dân, từng bước phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững.
Bền vững mô hình cá - lúa
Mô hình cá - lúa trong những năm qua đã phát triển mạnh tại xã Long Bình, thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng). Thực tế cho thấy, mô hình thả cá trong ruộng lúa cho năng suất tốt, thu nhập bình quân cao hơn rất nhiều so với chỉ trồng 2 vụ lúa. Cụ thể, thu nhập trên 1 ha từ lúa và cá dao động từ 100 - 120 triệu đồng/vụ. Từ hiệu quả của mô hình lúa - cá mang lại, trong những năm qua ngành nông nghiệp thị xã Ngã Năm đã có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân trong việc phát triển và nhân rộng mô hình. Từ đầu năm tới nay, Phòng Kinh tế thị xã Ngã Năm, Trạm Khuyến nông thị xã Ngã Năm đã phối hợp với các ngành đã hỗ trợ địa phương làm điểm mô hình lúa - cá với diện
tích trên 24 ha. Theo đó, khi tham gia mô hình nông dân được hỗ trợ 50% cá giống, 50% thức ăn cho cá và một số chế phẩm sinh học để xử lý nước. Mặt khác, các hộ được trạm khuyến nông tập huấn về cách cải tạo nguồn nước nuôi cá và cách nuôi cá thả trong ruộng lúa, cách nhận biết được một số bệnh thường gặp trên con cá. Đồng thời cử cán bộ chuyên môn, theo dõi, hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ tham gia mô hình đạt hiệu quả cao.
Lợi ích nuôi tôm ao đất có xi phông
Ông Trần Văn Khởi, xã Lai Hòa, thị xã Vĩnh
Châu (Sóc Trăng) đã triển khai thực hiện mô hình nuôi tôm ao đất có xi phông hơn năm qua. Ông Khởi có 9 ha nuôi tôm nước lợ, với
tổng số 26 ao, trong đó bao gồm ao nuôi, ao dự trữ nước, ao lắng, ao ương dưỡng tôm, ao chứa thải... Hầu hết các ao nuôi tôm bằng ao
đất đều được làm xi phông đáy ao và lót bạt bờ xung quanh ao.
Ông Khởi chia sẻ, để con tôm nuôi sinh trưởng nhanh, đạt năng suất, chất lượng cao, giữ môi trường ao nuôi đảm bảo thì ngoài việc áp dụng làm xi phông đáy ao nuôi, ông còn áp dụng quy trình nuôi nước trước nuôi tôm. Vì vậy, vào các tháng nước có độ mặn phù hợp, khi ngành chuyên môn khuyến cáo lấy nước vào ao nuôi tôm, ông Khởi dành riêng một ao lấy nước vào dự trữ. Trong ao dành dự trữ nước nuôi sẵn cá phi, lấy nước vào ao từ từ, cá phi lúc bấy giờ đã lớn sẽ ăn tất cả các loại sinh vật gây hại cho tôm phát sinh trong nước, kể cả các loại tảo, rong rêu có trong nước, giúp cho nước sạch các loại vi khuẩn, các loại sinh vật làm ảnh hưởng đến tôm khi thả giống.
Để tránh một số dịch bệnh thường gặp trên tôm như: phân trắng, đốm trắng thì người nuôi tôm phải tuân thủ khuyến cáo của cơ quan chức năng, lựa chọn thời gian xuống giống phù hợp, chỉ thả nuôi tôm từ 1 - 2 vụ/ năm. Mật độ thả nuôi tôm phù hợp từ 70 - 90 con/m2, nuôi tôm đạt kích cỡ 30 con/kg thu hoạch. Với diện tích 1.200 m2 /ao nuôi, sản lượng tôm thu về từ 2 - 3 tấn/ao. Tổng sản lượng tôm thẻ chân trắng hằng năm nuôi từ 1 - 2 vụ/9 ha, thu về 50 - 60 tấn, trừ chi phí lợi nhuận từ 2 - 4 tỷ đồng.
Theo Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng Võ Văn Bé, mô hình nuôi tôm ao đất làm hố xi phông đáy ao của ông Trần Văn Khởi được xem là giải pháp hữu hiệu trong việc cải thiện chất lượng nước ao nuôi tôm. Đơn vị đã và đang nhân rộng mô hình này tại các địa phương vùng nuôi tôm trọng điểm trên địa bàn tỉnh.
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Hà Tĩnh
Nuôi xen ghép tôm sú, cua biển,
cá đối cho lợi nhuận cao
Mô hình được Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật và Bảo vệ cây
trồng, vật nuôi thành phố Hà Tĩnh triển khai thành công tại xã Thạch
Hưng (thành phố Hà Tĩnh), đem lại lợi nhuận 250 triệu đồng/ha.
Áp dụng “4 định”
Trước đây, người dân xã Thạch Hưng (thành phố Hà Tĩnh), người dân có tập quán nuôi xen ghép một số đối tượng như tôm, cua, cá chim vây vàng, cá chẽm... nhưng ở mức đầu tư thấp, thường xảy ra dịch bệnh, hiệu quả kinh tế không cao.
Nhằm hạn chế dịch bệnh, hạn chế sử dụng các loại thuốc kháng sinh, hóa chất, giảm chi phí đầu tư, mang lại hiệu quả kinh tế cao, tháng 4/2024, Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật và Bảo vệ cây trồng, vật nuôi thành phố Hà Tĩnh (Trung tâm) đã xây dựng mô hình nuôi xen ghép tôm sú, cua biển và cá đối mục trong ao tại hộ ông Trương Thế Cương (thôn Tiến Hưng, xã Thạch Hưng). Mô hình có quy mô 1ha, thả nuôi xen ghép gồm 5 vạn
con tôm sú, 5.000 con cá đối mục và 5.000 con cua xanh.
Ngay từ giai đoạn bắt đầu thả giống, mô hình áp dụng yêu cầu “4 định” về chế độ thức ăn đối với vật nuôi đó là định tính, định lượng, định vị trí và định thời gian nhằm quản lý thức ăn xuyên suốt trong quá trình nuôi một cách khoa học và hiệu quả. Ngoài ra còn bổ sung khoáng chất, dinh dưỡng, Vitamin C, tỏi tươi với liều lượng 5 - 10 g/kg thức ăn để giúp tôm, cua tăng sức đề kháng và tăng trưởng tốt. Đồng thời, quản lý môi trường ao nuôi, cải tạo đáy ao giúp vi sinh vật có lợi phát triển và ổn định các yếu tố môi trường.
Ông Cương cho biết, với mật độ giống thả giống đối với tôm sú là 10 con/m2, cá đối mục 0,5 con/m2, cua 0,5 con/m2, sau thời gian gần
6 tháng, tỷ lệ sống của các loài đều cao (đạt trên 70%). Về trọng lượng, tôm sú đạt 2535 con/kg, năng suất 1,4 tấn/ha; cá đối mục đạt 2,5 - 3 con/kg, năng suất 1,8 tấn/ha; cua biển đạt 2,5 - 3 con/kg, năng suất gần 500 kg/ha. Đến nay, mô hình đã cho thu hoạch, dự kiến với giá bán hiện tại, sau khi trừ chi phí sản xuất trực tiếp gần 500 triệu đồng/ha, mô hình cho lãi hơn 250 triệu đồng/ha.
Nhiều lợi ích
Theo các chuyên gia, với phương thức nuôi ghép, việc kết hợp các đối tượng nuôi có đặc tính hỗ trợ lẫn nhau đã tận dụng hết thức ăn từ tầng mặt, tầng giữa đến tầng đáy, hạn chế sử dụng các loại thuốc xử lý môi trường. Đặc biệt, cá đối mục phân bố rộng rãi trong nhiều thủy vực, chủ yếu ăn thức ăn thừa của tôm và cua, ăn rong rêu và các loài sinh vật tầng đáy. Qua đó góp phần giảm thiểu ô nhiễm do nguồn thức ăn dư thừa dưới đáy ao, quản lý tốt và phục hồi môi trường các vùng nuôi thấp triều, thường xuyên bị dịch bệnh tấn công, nâng cao hiệu quả kinh tế theo hướng sản xuất bền vững. Một ưu điểm nữa của hình thức nuôi xen ghép là thời gian thu hoạch kéo dài từ 2 - 3 tháng, giúp người nuôi có thu nhập thường xuyên, ổn định.
Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật và Bảo vệ cây trồng, vật nuôi thành phố Hà Tĩnh đánh giá, mô hình cho hiệu quả kinh tế cao trên cùng một đơn vị diện tích. Chính vì vậy, để phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững, thời gian tới chính quyền địa phương sẽ quan tâm chỉ đạo, tuyên truyền và có kế hoạch cụ thể để nhân rộng những mô hình nuôi luân canh, xen ghép các đối tượng mới như cá đối mục, cá dìa, cua xanh với tôm để tạo sản phẩm nuôi đa dạng, có chất lượng và giá trị cao, được thị trường ưa chuộng. Đây là mô hình mới theo hướng an toàn dịch bệnh, thân thiện với môi trường, góp phần đa dạng hóa các đối tượng nuôi, mở ra hướng đi mới cho nghề nuôi trồng thủy sản ở TP Hà Tĩnh, tạo ra nhiều sản phẩm cho người tiêu dùng lựa chọn.
LÀM GIÀU TỪ NGHỀ ƯƠNG NUÔI CÁ GIỐNG
Nhờ chịu khó học hỏi, kiên trì với công việc trong nhiều năm mà anh Phan Danh Định (tổ dân phố K130, thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) đã làm chủ
được quy trình ương nuôi cá giống. M ỗi năm, anh xuất ra thị trường gần 3 triệu con cá giống, thu về hơn 1 tỷ đồng.
Anh Phan Danh Định đã
theo đuổi nghề ương nuôi cá giống được
gần 5 năm. Vượt qua những khó khăn, đến nay anh đang sở hữu hệ thống ương, nuôi cá giống với quy mô được đầu tư bài bản theo đúng yêu cầu kỹ thuật.
“Xuất phát từ gia đình thuần nông, chủ yếu làm ruộng nên cuộc sống vất vả cứ đeo bám.
Vì vậy, năm 2009, tận dụng diện tích đất sản xuất của gia đình, tôi
mạnh dạn đầu tư hơn 120 triệu đồng để làm chuồng chăn nuôi
lợn, bò và đào ao thả cá. Nhờ chăn nuôi tốt, gia đình có nguồn thu nhập ổn định, mỗi năm thu lãi gần 300 triệu đồng.
Qua mấy năm đầu sản xuất nhận thấy chăn nuôi heo, bò khá tốn kém chi phí, dịch bệnh thường xảy ra, gây ô nhiễm môi
trường trong khi đó, nhu cầu cá giống ngày càng nhiều nên đầu năm 2018, tôi chuyển đổi sang tập trung nuôi cá. Tôi cải tạo hệ thống chuồng trại cũ thành 20 bể ương cá giống, sửa sang lại ao hồ để thả nuôi thêm cá thương phẩm nước ngọt. Mỗi năm, tôi xuất bán ra thị trường hàng chục tấn cá điêu hồng, cá lóc và hàng vạn cá giống các loại”, anh Định chia sẻ.
Tưởng chừng như đã thành công nhưng trận lũ lụt lịch sử năm 2020 ập đến, tất cả cá giống bị nước lũ cuốn trôi cùng toàn bộ tài sản của gia đình. Tuy nhiên, không nản lòng, anh Định kiên trì nghiên cứu, học hỏi, tích lũy kiến thức. Được sự động viên, ủng hộ của gia đình, bạn bè, anh tiếp tục vay hơn 1 tỷ đồng để gây dựng lại cơ ngơi.
Vừa làm vừa học cách chăm sóc, kỹ thuật nuôi, làm cá giống, anh Định nhận thấy nhu cầu cá giống của bà con trên địa bàn khá lớn. Trong khi, việc mua và vận chuyển cá giống từ địa phương khác về Hà Tĩnh lại vất vả, tốn kém; quãng đường vận chuyển mất 2 - 3 ngày mới đến nơi. Chính điều này giúp anh càng kiên định với con đường mình đã chọn. Với diện tích hơn 3 ha, anh Định đã chia thành 5 ao, trong đó 4 ao ương cá giống, 1 ao nuôi thương phẩm. Diện tích mỗi ao từ 3.000 m2 đến 1 ha. Lần này anh tuân thủ kỹ thuật các bước cải tạo, xử lý ao ương; chủ động sửa sang, gia cố lại các ao, nâng cao hệ thống bờ; xây dựng và lắp
anh đã xây xựng hệ thống 20 bể để ấp trứng và ương dưỡng cá ở giai đoạn đầu.
Theo anh Định, để ương dưỡng thành công, cần đặc biệt chú ý đến nguồn cá giống nhập về. Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản I là nơi anh nhập trứng cá cũng như nguồn cá giống về cho ấp nở và ương nuôi. Trứng cá giống được cho ấp tại các bể ương, sau 2 ngày trứng nở cho thả tại các hồ và tiếp tục chăm sóc. Tuỳ loài cá khác nhau, có thể ương gièo với mật độ 500 –1.500 con/m2 .
“Về thức ăn cho cá bột, trong 10 ngày đầu cho ăn gồm lòng đỏ trứng vịt luộc tán nhuyễn và bột đậu nành pha loãng nấu chín, số lượng 5 lòng đỏ trứng vịt và 500g bột đậu nành cho 100.000 cá bột/ngày. Thời gian ương nuôi cá bột, cần bổ sung vitamin tổng hợp, Beta glucan, khoáng chất… Ngoài ra, định kỳ hàng tuần phải bắt cá kiểm tra mang, vảy, nội quan và chủ động diệt khuẩn, diệt ký sinh trùng, diệt nấm.”. A nh Định bật mí.
Nhờ áp dụng đồng bộ kỹ thuật sản xuất khoa học trong tất cả các khâu ương dưỡng, cá giống của anh Định phát triển tốt. Qua theo dõi, tỷ lệ sống của các loại giống cá cao nhất đạt từ 9095%. Ngoài các đối tượng truyền thống như: Cá trắm cỏ, cá trôi, cá mè, cá chép thì hiện nay, anh còn ương dưỡng đa dạng các loại cá có giá trị kinh tế cao như: Cá lóc, cá rô đầu vuông, cá trắm đen, cá chim trắng, cá rô phi đơn tính, cá điêu hồng,… Cá giống tại cơ sở của anh Phan
Danh Định sống khỏe, lớn nhanh và đặc biệt là nuôi thương phẩm cho sản lượng cao. Vì vậy, sau hơn 5 năm ương nuôi cá giống, anh đã
được bà con rất tin tưởng.
Hiện nay, trại cá giống của
anh Định chủ yếu cung cấp cho
thị trường cá bột (khoảng 7 ngày
tuổi) và cá giống (khoảng 20 ngày tuổi) với số lượng lên đến hàng trăm ngàn con mỗi tuần, tùy theo đơn hàng khách mua.
Bên cạnh những khách hàng quen thuộc, nhờ làm tốt khâu quảng bá sản phẩm qua kênh mạng facebook, youtube nên
lượng khách hàng biết đến và mua cá giống ngày càng tăng, nhiều khách hàng ở các tỉnh lân cận như Nghệ An, Quảng Bình đã
đặt mua với số lượng khá lớn. Qua thời gian gắn bó với nghề và nắm bắt nhu cầu sản xuất của người dân nên anh Định không nuôi cá thương phẩm mà chú tâm vào việc ương dưỡng cá giống để đủ số lượng cung cấp cho khách hàng. Mỗi năm, anh xuất bán ra thị trường hơn 3 triệu cá bột, cá giống. Giá bán cá bột là 100 đồng/con và cá giống là 1.000 - 3.000 đồng/con. Sau khi
trừ hết chi phí, thu nhập từ cá giống đạt hơn 500 triệu đồng.
Bên cạnh tập trung đầu tư
trang trại, nâng cao chất lượng
cá giống, anh Định cũng tích cực hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, tư vấn cách chăm sóc, hướng dẫn cách nuôi cá lớn nhanh cho người dân có nhu cầu nuôi cá cũng như khách hàng đến mua cá giống tại
cơ sở của anh. Cơ sở cá giống
của anh Định còn tạo việc làm
cho 3 nhân công với mức lương
5 - 7 triệu đồng/tháng.
Bằng sự nỗ lực vươn đến thành công, anh Phan Danh Định vinh
dự được Hội Nông dân tỉnh Hà
Tĩnh trao tặng Giấy chứng nhận
danh hiệu hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi cấp tỉnh giai
đoạn 2017 - 2022.
Nguyễn Hoàn
Anh Định (giữa) cấp cá
cho khách hàng
Anh Định kiểm tra cá
ương trong bể
Mamijo Farms
Người phụ nữ kiên trì với cá da trơn
Bắt đầu từ con số 0
Bà Omorinsola Giwa - Giám đốc điều hành của Mamijo Farms, cùng chồng là ông Olushola Giwa - Chủ tịch của Mamijo Farms, bắt đầu khởi nghiệp từ năm 2017. Trước khi bước vào nghề nuôi cá, Omorinsola kinh doanh nhiều mặt hàng như dầu hỏa và bánh quy, trong khi chồng cô làm việc tại đài phát thanh Eko FM ở Lagos.
Sau nhiều thất bại, hiện nay Mamijo Farms - một trang trại nuôi cá da trơn tại Nigeria, có khả năng sản xuất hơn 8 tấn cá và trên 10.000 cá giống mỗi tháng. giếng khoan công nghiệp được trang bị đầy đủ để đảm bảo điều kiện nuôi ổn định. Mamijo Farms không chỉ sản xuất cá thương phẩm mà còn điều hành một chương trình, cam kết trả 2,5% lợi nhuận hàng tháng cho các nhà đầu tư. Hiện tại, trang trại đã có 5 nhà đầu tư lớn và đạt sản lượng hàng tháng từ 8 - 10 tấn cá.
Dù cuộc sống ổn định, nhưng hai vợ chồng vẫn chưa đạt được thu nhập như mong muốn. Điều này đã thúc đẩy Omorinsola tham gia một khóa học tại Bộ Nông nghiệp Lagos. Sau khóa học, họ quyết định dùng số vốn tích lũy
để khởi nghiệp với nghề nuôi cá, bắt đầu với
5 ao cá và khoảng 10.000 cá giống. Thật may mắn, chỉ sau một thời gian ngắn, số ao này
đã tăng lên 15.
Tuy nhiên, con đường khởi nghiệp không hề dễ dàng. Trong suốt một năm đầu, họ cũng gặp nhiều khó khăn như mất trộm, mua phải thức ăn kém chất lượng, và nghe những lời tư vấn không phù hợp, khiến họ mất đi toàn bộ số vốn ban đầu trị giá 12 triệu naira (khoảng 7.429 euro).
Kiên trì sau thất bại
Quá trình nuôi cá của Omorinsola gặp phải không ít thử thách. Vốn đầu tư ban đầu và việc tìm kiếm địa điểm phù hợp là hai khó khăn lớn nhất mà vợ chồng cô phải đối mặt. Cô luôn muốn trang trại của mình gần trung tâm thành phố để thuận tiện cho việc bán hàng và vận chuyển.
Trộm cắp nơi đây là một vấn nạn, một lần, họ bị mất gần 360 kg cá, trị giá khoảng 462 euro. Ngoài ra, vấn đề dịch bệnh cũng khiến Omorinsola lo lắng. Có lần trang trại của họ mất 350 kg cá do dịch bệnh, mà nguyên nhân chính có thể do nhiệt độ cao và thiếu ôxy trong ao nuôi. Sau lần đó, Omorinsola thường xuyên kiểm tra điều kiện môi trường nước trong các ao cá.
Một số lần thất bại đã khiến Mamijo Farms tạm ngừng hoạt động và chỉ quay trở lại sau đại dịch Covid-19. Với sự góp vốn của các nhà đầu tư, trang trại đã nhanh chóng phục hồi và mở rộng. Hiện tại, Mamijo Farms có 03 chi nhánh ở bang Lagos, bao gồm một học viện chuyên đào tạo nghề nuôi cá. Tổng số ao cá hiện nay là 100 ao với hệ thống hồ bạt cùng
Mamijo Farms sản xuất từ 10.000 đến 15.000 cá giống mỗi tháng. Trong trường hợp sản lượng không đủ, họ sẽ nhập thêm từ các nguồn bên ngoài. Với đội ngũ gồm 7 nhân viên chính thức và 10 nhân viên hợp đồng, Omorinsola cùng chồng luôn theo dõi sát sao mọi hoạt động của trang trại để đảm bảo mọi thứ diễn ra suôn sẻ.
Dù đã gặp nhiều khó khăn song bà Omorinsola vẫn luôn tự hào về những gì
Mamijo Farms đạt được. Trong tháng 5 vừa qua, họ đã bán 9,3 tấn cá, đạt doanh thu hơn 21 triệu naira (tương đương 13.000 euro).
Lê Nguyên (Theo Thefishsite)
Tăng cường ôxy hòa tan với kích thước
Nano Bubbles siêu nhỏ
Sự gia tăng nhu cầu về thực phẩm từ nguồn thủy
sản đòi hỏi những giải pháp tiên tiến để đảm bảo
phát triển bền vững, hiệu quả. Trong bối cảnh đó,
công nghệ Nano Bubbles đã tạo nên bước đột phá
về hiệu quả xử lý ôxy hòa tan và chất lượng nước
nuôi trồng. Nhưng điều gì đã khiến công nghệ này
được nhắc đến nhiều như vậy?
cái nhìn sơ lược, bong bóng nano chỉ đơn giản là các bong bóng khí siêu nhỏ, với kích thước trong khoảng 80 - 120 nanomet. Tuy nhiên, chính sự nhỏ bé này mang đến cho chúng những đặc tính vật lý độc đáo mà các bong bóng khí thông thường không thể có được. Nano Bubbles không nổi lên bề mặt nhanh chóng như các bong bóng lớn, thay vào đó, chúng lơ lửng trong nước hàng tuần. Điều này cho phép chúng truyền tải ôxy một cách liên tục và ổn định, duy trì mức ôxy hòa tan (DO) ở mức tối ưu mà không cần can thiệp thường xuyên.
Nhưng tại sao kích thước nhỏ lại quan trọng đến vậy? Câu trả lời
nằm ở cơ chế truyền khí: diện tích
tiếp xúc khổng lồ giữa các bong bóng nano và nước cho phép tối
ưu hóa sự truyền khí, giúp lượng
ôxy được khuếch tán nhiều hơn
và nhanh hơn. Đối với ngành thủy
sản, điều này có nghĩa là tăng
cường khả năng cung cấp ôxy
hòa tan liên tục, đặc biệt trong
các ao nuôi mật độ cao.
Khác với các công nghệ cũ
hay hóa chất xử lý nước, Nano
Bubbles tiêu thụ ít năng lượng
hơn và không cần thêm các hệ
thống phức tạp. Điều này đồng
nghĩa với việc người nuôi có thể
tiết kiệm chi phí năng lượng và
bảo trì, đồng thời giảm thiểu tác
động môi trường do không sử
Khách hàng Hàn Quốc đến tham quan mô hình nuôi tôm sử dụng công nghệ Nano Bubbles
Khách hàng Cà Mau đến tham quan mô hình nuôi tôm sử dụng công nghệ Nano Bubbles
dụng các hợp chất hóa học gây ô nhiễm.
Hơn nữa, việc cải thiện khả năng ôxy hòa tan giúp giảm mầm
bệnh tăng cường tốc độ sinh
trưởng của thủy sản, đồng thời
giảm tỷ lệ tử vong. Đây là yếu tố
quyết định giúp tăng hiệu quả sản xuất, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường thủy sản toàn cầu.
Công nghệ Nano Bubbles của
Công ty TNHH B.H.N, với các
công suất từ 5 m³/giờ, 100 m³/giờ, 500 m³/giờ đến 1.000 m³/giờ, đáp
ứng nhu cầu đa dạng trong lĩnh vực xử lý nước. Công nghệ này không chỉ phù hợp cho các ao nhỏ mà còn cho các hồ lớn, mang lại giải pháp tối ưu. Với khả năng duy trì mức ôxy hòa tan ổn định trong nước, mô hình Nano Bubbles giúp cải thiện chất lượng và xử lý nước một cách hiệu quả, đồng thời giảm thiểu sự phụ thuộc vào các phương pháp truyền thống.
B.H.N
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Phòng chống dịch bệnh
thủy sản sau bão
Hiện đang vào mùa mưa bão, để hạn chế thấp nhất
tác động bất lợi của thời tiết, các hộ nuôi thủy sản
chủ động theo dõi thời tiết, áp dụng biện pháp
phòng bệnh cho thủy sản nuôi sau bão cũng như khi
thời tiết thay đổi bất thường.
Sau bão lũ, khi phát hiện cây đổ, lá rụng, xác chết gia súc gia cầm ở các khu vực xung quanh đổ xuống ao cần thu gom, loại bỏ ra khỏi ao, tránh làm cho môi trường nước bị ô nhiễm. Ngoài ra, môi trường ao nuôi sẽ có những biến động
đột ngột, mưa làm rửa trôi phèn, các chất hữu cơ, độc tố tích tụ từ bờ xuống ao cá làm môi trường
nước trong ao nuôi cá luôn biến
động. Đây là những nguyên nhân làm cho cá dễ mẫn cảm với mầm bệnh, tạo điều kiện cho các vi
khuẩn, virus, ký sinh trùng có trong môi trường nước tấn công và gây bệnh. Do đó, cần thực
hiện các biện pháp phòng và trị
bệnh trong mùa mưa bão, lũ, lụt bao gồm:
Chủ động xử lý môi trường nước bằng vôi bột với lượng 2 -
3 kg/100 m3 nước ao hoặc một
số hóa chất được phép sử dụng trong nuôi thủy sản (như TCCA, BKC, Chlorine…) theo đúng liều
lượng hướng dẫn của nhà sản
xuất để khử trùng nước ao nuôi, phòng bệnh cho thủy sản nuôi.
độ thiệt hại với chính quyền địa
Áp dụng mọi biện pháp để
ngăn chặn, hạn chế tối đa thủy sản thất thoát khi vùng nuôi bị ngập, nước lũ dâng cao. Tăng cường kiểm tra, loại bỏ rác thải
có nguy cơ hoặc đang ảnh hưởng
trực tiếp vào lồng nuôi, di chuyển
cá ở các ô lồng bị ảnh hưởng lớn
của nước lũ vào khu vực an toàn
hơn. Thu hoạch cá đạt kích cỡ thương phẩm.
Khi phát hiện có cá chết nhiều
bất thường hoặc nghi mắc các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
cần báo ngay cho chính quyền
địa phương và nhân viên thú y cấp
xã. Đồng thời thực hiện thu gom toàn bộ số cá chết ngay trong
ngày và thực hiện chôn toàn bộ
số cá chết có bổ sung 1% vôi
bột; phun thuốc sát trùng quanh
khu vực hố sau khi chôn. Không
xả trực tiếp nước ao, bể nuôi ra ngoài môi trường khi chưa xử lý
bằng Chlorine hoặc vôi. Kê khai, báo cáo chính xác diện tích, mức
phương (nếu có) theo quy định. Phối hợp với chính quyền địa phương giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh đến từng cơ sở nuôi, kịp thời phát hiện thủy sản nuôi mắc hoặc nghi mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm để tổ chức điều tra, xác minh và triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định, không để dịch bệnh lây lan rộng. Khi nước rút, kiểm tra, tu sửa bờ ao, hệ thống dây neo, phao lồng và các công trình phụ trợ. Vệ sinh lồng bè, lưới để đảm bảo an toàn cho hoạt động sản xuất trở lại bình thường. Trường hợp vị trí lồng bè không phù hợp cần di chuyển đến nơi nước sạch hoặc di chuyển cá vào ao nuôi. Tiến hành quạt nước, sục khí để hạn chế sự phân tầng. Kiểm tra, xử lý các yếu tố môi trường nước đảm bảo nằm trong giới hạn cho phép như treo túi vôi quanh lồng nuôi; sử dụng vôi bột, Dolomite để khử trùng, tăng pH và giảm độ đục của nước ao nuôi sau khi mưa, lũ, ngập lụt. Trường hợp môi trường nuôi bị ô nhiễm sử dụng thuốc, hóa chất và các sản phẩm xử lý môi trường để tiêu độc, khử trùng, cải thiện chất lượng nước với liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Bổ sung vitamin, khoáng, vi chất, men tiêu hóa… vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho thủy sản nuôi; thường xuyên theo dõi diễn biến của các yếu tố môi trường và sức khỏe của vật nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời.
Ảnh: Nguyên Khang
sau mưa bão
Những trận mưa bão lớn đã gây ra thiệt hại không
nhỏ cho các hộ nuôi trồng thủy sản. Người nuôi cần chú ý thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh tổng hợp xử lý kịp thời nhằm đảm bảo khôi phục sản xuất
nuôi trồng thủy sản nhanh chóng và bền vững sau bão, đồng thời phòng ngừa rủi ro cho các đợt thời
tiết xấu tiếp theo.
Các biện pháp kỹ thuật
Biện pháp chung:
Thu gom, xử lý rác thải và thủy sản chết: Đảm bảo việc xử lý đúng quy định, tránh ô nhiễm môi
trường và phát sinh dịch bệnh tại
các vùng nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là vùng ven biển.
Thống kê và đánh giá thiệt hại:
Tổng hợp nhu cầu và hỗ trợ kịp thời cho người dân bị ảnh hưởng, đồng thời xây dựng kế hoạch khôi phục nuôi trồng thủy sản, cung cấp các yếu tố đầu vào như con giống, thức ăn, vật tư môi trường và gia cố lồng bè.
Hướng dẫn kỹ thuật phục hồi: Chăm sóc đàn thủy sản còn lại, sửa chữa lồng bè, ao nuôi bằng các vật liệu bền vững, thân thiện với môi trường và chịu được điều kiện khắc nghiệt sau bão.
Quan trắc và giám sát môi trường: Thường xuyên kiểm tra và chuyển tải thông tin về tình trạng môi trường đến người dân, giúp họ điều chỉnh kỹ thuật nuôi trồng phù hợp với điều kiện thực tế.
Theo dõi thời tiết và phòng chống dịch bệnh: Cập nhật diễn
biến thời tiết để hướng dẫn các biện pháp phòng ngừa và xử lý dịch bệnh trên thủy sản, bảo đảm an toàn trong quá trình nuôi trồng.
Đối với các ao đầm, lồng đang
nuôi thủy sản: Tăng cường các
biện pháp cải thiện môi trường
nước ao nuôi cần xả bớt nước
trên tầng mặt để giảm bớt lượng
nước mưa trong ao; đồng thời tiến hành chạy máy quạt nước, sục khí nhằm hạn chế sự phân
tầng nước đối với những ao nuôi
thâm canh và bán thâm canh.
Bên cạnh đó, vệ sinh, làm sạch khu vực nuôi, lồng nuôi, rải vôi
xung quanh bờ ao (khoảng 10 kg/100 m2 ), kết hợp bón vôi cho ao, đầm nuôi để ổn định pH nước và làm giảm độ đục của nước ao.
Đối với ao nuôi thủy sản nước ngọt thì lượng vôi bón 0,7 - 1 kg/100 m3 nước; đối với ao nuôi
thủy sản nước mặn lợ thì lượng
vôi bón 2 - 3 kg/100 m3 nước; đối với các ao nuôi nước lợ có
thể tháo bớt nước tầng mặt, tăng
cường vận hành máy quạt nước
hoặc các biện pháp khuấy đảo
nước, tránh hiện tượng phân tầng
nước ao nuôi. Sử dụng các loại
chế phẩm sinh học để làm sạch
các chất cặn, chất lắng tụ đáy ao.
Các ao nuôi có quạt nước, sục
khí đáy ao sử dụng các loại hóa
chất có tính sát khuẩn cao nằm
trong danh mục thuốc hóa chất
được phép sử dụng theo quy
để khử trùng nguồn nước
trong quá trình nuôi.
Đối với thủy sản nuôi lồng treo
túi vôi 2 - 4 kg/10 m3 nước, hoặc
bột đồng sunfat 50 g/10 m3
trong lồng nuôi phía đầu nguồn
nước, độ sâu của túi vôi hoặc túi thuốc treo bằng 1/3 - 1/2 độ sâu
mực nước trong lồng nuôi. Riêng
các lồng nuôi cá nước mặn lợ có thể thu hoạch hoặc di chuyển
lồng đến nơi nước sạch và có
độ mặn ổn định hoặc di chuyển cá vào ao nuôi có đầy đủ thiết bị sục, đảo khí.
Theo dõi chặt chẽ mức độ sử dụng thức ăn để có biện pháp
điều chỉnh phù hợp, tránh dư thừa gây ô nhiễm môi trường ao nuôi. Bổ sung vitamin C với liều lượng 3 - 6 g/kg thức ăn, các loại khoáng chất vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho thủy sản nuôi; tăng cường chăm sóc, quản lý ao nuôi, kiểm tra thường xuyên các yếu tố môi trường ao nuôi, sức khỏe thủy sản nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời.
Đối với các ao, lồng đã thu hoặc bị lũ tàn phá trôi hết sản phẩm: Thực hiện tu sửa, gia cố lại bờ ao, lồng nuôi; kiểm tra các yếu tố môi trường nơi đặt lồng, bè nuôi, đảm bảo các yếu tố môi trường
nằm trong ngưỡng cho phép; thực hiện vệ sinh làm sạch khu vực nuôi, khử trùng nguồn nước, mới tiến hành thả giống nuôi; thực hiện nuôi theo đúng quy trình và các biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Kiểm tra, vệ sinh hệ thống dây neo, phao lồng, lưới để đảm bảo an toàn cho hoạt động sản xuất trở lại bình thường; thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường và sức khỏe của thủy sản nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời. Đối với nuôi ngao/nghêu bãi triều ven biển: Khi nước thủy triều xuống, tiến hành kiểm tra, tu sửa đăng, chắn. Sau mưa bão, ngao thường tập trung vào các góc đăng, chắn, cần tiến hành san đều ra toàn bãi.
Đặc biệt, để chuẩn bị cho tái đàn, khôi phục sản xuất, ngành chức năng cũng khuyến cáo người nuôi cần lựa chọn con giống có nguồn gốc rõ ràng, cung cấp bởi những cơ sở cung ứng có uy tín, có giấy chứng nhận kiểm dịch; kiểm nghiệm PCR các loại bệnh đầy đủ theo quy định. Không tái đàn khi chưa đảm bảo về môi trường và an toàn dịch bệnh.
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Xử lý bệnh ký sinh trùng trên cá
Trong mùa mưa lũ, các bệnh ký sinh trùng (đặc biệt là bệnh ngoại ký sinh trùng) thường phát sinh nhiều, gây hại cho cá. Do đó, người nuôi
cần lưu ý để có biện pháp phòng và trị bệnh hiệu quả.
Nguyên nhân
Nguyên nhân là do nhiệt độ môi trường thường xuống thấp, nhất là vào những lúc thời tiết âm u, mưa lũ kéo dài và hàm lượng chất hữu cơ thường tập trung cao trong nước do sự rửa trôi của vật chất hữu cơ xuống các ao, hầm, sông, kênh, rạch. Đây là yếu tố tạo điều kiện cho các ký sinh trùng như: Trùng bánh xe, trùng mỏ neo, sán lá,… phát sinh và phát triển trong môi trường nước.
Dấu hiệu
Các loại ký sinh trùng thường ký sinh trên các bộ phận của cơ thể cá như da, vây, đuôi, mắt, mũi, xoang miệng, mang,... nhiều ký sinh trùng ký sinh bên trong nội tạng cá như gan, ruột, túi mật. Khi ký sinh trùng, nấm,
tấn công cá, gây ra các vết thương trên cơ thể cá, cá bị suy nhược sức khỏe, hình thành các vết thương trên cơ thể, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công từ môi trường nước vào bên trong nội quan cá. Các vi khuẩn như Edwardsiella ictaluri, Aeromonas sp, Streptococcus … là đối tượng trực tiếp gây tử vong cho cá nuôi.
Biểu hiện thường thấy khi cá nuôi bị ký sinh trùng tấn công đó là da cá chuyển từ màu sáng sang tối sẫm, đen hoặc trắng nhạt, có hiện tượng xuất huyết dưới da. Vảy cá xù lên, bong ra từng mảng, xuất hiện vết thương ăn sâu vào cơ thể cá, nơi vảy tổn thương. Cá bơi lội, di chuyển khó khăn, hay tấp mé bờ, bơi lội không định hướng, cá tụ tập nhiều nơi có nguồn nước từ bên ngoài chảy vào ao,…
Phòng bệnh
Sau khi thu hoạch phải tháo nước, bón vôi và phơi đáy ao. Sau 5 - 10 ngày cho nước vào ao sau đó dùng vôi hoặc các loại hóa chất Iodine, TCCA,... xử lý nước trước khi thả cá. Nước thay vào ao cần lắng, lọc, xử lý kỹ trước khi sử dụng. Thường xuyên kiểm tra mực nước, màu nước trong ao để kịp thời điều chỉnh. Tăng cường sức đề kháng cho cá bằng cách bổ sung Vitamin C trộn vào thức ăn cho cá ăn hằng ngày. Liều lượng sử dụng tùy theo đối tượng nuôi. Hoặc sử dụng chế phẩm sinh học và enzyme tổng hợp để tăng cường tiêu hóa và bảo vệ đường ruột; liều lượng và cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Để phòng trị các dạng bệnh ngoại ký sinh trùng trên cá, người nuôi có thể định kỳ 10 - 15 ngày/lần sử dụng vôi và muối cho vào túi vải treo ở 4 góc nơi cho cá ăn và nên bắt đầu treo khi cho cá ăn, cụ thể: Nuôi lồng bè sử dụng vôi: 2 - 5 kg/túi, muối 10 - 20 kg/túi; Nuôi ao sử dụng vôi: 1 - 2 kg/túi, muối 10 kg/túi.
Nếu phát hiện đàn cá nuôi có biểu hiện giảm ăn, trên da và mang có nhiều nhớt, cá bệnh chết với số lượng ít và tăng không đáng kể thì thực hiện việc treo vôi và muối trong 3 ngày liên tục, mỗi ngày thay 10 - 15% lượng nước ao. Đồng thời đưa mẫu cá bệnh đến cơ sở chẩn đoán gần nhất để được hỗ trợ trong việc chuẩn đoán bệnh cá.
Bên cạnh đó, có thể sử dụng thêm lá xoan, dây giác, cỏ mực đập giập bọc lại bằng lưới cước treo ở đầu bè hoặc ở chỗ cho ăn với liều lượng mỗi lần treo từ 5 - 10 kg để nâng cao hiệu quả phòng ngừa các bệnh ngoại ký sinh trùng trong mùa mưa, lũ.
Xử lý
Khi phát hiện cá nuôi bị ký sinh trùng tấn công, người nuôi cần giảm 50% lượng thức ăn sử dụng trong ngày, hoặc ngưng cho cá ăn 1- 2 ngày, tiến hành thay 30 - 50% lượng nước ao. Chẩn đoán đúng bệnh để đưa ra phương pháp điều trị hiệu quả. Các hóa chất thường sử dụng điều trị ký sinh trùng như: Muối ăn (NaCl), thuốc tím, Formaline, CuSO4,… Liều lượng và cách dùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Thanh Hiếu
Hỏi: Phương pháp phòng ngừa bệnh
nấm mang cho ao cá nước ngọt?
(Phạm Minh Sơn, huyện Ninh Giang, tỉnh
Hải Dương)
Trả lời:
Nấm mang là một bệnh nấm cục bộ cấp tính ở mang gây ra bởi loài nấm
Branchiomycosis ảnh hưởng đến nhiều loại cá nước ngọt. Bệnh phổ biến nhất ở
các vùng khí hậu ấm áp. Nguyên nhân chủ
yếu xảy ra các bệnh về nấm trên cá là nuôi
cá với mật độ quá cao làm cho cá dễ lây truyền bệnh và chất lượng nước nuôi kém tạo nguồn chất hữu cơ dư thừa làm cho các mầm bệnh cơ hội và nấm phát triển mạnh.
Vì thế để phòng các bệnh về nấm cần lưu
ý: Thả nuôi với mật độ vừa phải; cần kiểm soát lượng thức ăn khi cho ăn, tránh lượng thức ăn dư thừa tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển; cần chú trọng quản lý nguồn
nước, thường xuyên kiểm tra các chỉ tiêu
khí độc như: NO2, H2 S, NH3… và các chỉ
tiêu pH, ôxy để có biện pháp xử lý kịp thời khi ao nuôi bị biến động.
Ở những nơi có thời tiết thay đổi rõ rệt như phía Bắc thì vào mùa nóng hoặc mùa lạnh
có thể giảm mật độ nuôi, trang bị hệ thống sưởi để giúp ổn định nhiệt độ cho cá phát triển đồng đều. Trong suốt vụ nuôi nên sử dụng bổ sung men vi sinh định kỳ để ổn định nguồn nước, xử lý các vấn đề như cặn bẩn hữu cơ, thức ăn dư thừa, phân cá… ổn định pH và cải thiện màu nước trong ao nuôi.
Hỏi: Tầm quan trọng của việc diệt khuẩn ao tôm?
(Đoàn Tuấn, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An)
Trả lời:
Xuyên suốt quá trình nuôi tôm, không thể tránh khỏi việc xuất hiện các vi sinh vật, cũng như mầm bệnh gây hại đến tôm. Vi
khuẩn là nhóm tác nhân gây bệnh phổ biến nhất trên tôm, đặc biệt là Vibrio: Vi khuẩn V.harveyi gây bệnh phát sáng trên ấu trùng tôm; vi khuẩn V.parahaemolyticus gây ra bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND) và gần đây một biến chủng của vi khuẩn này gây bệnh TPD trên hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Một bệnh khác cũng gây nhiều thiệt hại là bệnh phân trắng (WFS), tác nhân gây bệnh được xác định là vi khuẩn V.alginolyticus và EHP gây nên. Ngoài ra, bệnh đốm đen, mòn vỏ, đứt râu và phụ bộ cũng được cho là do vi khuẩn gây ra. Vì vậy, diệt khuẩn cho nước ao nuôi là cần thiết nhằm làm giảm mật độ vi khuẩn xuống mức thấp nhất có thể, hạn chế khả năng gây bệnh cho tôm. Diệt khuẩn ao nuôi tôm là quá trình sử dụng các loại chất diệt khuẩn, chất sát trùng để loại bỏ vi khuẩn gây hại cho môi trường nước ao nuôi tôm, quyết định lên đến 50% sự thành công của vụ nuôi tôm. Diệt khuẩn ao nuôi tôm được thực hiện nhằm các mục đích như: Loại bỏ vi khuẩn, tạp chất, virus còn sót lại từ các vụ nuôi trước. Khử trùng và xử lý nguồn nước khi được cấp vào ao nuôi.
Diệt khuẩn ao tôm đúng cách và an toàn sẽ làm giảm đáng kể các mầm bệnh trong suốt vụ nuôi và tăng khả năng thành công hơn 70%.
Hỏi: Việc sử dụng giải pháp sinh học để gây màu nước cho ao nuôi tôm có những ưu điểm và hạn chế gì?
(Đinh Tuấn Khang, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh)
Trả lời:
Nguyên lý của giải pháp sinh học này là cung cấp các muối dinh dưỡng cần thiết (bón phân) cho sự phát triển của tảo phù du (phytoplankton). Khi tảo phù du phát triển đạt mật độ mong muốn thì nước sẽ có
màu đủ để ngăn cản ánh sáng chiếu xuống tới đáy ao (<550 lux) từ đó ức chế sự phát triển của tảo đáy.
Ưu điểm: Ngoài ức chế tảo đáy, việc bón phân gây màu còn có tác dụng tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm con vào đầu vụ nuôi, khi tảo phù du phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các nhóm động vật là thức ăn tự nhiên trong chuỗi dinh dưỡng.
Nhược điểm của phương pháp này là tác dụng chậm, đòi hỏi kỹ thuật và tỷ lệ phải cân đối.
Hỏi: Biện pháp hạn chế chất dinh dưỡng thừa trong ao tôm?
(Võ Kim Loan, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng)
Trả lời: Để kiểm soát chất dinh dưỡng thừa, người nuôi cần điều chỉnh lượng thức ăn và phân bón sử dụng trong ao, tránh tình trạng thừa thãi. Thường xuyên kiểm tra chất lượng nước và sử dụng các chế phẩm sinh học để cân bằng hệ sinh thái ao nuôi cũng là biện pháp hữu ích để duy trì môi trường sống lành mạnh cho tôm. Tùy vào mỗi giai đoạn lớn của tôm mà người nuôi nên lựa chọn thức ăn có lượng chất dinh dưỡng phù hợp. Các loại chất dinh dưỡng nên có trong thức ăn tôm bao gồm: Chất béo, khoáng, vitamin, protein. Ngoài ra, hãy chọn thức ăn có kích cỡ vừa miệng với từng giai đoạn lớn của tôm để đảo bảo hiệu suất ăn tốt nhất; nên tính toán, cân nhắc số lượng thức ăn sao cho vừa đủ, không thừa không thiếu; phân bổ thời gian cho tôm ăn; xác định địa điểm cho ăn; tắt quạt nước khi cho tôm ăn để tôm được yên tĩnh từ đó dễ dàng bắt mồi và tiêu thụ thức ăn.
Ngành khai thác thủy sản trên toàn cầu hiện đang đạt sản lượng hằng năm khoảng 90 - 100 triệu tấn, tương đương từ 0,79 - 2,3 nghìn tỷ động vật thủy sinh hoang dã. Mặc dù có những bằng chứng khoa học rõ ràng cho thấy các phương pháp khai thác thương mại có thể gây ra căng thẳng và tổn thương nghiêm trọng cho động vật, phúc lợi của những loài bị đánh bắt lại ít
được nghiên cứu và hiếm khi được chú trọng trong quản lý ngành thủy sản.
Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc áp dụng các phương pháp đánh
bắt có trách nhiệm về mặt phúc lợi không chỉ cải thiện sự bền vững mà còn nâng cao chất
lượng sản phẩm, kéo dài thời gian bảo quản
và nâng cao tính đạo đức của ngành thủy sản. Nền tảng Phúc Lợi
này,
nhằm đảm bảo phúc lợi cho các loài bị đánh bắt trong suốt quá trình, từ lúc đánh bắt cho đến giai đoạn sau khi giết mổ.
Quét mã QR để biết thêm chi tiết:
Catch Welfare
Những thách thức lớn bao gồm: xác định các nguy cơ và rủi ro đối với động vật trong quá trình đánh bắt; đưa ra các nguyên tắc khoa học và công cụ để thực hiện phúc lợi đánh bắt tốt; và làm rõ các con đường kỹ thuật cũng như kinh tế xã hội để đưa các phương pháp đánh bắt có trách nhiệm vào ngành. Thêm vào đó, việc giáo dục và truyền thông minh bạch về lợi ích của phúc lợi tốt trong đánh bắt sẽ là công cụ quan trọng để thuyết phục các bên liên quan. Chúng tôi hướng tới giải quyết những thách thức này thông qua sự hợp tác của các nhóm liên ngành, bao gồm các nhà đổi mới từ ngành thủy sản, công nghệ, các viện nghiên cứu và cơ quan quản lý. Giải pháp sẽ bao gồm cả những đổi mới công nghệ, chẳng hạn như phương pháp đánh bắt giảm căng thẳng, các hệ thống gây choáng trước khi giết mổ, cùng với việc chứng minh lợi ích về chất lượng và phát triển các chương trình chứng nhận sản phẩm.
VietShrimp 2025
H
ướng
tới phát triển ngành tôm
Việt Nam bền vững
Ngành tôm Việt Nam đang trải qua giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ để
đối phó với những thách thức về môi trường và theo đuổi mục tiêu phát
triển bền vững. Đây này sẽ là chủ đề thảo luận chính, xuyên suốt tại kỳ
Hội chợ VietShrimp 2025.
Cuộc cách mạng tất yếu cho tương lai
bền vững
Năm 2023, với kim ngạch xuất khẩu đạt 4,3 tỷ USD, ngành tôm đã khẳng định vai trò là trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, ngành tôm toàn cầu đang đối mặt với áp lực ngày càng lớn từ biến đổi khí hậu, khan hiếm tài nguyên và nhu cầu tiêu dùng ngày càng khắt khe đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường. Điều này đã đặt ngành tôm trước ngưỡng cửa của một “cuộc cách mạng xanh” - một bước ngoặt quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững. Chuyển đổi sang các phương thức sản xuất bền vững giờ đây không còn là lựa chọn, mà
đã trở thành xu hướng tất yếu.
Thực tế, ngành tôm đang phải đối mặt với
không ít thách thức về môi trường. Theo PGS.
TS Võ Nam Sơn (Đại học Cần Thơ), lượng
phát thải khí nhà kính từ nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh có thể lên tới 9,3 - 12,5 kg
CO2 / kg tôm tươi. Thêm vào đó, chất thải từ quá trình NTTS còn gây ô nhiễm đất, nước và góp phần làm gia tăng biến đổi khí hậu.
Dù vậy, chuyển đổi xanh không chỉ là thách thức mà còn mở ra cơ hội lớn cho ngành tôm.
Các sản phẩm tôm xanh, đạt chứng chỉ quốc tế như ASC, đang được thị trường ưa chuộng và có giá bán cao hơn từ 10 - 30%. Theo VASEP, các doanh nghiệp áp dụng mô hình nuôi tôm bền vững đã ghi nhận mức tăng trưởng doanh thu từ 15 - 20%, cho thấy tiềm năng kinh tế lớn từ việc chuyển đổi này. Không dừng lại ở thay đổi phương thức sản xuất, chuyển đổi xanh còn đi đôi với việc ứng dụng công nghệ cao. Các hệ thống nuôi tôm tuần hoàn, công nghệ xử lý nước thải tiên tiến và các giải pháp tiết kiệm năng lượng đang được áp dụng rộng rãi. Thống kê cho thấy hơn 500 trang trại tôm đã áp dụng công nghệ cao, giúp giảm 30% lượng nước sử dụng và 20% lượng
này
mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc bảo vệ môi trường mà còn tối ưu hóa chi phí sản xuất. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, quá trình chuyển đổi xanh trong ngành tôm vẫn còn nhiều thách thức và là một hành trình dài phía trước. Theo các chuyên gia, sự thành công của quá trình này đòi hỏi sự chung tay của cả Chính phủ, doanh nghiệp và người nuôi tôm. Cần có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh, đồng thời nâng cao nhận thức của người nuôi về lợi ích dài hạn của mô hình sản xuất bền vững. Điều này sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để toàn ngành phát triển bền vững trong tương lai.
VietShrimp 2025 nỗ lực nâng tầm bền vững cho ngành tôm Việt
Gần một thập niên đồng hành và phát triển, VietShrimp - Hội chợ Triển lãm Quốc tế Công nghệ ngành Tôm Việt Nam, đã trở thành sự kiện quan trọng hàng năm, ghi dấu những bước tiến lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành tôm. VietShrimp không chỉ là nơi quy tụ các công nghệ tiên tiến mà còn mở ra cơ hội kết nối giữa doanh nghiệp, nhà khoa học và người nuôi tôm, từ đó nâng cao vị thế của ngành tôm Việt Nam trên trường quốc tế.
Đừng bỏ lỡ cơ hội tham gia VietShrimp 2025 - Triển lãm Quốc tế Công nghệ ngành Tôm Việt Nam. Đây không chỉ là sự kiện thương mại, mà còn là diễn đàn học thuật, giúp doanh nghiệp và người nuôi tôm học hỏi từ các chuyên gia trong và ngoài nước, tiếp cận xu hướng và công nghệ tiên tiến, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững cho ngành tôm Việt Nam.
Sự kiện sẽ diễn ra từ ngày 26 - 28/3/2025, tại Trung tâm Xúc tiến Đầu tư - Thương mại và Hội chợ Triển lãm Cần Thơ (108A Lê Lợi, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ).