Thủy sản Việt Nam tháng 7 - 2024

Page 1


Hội đồng Biên Tập

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Phó TBBT

Nguyễn Chi, Thư ký Tòa soạn

Phạm Thu Hồng, Nhà báo

Dương Nam Anh, Nhà báo

Trần Anh Thư, Phóng viên

Trần Thị Kim Tiến, Phóng viên

Chủ Nhiệm

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Phụ trách

Nguyễn Chu Hồi, Phó Giáo sư - Tiến sĩ

Chuyên Gia

Phạm Anh Tuấn, Tiến sĩ

Trần Đình Luân, Tiến sĩ

Đào Trọng Hiếu, Tiến sĩ

Lê Văn Khoa, Tiến sĩ

Nguyễn Duy Hòa, Tiến sĩ

Nguyễn Khắc Bát, Tiến sĩ

Hồ Quốc Lực, Tiến sĩ

Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn

Thủy sản Minh Phú

Mỹ thuật: Two Nguyễn

Trình bày: Phạm Dương

Kỹ thuật: Đăng Kiên

Hình ảnh: Dương Nghĩa

Đọc bản in: Thu Hương

Tòa soạn:

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan@thuysanvietnam.com.vn

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM

Văn phòng Hà Nội:

Điện thoại: 0243.7713699

Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội

Phòng Quảng cáo:

Quảng cáo: 028.62777616

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT

ISSN: 0866-8043

Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV Lê Quang Lộc (TP HCM)

Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ

Thư tòa soạn

Thưa quý vị bạn đọc!

Trong lĩnh vực NTTS, nuôi biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế biển nhằm đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển trong thế kỷ của biển và đại dương. Đề án phát triển NTTS trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được

Chính phủ phê duyệt ngày 4/10/2021 đặt mục tiêu: Đưa nuôi biển trở thành ngành sản xuất hàng hóa quy môn lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái; tạo ra sản phẩm có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu; góp phần tham gia bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biển đảo của Tổ quốc. Tuy nhiên, hiện nay công nghệ nuôi biển của nước ta còn lạc hậu, nguồn thức ăn chủ yếu là cá tạp nên gây ô nhiễm môi trường, nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh và hiệu quả chưa cao; con giống còn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu và khai thác ngoài tự nhiên nên bị động. Tiêu thụ sản phẩm nuôi biển hiện nay chủ yếu thông qua thương lái thu gom nên giá cả không ổn định.

Bênh cạnh chủ đề nuôi biển, trong số báo phát hành tháng 7 này, Tạp chí Thủy sản Việt Nam cũng đề cập đến vấn đề mà người nuôi tôm vùng ĐBSCL rất quan tâm hiện nay, đó là nuôi tôm bền vững giảm phát thải, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiều nút thắt trong vấn đề này đã được đưa ra thảo luận tại Diễn đàn Khuyến nông và Nông nghiệp với chủ đề “Phát triển nuôi tôm bền vững giảm phát thải, thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tổ chức tại Cà Mau.

Ngoài ra, những thông tin về tình hình nuôi trồng, khai thác, giao thương thủy sản trong nước và quốc tế, tiến bộ kỹ thuật, mô hình nuôi thành công cũng được cập nhật, mời quý vị đón đọc!

Ban Biên tập

Skretting

Nguyễn Anh

C.P. Việt Nam

57

Sức mạnh của thảo dược tổng hợp mang đến giải

pháp toàn diện cho sức

khỏe vật nuôi

WMW

58

SANDO: Đầu tư nhà máy thứ 2 (SADOVA) đạt chuẩn

GMP-WHO

Phòng Kỹ thuật - Marketing

59

Giải pháp tiết kiệm và hiệu quả cho ngành

thủy sản

B.H.N

60

Giảm chi phí sản xuất con giống nhờ áp dụng di truyền học

Carlos Pulgarin, Marcos De Donato, Alejandro Gutierrez

Siết chặt công tác quản lý

hoạt động khai thác thủy sản ở

địa phương

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển chỉ đạo khẩn trương hoàn thành việc cấp giấp phép khai thác thủy sản, đăng ký, đăng kiểm, đánh dấu tàu cá, lắp đặt thiết bị VMS, cấp Giấy chứng nhận an toàn thực phẩm cho tàu cá; cập nhật

đầy đủ dữ liệu tàu cá vào cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (VNFishbase), hoàn thành, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện trong tháng 7/2024. Chỉ đạo các lực lượng chức năng theo dõi, quản lý, kiểm soát 100%

đội tàu cá của địa phương và tàu cá của địa phương khác hoạt động tại địa phương; xử lý dứt điểm số lượng tàu cá “3 không” tại địa phương theo quy định. Chỉ đạo các lực lượng chức năng tập trung cao điểm, quyết liệt trong công tác thực thi pháp luật, điều tra, xác minh, xử lý nghiêm các hành vi khai thác IUU, các tổ chức, cá nhân có liên quan dung túng, tiếp tay cho hành vi khai thác IUU…

Đa dạng hóa chuỗi cung ứng

mở

cơ hội cho doanh nghiệp

Các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam đã và đang tái cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, đưa hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào nhiều thị trường đòi hỏi yêu cầu cao về chất lượng và các tiêu chuẩn phát triển bền vững. Phát biểu tại Diễn đàn kinh doanh “Đa dạng hóa chuỗi cung ứng, phát triển thị trường, nâng cao khả năng thích ứng cho doanh nghiệp”, ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ

tịch VCCI nhận định: “Đa dạng chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là định hướng quan trọng của Đảng, Chính phủ. Trong thời gian tới, chính sách hỗ trợ phải xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là những người đặt ra nhu cầu trước, sau đó Chính phủ thiết kế chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp lớn mạnh, tăng sức cạnh tranh, nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước ở những ngành quan trọng có tiềm năng liên kết lớn”.

Xuất khẩu tôm 6 tháng ước đạt

1,56 tỷ USD

Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, xuất khẩu tôm Việt Nam tính đến hết tháng 6/2024 ước đạt gần 1,56 tỷ USD, tăng khoảng 7% so với cùng kỳ năm 2023. Tính đến thời điểm này, con tôm Việt Nam đã thâm nhập vào 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Theo bà Phùng Thị Kim Thu, chuyên gia thị trường tôm của VASEP, để gia tăng thị phần tại các thị trường trong năm 2024, doanh nghiệp cần lưu ý đến thị hiếu tiêu dùng mới. Ví dụ như Trung Quốc đang có xu hướng giảm nhập khẩu tôm nước ấm đông lạnh, tôm hùm đá, các loại tôm biển khác, tôm hùm đông lạnh; trong khi tăng nhập khẩu tôm hùm tươi, sống, ướp lạnh; tôm khô, muối, hun khói, ngâm nước muối và các loại tôm chế biến. Còn tại Hàn Quốc, nhu cầu đối với thực phẩm nấu chín, chế biến và bảo quản sẵn đang tăng lên nhanh chóng.

Nhiều cơ hội xuất khẩu thủy sản tại

Singapore

Hiện, Việt Nam đứng vị trí thứ 5 xuất khẩu thủy sản sang quốc đảo Singapore, với các sản phẩm xuất khẩu chính gồm tôm, cá tra, cá ngừ. Ông Cao Xuân Thắng, Tham tán Thương mại - Trưởng Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore cho biết, sản phẩm thủy sản của Việt Nam xuất hiện

ở Singapore với tần suất ngày càng nhiều và ngày càng được biết đến hơn qua các hoạt động trưng bày sản phẩm, xúc tiến thương mại... Singapore gần như không có một hàng rào kỹ thuật nào trong việc hạn chế nhập khẩu, có thể chấp nhận mua giá cao hơn, tuy nhiên lại khá nghiêm ngặt trong việc kiểm soát chất lượng. Theo ông

Thắng, Việt Nam phải duy trì chất lượng, đấy là lợi thế của thủy sản nói riêng và nông sản Việt Nam nói chung. Bởi lẽ, chỉ cần chất lượng sản phẩm có vấn đề về tồn dư kháng sinh, vi sinh vật… thì gần như doanh nghiệp đó không còn khả năng để quay trở lại thị trường Singapore.

Top 5 thị trường nhập khẩu mực, bạch tuộc hàng đầu của Việt Nam

Theo số liệu mới nhất từ VASEP, 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu mực, bạch tuộc của Việt Nam đạt 239 triệu USD, thấp hơn so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu mực giảm 5%, còn 130 triệu USD; bạch tuộc lại tăng 5%, đạt 109 triệu USD. 5 thị trường xuất khẩu mực, bạch tuộc lớn nhất của Việt Nam lần lượt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc & Hong Kong, Thái Lan và EU. Riêng với thị trường Trung Quốc, nhu cầu nhập khẩu mực, bạch tuộc tăng mạnh ngay từ đầu năm. Trung Quốc nhập khẩu chủ yếu từ Việt Nam các sản phẩm như mực khô, mực ống và mực nang khô, mực nang nguyên con làm sạch đông lạnh, mực ống đã phân loại đông lạnh, mực tẩm bột Tempura đông lạnh, bạch tuộc cắt đông lạnh, bạch tuộc nguyên con làm sạch đông lạnh...

Tháo bỏ “nút thắt” nguồn nguyên liệu trong xuất khẩu cá ngừ

Theo VASEP, 6 tháng đầu năm, xuất khẩu cá ngừ đã ghi nhận sự tăng trưởng tốt, với giá trị kim ngạch ước đạt hơn 463 triệu USD, tăng hơn 21% so với cùng kỳ năm 2023. Hai thị trường hàng đầu của ngành hàng này là Mỹ và châu Âu. Dự báo đến hết tháng 6/2024, tăng trưởng xuất khẩu cá ngừ sang thị trường Mỹ đạt hơn 37%, còn châu Âu là hơn 23%. Tuy nhiên, theo phản ánh của các doanh nghiệp, họ đang gặp khó khi làm giấy xác nhận nguyên liệu (S/C). Dù doanh nghiệp đã tăng cường làm việc với các đầu mối và kiểm tra kỹ lưỡng, nhưng vẫn vô cùng thấp thỏm sau khi đã chốt mua xong nguyên liệu. VASEP đã kiến nghị Bộ NN&PTNT xem xét sửa đổi quy định để có thể cấp giấy xác nhận nguyên liệu S/C ngay cho doanh nghiệp khi đã hoàn thành việc bốc dỡ nguyên liệu từ tàu cá có sự giám sát của nhân viên cảng về chủng

Xuất khẩu nông sản vững đà tăng trưởng

Theo Bộ Công Thương, nông sản tiếp tục là điểm sáng về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm với giá trị kim ngạch ước 18,21 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2023.

Một số mặt hàng nông sản tăng cao trong 5 tháng đầu năm như: Cà phê tăng 43,9%; gạo tăng 38,2%; chè các loại tăng 20,1%; rau quả tăng 28,2%; nhân điều tăng 19,3%; hạt tiêu tăng 19,7%; sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 19,2%. Với nhóm hàng thủy sản, kim ngạch xuất khẩu ước đạt trên 4,4 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu tôm và cá tra tăng nhẹ (lần lượt là 7% và 4%); xuất khẩu cua, ghẹ tăng mạnh nhất (84%), cá ngừ cũng tăng tích cực (22%), xuất khẩu nhuyễn thể có vỏ tăng 13%.

Hiện, 4 thị trường lớn nhất nhập khẩu thủy sản Việt Nam là: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và EU. Tuy nhiên, từ đầu năm, chỉ thị trường Mỹ có dấu hiệu tích cực với mức tăng trưởng 7% trong khi xuất khẩu sang

Trung Quốc, Nhật Bản và EU tương đương cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng nhẹ 2%.

loại, khối lượng... tại cảng cá; có hướng dẫn, chỉ đạo việc giải quyết giấy S/C cho những trường hợp tàu cá bị mất kết nối do lỗi của nhà cung cấp dịch vụ được xác nhận.

Tôm hùm, cá biển tại Phú Yên tiếp

tục bị thiệt hại

Theo UBND thị xã Sông Cầu, những ngày cuối tháng 6, trên địa bàn xã Xuân Cảnh xảy ra tình trạng thủy sản nuôi chết đột ngột với số lượng lớn. Xã Xuân Cảnh có 88 hộ nuôi bị thiệt hại, trong đó có khoảng 40 lồng tôm hùm thịt chết, với số lượng tôm chết khoảng 1,7 tấn; tôm hùm con từ 1 - 2 tháng tuổi chết hơn 6.000 con; cá các loại chết gần 45 tấn; cá con từ 1 - 2 tháng tuổi chết khoảng 6.000 con… ước tính thiệt hại hơn 7,3 tỷ đồng. Địa phương đang triển khai các giải pháp khắc phục sự cố. Theo bà Lê Thị Hằng Nga, Phó

Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Phú Yên, kết quả đo các thông số tại hiện trường cho thấy, nguyên nhân gây chết cá, tôm hàng loạt có thể do hàm lượng ôxy hòa tan rất thấp kéo dài, thời điểm xảy ra tôm, cá chết (khoảng 2 - 3 giờ sáng) hàm lượng ôxy hòa tan chỉ đạt 2 - 3 mg/lít, dưới ngưỡng chịu đựng của các loài thủy sản nuôi.

Khánh Hòa

Quảng bá, tăng cường liên kết cho

sản phẩm tôm hùm

TP. Cam Ranh được coi là thủ phủ tôm hùm của cả nước với hàng chục nghìn lồng nuôi tôm hùm, trong đó xã Cam Bình có có khoảng 7.000 lồng tôm, sản lượng đạt khoảng 250 tấn tôm thịt. Nhằm quảng bá sản phẩm tôm hùm, tạo cơ hội gắn kết hợp tác giữa 4 nhà “nhà nông - nhà nước - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp” cho sản phẩm tôm hùm, UBND TP. Cam Ranh đã ban hành kế hoạch tổ chức Lễ hội tôm hùm Cam Ranh năm 2024 dự kiến diễn ra vào đầu tháng 8 tới. Lễ hội có 3 chuỗi hoạt động chính và 7 hoạt động đồng hành như: Hội thi thiết kế logo tôm hùm nhằm sáng tạo các logo gắn liền với hình tượng con tôm hùm Cam Ranh, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền, quảng bá hoạt động của lễ hội; tái hiện và phục dựng hoàn chỉnh nghi thức Lễ nghinh Ông; tổ chức các gian hàng

ẩm thực được chế biến từ tôm hùm và các loại hải sản khác của địa phương…

An Giang Nhiều diện tích nuôi cá tra đạt chứng nhận quốc tế

Thông tin từ Sở NN&PTNT tỉnh An Giang cho biết, hiện trên địa bàn tỉnh có trên 313 ha diện tích nuôi cá tra đạt các chứng nhận các tiêu chuẩn nhận quốc tế như: ASC, BAP, GlobalGAP và VietGAP, với sản lượng khoảng 200.000 tấn/năm, chiếm 25,6% diện tích nuôi cá tra toàn tỉnh. Trong đó diện tích nuôi cá tra đạt tiêu chuẩn ASC, BAP và chứng nhận khác là 252 ha; diện tích nuôi đạt chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP là 61,1 ha. An Giang hiện có nhiều cơ sở nuôi cá tra thương phẩm đạt chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế ASC, BAP như: Vĩnh Hoàn, Nam Việt, Sao Mai, Lộc Kim Chi, Hưng Phúc Thịnh, An Mỹ… với diện tích trên 253 ha, sản lượng đạt khoảng 87.000 tấn. Hiện tỉnh cũng có nhiều cơ sở sản xuất giống cá tra đạt chứng nhận quốc tế BAP, GlobalGAP như: Vĩnh Hoàn, Nam Việt, Nha Trang Seafood với diện tích trên 60 ha, năng lực sản xuất khoảng 4.300 con giống/năm.

Mộc Miên (Tổng hợp)
Vân Anh
Nguyễn Vy

Trung Quốc

Giảm tiêu dùng hải sản cao cấp

Trung Quốc vốn là thị trường lớn của các mặt hàng xa xỉ, tuy nhiên theo báo cáo mới đây của ngân hàng đầu tư Natixis (Paris, Pháp), do những bất ổn về kinh tế và căng thẳng địa chính trị nên người dân Trung Quốc phải thắt chặt chi tiêu, đặc biệt các mặt hàng xa xỉ, bao gồm hải sản cao cấp. Mặc dù tiêu dùng hàng xa xỉ từ đầu năm 2024 tại quốc gia này vẫn cao - ở mức 12% so với mức trung bình của toàn cầu (9%), nhưng đã giảm so năm 2023. Đây là một tín hiệu đáng lo ngại cho các nhà xuất khẩu hải sản cao cấp sang Trung Quốc. Theo Natixis: “Thúc đẩy chi tiêu cho hàng xa xỉ ở Trung Quốc sẽ là một cuộc chiến gian nan”.

Nhật Bản

Tiêu dùng sò điệp cao nhất thập kỷ

Theo Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản, trong năm tài chính 2023, tiêu dùng thịt sò điệp đông lạnh của

thị trường nội địa tăng 42% so với năm

trước, đạt 13.500 tấn. Đây cũng là lần đầu tiên trong 3 năm, tiêu dùng sò điệp nội

địa vượt khối lượng xuất khẩu. Sản lượng

thịt sò điệp của Nhật Bản trong năm 2023

tăng 18% lên 24.800 tấn. Nếu tính cả sản

lượng của tỉnh Tohoku, khu vực đông bắc

và tồn kho đầu kỳ, tổng sản lượng của cả

nước ước tính tăng 20%, lần đầu tiên chạm

mức 30.000 tấn trong 10 năm qua. Mặc dù

lệnh cấm của Trung Quốc được ban hành từ tháng 8/2023, nhưng xuất khẩu thịt sò

điệp đông lạnh của Nhật Bản vẫn tăng 14% lên 12.500 tấn, trong đó xuất khẩu sang Mỹ tăng 2,7 lần, sang Đài Loan tăng 17%. Tồn kho tính đến cuối tháng 3/2024 giảm 11% xuống 4.000 tấn.

Na Uy

Tiếp tục đối mặt với dịch bệnh trên

cá hồi

Mùa hè, phần lớn người nuôi cá hồi ở Na Uy phải đối mặt với bệnh thiếu máu truyền nhiễm ở cá hồi (ISA) và các đợt bùng phát bệnh thận do vi khuẩn (BKD). Trong năm qua, Na Uy phải vật lộn với số cá bệnh ISA và BKD cao hơn mức bình thường. Ngày 17/6/2024, Cơ quan An toàn Thực phẩm

Na Uy (Mattilsynet) báo cáo một trường hợp nghi ngờ mắc ISA tại trang trại 33737 Olausskjæret của Salmar Oppdrett, do Refsnes Laks vận hành. Trước đó, liên tục các ca nhiễm ISA đã bị phát hiện tại nhiều trang trại cá trên khắp Na Uy.

Seafood Expo Asia sẽ trở lại Singapore vào tháng 9

Seafood Expo Asia dự kiến diễn ra từ ngày 4 - 6 tháng 9 năm nay. Năm 2023 quy mô triển lãm tăng 86% so với năm 2022, với sự tham gia của 362 công ty đến từ 41 quốc gia. Diversified Communications - đơn vị điều hành Seafood Expo Asia, Seafood Expo Bắc Mỹ và Seafood Expo Toàn cầu cho biết, năm 2024, các công ty từ Úc, Canada, Chile, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Italy, Malaysia, Hà Lan, Na Uy, Philippines, Hàn Quốc, Singapore, Tây Ban Nha, Đài Loan, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam sẽ tham gia sự kiện; ngoài ra còn có một số nước lần đầu tham dự như Azerbaijan, Đan Mạch, Qatar và Venezuela.

2024

Dự kiến sản lượng cá hồi tăng

gấp đôi

Theo Spheric Research, sản lượng cá hồi Đại Tây Dương dự kiến đạt 25.000 tấn, tăng gần gấp đôi so năm 2023. Con số này được đưa ra dựa trên kế hoạch sản xuất trong năm mà các công ty lớn đã công bố và tính toán tỷ lệ sản xuất trung bình cho các công ty nhỏ hơn. Trong số 50 dự án nuôi cá hồi di cư được phác thảo trên giấy vào năm 2021, 25 dự

án đã và đang triển khai, trong đó một nửa áp dụng mô hình nuôi RAS (công nghệ xử lý nước tuần hoàn), số còn lại tập trung vào các đối tượng nuôi khác như cá hồi không di cư và cá hồi chấm.

Ảnh: ST

Anh, Na Uy, quần đảo Faroe  Đạt thỏa thuận về hạn ngạch khai thác cá thu

Anh, Na Uy và quần đảo Faroe mới đây đã ký hiệp định 3 bên về quản lý, phân phối và khai thác cá thu tại vùng biển của mỗi quốc gia. Nội dung của hiệp định bao gồm hạn ngạch, khu vực cho phép khai thác, hợp tác và ứng dụng khoa học trong 3 năm. Theo đó, hạn ngạch của Na Uy trong năm 2024 là 229.210 tấn, Anh là 203.211 tấn và quần đảo Faroe là 98.708 tấn; tương đương 31%, 27,5% và 13,4% tổng sản lượng khai thác cho phép tại đông bắc Đại Tây Dương. Hiệp định cũng mở rộng cho các khu vực có biển như Ireland và Greenland tham gia nếu muốn. An Vy (Tổng hợp)

CON SỐ & SỰ KIỆN

29,2 tỷ USD

Là giá trị kim ngạch xuất khẩu nhóm ngành nông, lâm, thủy sản 6 tháng đầu năm, tăng 19% so cùng kỳ năm 2023.

4.384,7 nghìn tấn

Là tổng sản lượng thủy sản thu hoạch cả nước trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2023.

2.431,4 nghìn tấn

Là tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng thủy sản cả nước trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng 4,1% so cùng kỳ năm 2023.

1.953,3 nghìn tấn

Là tổng sản lượng thủy sản khai thác cả nước trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng 1,0% so cùng kỳ năm 2023.

mua bán trái phép

Chiều 12/6, Tòa án Nhân dân tối cao đã tổ chức Lễ công bố Nghị quyết

số 04/2024/NQ-HĐTP “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ

luật Hình sự về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi liên quan

đến khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản”.

Nghị quyết 04/2024/NQ-HĐTP gồm 11 điều, hướng dẫn áp dụng 10 điều của Bộ luật Hình sự liên quan đến các hành vi: Xuất cảnh, nhập cảnh để khai thác thủy sản trái phép; bảo vệ nguồn lợi thủy sản; cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông để khai thác thủy sản trái phép; xâm phạm trong lĩnh vực thương mại thủy sản.

Một số nội dung chính của Nghị quyết: - Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi xuất cảnh đi khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam (Điều 3)

Nghị quyết hướng dẫn người chỉ huy cao nhất trên tàu cá (thuyền trưởng hoặc chủ tàu trong trường hợp chủ tàu đồng thời là thuyền trưởng) bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về xuất cảnh quy định tại Điều 347 của Bộ luật Hình sự khi thuộc một trong hai trường hợp sau đây: (1) Không làm thủ tục

Ngày 6/5/2024, Bộ NN&PTNT đã ban hành Thông tư số 06/2024/TT-BNNPTNT về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2018/TT-BNNPTNT của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT quy định về đăng kiểm viên tàu cá; công nhận cơ sở đăng kiểm tàu cá; bảo đảm an toàn kỹ thuật tàu cá, tàu kiểm ngư; đăng ký tàu cá, tàu công vụ thủy sản; xóa đăng ký tàu cá và đánh dấu tàu cá. Theo đó, Thông tư này cho phép tàu cá đã đóng mới, cải hoán, mua bán, cho tặng đang hoạt động nhưng không đủ hồ sơ được đăng ký, đăng kiểm và cấp phép khai thác thủy sản.

xuất cảnh cho tàu cá, thành viên tàu cá và ngư dân theo quy định; (2) Có làm thủ tục xuất cảnh nhưng sau khi xuất cảnh đã tẩy, xóa số đăng ký tàu cá hoặc viết số đăng ký tàu cá không đúng với thông tin do cơ quan có thẩm quyền cấp để thành viên tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam. - Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép để đưa tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam (Điều 4)

Để xử lý nghiêm các vụ, việc môi giới, móc nối đưa tàu cá, ngư dân Việt Nam đi khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam, Nghị quyết hướng dẫn người tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép để đưa tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép quy định tại Điều 348 của Bộ luật Hình sự trong các trường hợp sau đây: (1) Không làm thủ tục về xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định của pháp luật; (2) Làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh nhưng khai thác thủy sản không đúng khu vực được cơ quan có thẩm quyền cấp phép, chấp thuận hoặc giấy phép khai thác hết hạn. Trường hợp tổ chức, môi giới cho người khác đưa tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển của Việt Nam mà ngư dân, thành viên tàu cá trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép theo quy định tại Điều 349 của Bộ luật Hình sự. Bên cạnh đó, Nghị quyết còn hướng dẫn cụ thể về hành vi tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh; môi giới tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh để đưa tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản ở ngoài vùng biển của Việt Nam.

- Về truy cứu trách nhiệm hình sự người nước ngoài về hành vi đưa tàu cá khai thác thủy sản trái phép tại vùng biển Việt Nam (Điều 7) Nghị quyết hướng dẫn người nước ngoài sử dụng tàu cá đi vào vùng biển Việt Nam để khai thác thủy sản mà không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định thì bị truy cứu trách nhiệm

Ngày 12/6/2024, Ban cán sự Đảng Bộ NN&PTNT đã có văn bản đề nghị Bí

thư tỉnh, thành ủy và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố ven biển tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác chống khai thác IUU và chuẩn bị làm việc với

Thanh tra của EC lần thứ 5. Trong đó có một số nội dung trọng tâm là, từ ngày 15/8/2024, cơ quan quản lý thủy sản cấp tỉnh (Chi cục Thủy sản) chỉ thực hiện cấp Giấy chứng nhận nguồn gốc thủy sản khai thác (Giấy CC) qua hệ thống eCDT. Đảm bảo 100% tàu cá đủ điều kiện hoạt động được đánh dấu, viết số đăng ký tàu cá theo đúng quy định; vận động chủ tàu cá không

VĂN BẢN MỚI

 Thủ tục hành chính sửa đổi, bổ sung lĩnh vực biển và hải đảo Ngày 4/6/2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Quyết định số 1524/ QĐ-BTNMT về việc công bố các thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực biển và hải đảo thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Ảnh: ĐP

đủ điều kiện hoạt động không để ngư cụ và trang thiết bị phục vụ khai thác trên tàu…

khai thác thủy sản trái phép hoặc có hành vi vi phạm pháp luật hình sự khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tương ứng của Bộ luật Hình sự và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

- Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép thủy sản, dùng thủ đoạn gian dối mua, bán thủy sản (Điều 10)

Nghị quyết hướng dẫn người nào buôn bán thủy sản qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại, mà không có giấy phép xuất nhập khẩu thủy sản hoặc không đúng với nội dung giấy phép thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu quy định tại Điều 188 của Bộ luật Hình sự. Người nào vận chuyển thủy sản qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc vào vùng biển Việt Nam nhưng không có giấy phép, không đúng với nội dung giấy phép, không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới quy định tại Điều 189 của Bộ luật Hình sự. Người nào dùng thủ đoạn gian dối như hợp thức hóa hồ sơ, chứng từ, nguồn gốc thủy sản khai thác trái phép để mua, bán thì bị truy cứu trách nhiệm về tội lừa dối khách hàng theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật Hình sự.

Vân Anh

Theo đó, Danh mục thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp Trung ương gồm 2 thủ tục hành chính gồm: Khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo thông qua mạng điện tử và Khai thác và

sử dụng cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo thông qua phiếu

yêu cầu hoặc văn bản yêu cầu.

Danh mục thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh gồm

2 thủ tục hành chính gồm: Khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo thông qua mạng

điện tử và Khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo thông qua phiếu yêu cầu hoặc văn bản yêu cầu.

 Hỗ trợ phát triển NTTS quảng canh

Ngày 15/6/2024, UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Kế hoạch số 130/KHUBND hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) quảng canh trong lòng hồ chứa, thủy lợi, thủy điện năm 2024. Mục tiêu kế hoạch nhằm hỗ trợ phát triển NTTS quảng canh trong lòng hồ chứa, thủy lợi, thủy điện theo quy hoạch phát triển thủy sản của địa phương hoặc đã được cho chủ trương đầu tư NTTS; đầu tư hỗ trợ con giống, hướng dẫn kỹ thuật, phổ biến kiến thức về nuôi thủy sản quảng canh trong lòng hồ chứa thủy lợi, thủy điện.

 Chính phủ gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất năm 2024

Ngày 17/6/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2024/NĐ-CP quy định về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia

tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2024. Theo đó, thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của tháng, quý được gia hạn như sau: Thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 5/2024 chậm nhất là ngày 20/11/2024; thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 6/2024 chậm nhất là ngày 20/12/2024; thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 7/2024 chậm nhất là ngày 20/12/2024; thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 8/2024 chậm nhất là ngày 20/12/2024; thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế tháng 9/2024 chậm nhất là ngày 20/12/2024; thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế quý II/2024 chậm nhất là ngày 31/12/2024; thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng của kỳ tính thuế quý III/2024 chậm nhất là ngày 31/12/2024.

 Thành lập khu bảo tồn biển tỉnh Cà Mau

Ngày 18/6/2024, UBND tỉnh Cà Mau đã ban hành Quyết định số 1206/QĐUBND về việc phê duyệt thành lập khu bảo tồn biển tỉnh Cà Mau. Theo đó, Khu bảo tồn biển có tổng diện tích 27.000 ha. Phạm vi khu bảo tồn biển tập trung chủ yếu ở 3 cụm đảo gồm: Hòn Khoai, Hòn Chuối và Hòn Đá Bạc. Đối tượng bảo tồn là hệ sinh thái san hô, bãi giống, bãi đẻ và các loài thủy sinh vật sinh sống trong khu vực bảo tồn; đặc biệt là các loài quý hiếm, loài có giá trị kinh tế và khoa học. 

CHƯA TƯƠNG XỨNG VỚI

TIỀM NĂNG

Tiềm năng nuôi biển của Việt Nam là rất lớn nhưng phát triển chưa

tương xứng do vướng nhiều rào cản về giao mặt nước biển, công nghệ

lồng nuôi, con giống, thức ăn và hạ tầng logistic.

Chiều 27/6, tại TP. Rạch Giá, UBND tỉnh Kiên Giang phối hợp với Bộ NN&PTNT tổ chức “Hội nghị về thực

trạng và định hướng phát triển nuôi biển tỉnh tỉnh Kiên Giang đến năm 2030”, với sự tham dự của đại diện Cục Thủy sản, các sở, ngành, doanh nghiệp và ngư dân. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến và Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang Lâm Minh Thành đồng chủ trì Hội nghị.

Giàu tiềm năng, nhưng...

Phát biểu tại Hội nghị, ông Trần Đình Luân - Cục trưởng Cục Thủy sản đánh giá tiềm năng nuôi biển của Việt Nam là rất lớn. Hiện cả nước đang có 9,5 triệu m3 lồng nuôi cá biển các loại, tôm hùm và 57.000 ha nuôi nhuyễn thể. Sản lượng nuôi biển hàng năm đạt khoảng 800.000 tấn, trong đó nhuyễn thể, cá biển và tôm hùm chiếm trên 62%, còn lại là đối tượng khác. Giá trị kim ngạch xuất

khẩu đạt từ 0,8 đến 1 tỷ USD.

Vùng biển Kiên Giang có nhiều lợi thế cho phát triển nuôi biển như: Bờ biển dài, nhiều đảo, vịnh kín gió, ít bị gió bão. Tuy nhiên, hiện nay công nghệ nuôi biển của ngư dân Kiên Giang còn lạc hậu, tự chế bằng cây gỗ, nguồn thức ăn chủ yếu là cá tạp, gây ô nhiễm môi trường, tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh và hiệu quả chưa cao. Con giống còn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu và khai thác ngoài tự nhiên nên bị động. Chưa có chuỗi nuôi biển hiệu quả, tiêu thụ sản phẩm nuôi biển hiện nay chủ yếu thông qua thương lái thu gom nên giá cả không ổn định.

Ngoài ra, thủ tục cấp phép đầu tư nuôi biển hiện nay còn phải thông qua nhiều Bộ, ngành và rất chậm. Hiện thủ tục cấp phép nuôi trồng thủy sản trên biển được thực hiện trước thủ tục giao khu vực nuôi biển và cả hai thủ tục đều yêu cầu nộp các văn bản liên quan về đánh giá tác động môi trường.

Vì vậy, cần đơn giản hóa thủ tục, thực hiện liên thông thủ tục hành chính để giảm chi phí

tuân thủ pháp luật cho tổ chức, cá nhân thực hiện dự án nuôi biển.

Đồng quan điểm, ông Quách Văn ToànPhó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang cho rằng, việc xem xét giao khu vực nuôi biển cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên biển trên địa bàn tỉnh phải căn cứ theo Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Tuy nhiên, đến nay các quy hoạch này vẫn chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Do đó, để thực hiện, tỉnh phải lấy ý kiến 2 lần của nhiều Bộ liên quan, mất rất nhiều thời gian. Trong khi đó, tỉnh Kiên Giang đang thực hiện đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, số lượng hồ sơ đề nghị giao khu vực biển để thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội là rất lớn. Đánh thức tiềm năng Về phần mình, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến đánh giá, tiềm năng nuôi biển của Kiên Giang nói riêng và Việt Nam nói chung là rất lớn, với nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. Ngư trường rộng và môi trường biển của Kiên Giang thuận lợi cho phát triển nuôi biển, cả ven bờ, quanh các đảo và khơi xa. Hiện hệ thống hạ tầng, cảng ở đảo và Trung tâm nghề cá tỉnh Kiên Giang đang được triển khai đầu tư xây dựng sẽ tạo điều kiện cho nghề nuôi biển phát triển hiệu quả, đồng bộ. Để đánh thức tiềm năng nuôi biển của Kiên Giang, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đề nghị, địa phương khi tập trung phát triển kinh tế biển cần thực hiện quy hoạch ngành, quy hoạch quốc gia, tích hợp quy hoạch của tỉnh và phải tập trung gỡ khó về giao mặt nước biển để doanh nghiệp, ngư dân sớm triển khai dự án nuôi biển. Tập trung đầu tư hạ tầng cho nông nghiệp, hạ tầng thủy sản, đảm bảo đáp ứng nhu cầu phát triển thủy sản. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho nuôi biển. Có chính sách thu hút đầu tư, nhất là những tập đoàn, doanh nghiệp lớn sở hữu công nghệ lồng nuôi, quy trình nuôi hiện đại, cơ giới hóa các công đoạn nuôi, đạt sản lượng lớn… Nuôi đa loài cá biển, rong biển, kết hợp khai thác du lịch để tăng hiệu quả trên cùng diện tích. Xây dựng chuỗi giá trị nuôi biển, doanh nghiệp đầu tư nuôi phải gắn với chế biến, xuất khẩu.

PHÁT TRIỂN NUÔI BIỂN

VÌ TƯƠNG LAI XANH

Bài: Hồng Hạnh - Ảnh: Thùy Khánh

HIỆN NAY, NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TRÊN BIỂN

(CÒN GỌI LÀ NUÔI BIỂN) ĐÓNG VAI TRÒ ĐẶC

BIỆT QUAN TRỌNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH

TẾ BIỂN, GÓP PHẦN ĐƯA NƯỚC TA TRỞ THÀNH

MỘT QUỐC GIA MẠNH VỀ BIỂN, GIÀU TỪ BIỂN

TRONG THẾ KỶ CỦA BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG. TUY

TIỀM NĂNG, LỢI THẾ CHO VIỆC PHÁT TRIỂN

NUÔI BIỂN LÀ CÓ NHƯNG MUỐN “BAY XA”,

MUỐN TẠO NÊN MỘT HỆ SINH THÁI PHÁT

TRIỂN MẠNH MẼ, NGHỀ NUÔI BIỂN VẪN CÒN

NHIỀU KHÓ KHĂN CẦN PHẢI ĐƯỢC THÁO GỠ.

Dưới đây là chia sẻ của PGS.TS Nguyễn Chu Hồi - Phó Chủ tịch thường trực Hội Thủy sản Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Khóa XV xung quanh vấn đề này.

 Theo Bộ NN&PTNT, bảo vệ nguồn lợi thủy sản biển nằm trong 3 trụ cột của phát triển kinh tế thủy sản Việt Nam gắn liền với giảm khai thác, tăng nuôi trồng và bảo tồn biển. Nhận định của ông về vấn đề này nhất là việc phát triển nghề nuôi biển, thưa ông? Thủy sản là ngành kinh tế sản xuất hàng hoá gắn với thị trường có kiểm soát với cơ cấu chính gồm: Khai thác, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu, cơ sở hạ tầng nghề cá và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Về đại thể, phát triển thủy sản diễn ra trên hai mảng không gian chính là: Nội địa (nước ngọt) và nghề cá biển (nước mặn và lợ). Đích chung của ngành thủy sản nước ta hướng tới là phát triển nghề cá biển hiệu quả, bền vững và có trách nhiệm dựa trên nền tảng

XANH

PGS.TS

Nguyễn Chu HồiPhó Chủ tịch

thường trực Hội

Thủy sản Việt Nam,

biểu Quốc hội Khóa XV

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và được điều

tiết linh hoạt theo diễn biến của thị trường.

Hơn 35 năm đổi mới vừa qua, ngành thủy sản

nước ta đã duy trì được mức tăng trưởng liên

tục và khá ổn định, đóng góp quan trọng vào thị phần xuất khẩu của đất nước. Song, sự tăng trưởng đó chưa tác động là bao đến đời sống của chính người lao động nghề cá, đặc biệt ngư dân, trong khi nguồn lợi hải sản giảm sút nhanh chóng, đôi nơi nghiêm trọng. Chỉ riêng trữ lượng hải sản ở vùng biển thềm lục địa và khu vực biển huyện đảo Trường Sa của nước ta đã giảm 14 - 16% so với trước năm 2010 và từ năm 2000, vùng biển sát bờ (độ sâu từ bờ ra đến 30m), về cơ bản, đã bị đánh bắt quá mức (Overfishing); diện tích các hệ sinh thái biển - ven biển tiêu biểu (rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô, đất ngập nước thủy triều) bị thu hẹp (40% - 70%) và suy thoái do bị tẩy trắng; hiệu suất khai thác cũng giảm sút nhanh so với trước năm 1980, trong khi cường lực

đánh bắt vẫn vượt quá khả năng nguồn lợi. “Ao nhà” ít tôm cá, ngư dân ta đã đi

đánh cá bất hợp pháp (IUU) và nghề cá đánh bắt bị Ủy ban châu Âu (EC) cảnh báo “thẻ vàng” từ 6 năm trước, giờ vẫn

chưa thể khắc phục dù cả nước đã rất cố gắng vào cuộc. 

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nước biển dâng, thiên tai biển diễn biến khó lường, ngày càng cực đoan thì hoạt động của con người trên biển, đảo và vùng ven biển đã làm cường hóa các tác động tiêu cực đến nguồn lợi thủy sản của những tác nhân trên. Vì vậy, việc giảm khai thác và cường lực khai thác thủy sản, gia tăng NTTS nước mặn - lợ, ưu tiên NTTS trên biển (gọi tắt là nuôi biển) là một chủ trương đúng, phù hợp với tiềm năng, lợi thế và mang tầm chiến lược nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản hiệu quả ở nước ta, góp phần thực hiện các cam kết quốc tế về phát triển nghề cá bền vững và có trách nhiệm.

 Có thể thấy, nguồn lợi thủy sản đang giảm sút nghiêm trọng trong đó có nguồn lợi từ biển. Theo ông, việc cân bằng giữa bảo vệ môi trường và phát triển trong kinh tế biển có phải là giải pháp cho vấn đề này và cần thực hiện ra sao?

Nhìn từ góc độ môi trường thì ngành thủy sản vừa là “nạn nhân” vừa là “thủ phạm”. Phát triển thủy sản chịu tác động rất mạnh từ các hoạt động kinh tế biển, ven biển khác (gây ô nhiễm, suy thoái, thu hẹp diện tích hệ sinh thái…). Ngược lại, các hoạt động sản xuất thủy sản cũng thải ra môi trường các chất thải hữu cơ dễ phân hủy, phát tán rộng và các chất thải rắn khó phân hủy, bao gồm rác thải nhựa (lưới sợi, bao bì nilon, hộp xốp…).

Trong điều kiện nguồn lợi hải sản và cơ sở nguồn lợi cho phát triển thủy sản bền vững ở nước ta bị giảm sút nghiêm trọng thì việc cân bằng giữa môi trường và phát triển sẽ là cách tiếp cận quan trọng. Nguyên tắc cân bằng giữa môi trường và phát triển thủy sản và công bằng lợi ích giữa các thế hệ đã được xem là con đường đi tới phát triển nghề cá bền vững và có trách nhiệm ở nước ta. Theo đó, các hoạt động thủy sản phải thân thiện với môi trường, không để lại tồn dư chất ô nhiễm trong môi trường, không thải bỏ ra môi trường xung quanh chất thải thủy sản chưa qua xử lý; bảo toàn các giá trị dịch vụ của hệ sinh thái biển, ven biển - nền tảng phát triển bền vững; mở rộng diện tích và quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, các bãi giống, bãi đẻ của thủy sản…

Bên cạnh đó, nghiêm cấm sử dụng các ngư cụ và hoá chất hủy diệt nguồn lợi thủy sản. Thực hiện tốt Quyết định số 1481 về quản lý nghề cá theo hạn ngạch khai thác, Quyết định

số 208 về chuyển đổi, tái cơ cấu đội tàu đánh cá, giảm cường lực khai thác hải sản… Phòng ngừa, ngăn chặn đánh cá bất hợp pháp IUU và nỗ lực thoát “thẻ vàng” của EC. Chú trọng phát triển nghề cá giải trí, chuyển đổi nghề cho ngư dân, cải thiện sinh kế của ngư dân, tạo “lợi ích kép” thông qua kết hợp tạo nghề mới, như: Du lịch trải nghiệm nghề cá dựa vào cộng đồng, nghề dược liệu biển…Quản lý tổng hợp nghề cá theo không gian và cách tiếp cận liên ngành

Đề án nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định nuôi biển phát triển theo hướng của một ngành hàng nuôi thủy sản gắn với công nghệ tiên tiến, quy hoạch chặt chẽ, phương thức quản lý hiện đại. Nuôi biển đã tìm thấy chỗ đứng trên thị trường thủy sản quốc tế do sử dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm nuôi sạch...

nhằm giảm thiểu xung đột trong sử dụng không gian biển. Ứng dụng chuyển đổi số, công nghệ mới trong quản lý nghề cá, bảo quản sau thu hoạch thủy sản, bảo vệ môi trường và phòng chống dịch bệnh vùng nuôi thủy sản.

 Ông từng chia sẻ, để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển theo hướng chuyển từ “nâu” sang “xanh”, Chính phủ cần có những chính sách đặc thù. Ông có thể nói rõ hơn về vấn đề này, trong đó có các chính sách dành cho nuôi biển, thưa ông?

Chuyển dịch kinh tế biển từ “nâu” sang “xanh” trở thành xu thế trong quá trình chuyển đổi xanh trên thế giới và ở nước ta. Kinh tế biển “nâu” ưu tiên phát triển kinh tế trước và xử lý ô nhiễm sau, không hoặc chưa quan tâm đến an toàn sinh thái, môi trường và bảo đảm an sinh xã hội. Tăng trưởng của kinh tế biển “nâu” dựa vào khai thác nguồn tài nguyên biển sẵn có, đồng nghĩa với khai thác và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, dẫn đến những hệ lụy về môi trường và xã hội. Kinh tế biển “xanh” lấy môi trường làm “chất xúc tác” cho tăng trưởng, thoát dần nền kinh tế “nâu” và tăng cường phúc lợi xã hội.

Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 yêu cầu phải tăng diện tích vùng biển được bảo tồn, phát triển kinh tế biển “xanh”, phát huy các giá trị văn hoá biển đặc trưng của Việt Nam, phát triển năng lượng biển tái tạo và đẩy mạnh nuôi biển công nghệ cao, thân thiện với môi trường… Sau gần 6 năm thực hiện Nghị quyết 36, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan tới phát triển bền vững kinh tế biển nói chung và nghề cá bền vững nói riêng. Trong đó, cần sớm có chính sách tháo gỡ khó khăn trong triển khai đồng quản lý nguồn lợi thủy sản theo quy định của Luật Thủy sản (2017), tăng cường phối hợp giữa các ngành để gỡ bỏ rào cản về thủ tục hành chính liên quan tới cấp phép cho nuôi biển.  Trong Đề án nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nuôi biển được định hướng phát triển ngành hàng nuôi trồng gắn công nghệ tiên tiến, quy hoạch chặt chẽ, phương thức quản lý hiện đại. Ông có thể chia sẻ đôi nét về vai trò và những thành tựu của công nghệ nuôi biển hiện nay? Tiềm năng và diện tích có thể nuôi biển ở nước ta rất lớn. Nuôi biển cùng với nuôi trồng thủy sản nói chung không chỉ góp phần giảm áp lực cho khai thác thủy sản trên biển, mà còn kỳ vọng sẽ có những đóng góp lớn cho kinh tế thủy sản nói riêng và kinh tế biển nói chung. Vì thế, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và xác định nuôi biển phát triển theo hướng của một ngành hàng nuôi thủy sản gắn với công nghệ tiên tiến, quy hoạch chặt chẽ, phương thức quản lý hiện đại. Nuôi biển đã tìm thấy chỗ đứng trên thị trường thủy sản quốc tế do sử dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm nuôi sạch… Một số mô hình nuôi biển công nghệ cao đã thành công trên thế giới ở Na Uy, Mỹ, Trung Quốc... Việt Nam có Công ty Australis nuôi cá chẽm công nghệ cao ở vịnh Vân Phong. Hoạt động nuôi biển còn bắt gặp ở Quảng Ninh, Ninh Thuận, Kiên Giang và vịnh Cam Ranh… Mức độ tự động hóa trong quá trình nuôi biển này rất cao nên giảm thiểu được

phổ thức ăn và mức độ tiêu thụ của thủy sản nuôi nên lượng tồn dư thức ăn trong khu vực nuôi là không đáng kể. Mô hình nuôi biển này

đòi hỏi suất đầu tư cao, công nghệ cao và kỹ năng quản trị tốt. Cho nên, để nhân rộng mô hình này cần phải có lộ trình thích hợp, có sự vào cuộc của doanh nghiệp và phải đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

 Mặc dù là ngành hàng có nhiều tiềm năng, thế mạnh, nhưng phát triển nuôi biển vẫn còn vấp phải những trở ngại không nhỏ. Theo ông, chúng ta cần tập trung vào những giải pháp nào để tháo bỏ “nút thắt” đó, giúp ngành nuôi biển cất cánh?

Đúng là cơ hội cho phát triển nuôi biển ở nước ta thì lớn, nhưng thách thức cũng không hề nhỏ, nhất là khi người nuôi vẫn đang làm ăn nhỏ, thiếu quy hoạch, đầu tư quy mô nhỏ, năng lực quản lý và hiểu biết kỹ thuật nuôi còn rất hạn chế. Cho nên, nuôi biển vẫn còn vấp phải các “nút thắt”, như: Quy hoạch sử dụng biển chưa được phê duyệt, tiêu chuẩn cho một vùng nuôi biển và quy chuẩn kỹ thuật nuôi thủy sản công nghệ cao còn thiếu, nguồn vốn đầu tư, thị trường cho đầu ra, nguồn nhân lực và mô hình quản trị khu nuôi biển… Để tháo gỡ những “nút thắt”, biến thách thức thành cơ hội thì cần phải giải quyết đồng bộ các giải pháp. Trước hết, phải có quy hoạch không gian biển quốc gia được phê duyệt, địa phương chủ động phân vùng chức năng biển và bố trí không gian cho nuôi biển. Thứ hai, phải sớm ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật cho một vùng nuôi biển sau khi cấp phép giao khu vực biển (vị trí vùng nuôi biển, mật độ lồng trong một vùng, mật độ con nuôi trong một lồng, chủng loại và lượng thức ăn, quy trình nuôi). Thứ ba, tiến hành thử nghiệm mô hình quản trị công tư đối với vùng nuôi theo cách tiếp cận đồng quản lý. Thứ tư, xác định lộ trình phát triển nuôi biển để người dân thích ứng dần với công nghệ nuôi mới ở quy mô lớn, xa bờ hơn. Thứ năm, có cơ chế, chính sách đặc thù về huy động vốn cho nuôi biển, kể cả hỗ trợ ban đầu cho người nuôi biển. Thứ sáu, triển khai công tác khuyến ngư để giúp người nuôi và cán bộ quản lý nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng nuôi biển. Thứ bảy, xúc tiến thương mại và mở thị trường cho xuất khẩu mặt hàng từ nuôi biển theo chuỗi cung ứng.

 Trân trọng cảm ơn ông!

Gỡ các điểm nghẽn để

phát triển

bền vững nuôi biển

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng

Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam

Nhiều khó khăn, vướng mắc

Phát triển ngành công nghiệp nuôi biển tại Việt Nam vẫn đang vướng nhiều khó khăn, ách tắc. Cụ thể:

Thứ nhất, thiếu quy hoạch. Không có quy hoạch thì không giao được lâu dài các khu vực biển cho nuôi biển.

Thứ hai, thủ tục giao khu vực biển quá phức tạp dẫn đến việc chưa địa phương nào giao được khu vực biển dài hạn theo Luật Thủy sản.

Thứ ba, thiếu tiêu chuẩn và quy chuẩn về nuôi biển. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chưa ban hành các quy chuẩn Việt Nam về nuôi biển.

Thứ tư, chưa có cơ quan và thủ tục đăng kiểm cơ sở nuôi biển.

Thứ năm, chưa có bảo hiểm cho hoạt động nuôi biển.

Thứ sáu, chưa có chính sách hỗ trợ nuôi biển.

Thứ bảy, thiếu chương trình và tổ chức đào tạo nhân lực nuôi biển.

Kiến nghị

Từ những vấn đề nêu trên, Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam đề nghị 4 nội dung chính:

Ba, đề nghị các tỉnh, thành phố chủ động xây dựng quy chuẩn, quy định và các biện pháp hiệu quả để phát triển bền vững công nghiệp nuôi biển, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng các mô hình nuôi biển tiên tiến.

Bốn, Chính phủ/Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế phối hợp trong quản lý giữa nuôi biển với các ngành kinh tế biển khác, tránh độc quyền đơn ngành, lãng phí tài nguyên biển; ban hành các chính sách tạo cơ sở pháp lý để phát triển các cụm công nghiệp trên biển tại những địa phương có điều kiện thuận lợi. Nếu nhanh chóng tháo gỡ các điểm nghẽn nêu trên trong thực hiện chính sách, sẽ giảm bớt khó khăn; tạo động lực giúp các chủ

Một, Chính phủ cần kiểm tra tình hình thực hiện Đề án Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030 theo hướng phát triển bền vững. Bộ NN&PTNT chỉ định cơ quan đăng kiểm các cơ sở nuôi biển... tín dụng và đào tạo phát triển nhân lực; phối hợp vối Bộ Lao động xây dựng trình Chính phủ Chương trình phát triển nuôi biển công nghiệp đến năm 2030, theo hướng phát triển bền vững; chỉ định cơ quan đăng kiểm các cơ sở nuôi biển, xây dựng và ban hành các thủ tục đăng kiểm cơ sở nuôi biển; đưa vào kế hoạch năm 2024 - 2025 xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật cho nuôi biển công nghiệp; phối hợp với Bảo hiểm Việt Nam ban hành các quy định về bảo hiểm cho hoạt động nuôi biển; trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định 67/2014/NĐ-CP, với chính sách hỗ trợ sau đầu tư, bảo hiểm, tín dụng và đào tạo phát triển nhân lực; phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ GD&ĐT xây dựng chương trình đào tạo cho các ngành học nuôi biển công nghiệp. Hai, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định 11/2021/NĐ-CP, đơn giản hóa thủ tục và nhất thể hóa cơ quan chủ trì cấp phép nuôi biển ở địa phương.

Việt Nam - Na Uy

Phát triển hợp tác trong ngành nuôi biển

là quốc gia có nghề nuôi biển rất phát triển. Na Uy cũng là hình mẫu lý tưởng mà ngành thủy sản Việt Nam mong muốn học hỏi để phát huy tiềm năng nuôi biển trong nước.

 Thưa bà Mette Møglestue, Đại diện lâm thời, Đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội, xin phép được trao đổi với bà một số vấn đề về nuôi biển của Na Uy và kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam. Thưa bà, tại một cuộc họp với Cục Thủy sản mới đây, bà đã chia sẻ rằng Na Uy phải mất nhiều năm để xây dựng thành công nghề nuôi biển như hiện nay. Bà có thể chia sẻ thêm về điều này?

Là một quốc gia biển, 70% thu nhập xuất khẩu của Na Uy đến từ các hoạt động trên biển và do đó, Chính phủ Na Uy dành ưu tiên cao cho việc phát triển các ngành kinh tế biển, và vì thế Na Uy đã trở thành một trong những quốc gia có ngành công nghiệp thủy sản đi đầu thế giới.

Thành công này có được nhờ rất nhiều yếu tố, trong đó phải kể tới hệ thống quản lý hiệu quả của nhà nước với sự tham gia và hợp tác của tất cả các bên liên quan, các chính sách thúc đẩy đổi mới, nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng như ứng dụng công nghệ tiên tiến và thực tiễn bền vững trong toàn ngành.

Ví dụ, chúng tôi áp dụng các quy định nghiêm ngặt về nuôi trồng để giảm thiểu tác động đến môi trường, giảm sử dụng kháng sinh và chú ý nhiều hơn tới sức khỏe và phúc lợi của vật nuôi. Cụ thể là, các trang trại nuôi cá hồi phải được bố trí rất xa bờ, cách xa các khu vực giao thông hàng hải. Tỷ lệ phân bổ các trang trại nuôi ở Na Uy là dưới 750/28.953 km đường bờ biển. Việc cấp phép cho các trại nuôi được tiến hành rất cẩn trọng để tránh sự phát triển quá mức. Để cá hồi có điều kiện sống và phát triển tốt, các doanh nghiệp nuôi phải đảm bảo ít nhất 97,5% nước cho mỗi 2,5% cá hồi. Các khu vực nuôi được thiết kế và duy trì để đảm bảo dòng nước ngọt ổn định và tự do chảy qua lồng cá. Độ bão hòa ôxy, nhiệt

được chăm sóc hết sức cẩn thận để tránh sự căng thẳng vì điều này có thể ảnh hưởng tới chất lượng và hương vị của cá. Sau khi được phê duyệt, địa điểm nuôi phải đồng ý chịu sự giám sát chặt chẽ và thường xuyên. Sau mỗi chu kỳ nuôi, các trang trại phải được nghỉ để bảo vệ môi trường tự nhiên. Trong thời gian này, đáy biển được theo dõi chặt chẽ. Chúng tôi hạn chế số lượng trang trại ở mức dưới 750 trên 28.953 km bờ biển và giấy phép được phân bổ một cách tiết kiệm để tránh phát triển quá mức.

 Việt Nam có vùng biển rộng và tiềm năng nuôi biển rất lớn. Hiện, Việt Nam đang đẩy mạnh chương trình nuôi biển nhằm tận dụng tối đa lợi thế và giảm áp lực cho lĩnh vực khai thác. Theo bà, nghề

nuôi biển của Việt Nam có thể học được

gì từ kinh nghiệm của Na Uy?

Chúng tôi chúc mừng Việt Nam vừa thông qua Quy hoạch không gian biển (QHKGB)

đầu tiên ngày 28 tháng 6 vừa qua. Một QHKGB tốt sẽ là nền tảng cần thiết để đảm

bảo sự cùng tồn tại và phát triển bền vững của tất cả các ngành kinh tế biển. Tất cả sẽ

bắt đầu từ một khung pháp lý hiệu quả.

Mới đây, Chính phủ Na Uy cũng vừa công

bố Kế hoạch khai thác các vùng biển Na Uy, nhằm mục đích đảm bảo các ngành công

nghiệp trên biển của Na Uy sẽ cùng phát triển và vận hành hiệu quả.

Na Uy và Việt Nam đều là các quốc gia biển. Chúng ta đều nhận thấy tầm quan trọng của biển đối với nền kinh tế của chúng ta, do đó cần phải bảo vệ tài nguyên biển cho các thế hệ tương lai. Biển là nguồn thực phẩm và năng lượng, điều hòa khí hậu, tạo việc làm cho toàn bộ cộng đồng ven biển và gắn kết chúng ta với phần còn lại của thế giới.

Do đó, việc điều tiết hài hòa hoạt động của các ngành kinh tế biển hiện có và mới nổi, trong đó có nuôi biển và điện gió ngoài khơi, là rất cần thiết vì sự phát triển bền vững của tất cả các ngành, bảo tồn cuộc sống của sinh vật biển, góp phần hiệu quả vào việc cắt giảm phát thải khí nhà kính. Hơn bao giờ hết, nguồn lợi biển phải được khai thác một cách thân thiện với môi trường và bảo vệ được sự

đa dạng sinh học phong phú của biển cho hiện tại và tương lai.

Ngoài ra, chúng tôi cũng đầu tư vào R&D để thúc đẩy các công nghệ nuôi trồng thủy sản hiện đại và bền vững, nâng cao hiệu quả sản xuất và giải quyết các thách thức của ngành. Một yếu tố quan trọng khác nữa là đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ và chia sẻ kiến thức giữa các bên liên quan bao gồm nhà sản xuất, nhà nghiên cứu, cơ quan chính phủ và tổ chức phi chính phủ.

 Cùng với việc phát triển nuôi biển tại các địa phương, Việt Nam định hướng đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm từ nuôi biển. Theo bà, để xuất khẩu thành công, các sản phẩm nuôi biển của Việt Nam cần những điều kiện gì?

Nuôi trồng thủy sản của Na Uy là ngành xuất khẩu lớn thứ hai của chúng tôi. Ngành thủy sản của chúng tôi là một ngành công nghiệp có năng suất cao, chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa toàn diện, sử dụng hơn 8.000 lao động ở các cộng đồng duyên hải. Cá hồi Na Uy nổi tiếng khắp thế giới và nghĩ đến cá hồi Na Uy là người ta hình dung về một nguồn thức ăn giàu chất dinh dưỡng và dễ tiêu hóa, chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho mỗi người, bao gồm từ axit béo omega-3, protein và các loại vitamin tan trong mỡ như Vitamin A, D, B12. Tuy nhiên, đằng sau đó là cả một quy trình nuôi trồng bền vững phức tạp kết hợp các hệ thống công nghệ tiên tiến và tinh vi nhất. Việt Nam đã có các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực như tôm, cá tra và cá ngừ. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, để nâng cao tính cạnh tranh của các mặt hàng thủy hải sản xuất khẩu, điều quan trọng là phải gia tăng giá trị và chất lượng hàng xuất khẩu trong đó có tính bền vững. Tôi xin nhấn mạnh rằng, việc gia tăng giá trị quan trọng hơn nhiều so với gia tăng khối lượng xuất khẩu. Một thương hiệu quốc gia mạnh cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Hội đồng Thủy sản Na Uy là đơn vị đã và đang phát triển thương hiệu quốc gia “Hải sản từ Na Uy” cho mọi mặt hàng hải sản xuất khẩu của Na Uy. Thương hiệu này đã trở thành biểu tượng về chất lượng uy tín, nguồn gốc rõ ràng, được nhập khẩu chính thức từ Na Uy,

đảm bảo tính bền vững từ đầu ra, quy trình đánh bắt, phương pháp nuôi, và thức ăn cho cá.

 Trong thời gian tới, Na Uy có chương trình hỗ trợ hay hợp tác nào với Việt Nam trong lĩnh vực nuôi biển không, thưa bà?

Na Uy và Việt Nam đã hợp tác với nhau trong nhiều thập kỷ trong lĩnh vực thủy sản, chúng tôi muốn tiếp tục duy trì mối quan hệ này trong thời gian tới. Hiện chúng ta đang triển khai Ý định Thư hợp tác được ký năm 2021 giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Bộ Thương mại, Công nghiệp và Thủy sản Na Uy về tăng cường và phát triển hợp tác trong ngành nuôi biển. Với việc bản QHKGB của Việt Nam đã được thông qua, Na Uy sẽ hỗ trợ Chính phủ Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, và các bộ, ngành có liên quan thực hiện quy hoạch này. Tôi rất mong muốn được chứng kiến các hoạt động trao đổi kinh nghiệm và chia sẻ thông tin giữa hai nước khi Việt Nam thực hiện QHKGB còn Na Uy thực hiện Kế hoạch Khai thác các vùng biển Na Uy mới được ban hành gần đây. Tôi đã đề cập tới cách tiếp cận có sự tham gia của mọi chủ thể liên quan như một yếu tố quan trọng trong câu chuyện thành công của ngành nuôi trồng thủy sản Na Uy trong đó có khối tư nhân. Vì thế, chúng tôi rất mong muốn tiếp tục sự hợp tác của các doanh nghiệp hai nước trong lĩnh vực này.

Tháng 8 này, Triển lãm Quốc tế Thủy sản Việt Nam (Vietfish) sẽ diễn ra tại TP Hồ Chí Minh. Tôi tin chắc các doanh nghiệp Na Uy sẽ tham gia và sẽ có nhiều điều để mang tới Triển lãm và chia sẻ với các đối tác Việt Nam.

 Trân trọng cảm ơn bà!

Thu Hồng (Thực hiện)

PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ

Khoa học, công nghệ đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền vững kinh tế biển, giúp củng cố cơ sở vững chắc cho quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo.

Ý nghĩa thiết thực

Hiểu rõ tầm quan trọng của việc nghiên cứu cơ sở khoa học thực tiễn, phát triển và ứng dụng công nghệ để bảo vệ môi trường biển và hải đảo, từ năm 2010 đến năm 2022, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã thực hiện 56 đề tài cấp Bộ với đầy đủ các mục tiêu và nội dung đề ra. Trong đó, 42 đã đề tài hoàn thành, 4 đề tài đang thực hiện.

Các nghiên cứu tập trung ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật phục vụ quan trắc, giám sát, điều tra cơ bản tài nguyên môi trường biển và hải đảo; nghiên cứu phục vụ yêu cầu giải quyết những vấn đề cụ thể trong khai thác, sử dụng tài nguyên, môi trường biển như giám sát, đánh giá rủi ro ô nhiễm

môi trường, sức khỏe hệ sinh thái biển, tràn dầu và hóa chất độc, nhận chìm ở biển, rác thải nhựa đại dương, phân định ranh giới trên biển và các nghiên cứu phục vụ xây dựng chính sách, pháp luật.

Việc ứng dụng công nghệ trong quan sát, giám sát tài nguyên, môi trường biển bước đầu cũng đã được chú trọng nghiên cứu. Đối với vấn đề kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, các nghiên cứu đã tập trung vào việc làm rõ luận cứ khoa học xác định vùng biển đặc biệt nhạy cảm; cơ sở khoa học để đề xuất quy trình phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển ven bờ; xây dựng nội dung, phương pháp, quy trình, tiêu chí đánh giá mức độ tổn thương tài nguyên, môi trường biển; cơ sở khoa học phục vụ xây dựng hướng dẫn đánh giá tác động môi trường của nhà máy điện gió, điện mặt trời trên vùng biển và hải đảo Việt Nam... Ngoài ra, các đề tài nghiên cứu phục vụ quản lý của Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã tập trung vào làm rõ cơ sở khoa học để giải quyết các vấn đề liên ngành liên quan đến quản lý tổng hợp biển và hải đảo trong bối cảnh phương thức quản lý này mới được triển khai tại Việt Nam.

Định hướng phát triển

Theo Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, căn cứ vào yêu cầu của thực tiễn, trong thời gian tới Việt Nam có thể tập trung vào 4 chủ đề nghiên cứu chính:

Thứ nhất , nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển để làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển và khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, các hệ sinh thái biển để từ đó đề xuất giải pháp (kể cả chính sách và kỹ thuật), công nghệ, trang thiết bị thực hiện giám sát, quan trắc tự động, liên tục các đặc trưng môi trường biển; nâng cao trách nhiệm giải trình, lượng giá giá trị hàng hóa và dịch vụ của các hệ sinh thái biển làm cơ sở đền bù thiệt hại do hoạt động phát triển gây ra; thúc đẩy “sinh thái hóa” các ngành kinh tế biển, các mô hình kinh tế sinh thái biển phù hợp; thiết lập hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn chức năng sử dụng của các khu vực biển phù hợp. Thứ hai, nghiên cứu về ô nhiễm biển, nguồn thải, sức tải, tác động, dự báo bằng mô hình, ảnh vệ tinh, viễn thám; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong

xử lý ô nhiễm, cải tạo, phục hồi môi trường biển; hợp tác nghiên cứu các vấn đề toàn cầu về môi trường biển. Nghiên cứu nguồn gốc phát sinh rác thải nhựa đại dương, thực trạng ô nhiễm rác thải nhựa đai dương; tác động, ảnh hưởng của rác thải nhựa đại dương tới tài nguyên, môi trường, các hệ sinh thái biển, sinh vật biển, chuỗi thức ăn, sức khỏe con người và phát triển kinh tếxã hội; hợp tác nghiên cứu trong xây dựng chính sách quản lý, giảm thiểu rác biển, rác thải nhựa trên biển, bao gồm các kỹ thuật phân tích nguồn gốc và dự báo việc hình thành các vùng tập trung rác biển, rác thải nhựa trong khu vực các biển Đông Á và sự biến động của các vùng này.

Thứ ba, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ biển, đặc biệt là các công nghệ mới, đột phá hiện nay trong sử dụng, quản lý tài nguyên không gian biển; thăm dò, quan sát, giám sát đáng giá tài nguyên, môi trường biển cũng như phục vụ việc đánh giá tác động tích lũy của các hoạt động phát triển kinh tế biển tới tài nguyên, môi trường biển; hỗ trợ thiết thực quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh dương bền vững. Các công nghệ bao gồm vật liệu tiên tiến, tìm kiếm, thăm dò và khai thác biển sâu, phát triển năng lượng biển bền vững và công nghệ sinh học biển. Triển khai nghiên cứu công nghệ về tái chế, tái sử dụng và giảm rác thải nhựa phát sinh kết hợp với các giải

pháp công nghệ ngăn ngừa rác thải nhựa đại dương từ nguồn. Thứ tư , nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn, phát triển công cụ để đánh giá tiềm năng năng lượng tái tạo biển, các công nghệ gắn với điều tra, khảo sát, đánh giá nguồn năng lượng tái tạo biển; đánh giá tác động của hoạt động phát triển năng lượng tái tạo biển tới tài nguyên, môi trường, các hệ sinh thái biển và việc khai thác, sử dụng không gian biển cho mục đích khác cũng đang là những vấn đề đang được quan tâm.

Thực tế, hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ đã góp phần nâng cao hiểu biết về biển, cung cấp cơ sở khoa học, thực tiễn phục vụ hiệu quả cho công tác hoạch định chính sách khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, quản lý tổng hợp biển và hải đảo. Nhiều kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và đăng tải trên nhiều tạp chí khoa học, hội nghị khoa học có uy tín trong nước và quốc tế. Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cũng xác định, nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực biển và đại dương sẽ là một nhân tố đột phá chiến lược cho phát triển bền vững kinh tế biển.

Hoàng Hải

CHUYÊN

TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Nâng cấp hạ tầng nghề cá

Xu thế tất yếu để phát triển

Nhằm đáp ứng hoạt động của nghề cá và đặc biệt là những khuyến

nghị của EC trong chống khai thác IUU, một số địa phương tại khu vực

miền Trung đã và đang đẩy mạnh đầu tư nâng cấp để hiện đại hóa

nghề cá, góp phần phát triển sản xuất thủy sản.

Tại Hà Tĩnh, trải qua thời gian đưa vào khai thác, sử dụng, các luồng lạch, khu neo đậu đã bị bồi lắng nhiều, không đáp ứng được yêu cầu về chống khai thác IUU trong kiểm soát tàu cá ra, vào cảng, sản lượng thủy sản qua cảng. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng của các cảng cá cũng bị xuống cấp. Trước thực trạng này, tỉnh Hà Tĩnh đang

đầu tư xây dựng mới và nâng cấp 2 cảng cá với nguồn vốn hơn 340 tỷ đồng. Trong đó, dự

án đầu tư xây dựng cảng cá Cửa Nhượng có

tổng vốn đầu tư 280 tỷ đồng, được khởi công

từ ngày 20/1/2024. Với cảng cá Thạch Kim (huyện Lộc Hà), Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng công trình NN&PTNT tỉnh cũng đang

tiến hành dự án nâng cấp, mở rộng với tổng

vốn 60 tỷ đồng trên diện tích 1,6 ha nằm ở khu vực phía Đông cảng cá hiện tại.

Ông Thân Quốc Tế - Phó Giám đốc Ban Quản lý các cảng cá và khu neo đậu tránh trú bão tàu cá Hà Tĩnh cho biết, việc đầu tư xây dựng mới cảng cá Cửa Nhượng sẽ giúp bà con ngư dân trong vùng có nơi neo đậu, cập bến an toàn, không phải di chuyển đến các cảng ở vị trí xa hơn, đáp ứng nhu cầu của ngư dân khi ra vào, tránh trú bão. Qua đó, cũng giúp các đơn vị chức năng quản lý tốt hơn hoạt động của các tàu cá, góp phần thực hiện việc chống khai thác IUU. Tương tự như Hà Tĩnh, để đảm bảo công tác giám sát thủy sản, thực hiện các giải pháp cấp bách gỡ “thẻ vàng” IUU, tỉnh Bình Định đã

và đang nỗ lực đầu tư, nâng cấp các cảng cá trên địa bàn. Toàn tỉnh hiện có 5.954 tàu cá, nhưng sức chứa của các khu neo đậu chỉ đáp ứng được cho 5.300 tàu, đó là chưa tính có khoảng 200 - 300 tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi vào neo đậu.

Thời gian tới, Bình Định sẽ thực hiện dự án khu neo đậu tránh trú bão tàu cá kế t hợp cảng cá Tam Quan, đây là dự án ưu tiên 1 thuộc l ĩnh vực thủy sản với tổng mức đầu tư dự kiến 472 tỷ đồng. Dự án khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá đầm Đề Gi kế t hợp Cảng cá Đề Gi (huyện Phù Cát) là ưu tiên thứ 2 thuộc l ĩnh vực thủy sản cũng đang được triển khai tại Bình Định với tổng mức đầu tư dự kiến 450 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Bình Định sẽ hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng các cảng cá để đạt tiêu chuẩn cảng cá loại I, đồng thời hình thành 11 khu dịch vụ hậu cần đáp ứng nhu cầu tàu thuyền khai thác, nhất là mùa mưa bão tàu thuyền vào tránh trú. Không chỉ riêng Hà Tĩnh, Bình Định, hiện tại, nhiều tỉnh, thành phố trong khu vực miền Trung đã và đang tích cực triển khai các dự án nhằm hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nghề cá, qua đó góp phần bảo đảm an toàn cho tàu cá và ngư dân yên tâm vươn khơi, bám biển.

Thùy Khánh

Ảnh: Văn Luân

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Mở cơ hội cho tàu cá “02 không”

Thông tư 06 vừa được Bộ NN&PTNT ban hành đã mở ra cơ hội để các tàu cá “02 không” hoạt động hợp pháp trở lại.

Khó khăn trong quản lý

Theo số liệu của Cục Kiểm ngư, tính đến cuối năm 2023 cả nước vẫn còn hơn 15.000 tàu cá “03 không” (không đăng kiểm, không đăng ký, không giấy phép hoạt động). Trong

5 khuyến nghị còn tại từ EC, những tàu cá này là một trở ngại lớn và nếu không sớm có giải pháp tháo gỡ thì đây sẽ là rào cản trong nỗ lực gỡ “thẻ vàng” của ngành thủy sản Việt Nam. Tại tỉnh Quảng Nam, tàu cá “2 không”

(không đăng ký, không có giấy phép khai thác thủy sản) có đến hàng trăm chiếc.

Những phương tiện này đã và đang phải đối diện với mức xử phạt rất nặng khi ra khơi

đánh bắt hải sản.

Đại diện Chi cục Thủy sản tỉnh Quảng Nam cho biết, theo Nghị định số 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ, kể từ ngày 25/4/2019, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu đóng mới hoặc cải hoán tàu cá phải có văn bản chấp thuận của Sở NN&PTNT. Thế nhưng, nhiều ngư dân trên địa bàn tỉnh thực hiện “tiền trảm, hậu tấu”, đóng xong tàu cá mới đi làm thủ tục, vì vậy không được cấp phép khai thác hải sản.

Ngoài ra, nhằm chống khai thác IUU cũng như bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, tỉnh Quảng Nam quyết định không cấp thêm giấy phép khai thác hải sản cho các tàu cá “2 không”. Tuy nhiên, còn có tình trạng ngư dân “lách luật”, mua lại các tàu giã cào ở tỉnh khác, bất chấp việc không được cấp giấy phép. Đại diện Phòng NN&PTNT huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam) cho biết, toàn huyện có 743 phương tiện đánh bắt hải sản có chiều dài 6 - 12 m thì có tới 450 tàu cá thuộc diện “2 không”. Lực lượng chức năng địa phương đã siết chặt quản lý và xử phạt hành chính những tàu cá này, nhưng vẫn chưa thực sự triệt để.

Theo ông Võ Văn Long, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Quảng Nam, tàu cá “2 không” là nỗi ám ảnh của ngành thủy sản trong thực hiện định hướng chuyển từ nghề cá nhân dân sang nghề cá có trách nhiệm và phát triển ngành thủy sản bền vững của tỉnh.

Cơ hội mới cho ngư dân

Ngày 06/5/2024, Bộ NN&PTNT ban hành Thông tư số 06/2024/TT-BNNPTNT sửa

đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2018/TT-BNNPTNT ngày 15/11/2018. Thông tư số 06 với các quy định mới đã mở hướng để ngư dân có tàu cá “02 không” nếu làm đầy đủ giấy tờ theo quy định có thể đăng ký mới và được cấp giấy phép khai thác hải sản hợp pháp.

Theo quy định tại Thông tư mới này, trong hồ sơ đăng ký tàu cá, tờ khai đăng ký phải có xác nhận của UBND cấp xã nơi chủ tàu đăng ký hộ khẩu thường trú; bản sao chụp Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật của tàu cá; bản chính Thông báo nộp lệ phí trước bạ của tàu; ảnh màu (9 x12 cm) chụp toàn tàu theo hướng 2 bên mạn tàu.

Theo đánh giá của ngành chức năng, thủ tục này khá đơn giản so với trước đây, giúp tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc hiện tại của đối với các tàu cá phát sinh tại các địa phương. Thời hạn tiếp nhận hồ sơ đăng ký tàu cá theo quy định tại Thông tư là đến hết ngày 31/12/2024. Ông Võ Văn Long, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Quảng Nam cho biết, tỉnh dự kiến sẽ giải quyết xong tàu cá “2 không” vào tháng 9 tới, trước khi EC sang Việt Nam kiểm tra các khuyến cáo chống khai thác IUU lần thứ 5.

Bảo Hân

DẤU ẤN 20 NĂM PHÁT TRIỂN NUÔI CÁ NƯỚC LẠNH TẠI

Cá tầm là loài

cá nước lạnh

mang lại hiệu

quả kinh tế cao

Ảnh: Minh Anh

Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển,

nghề nuôi cá nước lạnh tại Việt Nam đã

được nhiều địa phương xem như là một

trong những mô hình kinh tế quan trọng, góp phần khai thác tiềm năng các thủy vực nước lạnh.

Những kết quả đạt được

Các loài cá nước lạnh là đối tượng thủy sản nuôi có giá trị kinh tế cao. Trứng cá tầm muối (Caviar) là sản phẩm được ưa chuộng trên thị trường thế giới. Tại Việt Nam, từ năm 2004 –2005, cá hồi vân và cá tầm được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I nhập khẩu trứng cá đã thụ tinh về nuôi thử nghiệm thành công tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Việc phát triển nuôi cá tầm trong những năm qua đã đưa Việt Nam vào nhóm 10 nước có sản lượng cá tầm lớn nhất thế giới gồm: Trung Quốc, Nga, Italia, Bungari, Iran, Mỹ, Pháp, Việt Nam, Ba Lan và Đức. Với nỗ lực nhằm khai thác tiềm năng các thủy vực nước lạnh, hiện nay, cá nước lạnh (chủ yếu là cá tầm) đã được nuôi tại 21 tỉnh, chủ yếu tại khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Sản lượng cá nước lạnh tăng nhanh trong thời gian qua. Năm 2007, sau thời gian 2 năm đưa về nuôi tại Việt Nam, sản lượng đạt 95 tấn; năm 2010 là 450 tấn; năm 2015 là 1.585 tấn; năm 2020 đạt 3.720 tấn và đến năm 2023 đạt hơn 4.668 tấn. Tăng trưởng sản xuất trong giai

Báo cáo tại “Hội nghị Tổng kết 20 năm phát triển cá nước lạnh và giải pháp trong thời gian tới”, ông Nguyễn Văn Hữu - Phó Trưởng phòng Nuôi trồng thủy sản (Cục Thủy sản) cho biết, công nghệ sản xuất giống nhân tạo cá tầm đã được các Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I nghiên cứu thông qua nhiều đề tài/dự án. Đến nay, trong 5 loài cá tầm được nuôi tại Việt nam thì 3 loài cá tầm gồm cá tầm Nga, cá tầm Siberia, cá tầm Sterlet đã hoàn thiện được quy trình công nghệ sản xuất giống tại Việt Nam và được ứng dụng vào thực tế sản xuất.

Việc thành lập Hiệp hội Phát triển cá nước lạnh tỉnh Lâm Đồng và Hội Cá nước lạnh tỉnh Lào Cai đã góp phần hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cá nước lạnh. Hiệp hội, hội đã tổ chức có hiệu quả công tác hỗ trợ các thành viên khi gặp khó khăn, rủi ro trong sản xuất góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất.

Vẫn còn nhiều khó khăn Mặc dù sản lượng, kỹ thuật nuôi cá nước lạnh đã phát triển mạnh trong 2 thập kỷ qua nhưng đến hết tháng 5/2024 mới có 9/31 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá tầm được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện theo quy định. Có 32/845 cơ sở (đạt 0,37%) nuôi cá tầm thương phẩm được cấp mã số nuôi.

Công nghệ nuôi cá nước lạnh hiện tại đang được sử dụng vốn là công nghệ nuôi đối tượng cá truyền thống, khu vực nhiệt đới. Nhóm cá nước lạnh chịu biến đổi nhiệt độ và độ đục kém hơn nhiều so với nhóm cá truyền thống, nhưng nhu cầu ôxy hòa tan lại cao hơn nhiều so với nhóm cá nhiệt đới. Hầu hết công nghệ nuôi hiện nay chưa đáp ứng được các đặc điểm sinh học của cá nước lạnh nên tỷ lệ hao hụt cao, năng suất nuôi thấp. Ngoài ra, việc khai thác và sử dụng nguồn nước lạnh chưa phát huy hết tiềm năng, hiệu quả. Vẫn còn tình trạng sử dụng nguồn nước lãng phí, nhất là các cơ sở nuôi ở vị trí đầu nguồn, điều này dẫn đến việc tranh chấp về nguồn nước trong mùa khô.

Định hướng phát triển Tại Hội nghị, ông Nguyễn Việt Thắng - Chủ tịch Hội Thủy sản Việt Nam cho biết, từ ngày đưa con cá tầm về Việt Nam cho đến nay, chặng đường 20 năm phát triển đã trải qua rất nhiều thăng trầm. Trong thời gian tới, chúng ta cần đầu tư nhiều hơn về công nghệ và có nguồn vốn dài hạn. Hội Thủy sản sẽ nỗ lực hơn nữa để hiện thực hóa các mong

muốn của nhà quản lý, thông qua việc thường xuyên trao đổi, gặp gỡ để đưa ra các giải pháp và tạo ra chuỗi liên kết trong quá trình sản xuất. Ngoài ra, cần chủ động nguồn con giống để đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nuôi cá tầm. Về phần mình, ông Trần Đình Luân - Cục trưởng Cục Thủy sản đánh giá, trong thời gian qua, năng suất và sản lượng ngành cá nước lạnh đã đạt được kết quả khá tốt. Qua đó, chúng ta cũng thấy được vai trò vô cùng quan trọng của các hội, hiệp hội trong việc kết nối các địa phương với doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần siết chặt quản lý, rà soát địa điểm, hồ sơ nguồn gốc trang trại và nguồn cá giống để nâng cao

chất lượng cho ngành.

Lãnh đạo Cục Thủy sản cho biết, sẽ có trách nhiệm liên

kết tìm nguồn bổ sung cá bố mẹ. Ngoài ra, ông cũng đề

xuất tìm kiếm các giải pháp dài hạn cho ngành nuôi cá nước lạnh, cần có địa chỉ tiêu thụ rõ ràng và đẩy mạnh quảng bá

sản phẩm để tạo ra thương hiệu cho cá tầm Việt Nam. Thời gian tới, cần kiểm soát chặt chẽ việc nhập lậu các sản phẩm cá nước lạnh; áp dụng quy trình nuôi tiên tiến, phát triển công nghệ chế biến.

Các địa phương cần tổ chức, xử lý nghiêm trường hợp

không chấp hành quy định về sản xuất giống và nuôi thương

phẩm cá nước lạnh; áp dụng khoa học công nghệ mới, tiên

tiến vào sản xuất để tăng năng suất, sản lượng, chất lượng

sản phẩm; phát triển công nghệ chế biến sâu nhằm tạo ra

sản phẩm chất lượng cao (như trứng cá tầm muối), phục vụ

thị trường cao cấp; khuyến khích hình thức liên kết chuỗi

sản xuất, xây dựng và phát triển thương hiệu, nhãn mác các

sản phẩm cá nước lạnh, tạo vị thế cho sản phẩm cá nước

lạnh Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.

Oanh Thảo

Toàn cảnh Hội nghị

Nhật Bản

MỞ LỐI THỊ TRƯỜNG SÒ ĐIỆP

Lệnh cấm thương mại trên thị trường thủy sản vốn không còn xa lạ, nhưng cách mà ngành sò điệp Nhật Bản đối diện và giải quyết hậu quả của lệnh cấm đáng để học hỏi.

Tìm cơ hội gia công

Kể từ khi Trung

Quốc phản đối việc xả nước thải đã qua xử lý từ Nhà máy điện hạt nhân

Fukushima Daiichi ra biển và hoàn toàn ngừng nhập khẩu các sản phẩm thủy sản Nhật Bản vào tháng 8/2023, Nhật Bản không chỉ mất thị trường ở Trung

Quốc mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Việc tìm kiếm giải pháp khắc phục hậu quả của lệnh cấm là một nhu cầu cấp bách của ngành thủy sản Nhật Bản.

Trước tiên, để đối phó với việc Trung Quốc đình chỉ nhập khẩu các sản phẩm thủy sản Nhật Bản, 12 công ty chế biến sò điệp nước này

đã bắt đầu khảo sát để tìm kiếm các cơ sở chế biến thay thế ở Việt Nam vào đầu năm 2024. Công tác khảo sát được tổ chức bởi Tổ chức

Thương mại Đối ngoại Nhật Bản (JETRO). Theo nguồn tin từ Undercurrentnews, kể từ sau lệnh cấm của Trung Quốc, các nhà xuất khẩu sò điệp Nhật Bản đã lên kế hoạch gia công sò điệp tại Việt Nam và Thái Lan, sau đó vận chuyển 200 tấn thịt sò điệp đông lạnh sang Mỹ trong năm 2024. Chính phủ Nhật Bản cũng hỗ trợ các hoạt động gia công sò điệp tại một số quốc gia.

Từ cuối tháng 8/2023, ngành sò điệp Nhật Bản đã lên kế hoạch đa dạng hóa sản phẩm và quyết tâm giành thị phần “sò điệp tươi sống” tại thị trường Mỹ từ tay Trung Quốc Sau Hội chợ Triển lãm thủy sản Bắc Mỹ (SENA), 14 công ty xuất khẩu thủy sản Nhật Bản đã tới thăm các cơ sở chế biến tại thành phố Ensenada, bờ biển phía Tây Mexico trong 4 ngày. Hoạt động này nằm trong dự án thí điểm sản xuất sò điệp tại Mexico nhằm tái xuất sang Mỹ của JETRO.

Tiếp cận thị trường cao cấp Nhật Bản đang xây dựng chuỗi cung ứng sò điệp Hokkaido đến bờ tây Mỹ thông qua các nhà máy chế biến ở Mexico. Đây là chiến lược giải cứu ngành sò điệp sau lệnh cấm của

Trung Quốc, mở ra cơ hội tiếp cận thị trường cao cấp hơn có giá bán gấp đôi.

Trong chuyến thăm các nhà máy chế biến hải sản ở Ensenada, Mexico, đại diện JETRO đã tuyên bố cung cấp cho mỗi nhà máy chế biến 1 tấn sò điệp đông lạnh từ Hokkaidai và tư vấn phương pháp chế biến cùng thiết bị. Bà Minerva Perez Castro - Giám đốc công ty chế biến thủy sản Atenea en el Mar tại Mexico cho biết, công ty sẽ lên kế hoạch tăng số lượng công nhân sau khi quá trình chế biến sò điệp bắt đầu. Hiện doanh nghiệp này đang xuất

khẩu 40 tấn nghêu và bào ngư mỗi tháng. Đây là lần đầu tiên họ xử lý sò điệp từ Nhật Bản –mặt hàng đang được ưa chuộng tại Mỹ như một thực phẩm xa xỉ.

Thành phố Ensenada có nhiều nhà máy chế biến hải sản, trong đó có đơn vị đạt chứng nhận của Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA). Sò điệp có thể được giao trong vòng 24 giờ sau khi chế biến đến các nhà hàng ở Los Angeles và các mạng lưới phân phối đồ

đông lạnh cho các thành phố khác của Mỹ như

New York. Sò điệp chế biến ở Mexico được vận chuyển đến Mỹ dưới dạng “khô”, nghĩa là chưa

được chế biến bằng phosphate giống như ở

Trung Quốc nên có thể dùng làm món sushi.

Đại diện JETRO tại Mexico cho biết, giá sò

điệp khô cao gấp đôi giá sò điệp ướt.

Hiện, các nhà hàng giá rẻ gốc Hoa ở Mỹ đang

tiêu thụ 80% sò điệp Hokkaido. Nhưng sò điệp khô chế biến tại Mexico nhắm đến đối tượng khách hàng cao cấp hơn ở Mỹ là các siêu thị và nhà hàng sushi. Quá trình vận chuyển hải sản từ Ensenada, Mexico đến Los Angeles mất

5 giờ nên đảm bảo sò điệp vẫn tươi ngon mà không cần cấp đông lại. Bằng con đường này, sò điệp Nhật Bản dễ dàng đáp ứng nhu cầu trên khắp nước Mỹ. JETRO cũng tổ chức tiệc giới thiệu sản phẩm sò điệp sống Hokkaido được chế biến ở Mexico trước đó 24 giờ đến toàn thể người tiêu dùng ở Los Angeles.

Xuất khẩu nhảy vọt

Trước đây, sò điệp Nhật Bản thường được bóc vỏ, chế biến tại các cơ sở của Trung Quốc rồi tái xuất sang Mỹ. Chỉ riêng năm 2022 -

2023, Mỹ đã nhập khẩu hơn 100 triệu USD sò điệp Nhật Bản thông qua Trung Quốc. Tuy nhiên, do lệnh cấm nhập của Trung Quốc, tuyến đường này đã không còn khả dụng. Mỹ và Nhật Bản hy vọng duy trì mua bán sò điệp và các sản phẩm khác bằng cách chế biến thủy sản xuất khẩu tại Việt Nam, Thái Lan và Đài Loan (Trung Quốc).

Theo dữ liệu của Cục Quản lý đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ (NOOA), trong 4 tháng đầu năm 2024, Mỹ đã nhập khẩu 3.006 tấn sò điệp từ Nhật Bản, gấp đôi mức 1.782 tấn của cùng kỳ năm ngoái.

Nhật Bản đang chiếm thị phần lớn nhất với 35% trong tổng số 8.606 tấn sò điệp được nhập khẩu vào Mỹ từ tháng 1 đến tháng 4/2024. Con số này đã mang lại doanh thu 50,8 triệu USD cho ngành sò điệp Nhật Bản, tăng 28% so cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, để cạnh tranh với sò điệp Canada, Nhật Bản phải chấp nhận giá bán sò điệp rẻ hơn 24% so cùng kỳ, chỉ đạt mức trung bình 16,91 USD/kg tại thị trường Mỹ. Lý giải nguyên nhân dẫn dến sự “nhảy vọt” của sò điệp Nhật Bản tại Mỹ, nhiều doanh nghiệp cho rằng sò điệp Nhật Bản đã “gặp thời” bởi sản lượng khai thác sò điệp Atlantic của Mỹ đang sụt giảm. Nhưng nguyên nhân quan trọng hơn đó là các doanh nghiệp sò điệp Nhật Bản đã linh hoạt khai phá thị trường mới và sản phẩm mới để giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Ngoài Mỹ, ngành sò điệp Nhật Bản cũng tiếp cận thị trường Đông Nam Á, trong đó sò Hokkaido đã nhanh chóng tạo tiếng vang. Ngoài ra, cá cam và cá tráp cũng là hai loại thủy sản được đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á trong thời gian gần đây. Với mục tiêu đạt 2.000 tỷ yên vào năm 2025 và 5.000 tỷ yên vào năm 2030, Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản (MAFF) đang triển khai các hoạt động nhằm quảng bá sự hấp dẫn của thủy hải sản Nhật Bản ở trong và ngoài nước; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Với sò điệp, Nhật Bản có lợi thế về nuôi nên chủ động nguồn cung và đảm bảo độ tươi ngon. Cùng đó, JETRO luôn sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu hải sản Nhật Bản nhanh chóng tìm được nguồn hàng.

Ảnh: Shutterstock

Sản lượng thủy sản tháng 5/2024 đạt 801.300 tấn

Theo Tổng cục Thống kê, sản lượng thủy sản thu hoạch cả nước trong tháng 5/2024 đạt khoảng 801.300 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 434.800 tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước (cá đạt 288.100 tấn, tăng 2,4%; tôm đạt 97.100 tấn, tăng 6,2%). Sản lượng thủy sản khai thác tự nhiên trong tháng 5/2024 ước đạt 366.500 tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước do thời tiết ngư trường thuận lợi (cá đạt 285.700 tấn, tăng 2,4%; tôm đạt 13.800 tấn, tăng 2,9%; thủy sản khác đạt 67.000 tấn, giảm 0,5%...). Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, sản lượng thủy sản của cả nước ước đạt trên 3,51 triệu tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước.

Hà Nội

Giá tôm hùm Alaska giảm sâu

Từ đầu tháng 6 trở lại đây, giá tôm hùm Alaska giảm mạnh, chỉ còn 350.000 - 399.000 đồng/con. Từ đầu tháng 6 đến nay, nhiều cửa hàng hải sản tại Hà Nội liên tục rao bán tôm hùm Alaska với giá 399.000 đồng/con. Mùa tôm hùm Alaska bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm. Tức, trong khoảng thời gian này, tôm hùm không những có chất lượng thịt ngon nhất mà giá cũng rẻ nhất trong năm do nguồn cung dồi dào. Tôm loại cỡ từ 1 - 6 kg/con giá hiện nay chỉ 950.000 đồng/kg; cỡ 500 - 600 g/con có giá 399.000 đồng, tương đương mức 670.000800.000 đồng/kg. So với năm ngoái, giá tôm hùm Alaska giảm khoảng 300.000 đồng/kg.

ĐBSCL

Giá tôm, cá tra

nguyên liệu giảm mạnh

Qua ghi nhận tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL, giá tôm nuôi thâm canh ứng dụng công nghệ cao đang sụt giảm mạnh, người nuôi tôm đứng trước nguy cơ lỗ cao. Hiện giá tôm thẻ chân trắng loại 30 con/kg ở mức 110.000 đồng/kg; loại 100 con/kg ở mức 70.000 đồng/kg, giảm gần 50.000 đồng/kg so với 2 tháng trước. Tương tự, giá cá tra nguyên liệu cũng đang xuống thấp. Tại Đồng Tháp, các doanh nghiệp, cơ sở chế biến thu mua cá tra nguyên liệu ở mức 26.500 - 27.200 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg so với tháng trước. Theo ngành chức năng, nguyên nhân là do các doanh nghiệp xuất khẩu tôm gặp khó khăn, đầu ra chậm, chi phí lưu kho tăng, đồng thời sản lượng tôm đang thu hoạch lớn.

Bến Tre Giá tôm nguyên liệu giảm mạnh

Hiện nay, giá tôm nguyên liệu trên địa bàn tỉnh Bến Tre tiếp tục giảm sâu khiến người nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao ở các địa phương ven biển gặp khó trong việc đầu tư mở rộng diện tích nuôi. Giá tôm khá thấp, khiến người nuôi gặp nhiều khó khăn. Giá tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg chỉ khoảng 70.000 đồng; loại 30 con/kg hơn 115.000 đồng, giảm 40.000 đồng/kg so với cách đây 2 tháng. Với mức giá trên, người nuôi tôm ở Bến Tre không thu được lợi nhuận. Hiện nay, giá tôm trong nước giảm do nguồn “cung vượt cầu”. Bên cạnh đó, tôm đang vào vụ mùa, thời tiết thuận lợi nên sản lượng thu hoạch lớn. Ngoài ra, các công ty thu mua tôm xuất khẩu giảm sản lượng làm cho giá tôm trong nước sụt giảm mạnh so với gần 2 tháng trước.

Đồng Tháp

Cá heo nước ngọt rớt giá

Cá heo nước ngọt là một loại đặc sản nổi tiếng của miền Tây mùa nước nổi. Khoảng tháng 2 năm ngoái, loại đặc sản này được bán với giá 520.000 - 560.000 đồng/kg cho thương lái đến tận nhà thu mua. Nhưng năm nay, giá cá heo nước ngọt giảm xuống mức 300.000 đồng/kg, loại size 30 - 35 con/kg; giá bán cho khách lẻ tại vựa khoảng 350.000 đồng/kg. Nguyên nhân khiến giá cá heo nước ngọt giảm thấp như hiện nay một phần là do kinh tế đang khó khăn, trong khi đó nguồn cung dư thừa nhưng nhu cầu giảm thấp. Với mức giá như hiện tại, người nuôi gần như không có lợi nhuận.

Vĩnh Long Người nuôi cá tra tiếp tục gặp khó

Theo Sở NN&PTNT tỉnh Vĩnh Long, người nuôi cá tra hiện nay đang gặp khó khăn do giá giảm, nguồn giống chất lượng khan hiếm và một số hộ nuôi không còn vốn để tái sản xuất do thua lỗ từ các vụ nuôi trước. Cụ thể, giá cá tra nguyên liệu hiện ở mức thấp hơn giá thành sản xuất. Trong khi giá thành sản xuất cá tra từ 27.800 - 30.000 đồng/kg thì giá nguyên liệu ở mức 27.000 - 27.500 đồng/kg, giảm 1.500 đồng/kg so với tháng trước. Bên cạnh đó, số lượng công ty, doanh nghiệp thu mua cá tra nguyên liệu cũng giảm làm ảnh hưởng đến hoạt động nuôi cá tra xuất khẩu của tỉnh. Người nuôi đang phải kéo dài chu kỳ nuôi, nuôi cầm chừng, cho cá ăn ít hoặc không cho ăn, khiến chi phí sản xuất ngày càng tăng.

Kiên Giang

 Trúng giá cua biển

Từ đầu năm đến nay giá cua biển và tôm càng xanh tại tỉnh tăng cao giúp nông dân tăng lợi nhuận. Đặc biệt, trong khoảng 2 tuần qua, nông dân vùng U Minh Thượng gồm các huyện: An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang đang vào đợt thu hoạch rộ cua biển, tôm càng xanh. Giá cua gạch hiện được thương lái thu mua 600.000 đồng/kg; cua y cỡ nhất (trọng lượng từ 400 g trở lên mỗi con) giá 240.000 đồng/kg; cua y cỡ nhì giá 200.000 đồng/kg. So với cùng kỳ năm 2023, giá cua gạch tăng khoảng 200.000 đồng/kg; cua y tăng gần 50.000 đồng/kg. Trong 2 tuần qua, trung bình mỗi gia đình thu hoạch được từ 70 - 100kg cua; trong đó đa phần là cua y. Cua biển nuôi vụ này đạt tỷ lệ khá cao, hơn 80% và nhờ bán có giá nên lợi nhuận mang về cho người nuôi tăng gấp rưỡi so với những năm trước.

 Tôm càng xanh tăng giá

Khoảng 1 tháng qua, giá tôm càng xanh ở các huyện thuộc vùng U Minh Thượng như An Minh, Vĩnh Thuận… tăng khá cao. Anh Lê Văn Chúc, xã Vĩnh Bình Bắc, huyện Vĩnh Thuận chia sẻ, gia đình vừa “được mùa, trúng giá” vụ tôm càng xanh đầu năm 2024. Anh cho biết, giá tôm ôxy 140.000 đồng/kg; tôm ngộp giá 80.000 đồng/kg. Nhờ bán được giá cao nên sau khi trừ chi phí, vụ tôm này thu lợi nhuận tăng gấp rưỡi so với những vụ tôm trước.

Lan

Châu Á

Giá TTCT cổng trại lập đáy mới

Giá TTCT cổng trại tại Trung

Quốc đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 1 thập kỷ qua, trong khi giá TTCT nguyên liệu của Việt

Nam và Indonesia vẫn tiếp tục lao

dốc. Cụ thể, giá TTCT tươi sống cỡ 60 con/kg tại Quảng Đông, Trung

Ảnh: Shutterstock

Quốc trong tuần 25 (17 - 23/6) hạ xuống 37 CNY/kg (5,10 USD); còn các loại tôm cỡ nhỏ hơn 80 con/kg chỉ 29,5 CNY/kg. Giá TTCT tại các tỉnh Giang Tô, Phúc Kiến và Hải Nam cũng diễn biến tương tự với mức giảm 22 - 25% so cùng kỳ năm ngoái. Tại Indonesia, giá tôm thẻ tiếp tục giảm trong tuần 25. Theo Jala Tech, giá TTCT cổng trại trung bình trên cả nước đã hạ xuống 75.200 NDR/ kg với cỡ 30 con/kg và 69.800 IDR/kg cỡ 40, giảm 8 - 10% so với tháng trước. Giá tôm thẻ nguyên liệu của Việt Nam cũng giảm mạnh xuống 83.000 VND/kg cỡ 60 (3,26 USD/kg). Các nguồn cung tôm châu Á đang đối mặt khó khăn chung khi nhu cầu thu mua tôm nguyên liệu chững lại trong khi vận chuyển hàng hóa vẫn khó khăn, cước biển tăng cao do căng thẳng tại Biển Đỏ.

Trung Quốc Mở rộng nguồn cung thủy sản ở châu Phi

Cảng cá mới do Trung Quốc đầu tư 111 triệu USD xây dựng bên bờ biển Ấn Độ Dương, thuộc Tanzania dự kiến hoạt động trong năm tới và tạo hàng nghìn việc làm cho dân địa phương. Đây là một trong những dự án “Sáng kiến vành đai và con đường” của Trung Quốc nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thủy sản khổng lồ trong nước. Ngoài ra, Trung Quốc cũng ký thỏa thuận hợp tác nghề cá với hàng chục quốc gia châu Phi khác với vốn đầu tư lên tới hàng triệu USD vào các lĩnh vực đánh bắt và NTTS. Dự báo đến năm 2030, tiêu thụ thủy sản của Trung Quốc sẽ vượt sản xuất 18 triệu tấn, điều này thúc đẩy ngành thủy sản tìm kiếm nguồn cung đáng tin cậy thông qua chiến lược đầu tư cơ sở hạ tầng nghề cá ở châu Phi.

Nga Cá minh thái giá rẻ hút khách Trung Quốc

Nga đang lên kế hoạch đẩy mạnh cung ứng cá minh thái sang thị trường Trung Quốc do nhu cầu tiêu thụ tại Trung Quốc tăng trưởng ổn định. Hiện Nga là nguồn cung cá minh thái lớn thứ hai tại Trung Quốc, sau Ecuador với trị giá xuất khẩu năm 2023 đạt 2,9 tỷ USD. Theo Hiệp hội cá minh thái Nga, 4 mặt hàng cá đông lạnh xuất khẩu chủ lực của Nga gồm cá minh thái, cá tuyết chấm đen, cá hồi Thái Bình Dương và cá mòi. Nhu cầu tiêu thụ cá thịt trắng tại Trung Quốc vẫn tăng mạnh, mở ra nhiều cơ hội tốt cho các hãng xuất khẩu cá biển của Nga, đặc biệt phân khúc cá tự nhiên và giá rẻ. Ông Alexey Buglak - Chủ tịch Hiệp hội cá minh thái Nga khẳng định, cá biển thịt trắng của Nga dư sức cạnh tranh với cá nuôi như rô phi và cá tra do chất lượng vượt trội hơn. Cá minh thái đang chiếm 40% tổng khối lượng xuất khẩu cá đông lạnh của Nga sang Trung Quốc.

Nhật Bản

Tiêu thụ hải sản giảm xuống mức thấp nhất mọi thời đại

Tiêu thụ hải sản và các sản phẩm từ hải sản tại Nhật Bản đã giảm xuống mức thấp lịch sử. Theo Bộ Nông nghiệp Nhật Bản, tiêu thụ hải sản bình quân trong năm 2022 ở mức 22 kg/người/năm, trong khi con số này vào năm 2001 là 40,1 kg/người. Bước sang thế kỷ XXI, người tiêu dùng Nhật Bản ăn ít hải sản hơn, trong khi tiêu thụ thịt có xu hướng tăng, đạt mức 34 kg/người/năm vào năm 2022. Theo kết quả khảo sát của Bộ Nông nghiệp Nhật Bản, lý do dẫn đến sự thay đổi này là: Mọi người thích ăn thịt hơn (45,9%); hải sản đắt hơn (42,1%) và cá khó chế biến hơn (38%).

Ecuador

Giá cá ngừ vằn giảm mạnh

Sản lượng đánh bắt tăng mạnh, các kho hàng đầy ắp khiến giá cá ngừ vằn của Ecuador chịu áp lực và bị bỏ xa phía sau so với giá cá ngừ vằn của Thái Lan. Giá cá ngừ vằn giao đến Bangkok, Thái Lan trong tháng 6/2024 đã tăng lên 1.500 USD/tấn và chưa có dấu hiệu dừng lại do sản lượng khai thác tại biển Ấn Độ Dương tương đối thấp. Trái ngược với Bangkok, thị trường cá ngừ vằn Ecuador lại ảm đạm, giá bán liên tục giảm do nguồn cung dồi dào từ Peru và Ecuador. Một nguồn tin trong ngành cho hay, giá cá ngừ vằn Mỹ Latinh đã giảm xuống 1.3001.350 USD/tấn. Tuy nhiên, theo các hãng kinh doanh cá ngừ, hầu hết giao dịch hiện đang ở mức 1.300 USD/tấn bởi các kho lạnh và nhà máy đóng hộp đã đầy ắp nguyên liệu.

Brazil, Trung Quốc

Giá cá rô phi trái chiều

Ảnh: Shutterstock

Thị trường cá rô phi Brazil trầm lắng do nhu cầu tiêu thụ sụt giảm trong tháng 5, trong khi nguồn cung vẫn duy trì ở mức cao. Dữ liệu thống kê của cơ quan nghiên cứu nông nghiệp Brazil (CEPEA) cho thấy, giá rô phi nguyên liệu tháng 5/2024 tại Grandes Lagos, West Parana và Morada Nova da Minas giảm mạnh nhất, lần lượt 9,30 BRL/ kg (1,72 USD); 8,96 BRL/kg và 8,97 BRL/kg. Tuy nhiên, cũng trong tháng 5, Brazil xuất khẩu 1.389 tấn rô phi, tăng 65,7% so với tháng 4 và tăng 40% so cùng kỳ năm ngoái. Trái ngược với thị trường Brazil, giá cá rô phi Trung Quốc đang ở mức cao trong khi nguồn cung khan hiếm. Cụ thể, đầu tháng 5/2024, rô phi loại trên 500 gram có giá 11,40 CNY/kg (1,61 USD) tại Quảng Đông và 11,20 CNY/kg tại Hải Nam, tăng 8,50 CNY/kg so với giá cùng kỳ năm ngoái. Thị trường đang đối mặt tình trạng thiếu nguyên liệu do lượng rô phi trong ao nuôi ở miền Nam Trung Quốc ngày càng giảm.

Tuấn Minh (Tổng hợp)

ỨNG DỤNG

CÁC GIẢI PHÁP BỀN VỮNG

HƠN TRONG NTTS

PHẦN

Sản phẩm AOcare 3D của Skretting được khách hàng tin dùng

Với sứ mệnh “Nuôi dưỡng tương lai”, Skretting đã góp thần

thúc đẩy sự thay đổi tích cực trong ngành NTTS và đóng

góp nguồn thực phẩm bền vững cho tương lai. Nhận thức

được vai trò quan trọng của ngành đối với an ninh lương

thực toàn cầu và sự bền vững môi trường, Skretting tự hào

là nhà cung cấp các giải pháp dinh dưỡng hàng đầu trong

lĩnh vực sản xuất thức ăn thủy sản.

ặc dù chất khử trùng có thể là công cụ có giá trị để duy trì chất lượng nước và kiểm soát dịch bệnh trong NTTS, nhưng điều cần thiết

là phải sử dụng chúng một cách thận trọng và kết hợp với

các biện pháp quản lý khác để thúc đẩy hoạt động NTTS

bền vững và có trách nhiệm với môi trường.

Các sản phẩm và giải pháp tự nhiên có thể đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì chất lượng nước trong NTTS

thông qua nhiều cơ chế khác nhau. Một trong những

phương pháp hứa hẹn nhất là sử dụng các chế phẩm xử lý sinh học, khai thác sức mạnh của các sinh vật tự nhiên để phân hủy các chất ô nhiễm và khôi phục cân bằng sinh thái Chất lượng nước và hệ vi sinh trong nước có mối liên hệ mật thiết trong NTTS, vi sinh đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì chất lượng nước và sức khỏe tổng thể của hệ sinh thái...

Vi sinh vật trong hệ vi sinh trong nước tham gia vào chu trình dinh dưỡng, bao gồm phân hủy chất hữu cơ và tái sử dụng chất dinh dưỡng. Bằng cách phân hủy chất thải hữu cơ và mảnh vụn hữu cơ, các vi sinh vật giúp giải phóng các chất dinh dưỡng thiết yếu trở lại hệ sinh thái, hỗ trợ sự phát triển của tảo và các sản phẩm sơ cấp khác.

Hệ vi sinh vật trong nước cũng bao gồm các mầm bệnh tiềm ẩn và vi sinh vật gây bệnh. Tuy nhiên, trong một hệ sinh thái cân bằng, các vi sinh vật có lợi có thể cạnh tranh và ngăn chặn sự phát triển của các loài gây bệnh, giúp duy trì chất lượng nước và đảm bảo sức khỏe cho các loài thủy sinh. Các sản phẩm xử lý sinh học bằng men vi sinh như

AOcare Probiotic đóng vai trò quan trọng trong NTTS và được xem như một phương pháp tự nhiên và bền vững để quản lý chất lượng nước, phòng chống dịch bệnh. Vi sinh

AOcare Probiotic có thể góp phần cải thiện chất lượng nước bằng cách thúc

trình dinh dưỡng trong hệ thống nuôi. Các chủng lợi khuẩn

khác nhau trong sản phẩm có thể chuyển hóa chất thải hữu cơ và chuyển đổi amoniac thành dạng ít độc hơn, duy trì thông số chất lượng nước tối ưu cho đối tượng thủy sản.

Các vi khuẩn có lợi có trong AOcare Probiotic giúp phân

hủy chất thải hữu cơ, mảnh vụn hữu cơ và thức ăn thừa, sau đó chuyển hóa nó thành các các dinh dưỡng dễ tiêu làm thức ăn cho thực vật phù du và động vật phù du trong nước hay ngay cả cho bản thân của chúng.

Nhóm lợi khuẩn tạo nên AOcare Probiotic cũng có đặc tính kháng khuẩn có thể giúp kiểm soát sự phát triển và lây lan của vi khuẩn, virus và nấm gây bệnh cho vật nuôi. Nhóm vi khuẩn có lợi này cũng có thể cạnh tranh loại trừ mầm bệnh, tạo ra các hợp chất kháng khuẩn và điều chỉnh phản ứng miễn dịch của vật chủ, làm giảm tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của bệnh ở các loài nuôi, dẫn đến cải thiện sức khỏe và nâng cao tỷ lệ sống cho vật nuôi.

Một trong những vấn đề chính khi xử lý vi khuẩn gây bệnh là khả năng hình thành màng sinh học (biofilm).

AOcare Probiotic có thể đóng một vai trò trong việc quản lý màng sinh học trong các hệ thống NTTS. Vi khuẩn AOcare

Probiotic có khả năng phá vỡ và ức chế sự hình thành màng sinh học gây bệnh và phá vỡ quá trình giao tiếp của các tế bào vi khuẩn (Quorum-sensing) hông qua việc sản xuất enzyme, chất hoạt động bề mặt và hợp chất kháng khuẩn. Điều này giúp ngăn chặn hiện tượng bám bẩn sinh học, duy trì dòng nước và giảm nguy cơ lây truyền bệnh tật. Cuối cùng, phúc lợi cho vật nuôi cũng là một khía cạnh quan trọng của NTTS bền vững. Nó liên quan đến việc đảm bảo sức khỏe, sự an toàn và phúc lợi của đối tượng nuôi trong suốt khu kỳ nuôi, đồng thời thúc đẩy các biện pháp giảm thiểu tác động đến môi trường và đảm bảo khả năng tồn tại lâu dài của hệ thống nuôi. Khoáng chất là thành phần thiết yếu hình thành nên khung cơ thể như lớp vỏ bên ngoài của giáp xác, xương, răng của cá... đóng vai trò chính trong việc duy trì áp suất thẩm thấu và qua đó giúp điều chỉnh sự trao đổi nước và các chất hòa tan trong cơ thể thủy sinh vật, khoáng chất đóng vai trò là thành phần cấu trúc của các mô mềm, cần thiết cho việc truyền xung thần kinh và co cơ, ngoài ra còn đóng vai trò quan trọng trong cân bằng axit - bazơ của cơ thể và điều chỉnh pH của máu và các chất dịch bên trong cơ thể, cũng như đóng vai trò là thành phần thiết yếu của nhiều enzyme, vitamin, hormone và sắc tố hô hấp, hay là yếu tố đồng hóa trong quá trình trao đổi chất và là chất xúc tác và chất kích hoạt enzyme.

Thành phần ion trong nước nước ao nuôi được biết đến như là nhân tố giới hạn đối với sự phát triển và tỷ lệ sống của tôm nhưng đóng vai trò quan trọng hơn so với độ mặn, với tỷ lệ lý tưởng của các khoáng chất chính trong nước sẽ gần bằng với tỷ lệ của nước biển ngay cả ở các độ mặn khác nhau. Các tỷ lệ này rất quan trọng để đáp ứng nhu cầu sinh lý của tôm biển.

Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng sự thiếu hụt một

số ion nhất định, như natri (Na+), kali (K+), canxi (Ca 2+) và magie (Mg 2+), dẫn đến tình trạng stress kéo dài và có thể

ảnh hưởng tăng trưởng và tỷ lệ sống bởi trực tiếp làm xáo

trộn nồng độ ion trong máu và ảnh hưởng đến hoạt động Na/K-ATPase.

AOcare Mineral Balance không chỉ là sự kết hợp độc đáo

của các khoáng chất đa lượng (canxi, magie, kali, natri) và các nguyên tố vi lượng (kẽm, mangan, selen, silica) với nồng độ và tính khả dụng sinh học cao, AOcare Mineral Balance giúp mang lại sự cân bằng ion phù hợp cho ao nuôi. Việc cân bằng khoáng chất thích hợp không chỉ đóng

vai trò quan trọng đối với sức khỏe, sự tăng trưởng và phúc

lợi cho đối tượng thủy sản mà còn còn tạo nên sự ổn định

về năng suất tổng thể của môi trường NTTS.

Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng các hoạt động NTTS

bền vững nhằm mục đích giảm thiểu tác động đến môi

trường, tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, cải thiện phúc

lợi cho vật nuôi và duy trì khả năng tồn tại lâu dài của các

hoạt động nuôi trồng thủy sản. NTTS bền vững liên quan

đến việc sử dụng các sản phẩm và phương pháp ứng dụng

có trách nhiệm với môi trường để duy trì chất lượng nước, kiểm soát mầm bệnh và tăng cường sức khỏe của thủy sinh vật đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Skretting cam kết quản lý môi trường và giảm tác động đến môi trường cho các hoạt động nuôi trồng thủy sản.

Chúng tôi sẵn sàng hợp tác với các đối tác trong ngành, các bên liên quan và các chương trình chứng nhận để thúc

đẩy các hoạt động nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm, giảm thiểu tác động đến môi trường và đảm bảo tuân thủ

các tiêu chuẩn và quy định về tính bền vững.

Skretting

G ướng cho xuất khẩu cá ngừ

Xuất khẩu cá ngừ đang trở thành một trong những mũi nhọn của ngành

thủy sản Việt Nam những năm gần đây. Sản phẩm cá ngừ đang góp phần

tạo thêm uy tín và thương hiệu cho sản phẩm Việt Nam tại các thị trường

lớn trên toàn cầu.

Tăng trưởng ấn tượng

Hiện cá ngừ của Việt Nam đã xuất được sang 86 thị trường trên thế giới. Tính từ năm 2017 – 2022, tỷ trọng giá trị xuất khẩu cá ngừ trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã tăng từ 7,1% năm 2017 lên 9,5% năm 2022 . Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 169 triệu USD năm 2021 lên 255 triệu USD năm 2023 (tăng 51%).

Năm 2024 ghi nhận những tăng trưởng ấn tượng của ngành. Tính đến hết tháng 6/2024 xuất khẩu cá ngự ước đạt hơn 463 triệu USD, tăng hơn 21% so với cùng kỳ năm 2023. Xuất khẩu cá ngừ sang thị trường Mỹ tăng trưởng hơn 37%, thị trường châu Âu tăng trưởng hơn 23% so với cùng kỳ năm 2023. Thị trường Israel, Nga và Hàn Quốc tăng lần lượt là 55%, 70% và 76%...

Cá ngừ đóng hộp là sản phẩm chủ lực, chiếm gần 49% tổng kim ngạch xuất khẩu. So với năm 2023, xuất khẩu nhóm sản phẩm này của Việt Nam tăng gần 33%.

Các sản phẩm cá ngừ nhìn chung đều tăng mạnh, trong đó cá ngừ đông lạnh tăng 7%, cá ngừ tươi – đông lạnh – khô tăng tới 195%, cá ngừ chế biến khác tăng 12%.

Tăng trưởng của xuất khẩu cá ngừ có đóng góp lớn của việc thực thi Hiệp định Thương mại Tự do giữa EU và Việt Nam (EVFTA). Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 136 triệu USD năm 2020 lên 176 triệu USD năm 2023, tăng 30%.

Cá ngừ Việt Nam đã xuất sang 22 nước trong khối EU. Trong đó, Ba Lan và Đan Mạch là 2 nước đang đẩy mạnh nhập khẩu cá ngừ đóng hộp của Việt Nam; mức tăng so với cùng kỳ năm ngoái lần lượt là 300% và 246%.

Hiện Việt Nam mới đứng hàng thứ 7 trong số các quốc gia xuất khẩu cá ngừ vào EU, do đó cơ hội và thị phần cũng như tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu cá ngừ vào EU thời gian tới là rất lớn.

Khó khăn nguyên liệu

Sản lượng khai thác cá ngừ 3 tháng đầu năm 2024 tại 3 tỉnh trọng điểm về khai thác cá ngừ ước đạt 5.392 tấn, giảm nhẹ 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: tại Phú Yên ước đạt 1.008 tấn, ước giảm 12% so cùng kỳ; tại Bình Định ước đạt 3.916 tấn, tăng 4%; tại Khánh Hòa ước đạt 368 tấn, giảm 12%.

Theo số liệu từ Cục Kiểm ngư, trữ lượng nguồn lợi hải sản ở giai

đoạn 2016 - 2020 ước tính khoảng 3,95 triệu tấn, giảm 22,1% so với trữ lượng 5,07 triệu tấn trong giai đoạn 2000 - 2005.

Nguyên nhân chính dẫn đến suy giảm nguồn lợi được xác

định là do cường lực khai thác quá mức, đặc biệt là khai thác xâm hại thủy sản con non, kích thước nhỏ chiếm tỷ lệ cao trong sản lượng khai thác.

Với mục tiêu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Nghị định 37/2024/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2029/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thuỷ sản (có hiệu lực từ tháng 5/2024) quy định, kích thước tối thiểu cho phép khai thác cá ngừ vằn là 500 mm (nửa mét).

Tuy nhiên, theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), nhiều ngư dân phản ánh rằng, trong

thực tế size 500 mm trở lên chỉ chiếm tỷ lệ trung bình 57% trong các lô khai thác ngừ vằn hiện nay. Đồng thời, tiêu chuẩn thương mại quốc tế bình thường hiện nay nhỏ hơn rất nhiều và đặc biệt chưa thấy quốc gia nào quy định cấm khai thác ngừ vằn nhỏ hơn 500 mm.

Việc áp dụng kích quy định mới sẽ khiến ngư dân phải thay đổi lưới có kích thước mắt lưới phù hợp, gây tốn kém, tăng chi phí đánh bắt; thủ tục xuất bến - cập bến trở nên khó khăn hơn; có thể sẽ ảnh hưởng tới nguồn nguyên liệu cá ngừ vằn phục vụ cho xuất khẩu.

Đổi mới hạ tầng và hành lang pháp lý

Mặc dù xuất khẩu cá ngừ đã đạt con số tỷ USD song thách thức vẫn rất lớn, đặc biệt khi ngành thủy sản Việt Nam đang nỗ lực thực hiện chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU).

Các tàu khai thác xa bờ phải thực hiện truy xuất nguồn gốc cho nguyên liệu hải sản, trong đó có nguyên liệu cá ngừ. Thế nhưng, nhiều tàu gặp trục trặc do hệ thống thiết bị giám sát hành trình liên tục bị lỗi. Hệ thống giám sát qua mạng VNPT bị lỗi làm tàu cá mất kết nối giám sát hành trình có khi kéo dài 2 - 3 ngày.

VASEP cũng kiến nghị xem xét sửa đổi quy định để có thể cấp giấy xác nhận nguyên liệu S/C ngay cho doanh nghiệp khi đã hoàn thành việc bốc dỡ nguyên liệu từ tàu cá có sự giám sát của nhân viên cảng về chủng loại, khối lượng... tại cảng cá; có hướng dẫn, chỉ đạo việc giải quyết giấy S/C cho những trường hợp tàu cá bị mất kết nối do lỗi của nhà cung cấp dịch vụ được xác nhận.

Các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ cũng phải thực hiện

các quy định của thị trường EU và các quy định mới của Việt Nam về việc “Không trộn lẫn nguyên liệu thủy sản có nguồn

gốc từ khai thác nhập khẩu với nguyên liệu thủy sản có nguồn gốc từ khai thác trong nước vào cùng một lô hàng xuất khẩu” tại Nghị định số 37/2024/NĐ-CP và quy định xử phạt vi phạm hành chính cho hành vi này tại Nghị định số 38/2024/NĐ-CP.

Các doanh nghiệp và ngư dân hy vọng năm 2024, xuất khẩu cá ngừ Việt Nam tái lập được mốc 1 tỷ USD và thiết lập nên nhiều cột mốc mới vì dư địa xuất khẩu cá ngừ rất lớn. Tuy nhiên, để ngành đánh bắt chế biến xuất khẩu cá ngừ phát triển bền vững sẽ cần nhiều chính sách, đầu tư đồng bộ, hiện đại, theo kịp yêu cầu của các thị trường thế giới. Đặc biệt là việc số hóa dữ liệu từ từng tàu cá đến các cảng, từ các cảng đến các cơ quan hữu quan, minh bạch nguồn gốc sản phẩm cá ngừ đánh bắt và nhập khẩu để rút ngắn thời gian và chi phí xác định nguồn gốc sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Ngoài ra, các doanh nghiệp và ngư dân cũng kiến nghị xem lại quy định kích thước tối thiểu cho phép khai thác cá ngừ vằn 500mm, vì hiện chưa thấy quốc gia nào quy định cấm khai thác ngừ vằn nhỏ hơn 500 mm.

ẤN TƯỢNG

TỐC ĐỘ LỚN ĐỘT PHÁ

CỦA TÔM GIỐNG C.P. VIỆT NAM

Lợi nhuận luôn là mục tiêu hướng tới của mọi người nuôi tôm, bên cạnh giải pháp nuôi tôm kích cỡ lớn, thì tốc độ lớn nhanh của tôm giống là yếu tố quan trọng giúp tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận trong vụ nuôi. Trong nội dung bài viết hôm nay kính mời Quý khách hàng cùng tìm hiểu những câu chuyện nuôi tôm tốc độ lớn cực nhanh đến từ khách hàng C.P. Việt Nam, với 69 ngày nuôi đạt size 30 con/kg từ khách hàng anh Nguyễn Văn Vu và 70 ngày nuôi đạt size 30 con/kg từ anh Lê Văn Hiền tại Bến Tre.

Khu nuôi 8 ao nuôi theo mô hình CPF-Combine của anh Hiền

Ấn tượng tốc độ lớn đột phá

 Anh Nguyễn Văn Vu (Ba Tri - Bến Tre)

Với tôm giống và thức ăn C.P. Việt Nam trong vụ nuôi này anh Vu ngỡ ngàng với tốc độ lớn cực nhanh của tôm giống CPF-Turbo G20 qua mỗi đợt chài mẫu. Có dịp gặp gỡ vào đầu tháng 6/2024, anh Vu chia sẻ: “Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến khá phức tạp nhưng khu nuôi của anh vẫn phát triển tốt, với lượng thả nuôi 500.000 tôm giống CPF-Turbo G20 hiện tại lứa tôm của anh 69 ngày tuổi đạt kích cỡ 30 con/ kg rất khỏe mạnh, gan ruột đẹp và đang được chăm sóc về kích cỡ lớn hơn”.

Đưa chúng tôi ra thăm ao nuôi, anh Vu cho hay: “Tốc độ phát triển của tôm giống C.P. rất nhanh, thời điểm tôm 39 ngày tuổi đạt size 80 con/kg anh tiến hành san thưa với mật độ nuôi 150 con/m2, tỷ lệ sống đạt gần như 100%, sau đó anh tiến hành chài mẫu vào 60 ngày tuổi tôm đạt size 42 con/kg và đến nay đúng 69 ngày tuổi tôm đạt size 30 con/kg, giai đoạn này chỉ sau 9 ngày nuôi tôm rút 12 size với tốc độ phát triển ADG lên đến 1,05 g/ngày vô cùng ấn tượng”. Theo anh Vu, sử dụng thức ăn C.P. 43% protein nhãn hiệu TURBO để thúc tôm lớn

Anh Vu sử dụng các sản phẩm BIOTIC C.P. Việt Nam để quản lý môi trường ao nuôi, giúp tôm khoẻ mạnh, lớn nhanh

Giải pháp tôm giống CPF-Turbo G20 cùng thức ăn C.P. 43% protein nhãn hiệu TURBO giúp khu nuôi anh Vu đạt size 30 con/kg sau 69 ngày nuôi

nhanh và đạt hiệu quả vượt trội trông thấy. “Sử dụng thức ăn TURBO tôi thấy màu sắc tôm rất đẹp, tôm chắc thịt nặng cân, rút size rất nhanh giúp rút ngắn thời gian nuôi, tiết kiệm chi phí, đưa tôm về size lớn bán giá thành cao, lợi nhuận tốt hơn”, anh Vu chia sẻ thêm.

Vừa là đại lý và là người nuôi tôm có uy tín trong khu vực anh Vu cho biết, trong thời điểm giá tôm biến động nhưng ở size lớn mức giá vẫn ổn định, vào đầu tháng 6/2024, tôm size 20 con/kg giá 210.000 đồng/kg; 15 con/kg giá là 320.000 đồng/kg, anh khuyến khích hệ thống khách hàng của mình chọn thả tôm giống C.P.

Việt Nam và sử dụng thức ăn TURBO.

 Anh Lê Văn Hiền (Bình Đại - Bến Tre)

Với quy mô 8 ao ao nuôi theo mô hình CPFCombine, sử dụng 100% tôm giống và thức

ăn C.P. Việt Nam, khu nuôi anh Hiền đạt hiệu quả vô cùng ấn tượng trong vụ nuôi này. Được biết anh Hiền thả tổng lượng 2.500.000 tôm giống CPF-Turbo G20 kết hợp sử dụng thức ăn C.P. 43% protein nhãn hiệu TURBO, hiện tại các ao nuôi của anh đang có tôm phát triển rất nhanh, chỉ với 70 ngày nuôi đạt size

30 con/kg và đang được chăm sóc về kích cỡ lớn hơn. Ở thời điểm tôm 66 ngày tuổi đạt size 34 con/kg, với mật độ nuôi 230 con/m2, ước tính sản lượng của 8 ao nuôi gần 50 tấn. Với tốc độ lớn cực nhanh của tôm giống CPF-Turbo G20 khi kết hợp cùng thức ăn TURBO giúp anh tiết kiệm chi phí nuôi và thu về lợi nhuận vô cùng hấp dẫn.

Giải pháp nuôi hiệu quả

Trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp, giá tôm nhiều biến động nhưng với bộ giải pháp nuôi hiệu quả từ thức ăn, tôm giống, mô hình và các sản phẩm Biotic, C.P. Việt Nam luôn khẳng định giá trị của mình, giúp khách hàng nuôi tôm về được kích cỡ lớn, nhanh với tốc độ đột phá. Kết quả nuôi của anh Nguyễn Văn Vu và anh Lê văn Hiền là minh chứng tiêu biểu cho hiệu quả ấn tượng của tôm giống C.P. Việt Nam. Xin cảm ơn anh Vu và anh Hiền về câu chuyện nuôi tôm của mình, kính chúc hai anh và Quý khách hàng có vụ mùa thành công, thắng lợi.

Nhà tiên phong

trong lĩnh vực nghiên cứu và tìm

kiếm nguồn nguyên liệu sạch, ứng

dụng công nghệ sinh học vào ngành

chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản Việt

Nam. Hướng đến sự bền vững vì

sức khỏe cộng đồng.

Công ty TNHH Xuất Nhập Khẩu WMW là một đơn vị chuyên nghiên cứu và nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản như thảo dược, enzyme, men vi sinh với hoạt tính sinh học cao và ổn định.

Công ty TNHH Xuất Nhập Khẩu WMW là một đơn vị tiên phong trong việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ sinh học vào ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam. WMW tập trung vào nghiên cứu và nhập khẩu các nguyên liệu sạch như thảo dược, enzyme, men vi sinh với hoạt tính sinh học cao và ổn định, nhằm đáp ứng nhu cầu của người nuôi và đối tác.

Tầm nhìn và sứ mệnh của WMW:

Tầm nhìn: Trở thành nhà lãnh đạo trong lĩnh vực nghiên cứu và tìm kiếm nguồn nguyên liệu sạch, áp dụng công nghệ sinh học vào chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam.

Sứ mệnh: Mang đến các sản phẩm chất lượng cao và hiệu quả, giúp tăng cường sản xuất bền vững, bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Các sản phẩm nổi bật của WMW bao gồm:

Aromar: Sản phẩm thảo dược chiết xuất từ rau diếp xoăn, tỏi, quế cassia, húng tây, kết hợp với axit hữu cơ và chất kết dính độc tố nấm mốc. Aromar giúp cải thiện sự hấp thụ dinh dưỡng và tăng cường miễn dịch cho vật nuôi, đồng thời ngăn ngừa các bệnh thường gặp như lỏng ruột, phân trắng.

PhytoAqua: Sản phẩm thảo dược chiết xuất từ tỏi, húng tây, chanh, cây xô thơm và bạch đàn, kết hợp với axit citric, axit lactic, Vitamin E và axit béo monoester.

PhytoAqua hỗ trợ tăng sức khỏe đường ruột, tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh như EHP, EMS và thúc đẩy tăng trưởng cho vật nuôi.

PhytoGuard: Sản phẩm chứa tinh dầu từ sả, tràm, bạc hà ngô, được sử dụng để điều trị nhiễm trùng, ký sinh trùng và các tổn thương trên vật nuôi.

Cam kết của WMW:

Đảm bảo sự ổn định và liên tục cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ.

Giảm thiểu

Thông tin liên hệ:

Email: info@wmwexim.com

Website: wmwexim.com

Hotline: 0962270896

SANDO sau 19 năm phát triển, ngày 31/07/2023 vừa

qua, Đoàn chuyên gia Cục Thú y đã đánh giá nhà máy (SADOVA) của Công ty đạt chuẩn GMP-WHO.

Nhà máy thứ 2 của Công ty SANDO có tên gọi SADOVA, với vốn đầu tư

6 triệu USD, tọa lạc tại KCN Xuyên Á, Xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, được Đoàn chuyên gia Cục Thú y đánh giá phù hợp “Thực hành tốt sản xuất thuốc” theo nguyên tắc, quy định và hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).

SADOVA đã đạt được 8 dây chuyền sản xuất thuốc thú y và thủy sản cho 2 xưởng thuộc nhóm Beta-lactam và Non- Beta. Đây là dấu mốc quan

trọng của Công ty trên con đường tiếp tục khẳng định chất lượng và

thương hiệu.

Việc đầu tư nhà máy SADOVA

đạt chuẩn GMP-WHO với mục

đích để chuyên nghiên cứu các

thuốc đặc trị cho Thú y và Thủy

sản, cho ra sản phẩm chất lượng

cao, đa dạng hóa sản phẩm để

thỏa mãn nhu cầu khách hàng

trong nước và xuất khẩu.

Phòng Kỹ thuật - Marketing

Giải pháp tiết kiệm và hiệu quả cho ngành thủy sản

Trong bối cảnh ngành thủy sản ngày càng phát triển và đối mặt với nhiều thách thức như sự suy giảm chất lượng nước và căng thẳng môi trường cho các sinh vật nuôi, công nghệ Nano Bubbles đã nổi lên như một giải pháp hiệu quả và tiết kiệm.

Nano Bubbles là các bong bóng khí kích thước siêu nhỏ

70 - 120 nm, không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Chúng

có khả năng lơ lửng trong nước trong nhiều tuần mà không trồi

lên bề mặt và thoát khí. Đặc tính nổi bật bao gồm điện tích

bề mặt âm mạnh, giúp chúng ổn định trong nước.

Đáy ao sử dụng Nano bubbles luôn sạch không có sự hiện diện của các thiết bị chia khí phân bố dày đặc như máy sục thổi khí thông thường. Từ đó tôm cá đầy đủ không gian thoải mái để phát triển, đồng thời xi phông đáy ao

mỗi ngày trở nên dễ dàng sạch

sẽ và tiện lợi hơn.

Nâng cao nồng độ ôxy hòa tan trong nước, cải thiện môi trường sống cho cá, tôm và các loài thủy sản khác. Điều này không chỉ giảm stress cho sinh vật nuôi mà còn tăng cường sức khỏe và tốc

độ sinh trưởng của chúng. Bên cạnh đó, Nano Bubbles còn giúp duy trì pH ổn định và màu nước ao nuôi ổn định trong suốt vụ nuôi

Máy tạo Nano Bubbles có công suất lớn, cung cấp hiệu suất truyền ôxy cao và tốc độ nhanh chóng. Công nghệ này giúp giảm đáng kể chi phí tiêu thụ điện năng, chi phí vận hành thiết bị sục khí. Đây là một lợi ích lớn cho các doanh nghiệp, trang trại NTTS, giúp tối đa hóa lợi nhuận và nâng cao hiệu quả sản xuất.

Vận hành dễ dàng, dễ lắp đặt, được trang bị các hệ thống cảnh

báo khi gặp sự cố, tự động điều khiển bật tắt tiết kiệm thời gian vận

Nhân viên kỹ thuật Công ty TNHH B.H.N đang giới thiệu công nghệ Nano Bubbles cho khách hàng tại trại tôm Cần Giờ

hành và tiết kiệm điện năng tối đa, Giảm đáng kể tiếng ồn của thiết bị.

Hệ thống Nano Bubbles được thiết kế các đường ống đặc biệt, không chiếm nhiều không gian đáy ao, đồng thời tạo được dòng nước luân chuyển nhẹ để thuận lợi cho tập tính bơi lội tự nhiên cho tôm, cá.

Với mong muốn mở rộng thị

trường và cùng nhau phát triển, chúng tôi mời đối tác, nhà phân

phối hợp tác sản phẩm Nano Bubbles. Thiết bị Nano Bubbles

không chỉ tăng cường sức khỏe và tốc độ sinh trưởng của sinh vật nuôi mà còn giúp tiết kiệm năng

lượng và chi phí vận hành. Chúng tôi cam kết hỗ trợ toàn diện và dịch vụ hậu mãi chuyên nghiệp.

B.H.N

áp dụng di truyền học

Các quốc gia châu Mỹ và châu Á đã tăng cường sản

xuất tôm mà không có sự gia tăng tương ứng về nhu

cầu, dẫn đến giá cả giảm thấp trong nhiều thập kỷ.

Việc đầu tư vào các chiến lược và công cụ liên quan

đến cải tiến gen giúp nâng cao hiệu quả sản xuất tôm

và duy trì tính cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt trong

sản xuất con giống.

Tác động của chọn lọc di truyền

Cải thiện gen có thể tăng cường đáng kể

hiệu quả sản xuất tôm bằng cách chọn lọc các cá thể có tốc độ tăng trưởng nhanh, khả

năng kháng bệnh tốt và thích nghi với các

điều kiện môi trường.

Cải tiến gen ở tôm không chỉ giới hạn ở giai

đoạn tăng trưởng và vỗ béo mà còn có tác

động đến các thông số sinh sản như số lần đẻ mỗi chu kỳ và số lượng trứng, ấu trùng. Điều này giúp nâng cao chất lượng nguồn tôm bố mẹ, giảm chi phí và tăng lợi nhuận về lâu dài.

Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng cải thiện tần suất sinh sản có thể được di truyền với tỷ lệ từ 15% - 37%; cải thiện số lượng trứng và ấu trùng tương ứng khoảng 17% - 26% và 18%.

Thông tin về hệ gen cũng giúp người nuôi hạn chế tình trạng giao phối cận huyết trong nguồn tôm bố mẹ, điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ tăng trưởng và sống sót. Mặc dù tác động của cận huyết đối với các thông số sinh sản chưa được nghiên cứu rộng rãi, nhưng yếu tố này cũng gây ra những ảnh hưởng đáng kể. Sự gia tăng 10% trong cận huyết làm giảm tỷ lệ thụ tinh của trứng từ 3% - 26.0% và giảm số lượng ấu trùng từ 2.9% - 24.6%. Quản lý cận huyết thông qua giám sát di truyền và các phép lai chiến lược là rất cần thiết.

Các chương trình chọn lọc gen của CAT

Trung Tâm Công Nghệ Thủy sinh (CAT) chuyên thực hiện các

nhu cầu của khách hàng và thị trường. Các chương trình này sử dụng chỉ thị di truyền và thông tin về hệ gen học để tạo

liệu cho các chương trình chọn lọc hàng loạt, phả hệ hoặc chọn lọc theo bộ gen, nhằm cải thiện đặc tính hình thái chính cho khách hàng.

Các bước để thiết lập một chương trình cải thiện gen:

1. Xác định mục tiêu: Xác định các đặc tính cần cải thiện như tốc độ tăng trưởng, khả năng kháng bệnh, hiệu quả sinh sản.

2. Đánh giá cơ bản: Thực hiện đánh giá tổng quan về di truyền (GO) để xác định sự đa dạng di truyền hiện có, mức độ cận huyết và các mối quan hệ trong quần thể tôm.

3. Chọn các dấu hiệu di truyền: Lựa chọn các dấu hiệu di truyền phù hợp (các bảng SNP) để theo dõi các biến thể di truyền và hướng dẫn chọn lọc.

4. Thiết kế chương trình: Phát triển chiến lược nhân giống bao gồm chọn lọc đại trà, nhân giống theo gia đình hoặc chọn lọc bộ gen dựa trên mục tiêu và nguồn lực.

5. Triển khai: Bắt đầu chọn lọc và nhân giống dựa trên các dấu hiệu và đặc tính mong muốn.

6. Giám sát và điều chỉnh: Liên tục giám sát tiến độ và điều chỉnh chương trình nhân giống để đảm bảo cải thiện liên tục và bền vững. Các dự án nghiên cứu tại CAT tiếp tục đẩy mạnh giới hạn của di truyền tôm. Bao gồm việc chọn lọc gen và công nghệ chỉnh sửa hệ gen để nâng cao hiệu quả cho quá trình lai tạo. Bằng cách tập trung vào các đặc tính liên quan

đến tỷ lệ tăng trưởng, kháng bệnh và hiệu quả sinh sản. Những nỗ lực này nhằm cải thiện chất lượng sản xuất tôm. Lĩnh vực này cho phép thực hiện các sửa đổi DNA của tôm để tăng cường các đặc điểm mong muốn. Các phòng thí nghiệm nghiên cứu, như tại CAT ở San Diego, đang đi đầu trong việc phát triển các công nghệ này, với tiềm năng tạo ra một cuộc cách mạng hóa ngành nuôi tôm trong tương lai gần.

Cải thiện gen giúp tăng cường hiệu quả sản xuất và duy trì tính cạnh tranh trong ngành công nghiệp tôm. Bằng cách tập trung vào việc sản xuất những con giống khỏe mạnh, kháng bệnh tốt với các thông số sinh sản tốt, ngành công nghiệp có thể giải quyết những thách thức hiện tại và đảm bảo một tương lai bền vững. CAT có thể giúp thiết lập một phương pháp cải thiện gen toàn diện, mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất bằng cách giảm chi phí, tăng lợi nhuận và thúc đẩy sản xuất tôm bền vững.

Carlos Pulgarin, Marcos De Donato, Alejandro Gutierrez

Sử dụng thảo dược trong nuôi tôm là xu

hướng được nhiều người nuôi quan tâm. Bởi

đây là phương pháp giúp tôm sinh trưởng và

phát triển tốt, tiết kiệm chi phí, sản xuất an

toàn, hiệu quả.

Giải pháp từ tự nhiên

Thực tế hiện nay cho thấy, người nuôi tôm đang sử dụng quá nhiều thuốc kháng sinh, hóa chất, vôi nhằm để xử lý

môi trường, phòng trừ dịch bệnh... Trong khi đó, tôm thẻ chân trắng là loài rất nhạy cảm với môi trường có nhiều kháng sinh và hóa chất, nếu sử dụng những chất này thường xuyên, về lâu dài sẽ có những tác động tiêu cực như: Hiện tượng tôm kháng thuốc, tôm chậm lớn, khó điều trị bệnh. Từ đó, tạo cơ hội cho các mầm bệnh khác xâm nhập và gây ra các bệnh nặng hơn như: Bệnh đốm trắng, bệnh phân trắng, bệnh gan tụy cấp tính... làm tôm suy yếu, chậm lớn, chết rải rác đến hàng loạt. Các loại thảo mộc, chế phẩm thảo dược có vai trò lớn trong nuôi tôm không kháng sinh, giúp kiểm soát dịch bệnh vì chúng có chứa các thành phần hoạt tính với chất chống ôxy hóa, chống vi khuẩn, chống stress, đồng thời kích thích sự tăng trưởng, thèm ăn, tăng cường hệ miễn dịch. Nuôi tôm bằng thảo dược đã được các nhà khoa học nghiên cứu và áp dụng thành công.

Trong tự nhiên, các loại thảo dược có tác dụng phòng và điều trị bệnh tôm được biết đến như cây cỏ lào (cộng sản), diệp hạ châu, tỏi, atiso, trâm bầu, keo cao... Thảo dược có thể giải quyết được các vấn đề về gan ruột trên tôm thẻ chân trắng giúp hồi phục và bảo vệ chức ăn gan, giải độc gan cho tôm, giúp đường ruột tôm luôn khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, tôm sinh trưởng và phát triển tốt.

Dùng các loại thảo dược để thay thế hóa chất trong nuôi tôm thẻ chân trắng công nghiệp đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Bởi phương pháp này không chỉ giúp người nuôi giảm chi phí đầu tư, tăng thêm lợi nhuận, mà còn hạn chế việc lạm dụng các hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng. Từ đó, cung cấp cho thị trường nguồn nguyên liệu sạch.

Herbal Aqua - Đột phá trong điều trị bệnh về gan Qua thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, Công ty TNHH Trường Hải Tiến cho ra mắt dòng sản phẩm: HERBAL AQUA - Bước đột phá trong điều trị bệnh về gan tôm. Herbal Aqua là sản phẩm có nguồn gốc từ thảo dược, giúp bảo vệ gan, thận, tụy cho tôm, cá, đặc biệt, sản phẩm có thể giúp gan tôm đẹp trở lại sau 24 giờ sử dụng. Sản phẩm có nhiều công dụng như: Bổ gan, thận, tụy cho tôm, cá, phục hồi chức năng gan; tăng cường sức đề kháng, tái tạo tế bào gan, tăng trọng nhanh, mau lớn; giải độc gan, thận, tụy, giúp đào thải nhanh kháng sinh tồn lưu; phục hồi sức khỏe nhanh sau khi điều trị bằng kháng sinh; chặn đứng hiện tượng tôm rớt đáy, rớt nhá không rõ nguyên nhân. Đặc biệt trường hợp tôm điều trị bệnh bằng kháng sinh đã giảm bệnh, nếu sử dụng Herbal Aqua gan sẽ phục hồi nhanh, mạnh mẽ trở lại.

Hướng dẫn sử dụng:

- Định kỳ 3 ngày/lần tạt 1 lít/1.000 m3, sử dụng từ lúc mới thả tôm đến giai đoạn 20 ngày tuổi để ngăn bệnh mờ đục gan, trắng gan (TPD).

- Cho ăn định k ỳ, phòng bệnh: Trộn 5 ml/kg thứ c ăn, sử dụng 1 - 2 lần/ngày.

- Kết hợp trị bệnh: Trộn 7 - 10 ml/kg thứ c ăn, cho ăn liên tục trong ngày.

Trường Hải Tiến

Thông tin chi tiết xin vui lòng liên hệ: Công ty TNHH Trường Hải Tiến Địa chỉ: 5/2/1 Phan Huy Ích, phường 14, quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh

Hotline: 091616.8200  Website: khoahocxanh.com

Tăng cường miễn dịch tôm bằng

chế phẩm sinh học từ

nấm men đến từ Enzym Feed Solutions

Enzym Group là một trong những công ty công nghệ sinh

học hàng đầu Đông Âu. Với 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh

vực sản xuất các giải pháp từ nấm men cho ngành bánh mì, thực phẩm, rượu và thức ăn chăn nuôi. Công ty Enzym hiện

xuất khẩu gần 50% sản lượng sang 23 quốc gia trên khắp

châu Âu, châu Á và châu Phi.

Giới thiệu chung

Enzym Feed Solutions, một trong những đơn vị chủ

lực của chúng tôi, cung cấp các phụ gia thức ăn tự nhiên, được sản xuất bằng công nghệ xử lý tế bào nấm

men tiên tiến, nhằm thúc đẩy dinh dưỡng tối ưu và nâng

cao hiệu quả kinh tế cho các trang trại.

Một thành tựu nổi bật gần đây của trung tâm R&D là sản phẩm Bột Protein EnzActive. Sản phẩm này đã được Enzym Group hợp tác với ShrimpVet để tiến hành thực hiện một thử nghiệm nhằm đánh giá hiệu quả trong việc phòng ngừa vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus, tác nhân chính gây ra bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/ AHPND) ở TTCT.

Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh S. cerevisiae là loại men được sử dụng phổ biến nhất trong NTTS, nhờ khả năng tăng cường sức khỏe vượt trội cho nhiều loài thủy sản. Nghiên cứu trên cá và giáp xác khẳng định S. cerevisiae và các thành phần tế bào của nó (β-glucan, mannanoligosaccharides, glucooligosaccharides, enzyme) cải thiện rõ rệt sự phát triển, hình thái và sinh lý của hệ tiêu hóa, cũng như khả năng miễn

dịch của vật chủ. Việc sử dụng S. cerevisiae thay thế kháng sinh, mở ra một hướng đi mới trong quản lý dịch bệnh thân thiện với môi trường.

Bột Protein EnzActive

Bột protein EnzActive là một loại phụ gia thức ăn prebiotic với đặc tính chống ôxy hóa và hấp thụ vượt trội. Được nuôi cấy bằng công nghệ độc quyền, chủng Saccharomyces cerevisiae trong Bột protein EnzActive mang lại khả năng chống ôxy hóa tự nhiên mạnh mẽ. Thành phần beta-glucans, mannan-oligosaccharides và chitosan trong bột protein EnzActive không chỉ mang lại khả năng chống ôxy hóa mạnh mẽ mà còn thúc đẩy hiệu suất và sức khỏe tổng thể của vật nuôi, giảm thiểu tác động của độc tố và mầm bệnh, đồng thời là giải pháp tự nhiên giúp tối ưu hóa hiệu quả thức ăn và tăng cường khả năng bảo vệ tự nhiên. EnzActive là một phụ gia thức ăn thủy sản độc đáo và hiệu quả cao, chứa 18 loại axit amin thiết yếu. Sự kết hợp đa dạng này mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe và tăng trưởng của vật nuôi. Dưới đây là bảng chi tiết về thành phần axit amin trong EnzActive:

Thiết kế thí nghiệm

Enzym và ShrimpVet đã bắt tay hợp tác trong một nghiên cứu trọng điểm nhằm khám phá tiềm năng của Bột Protein EnzActive trong việc nâng cao “lá chắn” miễn dịch của TTCT trước sự tấn công của vi khuẩn

Vibrio parahaemolyticus - “thủ phạm” gây ra bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND).

ShrimpVet đã tiến hành một thi nghiệm sơ bộ nhằm xác định liều lượng tối ưu của Bột Protein EnzActive để tối đa hóa hiệu quả. Bốn chế độ thức ăn thử nghiệm, với hàm lượng EnzActive lần lượt là 0; 0,5; 1,0; và 2,0 g/kg thức ăn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc bổ sung 0,5 g Bột Protein EnzActive/Kg thức ăn có khả năng nâng cao sức chống chịu của TTCT (trước tác nhân gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND).

Thí nghiệm được thiết kế gồm các giai đoạn: 2 ngày thích ứng, 20 ngày cho tôm ăn bằng các chế độ thức ăn (trước gây bệnh), 1 ngày thực hiện gây bệnh và 10 ngày theo dõi sau gây bệnh để đánh giá đáp ứng miễn dịch và tỷ lệ sống của tôm. Hai nhóm chế độ thức ăn đã được sử dụng: Nhóm đối chứng (không chứa sản phẩm thử nghiệm) bao gồm (đối chứng âm và đối chứng dương) và chế độ điều trị chứa 0,5 g/kg Bột Protein EnzActive. Mỗi bể 120 lít chứa 25 con tôm thí nghiệm với trọng lượng trung bình 1,08 ± 0,03 g. Thí nghiệm bao gồm 3 nhóm (Đối chứng âm, Đối chứng dương và Điều trị T1), mỗi nhóm có

3 lần lặp lại, được trình bày chi tiết trong Bảng 1.

Nhóm thí

Hình 2: Tỷ lệ sống của tôm tại các nhóm tại ngày kết thúc thí nghiệm

Hình 3: Tôm nhiễm bệnh EMS/AHPND (bên trái) so sánh với tôm khoẻ không nhiễm bệnh (bên phải)

Bảng: Liều gây bệnh được sử dụng trong thí nghiệm này là liều gây chết 50 - 70% (LD50-70)

Kết quả

Việc ứng dụng Bột Protein EnzActive đã mang lại

bước đột phá trong việc nâng cao khả năng chống chịu bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) ở TTCT. Đáng chú ý, nhóm tôm được bổ sung 0,5 g/kg Bột Protein

EnzActive vào chế độ thức ăn (T1) ghi nhận tỷ lệ sống sót vượt trội hơn 42,86% so với nhóm đối chứng dương tính (Hình 2). Nhóm T1 thể hiện sức chống chịu ổn định trước AHPND trong suốt giai đoạn sau thử thách, đặc biệt rõ rệt ở mốc 58 giờ. Sự gia tăng đáng kể này về tỷ lệ sống sót có sự khác biệt ý nghĩa thống kê, khẳng định tiềm năng lớn của Bột Protein EnzActive trong việc nâng cao hiệu quả trong nuôi tôm.

Tôm bị ảnh hưởng bởi AHPND (Hình 3) thường có biểu hiện lờ đờ, bơi lội bất thường, kén ăn, chậm lớn, đường ruột trống rỗng và gan tụy nhợt nhạt. Ngược lại, tôm khỏe mạnh bên phải (sau khi được bổ sung Bột

Protein EnzActive) cho thấy đường ruột chứa đầy thức ăn và gan tụy rõ nét.

EnzActive ứng dụng trong điều kiện nuôi tôm thực tế Sau khi gặt hái được kết quả tích cực ở quy mô phòng thí nghiệm, ShrimpVet và Enzym đã sẵn sàng đưa Bột Protein

EnzActive ứng dụng ra thực địa. Một thử nghiệm với quy mô lớn hơn với TTCT sẽ sớm được triển khai, nhằm kiểm chứng hiệu quả tăng trưởng vượt trội của sản phẩm này trong môi trường thực tế. Đây hứa hẹn là một bước tiến quan trọng, mở ra cơ hội tiếp cận nguồn sản phẩm đột phá, bền vững và thân thiện với môi trường cho người nuôi tôm, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng tôm nuôi.

Cùng đón chờ những thông tin cập nhật tiếp theo về hành trình đầy hứa hẹn này từ Enzym Group và ShrimpVet!

Enzym Group và ShrimpVet

Bí quyết của sự thành công

Đối với người nông dân nuôi tôm, bên cạnh việc hoạt động bắt mồi của tôm, màu nước nuôi thì hình thái và màu sắc của cơ quan gan tụy là một trong những yếu tố quan trọng nhất đem đến vụ mùa thành công cho người nuôi. Vì gan tụy có vai trò quan trọng nhất trong cơ thể tôm nên khi suy giảm

chức năng gan tụy, hệ miễn dịch giảm từ đó nguy cơ sinh vật gây hại (nhiễm khuẩn, virus, ký sinh trùng và nấm mốc) xâm nhập vào gan tụy là rất lớn và

gây ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể, làm tôm chậm lớn và hao hụt rất nhiều.

Chức năng của gan tụy đối với tôm

- Chức năng tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng

- Chức năng lưu trữ: Dự trữ các hạt lipid, glycogen, dinh dưỡng và các khoáng chất

- Giải độc và chống stress khi gặp điều kiện

bất lợi

- Tạo máu và hỗ trợ miễn dịch

- Chức năng ảnh hưởng đến quá trình bài tiết của tôm, thời gian lột xác, sự sinh trưởng và thành thục sinh sản của tôm

Tôm khỏe là tôm có gan tụy đầy và đều; có màu nâu vàng hoặc nâu đen đẹp mắt; khi bóp bể dịch gan màu nâu vàng sệt lại, không chảy và không chai cứng; thấy rõ dạ dày hình hạt gạo có màu đen, nâu đen rõ rệt.

Gan tụy tôm nhiễm bệnh thường có màu đỏ, vàng, nhạt đến trắng, đen. Gan bệnh là khi khối gan tụy teo lại có màu đen và bị chai cứng hoặc dai như cao su, ruột tôm rỗng dẫn đến chết rải rác; gan bị hoại tử cấp độ nhẹ có màu vàng, bị nhũn gan, gan hơi sưng đến hoại tử cấp tính thì gan có màu nhạt dần đến trắng, khối gan teo lại, ruột tôm rỗng không có thức ăn hoặc bị đứt đoạn, tôm thường bị mềm vỏ, tỷ lệ tôm chết khá cao thường xảy ra từ khi tôm 10 ngày tuổi.

Gan tụy tổn thương là do đâu?

- Cơ quan này có chức năng đào thải độc tố trong cơ thể nên khi gan bị bệnh dẫn đến gan tụy mất khả năng đào thải thì những độc tố này sẽ ứ đọng lại, do đó gan tụy cũng là nơi dễ bị tàn phá bởi độc tố nhất. Bên cạnh đó chức năng gan cũng dễ bị tổn thương do nguyên nhân virus, vi khuẩn từ biến động của môi

trường như pH, kiềm, DO, mật độ tảo, nhiệt

độ... Bệnh về gan tụy trên tôm khá nguy hiểm, có thể gây chết hàng loạt 100% ao nuôi nếu không có cách phòng chống và điều trị kịp thời - Do di truyền: Dòng vi khuẩn, virus gây

bệnh lây từ bố mẹ cho tôm con

- Thức ăn: Vi khuẩn gây bệnh từ thức ăn bị mốc, thức ăn ôi thiu

- Quản lý lượng ăn: Do cho tôm ăn quá nhiều, gan tụy tiết enzyme tiêu hóa hoạt động quá mức nên bị tổn thương. Cho tôm ăn quá ít, tôm đói dẫn đến ăn xác tôm bệnh chết, ăn mùn bã hữu cơ

- Độc tố môi trường: Ảnh hưởng của khí độc; tảo độc; độc tố từ thuốc và hóa chất trừ sâu, diệt cỏ, diệt giáp xác côn trùng, khí độc. Ngoài ra các yếu tố chất lượng nước bất lợi (pH, DO,...) về môi trường cũng khiến tôm stress và gây ảnh hưởng xấu đến gan tụy của tôm

Các biện pháp bảo vệ gan tụy tôm khỏe

- Xử lý đáy, phơi ao, diệt khuẩn nước thật kĩ trước khi thả nuôi

- Lựa chọn nguồn tôm bố mẹ, tôm giống sạch bệnh (Kiểm tra bệnh bằng phương pháp PCR)

- Quản lý tốt chất lượng nước, mật độ tảo, thường xuyên kiểm tra các chỉ tiêu nước để có các biện pháp kịp thời giảm stress cho tôm

- Cho tôm ăn vừa đủ, lựa chọn loại thức ăn phù hợp

- Áp dụng hệ thống nuôi tuần hoàn kín để tránh bị ô nhiễm từ môi trường

- Các biện pháp từ vi sinh: Bổ sung vi sinh

STIMULIV

Sản phẩm

khí độc tạo môi trường nuôi thuận lợi. Không chỉ vậy khi kết hợp với các sản phẩm hỗ trợ tăng cường chức năng gan sẽ đem lại hiệu quả tối ưu nhất giúp vụ mùa ổn định và thành công. Ưu điểm của phương pháp này là hiệu quả cao, tiết kiệm, an toàn, thân thiện với môi trường Hiện nay, Công ty Thái Nam Việt đã tìm ra và mang đến cho người nuôi loại chế phẩm sinh học có khả năng bảo vệ và nuôi dưỡng gan với chất lượng tốt nhất. Được nhập khẩu 100% từ Ấn Độ, sản phẩm STIMULIV SLP. là một loại thảo dược đậm đặc, thành phần chính là Cây kế sữa, có thể thay thế hoàn toàn kháng sinh trong suốt vụ nuôi, có khả năng bảo vệ và tăng cường chức năng gan, hỗ trợ phục hồi mạnh mẽ tế bào gan bị tổn thương, kích thích bắt mồi, tăng cường miễn dịch của tôm. Chỉ với liều dùng tối thiểu 1 g/kg thức ăn đã có thể bảo vệ hệ thống gan tụy khỏi các tác nhân gây hại.

chỉ:

GIỚI THIỆU CÔNG TY

Thông báo tuyển dụng

Nhân viên kinh doanh

Công ty TNHH I&V BIO Artemia Nauplii Center, thuộc Tập đoàn I&V BIO, chuyên cung cấp ấu trùng Artemia tươi sống, sạch khuẩn, sạch vỏ, giàu dinh dưỡng, kinh tế và tiện lợi cho các trại giống tôm cá.

I&V BIO có trụ sở tại Thái Lan với các cơ sở sản xuất tại các nước như Ấn Độ, Indonesia, Ecuador, Việt Nam, tiếp tục mở rộng ở Mexico, Bangladesh và châu Âu. Tại Việt Nam, công ty đặt tại tỉnh Ninh Thuận, hoạt động từ tháng 12 năm 2019 với công suất 800 khay/ngày.

Tại I&V BIO, tất cả các sản phẩm Artemia sống đều được giao hàng ngày, 365 ngày/năm. Chúng tôi có hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành nuôi trồng thủy sản, cung cấp một lựa chọn Artemia tốt hơn cho khách hàng!

MÔ TẢ CÔNG VIỆC

Tìm kiếm, phát triển khách hàng tiềm năng trong ngành thủy sản.

Tư vấn giới thiệu sản phẩm đến khách hàng và hỗ trợ chính sách bán hàng.

Lập kế hoạch bán hàng và tiến hành thí nghiệm sản phẩm; phân phối trực tiếp đến trang trại.

Xây dựng, duy trì và mở rộng các mối quan hệ sẵn có và mới để phát triển.

Theo dõi, chăm sóc khách hàng sau bán hàng.

Theo dõi và báo cáo kết quả hoạt động bán hàng, hiệu suất bán hàng theo yêu cầu.

Làm việc với phòng kế toán về hợp đồng, công nợ của khách hàng.

Tham gia vào các sự kiện, triển lãm thương mại và hội nghị trong ngành để quảng bá thương hiệu.

Cập nhật thông tin, các khuyến mãi và hoạt động của đối thủ trên thị trường.

Thu thập thông tin thị trường, cập nhật xu hướng thị trường thủy sản, cập nhật những phát triển của ngành, đổi mới sản phẩm và những thay đổi về quy định tác động đến lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.

Các yêu cầu khác của cấp trên.

YÊU CẦU

Tốt nghiệp Đại học/Cao Đẳng chuyên ngành Nuôi trồng thủy sản, Kinh tế, Marketing, Quản trị kinh doanh hoặc ngành liên quan.

Có kinh nghiệm 1 - 2 năm làm việc trong lĩnh vực bán hàng, đặc biệt ưu tiên kinh nghiệm bán hàng thức ăn cho tôm giống.

Có khả năng giao tiếp tốt, kỹ năng thuyết trình lưu loát, khả năng đàm phán.

Có kiến thức về thị trường tôm giống là một lợi thế.

Có khả năng làm việc độc lập và theo nhóm, có tinh thần trách nhiệm cao.

Sử dụng thành thạo tin học văn phòng (Word, Excel, Powerpoint).

MỨC LƯƠNG

Thỏa thuận.

Thưởng doanh số bán hàng.

Các chế độ phúc lợi khác theo quy định của công ty.

Sitto Việt Nam

Tạm ngừng

cung cấp ứng

dụng

Nông Phú

Sitto Việt Nam thông báo ngừng cung cấp hoạt động ứng dụng

Nông Phú - Kết nối cộng đồng nhà nông, cùng chia sẻ, học hỏi và

cùng làm giàu.

ược ra mắt từ tháng 10 năm 2017, ứng dụng Nông Phú được xem là

một trong những ứng dụng đầu tiên trong lĩnh vực phân bón và nuôi tôm. Ứng dụng hỗ trợ bà con nông dân giải quyết nhanh nhất, đơn giản nhất các vấn đề trong sản xuất và qua đó giúp cải tiến, nâng cao hiệu quả canh tác, nắm bắt thông tin thị

Công ty TNHH Sitto Việt Nam sở hữu nhà máy sản xuất thuốc thủy sản và phân bón đạt tiêu chuẩn, với đủ điều kiện sản xuất, cùng hệ thống nhà phân phối, đại lý bán hàng trải rộng khắp cả nước. Sitto Việt Nam cam kết với Quý khách hàng sẽ không ngừng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới có chất lượng phù hợp với nền nông nghiệp Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung. trường để điều chỉnh phương pháp chăn nuôi và trồng trọt hiệu quả nhất. Ứng dụng Nông Phú còn có tính năng quét mã vạch trên sản phẩm, giúp kiểm tra nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm, đồng thời tích lũy điểm thưởng và tham gia các chương trình ưu đãi và khuyến mãi hấp dẫn khác của công ty.

Trước khó khăn chung do tình hình kinh tế, cũng như thực trạng sử dụng ứng dụng hiện tại. Công ty Sitto Việt Nam quyết định ngừng cung cấp hoạt động ứng dụng Nông Phú kể từ ngày 31/07/2024.

Quý bà con trực tiếp tìm kiếm thông tin kiến thức, sản phẩm và dịch vụ thông qua website chính thức của công ty (sittovietnam.com và sittovietnam.vn). Hoặc qua các kênh mạng xã hội như youtube, facebook, zalo, tiktok của chúng tôi.

Công ty TNHH Sitto Việt Nam xin chân thành cảm ơn đến toàn thể Quý đại lý, Quý bà con nông dân vì tất cả những gì đã làm, đã ủng hộ kể từ khi ứng dụng này ra mắt. Người dùng cũng có thể vào ứng dụng để sao lưu lại bất kỳ tài liệu hoặc thông tin nào cần thiết trước khi ứng dụng ngừng hoạt động. Chúng tôi sẽ không ngừng nghiên cứu và tìm hướng phát triển mới ứng dụng cho phù hợp trong thời gian tới.

Trân trọng cảm ơn!

Quản lý dinh dưỡng

Yếu tố then chốt góp phần phát triển bền vững nghề nuôi tôm

Dữ liệu trong Hội nghị Shrimp Submit cho thấy, sản lượng tôm nuôi toàn cầu đạt 5.476.000 tấn năm 2023 trong đó tôm nuôi Việt Nam ước đạt 600.000 tấn, chỉ sau Ấn Độ (650.000 tấn), Trung Quốc (1.295.000 tấn) và Ecuador (1.402.000 tấn). Thức ăn tôm tiêu thụ trong năm 2023 ở Việt Nam ước đạt hơn 900 ngàn tấn. 90% thị phần thức ăn đến từ các Công ty sản xuất thức ăn hàng đầu như Thăng Long, CP, Grobest, Uni-President, Tongwei, Growmax, Deheus và Việt Hoa cùng với một số công ty đang gia tăng sản lượng có thể kể đến là Haid và Newhope. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây ngành tôm đang đối mặt với nhiều thách thức đối với sự phát triển bền vững của ngành, bao gồm:

Thứ nhất , chất lượng nguồn tôm giống chưa đảm bảo sự đồng đều cho các yếu tố sạch bệnh, tăng trưởng nhanh và kháng bệnh tốt.

tăng cao. Trong khi đó, sản lượng tôm nuôi tại Ecuador và Trung Quốc ở mức cao và liên tục tăng khiến giá tôm giảm gây khó khăn cho người nuôi tôm.

Thứ tư , dịch bệnh nguy hiểm trên tôm nuôi xuất hiện ngày càng nhiều và khó kiểm soát do sự kháng thuốc; diễn biến cực đoan của thời tiết, môi trường làm tôm dễ bị sốc nặng hơn (stress); các giải pháp triển khai nhằm điều trị dịch bệnh trên tôm ngày một khó khăn hơn.

Phát triển ngành công nghiệp

thức ăn chất lượng cao cho tôm

kết hợp chương trình cho ăn đúng

là một trong những yếu tố then

chốt giúp cho nghề nuôi tôm vượt

khó, phát triển bền vững.

Thứ hai, môi trường Đồng bằng sông Cửu Long và các khu vực nuôi tôm ven biển miền Trung & miền Bắc ngày càng ô nhiễm, cùng với đó là thời tiết khắc nghiệt, cực đoan do biến đổi khí hậu.

Thứ ba, sau đại dịch COVID-19 cùng với các rủi ro vận chuyển do chiến tranh NgaUkraine càng làm gia tăng chi phí đầu vào của nhiều ngành sản xuất, bao gồm sản xuất thức ăn cho tôm, khiến giá thức ăn cho tôm

Nhằm giải quyết tốt những thách thức nói trên của nghề nuôi tôm, đưa nghề nuôi phát triển bền vững cần có các giải pháp căn cơ về quản lý và nâng cao chất lượng tôm giống; khai thông, quy hoạch thủy lợi; thực hành các giải pháp nuôi có trách nhiệm; phát triển ngành công nghiệp thức ăn chất lượng cao cho tôm kết hợp chương trình cho ăn đúng sẽ là một trong những yếu tố then chốt giúp cho nghề nuôi tôm vượt khó, phát triển bền vững hơn. Khác với nghề nuôi tôm quảng canh với mật độ thả nuôi 10 - 20 con/m 2 ở Ecuador, nghề nuôi tôm thâm canh ở Việt Nam có mật độ ương gièo đạt 1.000 - 3.000 con/ m 2 và mật độ nuôi đạt 150 - 300 con/m 2 . Ở mật độ nuôi thâm canh cao sự tăng trưởng và sức khỏe tôm hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng thức ăn cung cấp cho tôm, trong khi với mật độ nuôi thấp như Ecuador thì

sự tăng trưởng và sức khỏe tôm phụ thuộc nhiều vào nguồn thức ăn tự nhiên nên nguồn thức ăn cung cấp cho tôm có hàm lượng dinh dưỡng và chất bổ sung sức khỏe thấp hơn nhiều.

Với mật độ ương gièo cao (1.000 - 3.000 con/m2 ) tôm rất dễ bị sốc (stress) nên giai đoạn gièo cần cho ăn thức ăn có chất lượng như thức ăn ở trại giống, đồng thời bổ sung dinh dưỡng sức khỏe để tăng cường sức chống chọi stress. Với mật độ nuôi thâm canh cao đến giai đoạn 30 g hay rút size cỡ tôm lớn đạt 50 g, chiến lược thức ăn và chương trình cho ăn được đề xuất để gia tăng sức khỏe, đề kháng dịch bệnh, rút ngắn thời gian nuôi, giảm chi phí sản xuất như sau:

1. Thức ăn chức năng có hàm lượng dinh dưỡng cao (50% đạm) cho giai đoạn gièo.

2. Thức ăn chất lượng cao cấp và chức năng (42% đạm) đến 45 ngày nuôi (cỡ tôm 10g).

3. Thức ăn tiêu chuẩn (38% đạm) cho giai đoạn 45 ngày đến 100 ngày nuôi (đạt cỡ tôm 30g).

4. Thức ăn tăng trọng (45% đạm) giúp tôm về cỡ lớn từ giai đoạn 20g về 60g. Khác biệt giữa thức ăn chất lượng cao và thức ăn tiêu chuẩn là hàm lượng dinh dưỡng, đặc biệt là độ đạm tiêu hóa xây dựng trên cơ sở axit amin tiêu hóa; hàm lượng cholesterol, phospholipid cũng như hàm lượng các loại vitamin và khoáng chất cho tôm sẽ được dùng ở mức cao hơn thức ăn tiêu chuẩn. Thức ăn chức năng trước hết phải là dòng thức ăn chất lượng cao cùng với việc bổ sung các nguồn dinh dưỡng sức khỏe đến từ nguyên liệu đạm chức năng sinh học và các phụ gia chứa dinh dưỡng sức khỏe cho các chức năng sau:

1. Chống stress và chống ôxy hóa: Biopeptides, nucleotides, carotenoids, Vitamin E, Vitamin A, Vitamin C, Vitamin D3.

2. Kháng khuẩn: Biopeptides, phytogenics.

3. Kích thích miễn dịch: β-1,3-1,6 glucan, Mos, yeast extracts.

4. Sức khỏe đường ruột & tiêu hóa: Axit hữu cơ, enzymes, probiotics, prebiotics, tinh dầu thiết yếu.

5. Hỗ trợ sức khỏe gan tụy: Taurine, choline chlorides, sorbitol, myo-inositol, L-amino acids, Vitamin C, E, A, D3 và selenium hữu cơ.

Nhằm giải quyết tốt những thách

thức nói trên của nghề nuôi tôm, đưa nghề nuôi phát triển bền vững cần có các giải pháp căn cơ về quản lý và nâng cao chất lượng tôm giống; khai thông, quy hoạch thủy lợi; thực hành các giải pháp nuôi có trách nhiệm; phát triển ngành công nghiệp thức ăn chất lượng cao cho tôm kết hợp chương trình cho ăn đúng sẽ là một trong những yếu tố then chốt giúp cho nghề nuôi tôm vượt khó, phát triển bền vững hơn

Chiết xuất tế bào nấm men, tảo Spirulina, bột đạm krill meal or, các phụ gia bổ sung nucleotides, astaxanthin, cholesterol (tối thiểu 0.15%) và phospholipids (tối thiểu 1.5%), dầu cá chất lượng cao để đảm bảo nhu cầu tối thiểu 1.0% trong thức ăn. Các loại vitamin, khoáng chất cần phải đáp ứng ở mức cao, đặc biệt Vitamin A, C, E, D3 và khoáng hữu cơ selenium.

2. Thức ăn tiêu chuẩn hay thức ăn kinh tế Nguồn bột cá chất lượng cao từ nội địa và bột gia cầm hàm lượng tro thấp.

Nguồn đạm chức năng MOTIV tối thiểu 5% để giúp giảm hệ số FCR và gia tăng tỷ lệ sống.

Nguyên liệu đạm hoạt tính sinh học chức năng và các phụ gia sử dụng cho việc xây dựng công thức thức ăn chức năng và thức ăn tiêu chuẩn được đề xuất theo 2 hướng sau:

1. Thức ăn cao cấp và thức ăn chức năng Nguồn bột cá chất lượng cao nhập khẩu (Peru, Chile,…) và bột đậu nành tách vỏ chất lượng cao.

Bột mì chất lượng cao (36% gluten) cùng với bột gluten để không dùng chất kết dính

Đạm chức năng MOTIV hàm lượng tối thiểu 10% để cung cấp các dinh dưỡng chức năng như biopeptides, axit hữu cơ, carotenoids và nguồn đạm chất lượng cao.

Bột đậu nành Argentina hay Brazil (46% đạm tối thiểu) cùng với nguồn bột mì tiêu chuẩn guleten tối thiểu 32%) và bổ sung chất kế dính.

Các chất dẫn dụ có thể dùng dịch cá và dịch mực cùng với vitamin, khoáng chất và dầu cá.

TS. Nguyễn Duy Hòa

“SWOT” 4 nguồn protein thức

Trong 20 năm qua, ngành nuôi trồng thủy sản không

ngừng tăng trưởng, đồng nghĩa ngành thức ăn chăn

nuôi cũng phải tăng tốc. Câu hỏi đặt ra, làm thế nào

để sản xuất được nguyên liệu thức ăn duy trì tính bền

vững của sự tăng trưởng đó?

Một đánh giá gần đây

đã xem xét nhiều

nguồn protein thức

ăn thủy sản như protein phụ phẩm thủy sản; protein động

vật đã chế biến (PAP), gồm côn trùng và sâu meal; protein thực vật; protein đơn bào (SCP). Mỗi thành phần khác nhau đều được

kiểm tra kỹ lưỡng thông qua mô hình SWOT (Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và rủi ro) nhằm đánh giá tiềm năng trong tương lai cũng như rủi ro và cơ hội mà chúng có thể mang lại (Glencross et al ., 2020).

Điểm mạnh

Bột cá

Bột cá được đánh giá cao về chất lượng và luôn được xem là thành phần thức ăn thủy sản “tiêu chuẩn”. Dữ liệu gần đây từ Hilborn et al. (2022) đã chứng minh nghề khai thác cá nổi nhỏ, ví dụ cá cơm, là một trong những nghề cá bền vững nhất toàn cầu. Vì vậy, tính bền vững của chúng chính là thế mạnh của bột cá khi nguồn cá nổi được quản lý và giám sát hiệu quả.

Protein động vật đã chế biến (PAPs)

Ưu điểm của PAPs là nguồn cung dồi dào với hơn 15 triệu tấn trên toàn cầu vào năm 2015 (WRO, 2023); chất lượng không thua kém bột cá nhờ thành phần

axit amin thiết yếu cân bằng

cùng thành phần prebiotic có lợi

như bột huyết thủy phân.

Protein ngũ cốc

Điểm mạnh của protein ngũ

cốc là quy mô sản xuất lớn, giá cả hợp lý và đang được sử dụng phổ biến trên toàn cầu.

Protein đơn bào (SCPs)

SCP không cạnh tranh với nguồn thực phẩm của người, hàm lượng protein có thể lên tới 80%.

Điểm yếu

Bột cá

Thiếu bền vững là điểm yếu lớn nhất của bột cá, hay bất cứ loại protein từ biển nào. Ngoài ra, khả năng tăng trưởng sản xuất của ngành bột cá cũng hạn chế, với khối lượng gần như không đổi suốt 20 năm qua.

Protein động vật đã chế biến (PAPs)

Potein động vật đã chế biến cần thời gian xử lý trước khi trở thành PAPs sử dụng được. Ngoài ra, giá trị dinh dưỡng của PAPs

phụ thuộc vào nhiều yếu tố, gồm loài động vật. Hiện một số quốc gia ở châu Âu chưa chấp nhận sử

dụng phụ phẩm động vật trên cạn

trong chuỗi thức ăn chăn nuôi.

Protein ngũ cốc

Protein ngũ cốc kém ngon

miệng và chứa nhiều thành phần

kháng dinh dưỡng; cùng đó là

dấu chân môi trường cao do sử

dụng nhiều nước, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và năng lượng trong quá trình sản xuất (Malcorps et al., 2019).

Protein đơn bào (SCPs)

Một số loại protein chứa các

chất dinh dưỡng nhất định, như alginate trong vi tảo, cần nhiều thời gian xử lý mới dễ tiêu hóa hơn.

Cơ hội

Bột cá

Chế biến bột cá, hoặc các protein biển cần tuân thủ quy trình đã được chứng nhận hoặc đảm bảo. Ngành sản xuất bột cá và dầu cá từ cá vụn hay phụ phế phẩm đã phát triển tới quy mô công nghiệp. Gần 30% lượng bột cá (xấp xỉ 1,4 triệu tấn) có nguồn gốc phụ phẩm khác nhau, kết

hợp với 600.000 tấn dầu cá làm

từ phụ phẩm giúp thúc đẩy nền

kinh tế tuần hoàn. Theo Newton et al., 2023, các loại protein từ biển có tác động đến môi trường thấp hơn các thành phần khác.

Protein động vật đã chế biến (PAPs)

Sử dụng PAP làm nguyên liệu thức ăn thủy sản mang lại nhiều cơ hội khác nhau. Nổi bật nhất là mức tiêu thụ thịt trên toàn cầu

đang tăng nên nguồn cung PAP cũng dồi dào hơn.

Protein ngũ cốc

Quy mô của ngành protein ngũ cốc mang lại nhiều cơ hội. Phương pháp chế biến cũng được cải tiến, chẳng hạn như công nghệ lên men và tách bằng không khí giúp cải thiện giá trị dinh dưỡng của một số sản phẩm protein ngũ cốc. Cải tiến di truyền hay biến đổi gen mục tiêu cũng là cơ hội gia tăng thành phần dinh dưỡng và giá trị sinh học cho các loại protein ngũ cốc. Protein đơn bào (SCPs) Ứng dụng tiềm năng của công nghệ biến đổi gen GM vào sinh vật đơn bào mở ra cơ hội lớn cho lĩnh vực SCP. Quy trình sản xuất các loại SCP khác nhau với hàm lượng protein cao, axit amin thiết yếu được cân bằng hoặc bổ sung thêm dưỡng chất như axit béo n-3, carotenoid hoặc phân tử hoạt tính sinh học đều nằm trong tầm tay. Rủi ro Bột cá Biến đổi khí

động nguồn cung nguyên liệu

thô và giá cả sản phẩm. Các hoạt

động đánh bắt cá bất hợp pháp (IUU) cũng là một mối đe dọa

đáng kể với nguồn cung bột cá

bền vững nếu như công tác quản lý nghề cá yếu kém. Các vấn đề

khác gồm những hạn chế về quy

định, chủ yếu liên quan đến việc sử dụng chất chống ôxy hóa. Protein động vật đã chế biến (PAPs)

Một số loại PAP phải đối mặt rào cản pháp lý nghiêm ngặt. Ví dụ, châu Âu cấm sử dụng PAPs làm thức ăn chăn nuôi từ 20 năm trước nhằm ngăn chặn, kiểm soát và loại bỏ khả năng lây truyền bệnh bò điên. Mối đe dọa

khác đã được báo cáo là sự pha trộn PAP và bột cá với các sản phẩm kém chất lượng (Murray et al., 2001; Kong et al., 2022; Zhang et al., 2020). Sau cùng, mối đe dọa tiềm tàng với sản xuất PAPs là chi phí năng lượng

để xử lý và sấy khô sản phẩm. Protein ngũ cốc

Biến đổi khí hậu là mối đe dọa lớn nhất với sản xuất protein ngũ cốc. Mối đe dọa khác là sự cạnh trạnh với lĩnh vực thực phẩm khi nhu cầu thực phẩm đang tăng lên cùng dân số thế giới. Mối đe dọa cuối cùng, đặc biệt đối với sản xuất ngũ cốc lên men, cũng như quá trình chế biến các sản phẩm ướt, là chi phí năng lượng để sấy khô sản phẩm. Việc sấy khô không đúng cách gây tốn kém chi phí năng lượng, kéo theo nguy cơ lây nhiễm nấm và độc tố nấm mốc.

Protein đơn bào (SCPs) Mối đe dọa lớn nhất với lĩnh vực sản xuất SCP là chi phí và

khả năng mở rộng quy mô.

Saponin

Phụ gia cho đường ruột tôm khỏe

Ngành tôm đang đối mặt với nhiều thách thức như: Chi phí thức ăn, thị trường, dịch bệnh và chất lượng tôm bố mẹ. Do đó, hiểu được các yếu tố môi trường, dinh dưỡng và yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tôm chính là chìa khóa thúc đẩy ngành nuôi tôm phát triển bền vững.

Đường ruột khỏe, miễn

dịch khỏe

Chức năng của các tế bào biểu

mô đường ruột là rào cản vật lý

chống lại mầm bệnh. Các tế biểu

mô liên kết chặt chẽ với nhau tạo

một lớp bảo vệ, từ đó hình thành

đường ruột khỏe mạnh.

Hệ vi sinh vật đường ruột khỏe

mạnh đóng một vai trò quan trọng

đối với khả năng miễn dịch của

tôm thông qua cạnh tranh chất

dinh dưỡng và không gian với vi

khuẩn gây bệnh, tạo ra các hợp

chất kháng khuẩn và điều chỉnh

hệ miễn dịch chủ yếu bằng cách

kích thích sản sinh peptide kháng khuẩn, thúc đẩy quá trình thực bào và điều chỉnh phản ứng viêm.

Mô bạch huyết liên quan đến ruột (GALT) chứa các tế bào

miễn dịch, chẳng hạn như tế bào

lympho và đại thực bào, thực

hiện nhiệm vụ phát hiện và loại

bỏ mầm bệnh.

Đường ruột thực hiện nhiều chức năng liên quan đến khả năng miễn dịch của tôm, bao

gồm chức năng vật lý, vi sinh vật

và miễn dịch. Duy trì sức khỏe

đường ruột qua các chiến lược dinh dưỡng, quản lý môi trường và phòng ngừa dịch bệnh là yếu

tố cần thiết để nuôi tôm khỏe và

hiệu suất cao.

Tối ưu hóa sức khỏe đường ruột

dựng nhiều chiến lược. Trong đó, bổ sung phụ gia thức ăn, ví dụ chất kích thích tăng trưởng, miễn dịch, thức ăn thay thế là một trong những chiến lược quan trọng nhất. Phụ gia thức ăn tôm phổ biến nhất phải kể đến astaxanthin; β-glucan; axit hữu cơ; probiotic (Bacillus subtilis), và nhiều loại thảo mộc tự nhiên như hương thảo, kinh giới cay và tinh dầu.

Trong số các phụ gia thức ăn tự nhiên, saponin là một trong những nhóm chính được sử dụng

để nuôi tôm suốt thập kỷ qua. Saponin có nhiều trong thực vật, chứa steroid hoặc triterpenoid aglycone. Ngoài ra, saponin có khả năng hoạt động như một preobiotic bằng cách tác động

đến hệ vi sinh đường ruột và thúc

đẩy sự phát triển của lợi khuẩn.

Chất saponins từ cây Quillay (Quillaja saponaria) và cây Yucca ( Yucca schidigera) đã được

chứng minh tác dụng điều hòa

miễn dịch, chống viêm, chống ôxy hóa và điều chỉnh hệ vi sinh

đường ruột. Ngoài ra, những saponin đặc hiệu này có thể làm tăng tính thấm của màng tế bào, kích hoạt enzyme tiêu hóa và cải thiện khả năng lưu giữ protein.

hoạt động thực bào và khả năng khử virus V. alginolyticus. Theo nghiên cứu Martínez-Cordova (1998), chiết xuất cây Yucca trong khẩu phần nuôi vỗ tôm thẻ đã tác động tích cực đến chất lượng nước và năng suất tôm. Trong thử nghiệm của Hernandez-Acosta (2016), bổ sung chiết xuất Yucca và Quillay theo tỷ lệ 2 g/kg thức ăn của tôm thẻ non giúp cải thiện đáng kể trọng lượng thân và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn.

Hiện trên thị trường đã xuất hiện phụ gia thức ăn cho tôm chứa chiết xuất Quillay và Yucca, ví dụ PAQ-Protex. Sản phẩm này có nguồn gốc 100% thiên nhiên, chứa hỗn hợp triterpenoid, steroid saponin và polyphenol. Các saponin và polyphenol trong PAQ-Protex hỗ trợ sức khỏe đường ruột và tối ưu chức năng miễn dịch ở tôm và cá.

Dũng Nguyên

(Theo Aquafeed)

Trước làn sóng nuôi tôm thâm canh đang bùng nổ trên toàn

cầu, ngành dinh dưỡng phải xây

Trong nghiên cứu của Bo-Kun (2008), tôm thẻ chân trắng (Liptopanaeus vannamei) ngâm trong nước biển chứa 0,5 mg/l saponin sẽ tăng cường khả năng kháng Vibrio alginolyticus, tăng

Chuyển sang nuôi tôm thâm canh đòi hỏi thiết kế hệ thống nuôi tối ưu từ con giống; an toàn sinh học, chất lượng nước, vận hành trang trại, cho ăn, chất lượng thức ăn và phụ gia thức ăn. Thách thức của các trại nuôi tôm thâm canh là duy trì sức khỏe tối ưu thông qua đường ruột khỏe. Do đó, sử dụng phụ gia chứa saponin là một giải pháp đáng cân nhắc.

Dũng Nguyên

lợn nuôi ếch

cho thu

nhập ổn

định

Nhận thấy chăn nuôi

lợn ngày càng khó khăn do dịch bệnh, ô nhiễm

môi trường, giá thức ăn

cao, đầu ra không ổn

định nên anh Ngô Văn

Hiếu ở thôn Na Trung

(xã Cẩm Thạch, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh)

quyết định chuyển sang nuôi ếch cho hiệu quả kinh tế cao.

“Năm 2019, dịch tả lợn Châu

Phi bùng phát, cả đàn lợn của gia

đình đã phải tiêu hủy vì bị dịch.

Sau khử trùng vệ sinh chuồng

trại, tôi đã tái đàn trở lại nhưng

tiếp tục gặp thất bại. Không còn

mặn mà vì chăn nuôi lợn thua lỗ

liên tục, tôi đã trăn trở quyết tìm

hướng phát triển kinh tế mới. Qua

nhiều kênh thông tin, nhận thấy

mô hình nuôi ếch Thái Lan được

nuôi hiệu quả ở miền Nam. Mô

hình này không cần nhiều diện

tích, ít tốn công chăm sóc, có thể

cải tạo lại khu chuồng nuôi lợn cũ

Trước đây, gia đình anh Ngô Văn Hiếu đầu tư nuôi lợn theo quy mô nông hộ. Tuy nhiên, do lợn

thường xuyên bị dịch bệnh, giá cả lúc thấp lúc cao, nhất là có những năm dịch tả lợn Châu Phi bùng phát, với điều kiện chăn nuôi nông hộ rất khó để tái đàn vì mầm bệnh vẫn tồn tại trong môi

trường nên phải bỏ trống chuồng cả mấy năm. Chính vì vậy, anh đã quyết định thí điểm mô hình nuôi

ếch thịt thương phẩm.

để nuôi nên tôi đã mạnh dạn khăn

gói vào miền Nam học hỏi”, anh

Hiếu cho biết.

Đầu năm 2020, anh

Hiếu bắt đầu cải tạo toàn bộ ô chuồng trước

đây chăn nuôi lợn, đầu

tư thêm các hệ thống

ống cấp thoát, lọc nước

để nuôi ếch Thái Lan.

Sau vài vụ đầu, thấy ếch

phát triển tốt, thị trường

khá thuận lợi, anh Hiếu

đã mở rộng quy mô.

Hiện tại, trang trại nuôi ếch của anh Hiếu có 8 bể , diện tích mỗi bể 8 m2, thả nuôi hơn 8.000 con ếch giống.

Để giảm chi phí từ việc mua con giống, anh Hiếu đã vừa nuôi ếch thương phẩm vừa học cách nhân giống, trước hết cung cấp cho chính trang trại của mình, sau đó có thể cung cấp cho nhiều người dân có nhu cầu. Với sự cần mẫn và chăm chỉ, anh Hiếu đã thành công khi cho ếch đẻ và ương ếch giống. Theo tính toán của anh Hiếu, mỗi lứa ếch thương phẩm nuôi 3 tháng, trọng lượng đạt 200 - 250

gam/con là có thể thu hoạch. Với cách nuôi cuốn chiếu, mỗi năm anh Hiếu xuất bán hơn 2 tấn ếch thương phẩm với giá giao động 60.000 - 70.000 đồng/kg. Ngoài ra anh còn cung ứng cho thị trường trên 4.000 con ếch giống/ năm với giá 2.500 đồng/con. Sau khi trừ chi phí, gia đình anh có lãi từ 200 - 250 triệu đồng/năm. “Đối với nuôi ếch, vốn đầu tư ít, không đòi hỏi kỹ thuật cao, chăm sóc và cho ếch ăn không mất nhiều thời gian, có thể sử dụng thời gian nhàn rỗi trong ngày. Với 8 bể nuôi như hiện tại, mỗi ngày chỉ tốn 2 tiếng đồng hồ để chăm sóc và cho ăn. Quan trọng đây là loài thủy đặc sản lưỡng cư có thịt thơm, ngon, bổ dưỡng đang được

con/m2; giống phải đồng đều, sau 7 - 9 ngày từ khi thả giống cần phải phân cỡ lựa đàn không

để nuôi chung, con lớn sẽ ăn con nhỏ gây thất thoát, nếu không gian quá hẹp và mật độ quá dày cũng khiến ếch dễ bị chết. Đặc biệt không được để ếch đói, phải dọn vệ sinh thay nước hàng ngày để ếch không bị dịch bệnh. Sau nhiều năm nuôi lợn theo quy mô nông hộ vừa bị dịch bệnh, vừa gây ô nhiễm mỗi trường xung quanh, tôi thấy nghề nuôi ếch này rất phù hợp với gia đình.

Trong thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục chú trọng sản xuất con giống để cung cấp cho các hộ dân có nhu cầu nuôi ếch và mở rộng quy mô nuôi ếch thương phẩm để phục

vụ nhu cầu cho khách hàng”, Anh Hiếu chia sẻ thêm.

Ông Nguyễn Văn Sơn - Phó Chủ tịch UBND xã Cẩm Thạch cho biết, thời gian qua, do dịch bệnh trên đàn lợn diễn biến phức tạp, một số người dân đã chuyển hướng phát triển kinh tế từ việc tận dụng lại chuồng nuôi lợn cũ. Trong đó, mô hình nuôi ếch của anh Hiếu cho thấy rất hiệu quả, mở ra triển vọng mới cho nông dân địa phương.

Chính quyền địa phương luôn khuyến khích các hộ dân học tập mô hình trồng trọt, chăn nuôi mới mẻ để vừa tạo việc làm, vừa tăng thêm thu nhập cho người dân vùng nông thôn, đồng thời giảm dần chăn nuôi lợn quy mô nông hộ để hạn chế ô nhiễm môi trường, an toàn dịch bệnh.

Tuy nhiên, ông Sơn cũng lưu ý, khi mở rộng mô hình, người nuôi cần nuôi đúng thời điểm, mùa vụ, nuôi đúng yêu cầu kỹ thuật từ khâu chọn giống, phòng trị bệnh và chăm sóc; nắm bắt nhu cầu thị trường để phát triển quy mô hợp lý, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Dupe Killa-Kafidipe

sản Nigeria lên tầm cao mới

Bà Dupe Killa-Kafidipe - người sáng lập Platinum Fisheries đã lên kế hoạch xây dựng một cơ sở nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) dạng mô-đun, nhằm đa dạng hóa và tăng cường sản xuất nhiều loài thủy sản, từ cá da trơn đến tôm.

Tiếng nói của người phụ nữ

Với mong muốn tạo ra một hệ

sinh thái cung ứng thủy sản quy mô công nghiệp có trách nhiệm, bà Dupe Killa-Kafidipe đã mang tất cả những trải nghiệm trong cuộc sống, cùng với những kiến thức, nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực thủy sản để thành lập nên Platinum Fisheries (PF).

Công ty này lấy trách nhiệm đạo

đức và phát triển bền vững làm trọng tâm phát triển.

Tại Nigeria và một số quốc gia khác, nuôi trồng thủy sản là một

ngành công nghiệp do nam giới thống trị, vì vậy bà Dupe KillaKafidipe cho rằng bản thân đang

tự phá vỡ giới hạn này thông qua việc thành lập PF. Việc gây dựng tiếng nói của mình và chứng

với Dupe Killa-Kafidipe. Tuy vậy, không gì có thể làm chùn bước người phụ nữ mạnh mẽ ấy.

Mô hình mở tại PF

PF hiện có 31 ao nuôi, chủ yếu là cá da trơn và cá rô phi, và một trại giống với sản lượng ít nhất 100.000 con/tháng. Phòng Nghiên cứu và Phát triển của PF đang thử nghiệm nuôi cá thu và tôm, đồng thời tiếp tục hiện thực hóa kế hoạch sản xuất ít nhất 10 loại thủy sản khác nhau trong hệ thống nuôi RAS từ nay cho đến năm 2026.

Bà Dupe Killa-Kafidipe cho biết, PF đã thử nghiệm sản xuất 500 kg tôm trong thời gian 9 tháng. Tôm

tự nhiên ở Nigeria đang trong tình trạng bị khai thác quá mức. Để

PF hoạt động theo mô

hình kinh doanh B2B, bán sản phẩm cho các đầu mối thu mua, đại lý bán buôn lớn, khách sạn và các doanh nghiệp dịch vụ khách sạn khác. Đơn hàng tại PF luôn trong tình trạng quá tải, các đơn hàng phải đặt trước hàng tuần, đôi khi hàng tháng.

Nguyễn Hoàn

minh khả năng lãnh đạo là một nhiệm vụ khó khăn đối với phụ nữ trong ngành này. Việc tìm kiếm nguồn vốn để mở rộng quy mô và xây dựng đội ngũ có kỹ năng đặc biệt là thách thức không nhỏ đối

đáp ứng nhu cầu tôm ngày càng tăng, ngành tôm Nigeria hiện phụ thuộc khá nhiều vào nhập khẩu.

Điều này không chỉ ảnh hưởng

tới giá thị trường mà còn khiến

nguồn ngoại hối của nước này

giảm đáng kể. Đây là lý do chính thúc đẩy PF nghiên cứu và sản xuất tôm cho tiêu thụ trong nước, và tiến xa hơn nữa là xuất khẩu. Chuyển sang nuôi thủy sản theo mô hình RAS là một trong những bước tiến của PF. Trước đây, mô hình nuôi trên ao đất giúp PF duy trì các hoạt động tương đối linh hoạt, đảm bảo các quy chuẩn và tính bền vững. Hiện nay, tuy dịch chuyển sang mô hình RAS nhưng PF vẫn tiếp tục nuôi cá tại các ao đất sẵn có với nhiều mục đích khác nhau như: Thả nuôi, phân loại, duy trì quần thể, hoặc sử dụng cho các chương trình đào tạo và giám sát. Mô hình RAS mà PF hướng tới là các hệ thống mô-đun, mỗi mô-đun có thể sản xuất 300 tấn cá/năm, chi phí cho hệ thống này là 180.000 USD. Lê Nguyên (Theo Thefishsite)

Bà Dupe Killa-Kafidipe - người sáng lập Platinum Fisheries

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Kiên Giang

PHÁT TRIỂN NUÔI CÁ BIỂN BẰNG LỒNG NHỰA HDPE

Trong những năm qua, tỉnh Kiên Giang đã thực hiện các

chương trình, dự án, mô hình khuyến nông với diện tích

hàng ngàn ha, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, giúp nông dân nâng cao thu nhập. Trong đó, mô hình nuôi cá biển bằng lồng nhựa HDPE có nhiều ưu điểm và triển vọng

nhân rộng lớn.

Thí điểm nhân rộng

Nuôi cá biển bằng lồng nhựa HDPE có nhiều ưu điểm vượt trội so với lồng truyền thống trước đây và đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, thu nhập cho người sản xuất, tạo thêm khối lượng sản phẩm cung cấp cho xã hội, ổn định cuộc sống, góp phần xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo an toàn an ninh xã hội. Trong năm 2022 - 2023, Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang đã triển khai 4 mô hình chuyển đổi từ lồng gỗ truyền thống sang nuôi biển bằng lồng vật liệu HDPE trên địa bàn các huyện: Kiên Hải, Kiên Lương và TP. Hà Tiên với các đối tượng như: Cá bóp, cá mú, cá khế vằn và cá bè vẫu, quy mô 128 m2/ điểm (2 ô lồng/điểm). Qua 10 tháng theo dõi, cá phát triển tốt, tỷ lệ sống cao trên 85%, năng suất dao động 14 - 22 kg/m3 (tùy theo đối tượng) và cao hơn lồng truyền thống 2 - 3 lần (năng suất lồng gỗ truyền 4 - 11 kg/m3 ).

Cùng với đó, theo sự chỉ đạo của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang đã triển khai dự án xây dựng mô hình nuôi cá mú trân châu thương phẩm bằng lồng HDPE thích ứng vùng biển đảo giai đoạn 2022 - 2024. Năm 2022, dự án triển khai 2 điểm tại huyện Kiên Lương, quy mô 192 m3/điểm (4 ô lồng/ điểm). Kết quả qua 10 tháng theo dõi, tỷ lệ sống trung bình 89,5%, trọng lượng thu hoạch trung bình 1,2 kg/con, năng suất trung bình 16,02 kg/m3 (cao hơn lồng gỗ truyền thống 4 - 5 kg/m3), sau khi trừ các khoản chi phí và khấu hao, lợi nhuận thu được trung bình 174.454.000 đồng/điểm. Năm 2023, dự án tiếp tục triển khai 3 điểm tại huyện Kiên Hải, quy mô 192 m3/điểm. Sau 4 tháng theo dõi, cá phát triển tốt, tỷ lệ sống lên tới 97%, trọng lượng trung bình 0,65 kg/con. Năm 2024, Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang tiếp tục triển khai 11 điểm

nuôi cá biển bằng lồng nhựa HDPE sử dụng thức ăn công nghiệp với tổng quy mô 1.600 m3. Bên cạnh đó, mô hình còn kết hợp sử dụng vaccine để phòng bệnh cho cá, nhằm hạn chế rủi ro dịch bệnh xảy ra trên diện rộng. Ngoài ra, mô hình còn hỗ trợ người nuôi biển kết hợp trồng thêm rong sụn xung quanh lồng nuôi nhằm góp phần tăng thêm thu nhập, giảm phát thải khí thải trong nuôi biển hiện nay.

Nhiều ưu điểm vượt trội

Nuôi cá biển bằng lồng vật liệu HDPE có những ưu điểm vượt trội so với lồng gỗ như: Tuổi thọ cao; có khả năng chống lại hóa chất cao và không bị ăn mòn, gỉ sét; không bị gãy khi gặp địa hình gồ ghề hay gấp khúc; dễ dàng lắp đặt, đặc biệt có thể chống chịu gió, bão lên đến cấp 10 - 12; dễ mở rộng diện tích nuôi phù hợp với mọi địa hình nuôi như vùng biển kín và vùng biển mở nên được nhiều cơ quan ban ngành

ủng hộ, do đó việc triển khai thuận lợi và mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, do chi phí lắp đặt ban đầu của lồng vật liệu HDPE cao hơn lồng truyền thống

5 - 6 lần nên người nuôi có ít vốn thì không có đủ khả năng để tiếp cận.

Nuôi cá biển bằng lồng

HDPE đang

đem lại giá trị sản xuất cao, bền vững

Ảnh: TTKNKG

Hiệu quả đạt được từ mô hình chuyển đổi từ lồng nuôi cá truyền thống bằng gỗ sang lồng vật liệu HDPE đã khắc phục dần các nhược điểm của lồng nuôi bằng gỗ truyền thống. Mô hình thành công và được nhân rộng sẽ tạo tiền đề để người dân chuyển đổi ngành

nghề từ khai thác thủy sản ven bờ kém hiệu quả sang lĩnh vực nuôi lồng bè trên biển, đặc biệt là thay thế dần từ lồng gỗ truyến thống sang nuôi cá bằng lồng vật liệu HDPE. Từ đó, làm giảm áp lực rất lớn đối với nguồn lợi thủy sản cũng như môi trường sống của các đối tượng thủy sản biển ngoài tự nhiên.

Theo Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang, từ khi mô hình triển khai đến nay số lượng lồng vật liệu HDPE được bà con nông dân tăng lên 8 lần, như vậy hiệu quả nhân rộng của mô hình đạt 400% kế hoạch đề ra. Hiện nay, Trung tâm đang triển khai thành công 65 lồng, tổng thể tích 3.531 m3 tại huyện

Kiên Lương (22 lồng), huyện Kiên Hải (24 lồng); TP. Hà Tiên (2 lồng) và TP. Phú Quốc (17 lồng).

Hướng đến phát triển bền vững

Theo Sở NN&PTNT Kiên Giang, năm 2024, tỉnh đề ra kế hoạch thả nuôi 4.000 lồng cá biển. Từ đầu năm đến nay, ngư dân các khu vực ven biển, ven đảo thả nuôi hơn 2.800 lồng, đạt trên 70% kế hoạch, sản lượng thu hoạch hơn 2.000 tấn.

Để nghề nuôi thủy sản phát triển bền vững, ông Lê Hữu Toàn, Giám đốc Sở NN&PTNT Kiên Giang cho biết, tỉnh đã và đang thực hiện kế hoạch phát triển nuôi biển giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030. Cụ thể:

Thứ nhất, tập trung ưu tiên bố trí, sắp xếp nghề nuôi biển như cá lồng bè, nhuyễn thể, đối tượng thủy sản khác theo hướng tập trung, liên kết sản xuất bền vững; giao khu vực biển, cấp mã số nhận diện cơ sở nuôi lồng bè trên biển theo quy định. Thứ hai, đẩy mạnh khuyến ngư và tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ vùng nuôi gắn với quan trắc môi trường nước và nâng cao năng lực chẩn đoán, cảnh báo dịch bệnh trên thủy sản, chất lượng nguồn nước giúp người nuôi chủ động trong thả cá nuôi, tránh bị thiệt hại, ảnh hưởng; tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi, cách phòng và điều trị bệnh cho cá, chuyển giao công nghệ, ứng dụng quy trình khoa học kỹ thuật vào nuôi cá để tăng năng suất, sản lượng, giảm giá thành sản xuất. Thứ ba, tăng cường thông tin, khuyến khích triển khai nhân rộng phát triển liên kết chuỗi sản xuất, nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế cao, nuôi cá lồng bè sử dụng thức ăn công nghiệp thay thế thức ăn cá tạp, khuyến cáo hộ nuôi cá đầu tư lồng nuôi bằng vật liệu HDPE thay thế lồng gỗ truyền thống. Thứ tư, tạo điều kiện cho ngư dân vay vốn, tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm ổn định theo hướng vừa cung cấp tiêu thụ nội địa, vừa xuất khẩu.

CHUYÊN

TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC

GIA

PHÁT TRIỂN NUÔI TÔM

BỀN VỮNG VÙNG ĐBSCL

Sáng 28/6, tại Nhà khách Minh Hải (tỉnh Cà Mau), Trung tâm Khuyến nông

quốc gia, Cục Thủy sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà

Mau phối hợp tổ chức Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề:

“Phát triển nuôi tôm bền vững, giảm phát thải, thích ứng với biến đổi khí

hậu vùng ĐBSCL”.

Tham dự diễn đàn có đại diện Cục

Thuỷ sản, Viện Nghiên cứu Nuôi

trồng thủy sản II, Trường đại học Cần

Thơ, Trường đại học Tây Đô, Sở Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh

Cà Mau, Chi cục Thủy sản, Trung tâm

Khuyến nông, Phòng Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn các huyện, thành

phố Cà Mau; Doanh nghiệp, HTX, đại diện Trung tâm Khuyến nông và ngư dân nuôi tôm của 4 tỉnh Trà Vinh, Kiên

Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, cùng bà con nông dân nuôi tôm trên địa bàn

tỉnh Cà Mau,...

Những lưu ý quan trọng

Phát biểu khai mạc diễn đàn, đại diện

Cục Thủy sản nhấn mạnh 03 nội dung

cần thực hiện trong năm 2024.

Thứ nhất, tăng cường công tác quan trắc, cảnh báo môi trường và giám sát

dịch bệnh tại những vùng nuôi tôm trọng

điểm để dự báo chính xác và có cảnh

báo sớm đến người nuôi tôm. Hướng

dẫn người nuôi về kỹ thuật, khoa học

công nghệ tiên tiến, phù hợp, hiệu quả

với từng phương thức nuôi. Phối hợp

chặt chẽ với Chi cục Thú y, Cục Thú y trong công tác quản lý thủy sản, phòng

chống dịch bệnh cho tôm, nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại cho người nuôi. Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất sản phẩm thủy sản. Thực hiện truy xuất nguồn gốc, phát triển nuôi tôm đạt chứng nhận quốc tế (ASC, BAP, hữu cơ...). Chỉ đạo địa phương tăng cường quản lý, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh thủy sản phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Thứ ba, đối với doanh nghiệp và người nuôi tôm, cần xây dựng kế hoạch và chủ động sản xuất tận dụng cơ hội thị trường tăng vào cuối năm 2024, đầu năm 2025. Nâng cao chất lượng sản phẩm; hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi để giảm khâu trung gian, giảm giá thành sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm; áp dụng các hình thức nuôi có chứng nhận: VietGAP, GlobalGAP, ASC,… để nâng cao giá trị sản phẩm; tăng cường xúc tiến thương mại đối với tiêu thụ nội địa và các thị trường mới... Theo đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cà Mau, quản lý trong

nuôi tôm phải phù hợp với đặc thù của tỉnh. Sở sẽ hỗ trợ thành lập các hợp tác xã (HTX) kiểu mới và nâng cao hiệu quả của các HTX hiện có để làm cơ sở xây dựng hợp tác, liên kết chuỗi; chú trọng hỗ trợ tiếp nhận chuyển giao công nghệ, quy trình tiên tiến, thân thiện môi trường

ở những vùng sản xuất tập trung, từng bước thay thể việc sử dụng hóa chất, kháng sinh bằng chế phẩm sinh học. Đặc biệt, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cà Mau sẽ chủ động xây dựng kế hoạch phòng, chống dịch bệnh; tăng cường công tác kiểm dịch giống và giám sát dịch bệnh để kịp thời xử lý, ngăn chặn không để lây lan ra diện rộng. Xây dựng và triển khai kế hoạch giám sát chuỗi sản xuất tôm bảo đảm an toàn dịch bệnh phục vụ xuất khẩu,... Tại diễn đàn, các đại biểu đã trao đổi, thảo luận về hiện trạng và giải pháp phát triển nuôi tôm nước lợ; ứng dụng chế phẩm sinh học vào phát triển nuôi tôm nước lợ hiệu quả và bền vững, an toàn, giảm phát thải; ứng dụng công nghệ Grofarm trong nuôi tôm nước lợ góp phần giảm phát thải, ứng phó biến đổi khí hậu và một số giải pháp giúp phát triển bền vững nghề nuôi tôm trước biến đổi khí hậu hiện nay tại vùng ĐBSCL.

Thay đổi tư duy trong sản xuất

Phát biểu bế mạc diễn đàn, ông Lê Quốc Thanh - Giám đốc Trung tâm

Khuyến nông quốc gia cho biết, nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa các mô hình nuôi tôm thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay tại vùng ĐBSCL cần triển khai một số giải pháp cụ thể sau:

Một, tăng cường chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cũng như mô hình nuôi thủy sản phù hợp với từng vùng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu để người dân đến tham quan học tập và làm theo. Nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao, nuôi hữu cơ, nuôi xen ghép các đối tượng thuỷ sản, sử dụng chế phẩm vi sinh, ứng dụng công nghệ thông tin giám sát môi trường, dịch bệnh, quản lý sức khoẻ tôm nuôi. Tích hợp đa giá trị (công nghệ, tổ chức quản lý, chứng nhận chất lượng, truy xuất nguồn gốc, kết nối thị trường…) theo chuỗi giá trị giúp nâng cao giá trị sản phẩm tôm nuôi.

Hai, xây dựng mô hình sinh kế nuôi tôm có trách nhiệm gắn với các mô hình tổ chức sản xuất của nông dân

(HTX, tổ hợp tác,…) trong đó lấy HTX là nòng cốt, nông dân làm trung tâm với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho nông dân.

Ba, thay đổi cách tiếp cận và tư duy trong đào tạo, tập huấn để phù hợp với nhu cầu thực tiễn nuôi tôm nước lợ tại các địa phương như: Nuôi tôm thẻ, tôm sú theo tiêu chuẩn VietGAP và sản xuất hàng hóa; quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc,… chú trọng đào tạo theo tư duy “kinh tế nông nghiệp” với các nội dung mới về tổ chức quản lý sản xuất, liên kết theo chuỗi giá trị, thị trường, kinh tế hợp tác,… Nằm trong hoạt động Diễn đàn Khuyến Nông @ Nông nghiệp, chiều 27/6, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với các đơn vị liên quan đã đến tham quan Mô hình liên kết hợp tác nuôi tôm theo công nghệ Grofarm tại ấp Xẻo Sao, xã Lâm Hải, huyện Năm Căn. Đây là mô hình có quy mô 3 ha, thời gian thả giống nuôi bắt đầu từ ngày 30/4/2024, với mật

độ nuôi 300 con/m3, ước tính năng suất đạt khoảng 50 tấn/ha.

Trọng Nghĩa

Ông Châu Công Bằng - Phó Giám đốc Sở

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh

Cà Mau

Đại diện Cục Thủy sản

Ông Lê Quốc Thanh

- Giám đốc Trung

tâm Khuyến nông quốc gia

Đại diện Công ty TNHH Grobest Industrial Việt Nam

Giải pháp hữu hiệu phục hồi nguồn lợi thủy sản tại

Việt Nam

ThS. Nguyễn Văn Nhuận

Viện KH&CN Khai thác thủy sản - Trường Đại học Nha Trang

TÓM TẮT

Khai thác thủy sản quá mức bằng những phương pháp đánh bắt mang tính hủy diệt không những phá vỡ cân bằng sinh học của hệ sinh thái mà còn nguy hại hơn vì hủy hoại nơi cư trú của các loài thủy sản. Từ những năm 1970 trở lại đây, nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu và sử dụng các giải pháp kỹ thuật nhằm phục hồi nơi cư trú và tăng cường nguồn lợi của các loài thủy sản. Trong những giải pháp đang được các nhà bảo vệ nguồn lợi, môi trường cũng như nhà quản lý quan tâm là việc xây dựng các vùng rạn nhân tạo (RNT).

nhiều mục đích khác nhau như: Bảo tồn, bảo vệ, tập trung và phát triển nguồn lợi thủy sản, phục hồi rạn san hô và phát triển du lịch biển. Ở Việt Nam, từ năm 2011, Viện KH&CN Khai thác thủy sản là một trong những đơn vị nghiên cứu ứng dụng RNT nhằm bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản tại một số địa phương ven biển. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy xây dựng các giải pháp nhằm phục hồi và khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản ven biển.

NỘI DUNG

Việc thả RNT được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm bảo vệ, phục hồi nguồn lợi, thu hút và tạo nơi sinh cư cho các loại thủy sinh, đặc biệt là các loại thủy sản.

Bài báo cung cấp những thông tin về một số công trình nghiên cứu ứng dụng RNT của Viện KH&CN Khai thác thủy sản nhằm bảo vệ và phục hồi nguồn lợi thủy sản ở một số địa phương ven biển Việt Nam.

Từ khoá: Rạn nhân tạo, nguồn lợi thủy sản, đa dạng sinh học

MỞ ĐẦU

RNT là những vật thể tự nhiên hoặc do con người tạo ra được lắp đặt xuống biển làm thay đổi điều kiện vật lý hải dương nhằm duy trì và phát triển nguồn lợi thủy sản (Dupnot, 2008) [6]. Theo nghĩa hẹp, RNT được hiểu là “ngôi nhà” cho các loài sinh vật biển đến sinh sống và phát triển nên có ý nghĩa lớn trong bảo vệ và phát triển đa dạng sinh học biển (SDMRI, 2010) [7]. RNT được xây dựng tại một phạm vi, khu vực nào đó ở biển hay vùng ven bờ với

2.1 Nghiên cứu xây dựng bãi cá nhân tạo tại Ninh Thuận nhằm bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản Đề tài “Nghiên cứu xây dựng bãi cá nhân tạo tại Ninh Thuận nhằm bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản” do ThS. Nguyễn

Trọng Lương và công sự thực hiện từ năm 2011 - 2013 [1]. Nghiên cứu đã sử dụng 300 RNT bằng bê tông kết hợp bè nổi, xây dựng thành công một bãi cá nhân tạo.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng:

- Số lượng loài sinh vật trong bãi cá nhân tạo tăng lên đáng kể, trung bình tăng 10,1% (từ 89 lên 98 loài) so với trước khi xây dựng bãi cá nhân tạo.

- Đa dạng loài sinh vật ở cụm rạn hình trụ tròn tương đương với rạn hình lập phương (98 loài) và mức đa dạng loài tăng lên theo thời gian thả rạn.

- Mật độ sinh vật trong bãi cá nhân tạo tăng lên nhanh so với trước khi xây dựng, trung bình gấp 8,8 lần sau 8 tháng thả rạn (từ 107 lên 947 cá thể/100 m2).

- Mật độ sinh vật trong các cụm rạn hình trụ tròn cao hơn hình lập phương gấp 1,7 lần sau 1 tháng và 1,9 lần sau 8 tháng.

- Mức độ gia tăng mật độ ở rạn hình trụ tròn cao hơn rạn hình lập phương. Trung bình mật độ ở rạn hình trụ tròn là 3,3 lần (từ 372 lên 1.233 cá thể/100 m2) trong khi rạn hình lập phương là 3,0 lần (từ 219 lên 661 cá thể/100 m2).

Ngoài ra, mật độ sinh vật trong vùng biển cũng được tăng lên đáng kể và có khuynh hướng tăng theo thời gian thiết lập bãi cá. Như vậy, việc xây dựng bãi cá nhân tạo có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ và tái tạo nguồn lợi không chỉ tại vùng biển thả rạn mà còn ở các khu vực xung quanh.

2.2 Nghiên cứu xây dựng mô hình chà – RNT nhằm khai thác bền vững và tái tạo nguồn lợi ven bờ tỉnh Quảng Nam

Năm 2013 - 2014, ThS Nguyễn Trọng Lương (2015) thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình chà – rạn nhân tạo nhằm khai thác bền vững và tái tạo nguồn lợi ven bờ tỉnh Quảng Nam” [2]. Đề tài đã tính toán và thiết kế được hệ thống chà – RNT, đáp ứng được các chỉ tiêu kỹ thuật, phù hợp với điều kiện tự nhiên tại vùng biển nghiên cứu. Kết quả giám sát về số lượng các loài thủy sản bắt gặp trong khu chà – rạn cho thấy: - So với số lượng loài động vật bắt gặp trước khi xây dựng mô hình thì sau 5 tháng Rạn nhân tạo

Cá con tập trung ở chà - rạn [2]

lắp đặt số lượng loài tăng lên 62,2% (từ 45 lên 73 loài).

- Tần suất bắt gặp các loài cá trong khu chà - rạn có chiều hướng gia tăng theo thời gian thả. Thời gian càng dài thì tần suất bắt gặp các đối tượng càng tăng, điều này cho thấy mật độ của các loài cá càng lớn.

- Số lượng loài bắt gặp trong khu chà - rạn khá cao, từ 64 lên 73 loài, tăng 14%.

Bên cạnh các nguồn lợi về cá, kết quả khảo sát cũng cho thấy sự xuất hiện rong biển, rêu phát triển trên rạn và chà. Rong và rêu là một những mắt xích trong chuỗi thức ăn của nhiều loài sinh vật biển.

2.3 Nghiên cứu xây dựng RNT tại Vịnh Nha Trang nhằm bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản

Năm 2013 - 2015, ThS. Nguyễn Văn Nhuận đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng rạn nhân tạo tại Vịnh Nha Trang nhằm bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản” [3].

Kết quả giám sát về độ phong phú về thành phần loài cá cho thấy:

Thành phần loài cá ghi nhận được có 91 loài, thuộc 36 họ, 10 bộ. Trong đó, các họ cá có số lượng loài chiếm đa số là họ cá Sơn (Apogonidae) có 8 loài, họ cá Bàng chài (Labridae) có 7 loài, họ cá Thia (Pomacentridae) có 6 loài, họ cá Lượng (Nemipteridae), họ cá Phèn (Mullidae) và họ cá Bướm (Chaetodontidae) mỗi họ có 5 loài,… So sánh với thời điểm trước khi thả RNT thành phần loài cá ở khu vực này tăng lên hơn gấp 3 lần.

Kết quả khảo sát cũng ghi nhận được 13

loài sinh vật đáy cỡ lớn bao gồm các nhóm thân mềm, giáp xác, da gai, xoang tràn, rong mơ và động vật có bao. Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học và giải pháp khai thác hợp lý, bảo vệ nguồn lợi hải sản vùng biển Quảng Nam và lân cận

Tại Quảng Nam, năm 2016 - 2019, Trường Đại học Nha Trang thực hiện đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học và giải pháp khai thác hợp lý, bảo vệ nguồn lợi hải sản vùng biển Quảng Nam và lân cận” do TS. Trần Đức Phú làm chủ nhiệm [5]. Một trong những nội dung của đề tài là xây dựng

mô hình bảo vệ nguồn lợi hải sản, đề tài đã tính toán thiết kế cấu trúc RNT và vật liệu phù hợp cho vùng biển với quy mô lắp đặt 500 đơn vị rạn. Kết quả như sau:

- So với số lượng loài động vật bắt gặp trước khi xây dựng mô hình thì sau 12 tháng lắp đặt số lượng loài tăng từ 44 lên 78 loài, tương ứng với 77%.

- Tần suất bắt gặp các loài cá trong khu rạn có chiều hướng gia tăng theo thời gian thả rạn. Thời gian càng dài thì tần suất bắt gặp các đối tượng càng tăng, điều này cho thấy mật độ của các loài cá càng lớn.

Như vậy, việc “Thả RNT làm nơi cư trú cho các loài thủy sản” là một trong những giải pháp nhằm thực hiện nội dung của Chương trình quốc gia Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ ban hành [4]. Điều này cho thấy, vai trò của việc ứng dụng RNT (RNT) trong công tác bảo vệ và phát

Cá và san hô tập trung ở RNT tại vịnh Nha Trang [3]

triển nguồn lợi thủy sản góp phần phát triển thủy sản bền vững, giữ gìn tính đa dạng sinh học, giá trị tài nguyên sinh vật của Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trọng Lương (2013), Nghiên cứu xây dựng mô hình chà – rạn nhân tạo nhằm khai thác bền vững và tái tạo nguồn lợi ven bờ tỉnh Quảng Nam, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp tỉnh.

2. Nguyễn Trọng Lương (2015), Nghiên cứu xây dựng bãi cá nhân tạo tại Ninh Thuận, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp tỉnh.

3. Nguyễn Văn Nhuận (2016), Nghiên cứu xây dựng rạn nhân tạo tại Vịnh Nha Trang nhằm bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp tỉnh.

4. Thủ Tướng Chính phủ (2024), Quyết định số 76/QĐ-TTg, ngày 18 tháng 01 năm 2024 phê duyệt Chương trình quốc gia Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2030.

5. Trần Đức Phú (2019), Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học và giải pháp khai thác hợp lý, bảo vệ nguồn lợi hải sản vùng biển Quảng Nam và lân cận, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia.

6. Dupont (2008), “Artificial reefs as restoration tools: a case study on the West Florida shelf. Coastal Management 36(5):495-507”.

7. SDMRI (2010), “The final progress report of the AR project.30”.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Công nghệ tăng hiệu quả nuôi biển

Ứng dụng khoa học công nghệ là giải pháp đảm bảo cho nuôi biển bền vững và có lợi nhuận. Dưới đây là một số công nghệ đã triển khai và mang lại hiệu quả ở

đó kịp thời xử lý các biểu hiện bất thường của đàn cá.

Thế giới

Thiết bị không người lái

Việt Nam cũng như trên thế giới. Ocean Farm 1 được trang bị 20.000 cảm biến nhằm đạt được sự tự động hóa hoàn toàn để nuôi dưỡng

tới 1,5 triệu con cá trong 14 tháng Ảnh: TQ

Việt Nam

Lồng và phao nhựa HPDE

Những năm gần đây, lồng làm bằng chất liệu HDPE đã

được triển khai và mang lại hiệu quả tại nhiều địa phương ở

Việt Nam. Hệ thống lồng nhựa HDPE có khả năng chịu được bão lớn. Với chất liệu nhựa siêu bền, lưới và dây giềng của lồng có tuổi thọ lên tới 10 năm.

Toàn bộ hệ thống lồng được neo trên biển bằng công nghệ neo lồng đặc biệt tiên tiến nhất

của Na Uy có tác dụng cố định, giảm lực tác dụng của sóng, gió lên khung lồng. Ngoài lồng nuôi, phao xốp cũng đang dần được thay thế bằng phao nhựa HDPE. Qua quá trình sử dụng, có thể thấy phao nhựa có độ nổi không kém phao truyền thống, nhưng có ưu điểm độ bền cao và không bị phân hủy, rất thân

thiện với môi trường. Ngoài ra, các phao nổi HDPE còn được

bảo hành, đổi mới trong 10 năm và bảo trì vĩnh viễn.

Sà lan phun thức ăn

Tại Việt Nam, công nghệ

được Công ty TNHH Thủy sản Australis Việt Nam áp dụng. Đây

được xem là sà lan cho cá ăn tự

động lớn nhất Đông Nam Á. Trên

mỗi sà lan có 8 hầm chứa với 150 - 250 tấn thức ăn, đủ cho bốn lồng cá ăn cùng một lúc mà chỉ cần một người điều khiển. Với hệ

thống này, chỉ cần ngồi trên tàu là có thể quan sát biết được “sức

khỏe” của đàn cá ở các lồng thông qua hệ thống camera, qua

Máy bay không người lái ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản cả trên và dưới nước. Chúng có thể được sử dụng để theo dõi các trang trại nuôi cá ven bờ. Các công ty như Apium Swarm Robotics sử dụng máy bay không người lái để khảo sát đại dương và phân tích thông qua việc sử dụng công nghệ cảm biến. Blueye Pioneer cung cấp video trực tiếp thông qua việc sử dụng điện thoại thông minh, máy tính bảng hoặc kính bảo hộ với ứng dụng Blueye. Các công ty như SeaDrone, SeaDrone Dutch, Aquabotix, PowerRay và OpenRov đang tạo ra những chiếc máy bay không người lái có thể khám phá dưới nước, sử dụng chuyên nghiệp hoặc cho cá nhân. Nuôi biển bằng RAS nổi Next Tuna, một công ty của Đức đã phát triển mô hình nuôi thủy sản RAS nổi trên biển để ứng phó các thách thức biến đổi khí hậu với chi phí đầu tư và hiệu quả đều tối ưu so với RAS trên đất liền. Theo đó, Next Tuna đã hợp tác với công ty Seafarming Systems của Na Uy để thiết kế hệ thống nuôi thủy sản RASxFloater. RASxFloater gần giống lồng lưới có đường kính 30 m, sâu 10 m (7.000 m3 ) nhưng thay vì dùng lưới giữ cá, RASxFloater được thiết kế dạng bể nổi được làm bằng thép cách nhiệt. Cấu trúc

nổi cùng chất liệu cách nhiệt giúp hệ thống này tương thích với khu vực gần bờ và sóng cao không quá 1 m. Nhà thiết kế đang xem xét giải pháp để sử dụng hệ thống này ở nhiều địa hình khác. Theo nhà sản xuất, chi phí đầu tư mô hình RASxFloater dự kiến 1.000 EUR/m3, rẻ hơn so với chi phí xây dựng RAS trên đất liền (3.500 EUR/m3 ). Sindilariu cho biết thêm, RASxFloater không cần đất nền, không cần bê tông nên tiết kiệm chi phí xây dựng. Điểm mạnh của RASxFloater là mực nước bên trong và bên ngoài gần như giống nhau nên không chênh lệch áp suất. Do đó, độ dày của lớp vỏ thép cách nhiệt có thể mỏng hơn, kết hợp cấu trúc nổi nên dễ bảo trì.

Ứng dụng AI

Năm 2020, một doanh nghiệp trẻ có tên là BioSort đã phát triển cho hãng Cermaq mô hình nuôi cá có tên là iFarm. Mô hình này sử dụng trí tuệ nhân tạo và máy học để nhận dạng từng con cá trong mỗi lồng lưới, cho phép người nuôi can thiệp sớm vào các mục tiêu sức khỏe nếu cần và nhận báo cáo về sức khỏe của từng cá thể vật nuôi. Được biết, ban đầu công ty chỉ tập trung vào cách cá tương tác với hệ thống nhằm điều chỉnh và tiến hành hợp lý hóa các thông số, hoạt động của hệ thống. Sau đó, công ty dần gia tăng mục tiêu thông qua các thử nghiệm đánh giá công nghệ cảm biến, thu thập và xử lý dữ liệu cũng như các thuật toán. Việc phát triển các phương pháp phân loại cá trong lồng lưới cũng trở thành một ưu tiên, với mục đích theo dõi và xử lý từng cá thể dựa trên những điểm đặc trưng của chúng và sự hiện diện của rận biển. Năm 2023 đánh dấu sự ra đời iFarm thứ 4. Ở phiên bản thứ 4 này, iFarm đã cải thiện các hoạt động, hệ thống cho cá ăn và ứng dụng những

cập nhật mới tiên tiến của máy

học, đồng thời tối ưu hóa chức năng của các thiết bị xung quanh

lồng nuôi.

Ocean Farm 1

Ngành nuôi trồng thủy sản liên tục phát triển và các địa điểm

nuôi cá ngày càng hạn chế ở các khu vực gần bờ trên toàn thế giới.

Do đó, SALMAR đã phát triển và triển khai cơ sở Ocean Farm 1

để nuôi cá ngoài khơi. Đây cũng

là trang trại nuôi cá ngoài khơi

đầu tiên của nhân loại. Nó có

thể chứa thể tích 250.000 m3

và chịu được động đất lên tới

12 độ richter. Với 20.000 cảm

biến được trang bị trên hệ thống

cho phép Ocean Farm 1 tự động

hóa hoàn toàn khi nuôi dưỡng

1,5 triệu con cá trong 14 tháng.

Ocean Farm 1 được xây dựng bởi

Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy

Trung Quốc (CSIS) tại Thanh

Đảo, Trung Quốc và đã được đặt

ở một vùng biển lộ thiên ngoài

khơi bờ biển Frohavet (miền

Trung Na Uy) vào mùa thu năm

2017.

Thiết bị bẫy rận biển

Blue Lice, một công ty của Nauy đã phát minh thiết bị ánh

sáng để thu hút và tiêu diệt rận

biển trước khi chúng tấn công

các trại nuôi cá hồi trên biển.

Thiết bị đã được trao giải thưởng nuôi trồng sáng tạo của Chính phủ Na Uy vào năm 2023. Thiết

bị bẫy rận biển hoạt động giống

như cách thức sử dụng ánh sáng

để hút côn trùng. Tuy nhiên, thiết

bị này chỉ thu hút rận biển và tiêu

diệt chúng. Hệ thống được lắp

đặt thông minh để không cản

trở hoạt động hàng ngày của

trại nuôi cá hồi. Ngoài ánh sáng,

Blue Lice sử dụng lực hút để đảm

bảo “tóm gọn” toàn bộ rận biển

nước khi chúng xâm nhập vào

trang trại.

SÁCH

Tôm: Cuộc truy tìm vàng hồng bất tận

Tác giả: Jack Rudloe, Anne Rudloe | Thể loại: Ký sự | Tiếng Anh | 251 trang | Năm xuất bản: 2009 | Nhà xuất bản: FT Press Trong cuốn sách “Shrimp: The endless quest for pink gold” (tạm dịch: Tôm: Cuộc truy tìm vàng hồng bất tận), các nhà văn nổi tiếng về thiên nhiên Jack và Anne Rudloe với niềm đam mê mãnh liệt, đã kể lại câu chuyện phiêu lưu của chính mình, tiết lộ một lịch sử ẩn giấu kéo dài hàng thiên niên kỷ.

Các tác giả đưa người đọc cùng khám phá những câu chuyện và di sản của con người đằng sau nhiều thế kỷ đánh bắt tôm. Độc giả sẽ có cơ hội tìm hiểu những loài tôm đặc biệt trong số 4.000 loài tôm trên thế giới; lên những chiếc thuyền đánh bắt tôm cũ kỹ và quan sát các bể nuôi tôm công nghệ cao, khám phá lý do tại sao tôm có thể là bạn thân của các nhà hàng nhưng lại là ác mộng của các nhà đầu cơ bất động sản; gặp gỡ những người yêu thích các món ăn từ tôm, những ngư dân lênh đênh trên biển và những người nông dân nuôi tôm để khám phá sự rộng lớn và đa dạng của thiên nhiên và nhân loại.

Kỹ thuật nuôi cua biển

Tài liệu Kỹ thuật nuôi cua

biển (Scylla serrata, Forskal) được biên soạn dựa trên cơ sở những

kết quả nghiên cứu thực nghiệm từ

năm 1990 đến nay, cùng với việc

khảo sát tình hình nuôi cua biển ở các vùng khác nhau trong nước thời gian qua. Tài liệu giới thiệu tổng quát các đặc điểm sinh học của loài cua biển (Scylla serrata), sự sinh

sản, phát triển cá thể và kỹ thuật

sản xuất cua giống.

Phương Nhi

Tài liệu tập trung giới thiệu kỹ thuật nuôi cua như: Nuôi cua tổng hợp (nuôi ghép); nuôi chuyên (nuôi đơn), nuôi cua ốp (nuôi béo), nuôi cua lột. Tài liệu cũng giới thiệu các hình thức nuôi như: Quảng canh trong ao đầm lớn, thâm canh trong ao nhỏ, trong đãng chắn, lồng, bè... Phần cuối của tài liệu đề cập đến phòng bệnh trong nuôi cua. Sách do Nhà xuất bản Nông nghiệp chịu trách nhiệm phát hành. Ngọc Minh

1. Hội nghị Thức ăn từ côn trùng thế giới

Thời gian: 19 – 22/6/2024

Địa điểm: Singapore

Link: https://www.ifw2024.com

2. Hội nghị Thượng đỉnh ngành tôm 2024

Thời gian: 27 – 29/6/2024

Địa điểm: Chennai, Ấn Độ

Link: https://responsibleseafood.org/

3. Triển lãm Quốc tế thủy sản Bangladesh

Thời gian: 17 – 19/7/2024

Địa điểm: Dhaka, Bangladesh

Link: https://seafoodexpobd.com/

4. Hội nghị Nuôi trồng Thủy sản Châu Á - Thái Bình Dương

Thời gian: 2 - 5/7/2024

Địa điểm: Surabaya, Indonesia

Link: https://was.org/

5. Diễn đàn và triển lãm thủy sản Indonesia 2024

Thời gian: 17 – 19/7/2024

Địa điểm: Jakarta, Indonesia

Link: https://indofisheries.id

6. TARS 2024

Thời gian: 14 - 15/8/2024

Địa điểm: Phuket, Thái Lan

Link: https://tarsaquaculture.com/

7. Hội chợ triển lãm quốc tế thủy sản Việt Nam - VIETFISH

Thời gian: 21 – 23/8/2024

Địa điểm: TP Hồ Chí Minh, Việt Nam

Link: https://www.vietfish.com.vn/

8. AQUA24

Thời gian: 26 - 30/8/2024

Địa điểm: Copenhagen, Đan Mạch

Link: https://was.org/

9. Diễn đàn tôm toàn cầu 2024

Thời gian: 3 - 5/9/2024

Link: https://www.shrimp-forum.com/

10. Vietstock 2024 và Aquaculture Vietnam 2024

Thời gian: 9 - 11/10/2024

Địa điểm: TP Hồ Chí Minh, Việt Nam

Link: https://www.vietstock.org/

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.