Thủy sản Việt Nam tháng 9/2024

Page 1


Hội đồng Biên tập

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo

Hoàng Hải Đăng, Thư ký Tòa soạn

Phạm Thu Hồng, Nhà báo

Dương Nam Anh, Nhà báo

Trần Anh Thư, Phóng viên

Trần Thị Kim Tiến, Phóng viên

Chủ nhiệm

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Phụ trách

Nguyễn Chu Hồi, Phó Giáo sư - Tiến sĩ

Chuyên gia

Phạm Anh Tuấn, Tiến sĩ

Trần Đình Luân, Tiến sĩ

Đào Trọng Hiếu, Tiến sĩ

Lê Văn Khoa, Tiến sĩ

Nguyễn Duy Hòa, Tiến sĩ

Nguyễn Khắc Bát, Tiến sĩ

Hồ Quốc Lực, Tiến sĩ

Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn

Thủy sản Minh Phú

Mỹ thuật: Two Nguyễn

Trình bày: Phạm Dương

Kỹ thuật: Đăng Kiên

Hình ảnh: Dương Nghĩa

Đọc bản in: Thu Hương

Tòa soạn:

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan@thuysanvietnam.com.vn

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM

Văn phòng Hà Nội:

Điện thoại: 0243.7713699

Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội

Phòng Quảng cáo:

Quảng cáo: 028.62777616

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT

ISSN: 0866-8043

Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV Lê Quang Lộc (TP HCM)

Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ

Thư tòa soạn

Thưa quý bạn đọc!

Hiện nay, tỷ lệ cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện theo quy định của Luật Thủy sản còn thấp; sản xuất con giống bị lệ thuộc vào nhập khẩu; chất lượng di truyền của các giống thủy sản truyền thống không được cải thiện, đàn giống bố mẹ bị thoái hóa, dẫn đến năng suất và chất lượng nuôi chưa đáp ứng yêu cầu....

Trong khi đó, con giống được đánh giá là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của vụ nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, làm thế nào để đáp ứng đủ nguồn giống chất lượng, khỏe mạnh, sạch bệnh cho nuôi trồng thủy sản, là vấn đề được bà con nông dân và doanh nghiệp vô cùng quan tâm.

“Rộng đường ương giống” là chủ đề chính của Tạp chí Thủy sản Việt Nam phát hành trong tháng 9, với những bài viết phân tích chuyên sâu về thực trạng sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản của nước ta. Từ đó, thẳng thắn nhìn nhận vào những vấn đề còn tồn tại, đưa ra giải pháp tháo gỡ, giúp lĩnh vực sản xuất con giống thủy sản phát triển tương xứng với tiềm năng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu nuôi trồng thủy sản trong nước. Trên số báo phát hành kỳ này, Tạp chí Thủy sản Việt Nam sẽ thông tin tới quý bạn đọc những chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhằm giải quyết triệt để các vấn đề liên quan đến chống khai thác “IUU”; tiếng lòng của ngư dân, doanh nghiệp về Nghị định 37/2024/ NĐ-CP; chân dung nữ doanh nhân hiếm hoi trong ngành nuôi biển... Ngoài ra, Tạp chí Thủy sản Việt Nam số 9 còn cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thủy sản trong và ngoài nước; giải quyết vấn đề nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu; sản xuất thủy sản dưới tán rừng ngập mặn; phòng chống các loại dịch bệnh, kỹ thuật nuôi trồng thủy sản; cùng các hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.

Trân trọng! Ban Biên tập

sức khỏe vật nuôi, đưa

nuôi về size lớn

44

Skretting: Cung

Skretting Việt Nam

48

Thành công trong nuôi tôm nhờ sự kiên trì

tư và tin tưởng vào nguồn giống uy tín, chất lượng cao

Nhật Anh

50 Hội nghị khách hàng: Giải pháp đột phá hiệu suất

60

Vai trò của axit hữu cơ trong nuôi trồng thủy sản

Nguyễn Hằng

62

Thủy phân tôm

EU chuẩn bị thanh tra ngành thủy sản Việt Nam

Dự kiến, từ ngày 24/9 - 17/10/2024, Liên minh châu Âu (EU) sẽ tiến hành thanh tra thực

địa ngành thủy sản của Việt Nam. Chuyến thanh tra lần này sẽ diễn ra theo hình thức

“hybrid”, kết hợp giữa đánh giá từ xa và kiểm tra thực địa. Các chuyên gia từ DG-SANTE

sẽ tập trung vào việc kiểm tra hệ thống kiểm soát dư lượng của Việt Nam đối với các sản phẩm thủy sản xuất khẩu, bao gồm cả các sản phẩm mật ong.

Không để tàu cá “3 không” khai thác thủy sản trên biển

Đây là đề nghị của Thượng tướng Võ Minh Lương - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng tại Hội nghị sơ kết Chương trình phối hợp thực hiện công tác dân vận “Cảnh sát biển đồng hành với ngư dân” giữa Ban Thường vụ Cảnh sát

biển Việt Nam với Ban Thường vụ các tỉnh, thành phố ven biển giai đoạn 2019 - 2024 do Đảng ủy Cảnh sát biển Việt Nam tổ chức diễn ra vào sáng 23/8 tại Hà Nội.

Giá cước vận tải biển giảm mạnh nhưng vẫn ở mức cao

Thông tin từ Cục Hàng hải Việt Nam cho biết, giá cước vận tải biển toàn cầu đang có xu hướng giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Cụ thể, trong tháng 8/2024, các tuyến vận tải từ châu Á đến bờ Tây nước Mỹ và châu Âu ghi nhận mức giảm mạnh nhất, dao động từ 20 - 30% so với tháng trước, giảm 44% so với thời kỳ đỉnh điểm vào tháng 9/2021 (đại dịch COVID-19). Cước vận tải từ châu Á đến Bắc Mỹ đã hạ xuống còn

6.356 USD/container 40 feet, giảm 1,52% so với đầu tháng 8 và giảm tới 19,28% so với tháng trước. Giá cước vận chuyển hàng từ châu Âu đang vào khoảng 6.000 - 8.000 USD/ container 40 feet, từ châu Á đến bờ Tây nước

Mỹ dao động từ 5.000 - 6.000 USD/container. Riêng tuyến bờ Đông nước Mỹ vẫn ở mức cao, dao động từ 9.000 - 10.000 USD/container.

Việt Nam ký kết Nghị định thư về

xuất khẩu cá sấu với Trung Quốc

Chiều 19/8, Bộ NN&PTNT Việt Nam và Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã ký Nghị

định thư về xuất khẩu sản phẩm cá sấu. Ngành nuôi cá sấu ở Việt Nam đã phát triển trong hơn 30 năm qua. Các sản phẩm từ cá sấu như thịt, da và các bộ phận khác hầu hết đều có giá trị kinh tế cao. Việc mở cửa thị trường Trung Quốc cho cá sấu sẽ tạo ra cơ hội lớn cho ngành này. Đây không chỉ là cơ hội kinh tế mà còn là động lực để ngành nuôi cá sấu Việt Nam phát triển theo hướng bền vững, bảo đảm các tiêu chuẩn về môi trường và phúc lợi động vật.

Đề nghị Australia đẩy nhanh quy trình mở cửa thị trường với nông, thủy sản Việt Nam

Đó là đề nghị của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tại buổi tọa đàm với Chủ tịch Thượng viện Australia, bà Sue Lines trong chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 24 - 30/8. Cụ thể,

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị Australia sớm xem xét tích cực, đẩy nhanh quy trình mở cửa thị trường đối với các mặt hàng nông, thủy sản Việt Nam; mở rộng đầu tư vào các lĩnh vực Việt Nam đang ưu tiên và Australia có thế mạnh như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, khai khoáng, cơ sở hạ tầng, viễn thông, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao; tiếp tục duy trì và tăng nguồn vốn ODA cho Việt Nam vào các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong lĩnh vực bán dẫn, quản lý công, xây dựng chính sách công và tài chính vĩ mô.

Quảng Ninh

Bắt giữ 17 tàu cá tàng trữ ngư cụ cấm

Tính riêng từ ngày 1 - 22/8, Tổ công tác liên ngành của TP Cẩm Phả về xử lý các vi phạm trong đánh bắt thủy hải sản đã phát hiện và bắt giữ 17 tàu cá vi phạm. Trong đó, đã xử phạt 12 tàu với số tiền trên 200 triệu đồng và 5 tàu đang hoàn tất hồ sơ để xử lý theo các quy định của pháp luật. Nam Định Yêu cầu 100% tàu cá duy trì kết nối giám sát hành trình

Thời gian qua, việc lắp đặt và vận hành hệ thống giám sát hành trình (VMS) tàu cá trên địa bàn tỉnh

VASEP bác thông tin ngành tôm Việt Nam lạm dụng

lao động

Mới đây, VASEP đã phát đi thông cáo báo chí nhằm phản đối trước những thông tin được đăng tải từ Sustainability Incubator với cáo buộc Việt Nam lạm dụng lao động trong ngành nuôi tôm. VASEP cho rằng, những cáo buộc của báo cáo này là vô căn cứ, gây hiểu lầm và gây tổn hại đến danh tiếng của ngành tôm Việt Nam.

Về vấn đề lao động, theo VASEP, hiện giờ làm việc của người lao động tại các công ty tôm Việt Nam được áp dụng theo Bộ luật Lao động năm 2012, Nghị định 45/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ.

Với trách nhiệm và kinh nghiệm của một tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thủy sản Việt Nam - VASEP khẳng định ngành tôm Việt Nam có đủ điều kiện thuận lợi để phát triển theo hướng bền vững hơn, tuân thủ mọi luật pháp, quy định quốc gia và quốc tế về điều kiện lao động, trách nhiệm xã hội và an toàn thực phẩm.

giám sát hành trình khi hoạt động trên biển vẫn diễn ra thường xuyên. Để khắc phục tình trạng tàu cá mất kết nối thiết bị giám sát hành trình khi hoạt động trên biển, UBND tỉnh Nam Định yêu cầu các sở, ngành, các địa phương ven biển nắm chắc số lượng tàu cá đảm bảo 100% số tàu cá hoạt động khai thác trên biển phải lắp đặt thiết bị và duy trì kết nối hệ thống giám sát hành trình; theo dõi, giám sát 24/24 giờ hoạt động của tàu cá qua hệ thống giám sát hành trình; kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm ngắt kết nối giám sát hành trình.

Thanh Hóa

Gần 60% cơ sở nuôi thủy sản ký cam kết sản xuất ATTP

Tính đến tháng 8/2024, 17.370 cơ sở NTTS

đã ký cam kết sản xuất bảo đảm ATTP trong tổng số 29.534 cơ sở NTTS trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa thuộc diện phải ký cam kết sản xuất bảo đảm ATTP. Các cơ sở này tập trung

tại các huyện Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng

Xương, thị xã Nghi Sơn và TP Sầm Sơn.

Bình Định Phát triển chuỗi khai thác cá ngừ

đại dương

Nhằm nâng cao chất lượng cá ngừ đại

dương, hướng đến gia tăng giá trị xuất khẩu, tỉnh Bình Định định hướng quy hoạch phát triển ngành thủy sản đến năm 2025, trong

đó khuyến khích thành lập tổ đội đoàn kết và nghiệp đoàn nghề cá đẩy mạnh khai thác xa bờ; tổ chức khai thác, bảo quản, thu mua, chế biến, xuất khẩu cá ngừ theo chuỗi do Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) hỗ trợ.

Cà Mau

Thực hiện cao điểm chống khai thác IUU

Từ ngày 5 đến ngày 30/9, tỉnh Cà Mau sẽ thực hiện cao điểm chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) trên địa bàn tỉnh.

Trong đợt thực hiện cao điểm chống khai thác IUU lần này, tỉnh Cà Mau huy động lực luợng, tổ chức hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ thực hiện quản lý tàu cá; tuyên truyền quy định pháp luật, tổ chức ký cam kết không vi phạm khai thác IUU.

Tăng cường công tác xử lý vi phạm, xử lý 100% tàu cá mất kết nối VMS, vượt ranh giới, tàu hết hạn giấy phép, tàu hết hạn đăng kiểm còn hoạt động trên biển, không thực hiện sang tên, đổi chủ theo quy định, tàu thuộc diện giải bản nhưng vẫn hoạt động; điều tra, làm việc trực tiếp với chủ tàu nghi vấn và đấu tranh, chứng minh nhằm cảnh báo, xử lý triệt để các trường hợp tàu cá tháo, gửi thiết bị VMS trên tàu cá khác, tàu cá tiếp tay, vận chuyển thiết bị VMS của tàu cá khác, tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài; Tăng cường thực hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của cảng cá tư nhân, nhất

là việc kiểm tra, giám sát tàu cá và sản lượng thủy sản bốc dỡ qua cảng tư nhân, nhật ký khai thác thủy sản; kiểm tra công tác quản lý và hồ sơ đối với tàu cá hết hạn đăng ký, đăng kiểm, tàu cá khai thác vi phạm vùng biển nước ngoài, tàu cá mất tín hiệu kết nối; hồ sơ xử lý vi phạm của Văn phòng IUU; công tác thống kê sản lượng khai thác của địa phương từ khi cho các cơ sở thu mua thủy sản cam kết đến khi báo cáo sản lượng về Ban Quản lý các cảng cá; công tác kiểm soát tàu cá tại cảng cá và Trạm kiểm soát Biên phòng theo các chỉ đạo của UBND tỉnh Cà Mau trong công tác chống khai thác IUU.

Tôm Cà Mau đạt chứng nhận BAP

Ngày 5/9, đại diện tổ chức Bureau Veritas tại Việt Nam đã trao giấy chứng nhận BAP (thực hành nuôi trồng thủy sản tốt nhất của

Tổ chức Liên minh thủy sản toàn cầu) cho Công ty TNHH Xã hội tôm chứng nhận Minh

Phú - đơn vị đồng hành cùng nông dân thực

hiện “Dự án tôm - lúa xã Biển Bạch Đông” ở

huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

Đây là chứng nhận quốc tế thứ 2 (sau ASC)

tại vùng chuyên canh tôm - lúa của huyện

Thới Bình và là chứng nhận BAP đầu tiên

được triển khai tại vùng chuyên canh tômlúa của Việt Nam.

Ảnh: Shutterstock

ẤN ĐỘ

Tham vọng đạt 12 tỷ xuất khẩu

thủy sản

Từ 2019-2023, sản lượng thủy sản của Ấn

Độ tăng từ 14,2 triệu tấn lên 18,3 triệu tấn; xuất khẩu ghi nhận mức tăng từ 1,4 triệu tấn

lên 1,8 triệu. Về giá trị, xuất khẩu thủy sản của

Ấn Độ tăng từ 467 tỷ INR (6,6 tỷ USD) trong năm tài chính 2019-2020 lên 610 tỷ INR (7,4 tỷ USD) trong năm tài chính 2023-2024. Chính phủ nước này vẫn đang nỗ lực để đạt được mục tiêu đầy tham vọng với giá trị xuất khẩu hàng năm lên tới 12 tỷ USD vào năm 2025. Theo đó, Ấn Độ đã quyết định tăng tỷ lệ hoàn thuế xuất khẩu (RoDTEP) từ 2,5% lên 3,1% đối với một số sản phẩm thủy sản, điều này sẽ cho phép các nhà xuất khẩu Ấn Độ nhận

được phần hoàn thuế và thuế phải trả khi xuất khẩu hàng hóa, với mức giá trị tối đa nâng lên

69 INR (0,82 USD). Chính phủ Ấn Độ đã thực

hiện giảm thuế nhập khẩu đối với thức ăn cho cá và tôm, cũng như các thành phần sản xuất thức ăn như dầu cá và dầu tảo.

RABOBANK

Lạc quan về thị trường Trung Quốc

Theo Rabobank, Trung Quốc là một thị trường thủy sản lớn, đầy tiềm năng. Gần đây, thị trường này đang dịch chuyển sang các sản phẩm giá trị cao như tôm, cá khai thác tự nhiên và các loài ở vùng biển sâu, bất chấp nền kinh tế hậu Covid phát triển chậm, túi tiền của người dân cũng không “rủng rỉnh”. Rabobank dự đoán thủy sản sẽ là sản phẩm protein động vật có tốc độ phát triển nhanh nhất Trung Quốc trong thập kỷ tới. Từ năm 2013 đến 2023, mức tiêu dùng thủy sản hàng năm tăng 4,4%, vượt qua thịt heo, gia cầm và trứng. Trước những thay đổi trong xu hướng tiêu dùng thủy sản của Trung Quốc, giới chuyên gia cho rằng, các công ty thủy sản cần chuẩn bị thiết lập quan hệ hợp tác với các nhà bán lẻ và nhà hàng để phân phối các sản phẩm bền vững, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng đối với dòng thực phẩm chế biến sẵn.

Ảnh: Oanh Thảo

TARS 2024

Cá tra cần có tên mới

Hội nghị TARS 2024 được tổ chức tại thủ đô Bangkok, Thái Lan, trong ngày 14-15/8//2024,

chủ đề xoay quanh câu chuyện về ngành cá thịt trắng. Mở đầu Hội nghị là những góc nhìn về thị trường cá thịt trắng toàn cầu và khả năng cạnh tranh chưa cao của cá rô phi và cá tra của châu Á tại Mỹ, từ đó các chuyên gia tập trung vào nguyên nhân và định hướng cho sự phát triển trong tương lai của loài cá này. Đối với cá tra, các tham luận viên cho rằng, loài cá này cần có một cái tên thống nhất nhằm nâng cao sự hiện diện trên thị trường quốc tế. Nhóm thảo luận gợi ý sử dụng tên “Panga” để giúp người tiêu dùng không có cảm giác mơ hồ khi phân biệt với các loài cá thịt trắng khác, đồng thời giúp giải quyết các vấn đề liên quan đến nhãn mác. Ngoài ra, TARS 2024 đã giúp khắp phục các khó khăn trong ngành, bao gồm những quan niệm tiêu cực về cá tra liên quan đến an toàn và bền vững. Theo đó, Hội nghị nhấn mạnh ngành cá tra cần có các chứng nhận và bằng chứng về dấu chân carbon thấp.

NA UY

Đồng krone suy yếu giúp xuất khẩu tăng

Theo dữ liệu mới nhất từ Hội đồng Thủy sản Na Uy (NSC), giá trị xuất khẩu thủy sản của quốc gia này đạt 13 tỷ NOK (1,12 tỷ USD) trong tháng 7, tăng 727 triệu NOK (66 triệu USD), tương

đương 6% so cùng kỳ năm ngoái. Theo Giám đốc điều hành NSC, ông Christian Chramer, sự

gia tăng này chủ yếu nhờ vào việc xuất khẩu cá hồi tăng trưởng mạnh và đồng krone yếu hơn so với đô la Mỹ. Mặc dù giá cá hồi giảm nhưng khối lượng xuất khẩu vẫn tăng trưởng mạnh mẽ. Cụ thể, Na Uy xuất khẩu 107.442 tấn cá hồi trong tháng 7, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu tăng 3%, đạt 9,6 tỷ NOK (870 triệu USD). Tháng 7/2024, nhiều thị trường xuất khẩu của thủy sản Na Uy ghi nhận tăng trưởng, trong đó Đức dẫn đầu với 142 triệu NOK (12,9 triệu USD), tương đương 46% so với cùng tháng năm trước. Khối lượng xuất khẩu sang Đức đạt 4.800 tấn, tăng 53% so với năm trước.

Thức ăn thủy sản toàn cầu giảm 4,4%

Theo bà Linda Chen của Hatch Blue, đơn vị chuyên về thủy sản và nuôi trồng thủy sản, sản lượng thức ăn thủy sản toàn cầu giảm 4,4% xuống còn 52,09 triệu tấn trong năm 2023. Trong đó, khu vực châu Á - Thái Bình Dương ghi nhận giảm 7%. Bà Chen cho rằng, để đạt được kế hoạch sản lượng thủy sản nuôi trồng dự kiến 109 triệu tấn vào năm 2030, ngành nuôi trồng thủy sản phải tập trung cho sự phát triển và thương mại hóa các thành phần thức ăn giàu protein, đặc biệt trong bối cảnh đang có sự dịch chuyển mạnh mẽ từ thành phần có nguồn gốc biển sang các thành phần có nguồn gốc thực vật. Hiện, Na Uy đã giảm thành phần bột cá từ 65% (năm 1990) xuống 12% (năm 2020), và thay thế bằng protein từ rau củ (mức tăng từ 0% lên 40,5%). Ngoài ra, phụ phẩm từ quá trình sản xuất nông nghiệp cũng được kỳ vọng đóng góp một phần lớn vào “giỏ hàng” thành phần thức ăn thủy sản trong những năm tới.

11,8 tỷ USD

Là kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông lâm thủy sản trong 8 tháng đầu năm 2024.

900 triệu USD

Là kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng 8/2024.

133 triệu USD

Là giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang EU tính từ đầu năm 2024 đến ngày 15/08.

181,5 triệu USD

Là giá trị xuất khẩu thủy sản trong tháng 7/2024 của Việt Nam sang Mỹ - Thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất Việt Nam.

của ngư dân, doanh nghiệp

Xuất khẩu cá ngừ Việt Nam tại khối thị trường EU, Israel, Italy, Hà Lan và Đức đã giảm lần lượt 14%, 31%, 18%, 46% và 19% (số liệu tháng 7/2024). Trong khi doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thiếu hụt nguồn nguyên liệu thì ngư dân lại gặp khó khi vươn khơi khai thác.

Khó càng thêm khó

Ngày 22/8, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) đã tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy chuyển đổi để phát triển bền vững ngành hải sản khai thác Việt Nam”.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã bàn luận sôi nổi về những vấn đề liên quan đến Nghị định 37/2024/NĐ-CP quy định kích thước tối thiểu

được phép khai thác của các loài thủy sản sống trong vùng nước tự nhiên, trong đó điển hình là loài cá ngừ vằn.

Tình trạng thiếu nguyên liệu là khó khăn lớn nhất đối với ngành chế biến xuất khẩu hải sản của Việt Nam. Nguồn nguyên liệu từ khai thác rất hạn chế, do phần lớn tàu thuyền của nước ta có quy mô nhỏ và thô sơ, ngư trường đánh bắt bị thu hẹp. Thêm vào đó, quy định mới về kích thước tối thiểu được phép khai thác của các loài thủy sản sống trong vùng nước tự nhiên đang khiến cho sản lượng sụt giảm.

Đại diện cho ngư dân phát biểu tại Hội thảo, ông Bùi Thanh Ninh (67 tuổi, Hoài Nhơn, Bình Định) cho biết, nghề đi biển ngày càng gặp nhiều khó khăn, nhất là từ khi có quy định về kích cỡ tối thiểu cá ngừ đánh bắt.

“Từ quá trình khai thác chúng tôi nhận thấy, cá ngừ sọc dưa từ 300 g - 1 kg chiếm 80% và từ 1 kg trở lên chỉ chiếm 20%. Đặc biệt, cá ngừ sọc dưa là loài cá nổi và được đánh bắt theo mùa vụ từ tháng 7 - tháng 1 năm sau, sản lượng cá nhỏ chiếm 80 - 90%. Từ tháng 2 - tháng 6, sản lượng cá ngừ sọc dưa giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 5%. Vì vậy, để ngư dân áp dụng quy định trên là rất khó”, lão ngư dân trăn trở.

Theo ông Ninh, hơn 2 tháng nay, cá ngừ

được đánh bắt về cảng không được thu mua, trong khi từ tháng 7 - tháng 9 hàng năm là mùa khai thác cá ngừ. Các tàu cá ra khơi đánh bắt không đủ chi phí, nguy cơ không thể tiếp tục hoạt động nếu cơ quan quản lý vẫn tiếp tục áp dụng quy định này.

“Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ NN&PTNT điều chỉnh kịp thời quy định về kích thước khai thác các loài thủy sản, dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn nghề cá ở Việt Nam, cũng như phù hợp với các quy định luật pháp quốc tế”, ông Ninh nhấn mạnh.

Về phần mình, tại Công văn 54/CV-VASEP, VASEP đánh giá Nghị định 37/2024/NĐ-CP đối với một số loài thủy sản khai thác là không phù hợp. Điển hình như cá ngừ vằn, quy định nêu rõ chiều dài tối thiểu cho phép khai thác là 0,5 m, song kích thước này chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ từ 5 - 8% trong mỗi lô cá khai thác được. Trên thực tế, cá ngừ vằn chiều dài 0,5 m tương đương kích cỡ từ 5 - 7 kg, trong khi tiêu chuẩn quốc tế đối với loài này là từ 1,8 - 3,4 kg.

Ngoài ra, trong văn bản (EU) 2019/1241 về

bảo tồn của châu Âu cũng không tìm thấy quy

định về kích thước tối thiểu của cá ngừ vằn. Kích thước tối thiểu cũng thay đổi khác nhau tùy từng vùng biển và nguồn lợi tại khu vực đó. EU bảo vệ nguồn lợi thủy sản bằng các biện pháp như: Quy định về hạn ngạch, thời gian cấm biển, nghề khai thác, FAD… chứ không thuần túy chỉ bằng kích thước tối thiểu. Viện dẫn một ví dụ thực tế, VASEP cho biết, các tàu cá của Tây

cấp C/C. Tổ chức

WCPFC cũng không có quy định kích thước tối thiểu một số loài cá ngừ, trong đó có cá ngừ vằn.

Quy định phải gắn với thực tiễn Bà Nguyễn Thị Thu Sắc - Chủ tịch VASEP cho rằng, để đảm bảo thực hiện hiệu quả Nghị định 37/2024/NĐ-CP, cần có sự chuẩn bị đồng bộ về trang thiết bị như lưới đánh bắt và phải có thời gian để ngư dân thích nghi. Việc ban hành và áp dụng ngay một quy định mới có thể gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân, hiệu quả kinh tế xã hội, cũng như hoạt động của các doanh nghiệp chế biến thủy sản. Theo quy định này, ngư dân bắt buộc phải đầu tư chi phí để thay đổi ngư cụ có kích thước mắt lưới mới phù hợp, cho đến việc ghi chép, kiểm soát kích cỡ của loài mà ngư dân khai thác được.

“Thực tế cho thấy, hiện nay nhiều tàu cá vào cảng không được cấp biên bản bốc dỡ vì vi phạm về kích cỡ hải sản khai thác. Do đó, đang gây thiếu hụt lớn nguồn cung nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của doanh nghiệp.

Trong trường hợp quy định về kích thước tối thiểu

Ảnh: Hòa Thy

tiếp cận, đồng thời các quy định này cần được điều chỉnh sao cho phù hợp hơn với thực tiễn tại nước ta”, Chủ tịch VASEP nhấn mạnh. Đồng quan điểm, đại diện Công ty CP

Thủy sản Bình Định chia sẻ rằng, thời gian qua, quy định về kích thước khai thác đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động khai thác cá ngừ vằn, đặc biệt là tại khu vực các tỉnh miền Trung. Không chỉ vậy, cộng đồng doanh nghiệp cá ngừ cũng gặp khó khăn trong việc thu mua và tích trữ cá ngừ vằn để chuẩn bị cho giai đoạn cuối năm. Ngư dân và doanh nghiệp đang rơi vào tình trạng bế tắc, khi hàng tồn kho không thể là giải pháp lâu dài. Nghị định 37/2024/NĐ-CP đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của một ngành nghề vốn gắn liền với bao thế hệ ngư dân. Nếu không có sự điều chỉnh kịp thời và hợp lý, cả ngư dân và doanh nghiệp sẽ rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Bảo vệ nguồn lợi thủy sản không đồng nghĩa với việc hy sinh sinh kế của người dân. Chính sách cần được xây dựng dựa trên thực tiễn, vừa đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, vừa duy trì cuộc sống và hy vọng của những ngư dân ngày đêm gắn bó với biển.

VĂN BẢN MỚI

 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Chỉ thị số 29/CTTTg ngày 27/8/2024 về việc kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh và phát triển thị trường trong nước.

Tại Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, trưởng ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh thành, các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp tập trung triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm.

Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ tướng yêu cầu chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh phát triển sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu nông sản cho các vùng nuôi, trồng tập trung; thúc đẩy mở cửa thị trường xuất khẩu nông sản chính ngạch sang các thị trường lân cận.

 Ngày 16/08/2024, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 861/QĐTTg phê duyệt Đề án xây dựng đảo Phú

Quý thành Trung tâm khai thác, dịch vụ hậu cần nghề cá, kết hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển.

Mục tiêu của Đề án đến năm 2030, xây dựng đảo Phú Quý thành Trung tâm khai thác, dịch vụ hậu cần nghề cá, kết hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển của vùng và cả nước. Phát triển hợp lý về quy mô của từng lĩnh vực, tập trung vào khai thác thủy sản xa bờ, bảo quản, sơ chế sản phẩm và các dịch vụ hậu cần nghề cá, là Trung tâm cứu nạn, cứu hộ, xử lý các sự cố, tình huống khẩn cấp, cứu nạn trên biển nhằm nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống ngư dân gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh vùng biển, đảo của Tổ quốc. Mục tiêu đến năm 2045, đảo Phú Quý trở Thành trung tâm khai thác, dịch vụ hậu cần nghề cá, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phát triển đồng bộ, toàn diện, hiện đại ngang tầm với các Trung tâm dịch vụ hậu cần trong khu vực và trên thế giới, tích hợp, gia tăng giá trị các sản phẩm khai thác, nuôi biển, nâng cao hiệu quả khai thác, đảm bảo an toàn cho người và phương tiện hoạt động khai thác và vận tải trên biển, bảo đảm quốc phòng an ninh vùng biển, đảo của Tổ quốc.

 Văn phòng Chính phủ đã ban hành

Thông báo số 371/TB-VPCP ngày 10/8/2024 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần

Lưu Quang tại cuộc họp triển khai các giải pháp khắc phục các tồn tại, hạn chế của hệ thống giám sát hành trình tàu cá (VMS).

Kết luận nêu rõ: Thực hiện mục tiêu gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” của EC trong năm 2024, một trong những nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến cuối năm 2024 là phải tiếp tục hoàn thiện, quản lý, vận hành hệ thống VMS thông suốt, hiệu quả từ trung ương tới địa phương. Do đó, cần phải tập trung tối đa và tối ưu hóa các công việc. Phó Th ủ tư ớ ng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ: Thông tin và Truyền thông, Quốc phòng, các bộ, ngành liên quan tập trung giải quyết các vướng mắc về kỹ thuật để hoàn thiện hệ thống VMS, đảm bảo hệ thống phát hiện, kết nối dữ liệu, chia sẻ thông tin, cập nhật kết quả xử lý các tàu cá vi phạm pháp luật 24/7; hoàn thành trước ngày 20 tháng 8 năm 2024.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định việc thành lập Tổ công tác liên ngành với các thành viên từ các bộ, ngành liên quan để tham mưu, xử lý các nội dung kỹ thuật, hướng dẫn thực thi pháp luật về hệ thống VMS tại trung ương và địa phương. Báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia về chống khai thác IUU các nội dung vượt thẩm quyền.

 Ngày 15/08, UBND tỉnh Quảng Bình ra Quyết định số 19/2024/QĐ-UBND về việc, sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 01/2019/QĐ-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh Quảng Bình ban hành quy định tiêu chí đặc thù và quy trình xét duyệt hồ sơ đề nghị cấp văn bản chấp thuận đóng mới, cải hóa, thuê, mua tàu cá trên biển; quy định về đóng mới, cải hoán, thuê, mua tàu cá hoạt động trong nội địa trên địa bàn tỉnh Quảng Bình và Quyết định số 20/2019/QĐ-UBND ngày 13/06/2019 sửa đổi bổ sung một số điều của quy định ban hành kèm theo Quyết định số 01/2019/QĐ-UBND ngày 15/01/2019 của UBND tỉnh Quảng Bình. 

Gỡ “thẻ vàng” IUU

Thủ tướng chỉ đạo nóng

Chiều 28/8, Thủ tướng

Chính phủ Phạm Minh

Chính chủ trì Hội nghị

về chống khai thác hải

sản bất hợp pháp, không

báo cáo và không theo quy định (IUU).

Hội nghị được kết nối

trực tuyến từ trụ sở

Chính phủ tới 28 tỉnh

ven biển. Cùng tham dự Hội nghị

có Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn Lê Minh

Hoan, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ

quan Trung ương và địa phương.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã tập

trung đánh giá kết quả khắc phục

các tồn tại, hạn chế theo khuyến

nghị của Ủy ban châu Âu (EC)

sau 4 đợt thanh tra; kết quả thực

hiện các ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và của

Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về IUU; những tồn tại, hạn chế chưa

được khắc phục, các công việc

chưa hoàn thành; xác định các

nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới

(đợt thanh tra lần thứ 5 của của EC

dự kiến diễn ra vào tháng 10/2024).

3 nhiệm vụ trọng tâm

Phát biểu kết luận, Thủ tướng

Phạm Minh Chính cơ bản đồng

tình với các báo cáo, ý kiến về

kết quả đã đạt được và những

tồn tại, hạn chế.

Phân tích sâu về nguyên nhân

Chỉ rõ mục tiêu gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” tại đợt thanh tra lần thứ 5 của Đoàn Thanh tra của EC dự kiến vào tháng 10/2024, Thủ tướng cũng khẳng định mục tiêu chống khai thác IUU, gỡ “Thẻ vàng” đã có đầy đủ cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn. Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương liên quan, các lực lượng chức năng, cấp uỷ, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở, phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, tinh thần yêu nước, thương dân, thống nhất nhận thức, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, hành động quyết liệt để thực hiện nhiệm vụ chống khai thác IUU, khẩn trương hoàn thành việc khắc phục các tồn tại, hạn chế, với 3 nhiệm vụ trọng tâm.

Thứ nhất, giám sát, quản lý

chặt chẽ các đội tàu, không để vi phạm IUU và dứt điểm xử lý tàu cá 3 không (không đăng ký, không đăng kiểm, không cấp phép). Thứ hai, rà soát, phân loại, xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân vi phạm quy định của

ven biển trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, đảm bảo hoàn thành một số nhiệm vụ.

Thủ tướng nhấn mạnh, phải xử lý trách nhiệm của người đứng đầu các ngành, các cấp, các cơ quan, các địa phương nếu không thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chống khai thác IUU...

của những tồn tại, hạn chế này,

Thủ tướng nhấn mạnh phải xử lý

trách nhiệm của người đứng đầu

các ngành, các cấp, các cơ quan, các địa phương nếu không thực

hiện nghiêm chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước về chống khai

thác IUU, thiếu quyết liệt trong

lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, chưa quan tâm đúng mức, thiếu kiểm tra, thanh tra, giám sát…

Đảng, pháp luật của Nhà nước, vi phạm hành chính thì xử lý hành chính, vi phạm hình sự thì xử lý hình sự. Thứ ba, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, giám sát, truy xuất nguồn gốc và xử lý nếu vi phạm.

Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu

Thủ tướng yêu cầu Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Theo đó, rà soát toàn bộ các vụ việc vi phạm khai thác IUU từ sau đợt thanh tra lần thứ 4 đến nay, trước hết tập trung các vụ việc ngắt, gửi, vận chuyển thiết bị VMS, vượt ranh giới trên biển; môi giới, móc nối, vi phạm khai thác bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài...; tiếp tục điều tra, xác minh, kiên quyết xử phạt dứt điểm các trường hợp vi phạm; hoàn thành, báo cáo kết quả thực hiện trong tháng 9/2024. Tập trung tối đa nguồn lực (nhân lực, kinh phí, trang thiết bị, phương tiện), điều động, tăng cường lực lượng tại địa phương, đặc biệt là chính quyền cơ sở (xã/ phường/thị trấn) tại các địa bàn trọng điểm, phối hợp chặt chẽ với lực lượng biên phòng, công an vừa tuyên truyền, vận động, vừa kịp thời ngăn chặn, xử lý từ sớm, từ xa tàu cá, ngư dân có ý định vi phạm, đặc biệt là tại các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bình Định, Bà Rịa - Vũng Tàu... Các tỉnh tiếp tục để xảy ra tình trạng tàu cá của địa phương vi phạm khai thác bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài phải tổ chức kiểm điểm nghiêm túc, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, lực lượng chức năng có

ký, đăng kiểm, cấp giấy phép khai thác thủy sản, đánh dấu tàu cá, cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm cho tàu cá, xử lý dứt điểm tàu cá “03 không”; xử lý trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có liên quan chậm trễ trong việc cấp giấy phép khai thác thủy sản cho tàu cá theo quy định.

Kiểm soát chặt chẽ tàu cá ra vào cảng, giám sát sản lượng thủy sản khai thác; kiên quyết xử lý trách nhiệm Ban quản lý cảng cá, Văn phòng thanh tra, kiểm soát nghề cá tại cảng cá để tàu cá vi phạm khai thác IUU ra vào cảng, bốc dỡ sản phẩm thủy sản khai thác mà không xác minh, xử lý theo quy định.

Tiếp tục rà soát, thực hiện nghiêm túc công tác xác nhận, chứng nhận truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác; kiên quyết xử lý hình sự hành vi hợp thức hóa hồ sơ cho các lô hàng xuất khẩu sang thị trường châu Âu.

Tất cả vì một mục tiêu

Với các hiệp hội, doanh nghiệp, Thủ tướng đề nghị Hiệp hội Chế

biến và Xuất khẩu thủy sản, các

doanh nghiệp thủy sản nghiêm

túc thực hiện quy định về chống

khai thác IUU; nghiêm cấm hành vi thu mua, chế biến, xuất khẩu

các sản phẩm thủy sản có nguồn

gốc từ khai thác IUU; nghiêm cấm

hành vi móc nối với các tổ chức, cá nhân có liên quan hợp thức

hóa hồ sơ cho các sản phẩm thủy

sản khai thác vi phạm IUU để xuất

khẩu sang thị trường châu Âu; chủ động phối hợp chặt chẽ với

các cơ quan chức năng trong điều tra, xác minh, xử lý nghiêm, triệt

để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thủy sản làm ăn phi pháp, hợp thức hóa hồ sơ, tiếp tay, dung túng cho hành vi IUU.

Hội Thủy sản Việt Nam tiếp tục

đồng hành, tích cực vận động hội

viên gương mẫu, thực hiện tốt các

quy định về phòng, chống khai thác IUU; kịp thời động viên các

tấm gương điển hình, người tốt

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận Hội nghị về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU)

Ảnh: VGP

việc tốt; kịp thời phản ánh, tố giác các hành vi vi phạm khai thác IUU.

Thủ tướng cũng lưu ý, cùng với

thực hiện nghiêm các quy định

của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cần đẩy mạnh chăm lo, hỗ trợ việc làm, sinh kế bền vững cho người dân, như chuyển đổi từ đánh bắt sang nuôi trồng hải sản….

Tuyên truyền, vận động người dân nâng cao ý thức, thực hiện trách nhiệm với đất nước, quê hương và với chính mình, tránh vì lợi ích

trước mắt mà quên đi lợi ích lâu

dài, tránh vì lợi ích cá nhân, cục

bộ mà quên đi lợi ích chung, việc

cương quyết xử lý vi phạm, chống

khai thác hải sản bất hợp pháp

là vì lợi ích của chính ngư dân và

đất nước. Cấp ủy, chính quyền,

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể chính trị - xã hội, các cơ quan

báo chí - truyền thông Trung ương

và địa phương vào cuộc mạnh

mẽ hơn trong tăng cường tuyên truyền, vận động người dân.

Các ban, bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan

chuẩn bị kế hoạch kỹ chương trình, nội dung, kế hoạch làm việc với Đoàn Thanh tra của EC lần thứ 5; chuẩn bị kỹ các phương án tốt nhất, không để bị động, bất ngờ ảnh hưởng đến nỗ lực gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” của cả nước; bảo đảm việc đón và làm việc với đoàn thanh tra đạt kết quả tốt nhất, sớm gỡ “Thẻ vàng” IUU.

“Nếu địa phương nào không có sự chuyển biến trong thực hiện nhiệm vụ chống khai thác IUU trong thời gian tới, tiếp tục để xảy ra các sai phạm, không hoàn thành các nhiệm vụ được giao, đồng chí Bí thư tỉnh ủy, thành ủy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải chịu trách nhiệm trước Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo chỉ đạo tại Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư, Nghị quyết số 52/NQ-CP của Chính phủ”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Hoàng Hải

Ảnh: Hồng Ánh

CON GIỐNG GỠ“NÚT THẮ T”

TRONG N UÔ ITRỒNG TH

ỦYS ẢN

Trong nuôi trồng thủy sản, con giống đóng vai trò rất quan

trọng, quyết định đến 50% thành công mỗi vụ nuôi. Sản xuất giống thủy sản của nước ta ngày một phát triển, đáp ứng cơ bản nhu cầu thả nuôi của người dân, tuy nhiên lĩnh vực này vẫn

còn những khó khăn nhất định.

Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã có cuộc trao

đổi với ông Trần Công Khôi - Trưởng phòng

Giống và Thức ăn thủy sản (Cục Thủy sản, Bộ NN&PTNT) xung quanh vấn đề này.

Phóng viên: Thưa ông, ông có thể chia sẻ đôi nét về thực trạng sản xuất giống thủy sản của nước ta hiện nay?

Ông Trần Công Khôi: Hơn 20 năm qua, ngành thủy sản Việt Nam đã có một bước tiến dài trong nuôi trồng thủy sản. Sản xuất con giống đáp ứng đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng mỗi vụ nuôi, nhất là với các đối tượng chủ lực đã đóng góp rất quan trọng trong thành công đó. Lĩnh vực sản xuất và chọn tạo giống thủy sản bước đầu thành công, cải thiện đáng kể chất lượng và giá trị, giữ vai trò trọng yếu trong việc tăng năng suất và hiệu quả nuôi trồng thủy sản. Cả nước hiện có 7.127 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thuỷ sản đang hoạt động, trong đó có 17 cơ sở sản xuất, ương dưỡng thủy sản bố mẹ; 1.690 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống cá tra; 1.943 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ; 835 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống nhuyễn thể; 368 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống phục vụ nuôi biển; 2.026 cơ sở sản

xuất, ương dưỡng giống thủy sản nước ngọt; 21 cơ sở

sản xuất, ương dưỡng giống cá nước lạnh, 32 cơ sở ương dưỡng tôm hùm, 195 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống rô phi/diêu hồng)... Tổng sản lượng giống sản xuất đạt khoảng 322 tỷ con, cung ứng đủ cho nhu cầu nuôi trong nước và một phần xuất khẩu.

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu thì sản xuất tôm giống vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn, thách thức. Đáng chú ý là tại một số địa phương, tỷ lệ cấp chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản theo quy định của Luật Thủy sản còn thấp. Nguyên nhân là: Nhiều cơ sở sản xuất giống quy mô nhỏ, không

đăng ký giấy phép hoạt động kinh doanh. Một số cơ sở vật chất không đáp ứng như hệ thống xử lý nước cấp, nước thải; khu chứa trang thiết bị, nguyên vật liệu chưa tách biệt; chưa xây dựng và áp dụng hệ thống soát chất lượng, kiểm soát an toàn sinh học. Thậm chí cơ sở không có nhân viên kỹ thuật được đào tạo về nuôi trồng thủy sản, bệnh học thủy sản hoặc sinh học. Không được cấp giấy chứng nhận đảm bảo điều kiện và chất lượng con giống…

Ngoài ra, việc chủ động nguồn tôm bố mẹ từ nghiên cứu, chọn tạo trong nước còn rất hạn chế. Tôm bố mẹ phụ thuộc vào nhập khẩu (87% đối với tôm thẻ chân trắng) và khai thác từ tự nhiên (40% đối với tôm sú).

Giống bố mẹ trong nước chỉ cung cấp được một phần dẫn đến sản xuất tôm giống bị lệ thuộc.

Cùng với đó, nhiều năm nay, các đề tài, dự án về lĩnh vực sản xuất giống thủy sản khá nhiều. Thế nhưng, quy mô và phạm vi các chương trình chọn tạo vẫn gắn liền với nhiệm vụ khoa học công nghệ, số lượng các doanh nghiệp tham gia chưa nhiều; chưa kể doanh nghiệp và người nuôi không đồng hành với nhà chọn tạo giống…

Phóng viên: Theo ông, những vấn đề tồn tại trong sản xuất giống đã và đang ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển của ngành thủy sản Việt Nam?

Ông Trần Công Khôi: Như đã nói ở trên, hiện cả nước

có 7.127 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản, trong đó bao gồm cả chọn tạo tôm giống bố mẹ và sản xuất, ương dưỡng con giống cho các đối tượng nuôi chủ lực như tôm nước lợ, cá tra, nhuyễn thể, sản xuất giống

cá biển, giống thủy sản nước ngọt. Có thể nói, sự chủ động về số lượng và chất lượng giống đã đưa năng suất nuôi trồng thủy sản của nước ta tăng lên rất nhanh. Cùng đó, con giống sạch bệnh góp phần không nhỏ quyết định tỷ lệ thành công vụ nuôi của bà con. Tuy nhiên, việc sản xuất nguồn giống vẫn chưa

Ông Trần Công KhôiTrưởng phòng Giống và Thức ăn thủy sản (Cục

Thủy sản, Bộ NN&PTNT)

Năm 2023 nước ta nhập khẩu

135.758 con tôm giống bố mẹ và 163.600 ấu trùng tôm để nuôi thương phẩm

xứng với tiềm năng hiện có, chưa đáp ứng được nhu cầu

thực tế của nghề nuôi trồng thủy sản.

Đơn cử là với con tôm, do vùng sản xuất tôm giống

trọng điểm chưa gắn liền với vùng nuôi trọng điểm

khiến cho thị trường con giống đôi khi khó kiểm soát, đặc biệt là cao điểm mùa vụ vì lượng tôm giống lậu xâm

nhập. Ngoài ra, dịch bệnh trên tôm giống cũng được dự

báo diễn biến phức tạp, gây khó khăn cho sản xuất như

bệnh vi bào tử trùng, bệnh mờ đục tôm...

Còn đối với nuôi biển, hiện phong trào phát triển mạnh nhưng lượng con giống sản xuất không đủ đáp

ứng, vẫn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên và nhập khẩu nên cũng khó kiểm soát về chất lượng, năng suất nuôi

cũng vì thế mà không đạt như kỳ vọng…

Thêm nữa, chất lượng di truyền của các giống thủy sản bản địa truyền thống không được cải thiện. Qua nhiều năm sử dụng, đàn giống bố mẹ bị thoái hóa, dẫn đến năng suất và chất lượng nuôi chưa đáp ứng yêu cầu.

Phóng viên: Trong cơ cấu sản xuất giống thủy sản trong nước hiện nay, những chủ lực nào được chú trọng và tình hình phát triển hiện nay ra sao, thưa ông? Ông Trần Công Khôi: Như chúng ta đã biết, con tôm từ nhiều năm nay vẫn là chủ lực của ngành thủy sản, cả về sản xuất lẫn xuất khẩu. Để đáp ứng cho diện tích nuôi tôm hơn 700.000 ha hàng năm, nhu cầu tôm giống khoảng 150 - 155 tỷ con. Số lượng tôm bố mẹ cần để s ản xuất tôm giống khoảng 260.000 con (200.000 tôm thẻ chân trắng và 60.000 tôm sú).

Hiện tại, tôm bố mẹ cung c ấp cho các cơ s ản xuất tôm giống từ nguồn nhập khẩu, khai thác tự nhiên và chọn tạo trong nư ớc. Các chương trình, kế hoạch phát triển ngành tôm vẫn được ưu tiên, trong đó lĩnh vực con giống luôn được chú trọng, đặc biệt là gia hóa tôm bố mẹ. Hiện, có nhiều doanh nghiệp trong nước đã thành công ở khâu này, giúp giảm phần nào lượng tôm bố mẹ nhập khẩu hàng năm. Từ đó, giúp ngành tôm thêm chủ động hơn trong cả chuỗi sản xuất, đặc biệt là giúp giảm giá thành nuôi.

Còn về cá tra, mỗi năm nhu cầu thả nuôi đối tượng này khoảng 1,5 - 2 tỷ cá tra giống (20 - 50 g/con). Tuy nhiên, theo đánh giá chung, hiện nay tỷ lệ cá hao hụt đến khi trưởng thành vẫn rất lớn, lên tới gần 40%; tỷ lệ cá nhiễm các bệnh gan, thận mủ hay phù đầu xuất huyết gần 20%; quy trình ương nuôi cá tra từ bột lên con giống trong môi trường không có kiểm soát bệnh; chưa có quy trình đồng bộ để nuôi giống cá tra sạch bệnh…

đã khiến cho tình hình sản xuất cá tra giống không thực sự ổn định, nhất là với các hộ nuôi nhỏ. Đây cũng là một trong những lý do khiến cho lợi nhuận nuôi cá tra không cao bởi giá thành sản xuất lớn. Cá tra là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai của ngành thủy sản Việt Nam, là đối tượng nuôi rất hiệu quả tại vùng ĐBSCL. Chính vì vậy, đã có nhiều chương trình ưu tiên cho ngành hàng cá tra, trong đó việc liên kết sản xuất con giống cá tra rất được chú trọng, nhà nước và các địa phương cũng tạo điều kiện tối ưu cho các doanh nghiệp có dự án lĩnh vực này.

Phóng viên: Trước những khó khăn, thách thức trong sản xuất giống thủy sản nội địa, ngành đã có những chủ trương gì để tháo gỡ những “nút thắt” đó, thưa ông?

Ông Trần Công Khôi: Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực sản xuất con giống, Cục Thủy sản đã ban hành nhiều công văn về việc chuẩn bị con giống, vật tư đầu vào, điều kiện kỹ thuật để đảm bảo sản xuất nuôi trồng thủy sản; công văn về tăng cường quản lý giống thủy sản, trong đó có giống tôm nước lợ; văn bản yêu cầu các địa phương tăng cường công tác quản lý chất lượng, kiểm soát an toàn sinh học trong sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ. Cục Thủy sản cũng nhanh chóng hướng dẫn các địa phương áp dụng biện pháp hạn chế tác hại của hội chứng mờ đục thân (TPD). Đồng thời, tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo để quản lý, chỉ đạo các địa phương, doanh nghiệp nâng cao nhận thức, chất lượng sản xuất con giống, kiểm soát tốt chất lượng con giống, thức ăn trong nuôi trồng thủy sản, trong đó đáng chú ý là việc ký quy chế phối hợp giữa các địa phương đang rất hữu hiệu. Bên cạnh đó, ngành cũng hướng dẫn các địa phương thực hiện việc sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở sản xuất giống nhỏ lẻ, phân tán, manh mún, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng hình thành các trung tâm ứng dụng công nghệ cao sản xuất giống thủy sản; tổ chức tốt việc quy hoạch, hình thành các vùng hạ tầng sản xuất giống tập trung.

Phóng viên: Và trong các giải pháp ông vừa nêu, đâu là trọng tâm để giải bài toán con giống trong nuôi trồng thủy sản của nước ta hiện nay, thưa ông? Ông Trần Công Khôi: Con giống là yếu tố quan trọng nhất trong phát triển bền vững ngành thủy sản. Nước ta có tiềm năng rất lớn để làm tốt lĩnh vực này. Trong thời gian tới, ngành thủy sản tiếp tục thực hiện các biện pháp kiểm soát chất lượng con giống, áp dụng các kỹ thuật tiên tiến trong sản phẩm sản xuất và đảm bảo các chất tiêu chuẩn chất lượng. Thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên, nhất là với doanh nghiệp để phát triển các công nghệ mới, cải tiến quy trình sản xuất và tăng cường hiệu suất, giảm chi phí hiệu quả trong sản xuất con giống. Đồng thời, ngành sẽ tăng cường kiểm tra định kỳ, kiểm tra chất lượng và áp dụng các phương pháp quản lý hệ thống. Quan trọng nhất, rất cần các tổ chức, cá nhân tự giác tuân thủ và áp dụng các quy định trong việc sản xuất con giống chất lượng cao để đảm bảo ngành thủy sản phát triển hiệu quả và bền vững hơn nữa.

Trân trọng cảm ơn ông!

GÓC NHÌN KHÁC

Theo bà Nguyễn Ngô Vi Tâm - Tổng Giám đốc Công ty

CP Vĩnh Hoàn, hoạt động sản xuất giống thủy sản nói chung

đang phải đối mặt với một số thách

thức như: Vốn đầu tư lớn do cần diện tích đất rộng lớn, cơ sở vật chất và chi phí hoạt động có yêu cầu cao hơn khâu nuôi thịt; rủi ro cao, mất nhiều thời gian, cần rất nhiều kiên nhẫn và niềm tin, ví dụ như chương trình chọn lọc gen sẽ mất ít nhất 10 năm; khó có lợi nhuận, thường những năm đầu lỗ nhiều.

Tôm và cá tra là 2 sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt

Nam. Tuy nhiên câu chuyện về phát triển giống cho tôm và cá tra vẫn còn nhiều bất cập khiến các sản phẩm này bị hạn chế tính cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.

Tổng Giám đốc Công ty CP Vĩnh Hoàn cho rằng, để có thể gọi là đầu tư bài bản, với tầm nhìn dài hạn vào khâu ương nuôi giống nhằm hướng đến nguồn nguyên liệu cạnh tranh, hướng đến nền nông nghiệp xanh, bền vững, có khả năng thích ứng cao thì cần có những doanh nghiệp có kinh nghiệm, đội ngũ dày dặn chuyên môn, năng lực tài chính đủ mạnh để có thể tạo động lực đột phá cho toàn ngành.

Để ngày càng có nhiều doanh nghiệp như vậy sẵn sàng đầu tư cho khâu giống, không ngoại trừ cả khối

FDI vốn có sẵn kinh nghiệm từ những loài thủy sản khác trên thế giới, cần có chiến lược và chủ trương của

Chính phủ xuyên suốt đến các địa

phương trong việc thu hút đầu tư. Hiện nay các quy định và chính sách về ưu đãi đầu tư cho ngành nghề nông nghiệp công nghệ cao và những vùng đặc biệt khó khăn đã có sẵn. Tuy nhiên nhận thấy các địa phương chưa mạnh dạn vận dụng và áp dụng tối đa cho ngành nuôi giống dẫn đến việc làm khâu giống đã nhiều rủi ro vất vả mà doanh nghiệp không cảm nhận được sự chào đón và tạo điều kiện hỗ trợ nhất. Chính phủ và các Bộ, ngành cần rà soát và thống nhất các quy hoạch đất cho khâu nuôi giống một cách nhất quán và dài hạn. Khó khăn của các doanh nghiệp làm giống chính là vào những thời điểm nhất định gặp phải áp lực về quá trình đô thị hóa, áp lực cạnh tranh về nguồn lực ở những ngành nghề “hot” hơn. Đôi khi dự án giống không có được cam kết lâu dài, không an tâm đầu tư, không thể mở rộng theo đúng kế hoạch. “Vĩnh Hoàn mong có sự thấu hiểu và tầm nhìn dài hạn của Chính phủ đối với một khâu quan trọng của thủy sản Việt Nam, là động lực cạnh tranh và cũng là con đường thích ứng với nông nghiệp tiên tiến theo kịp các cam kết với thị trường thế giới, từ đó gây dựng niềm tin và giúp cho các doanh nghiệp muốn đầu tư mạnh mẽ vào khâu giống thấy được Nhà nước luôn chào đón và tạo điều kiện để thành công”, bà Tâm chia sẻ.

Cảnh Nghi
Ảnh: PTC

SẢN XUẤT THỦY SẢN

BỀN VỮNG DƯỚI TÁN RỪNG

Nuôi thủy sản dưới tán rừng ở Cà Mau đã giúp nhiều hộ dân có thu nhập ổn định, ngoài ra còn góp phần làm tăng độ che phủ rừng, chống sạt lở...

Sản xuất đa canh dưới tán rừng

Trước đây, diện tích rừng ngập

mặn Cà Mau có trên 350.000

ha, thì đến nay chỉ còn chưa đến

50.000 ha. Diện tích rừng ngày

càng thu hẹp, nguồn lợi thiên

nhiên không còn dồi dào như

trước nên cuộc sống của người

dân cũng ngày càng khó khăn

hơn trước.

Thời gian qua, tỉnh Cà Mau đã

có nhiều chủ trương, chính sách

nhằm khôi phục lại rừng và giúp

người dân sản xuất đa canh dưới

tán rừng để tăng thu nhập, cải

thiện cuộc sống gia đình. Đây

được xem là một trong những mô hình sản xuất bền vững

mang lại hiệu quả thiết thực nhờ

sản xuất và nuôi trồng thủy sản

dưới tán rừng.

Ông Nguyễn Duy Thái, (còn

gọi là Hai Thái, xã Long Hải, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau)

người có nhiều năm sống bằng nghề nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng ngập mặn cho biết, gia

đình ông thực hiện mô hình nuôi

thủy sản dưới tán rừng từ nhiều năm qua. Thời gian đầu, ông Hai

Thái nuôi tôm dưới tán rừng trên diện tích 6 ha được nhà nước giao khoán. Trong 2 năm gần đây, ông tiến hành cải tạo và thả nuôi kết hợp nhiều loại thủy sản trên cùng diện tích gồm nuôi tôm quảng canh cải tiến, nuôi cua và sò huyết, trong đó có phân khu vực nuôi sò huyết giống. Việc đa dạng đối tượng nuôi trên cùng diện tích đã giúp gia đình ông Hai Thái thu nhập ổn định với hơn 300 triệu đồng mỗi năm.

“Mặc dù, mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng lợi nhuận không cao như nuôi tôm công nghiệp nhưng điều làm mọi người hài lòng nhất là chi phí đầu tư thấp, nhẹ công chăm sóc, lại thích ứng tốt với thời tiết thất thường hiện nay. Đặc biệt cho ra sản phẩm thủy, hải sản an toàn chất lượng nên giá bán luôn ở mức cao hơn so với nuôi thủy sản công nghiệp”, ông Hai Thái chia sẻ.

Không riêng gì gia đình của ông Hai Thái sống bằng nghề nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng, mà phần lớn người dân sống ở rừng ngập mặn thuộc 2 huyện Năm Căn và Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau đã có cuộc sống khá sung túc nhờ sản xuất theo mô hình trồng rừng kết hợp với nuôi thủy sản quảng canh dưới tán rừng. Gần 20 năm trước, do ít đất sản xuất, hộ gia đình ông Phạm

Văn Nguyện ở huyện Cái Nước

đã đưa “bầu đàn thê tử” về ấp

Đất Biển, xã Viên An Đông, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau

lập nghiệp. Cũng như nhiều bà con khác, gia đình ông sinh sống chủ yếu nhờ vào khai thác cây

rừng và thu bắt các loại thủy, hải

sản tự nhiên dưới tán rừng ngập mặn. Khi cây rừng ngày một mất dần do sạt lở và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và từ đó nguồn lợi thủy sản tự nhiên đã bị cạn

kiệt thì cuộc sống gia đình ông cũng gặp nhiều khó khăn.

Những năm gần đây, tỉnh Cà Mau đã có nhiều

Từ đầu năm 2005 đến nay, nhờ thực hiện mô hình trồng rừng và

nuôi tôm sú kết hợp với thả cua, sò huyết dưới tán rừng, mà cuộc sống gia đình ông Phạm Văn

Nguyện đã từng bước ổn định và vươn lên khá giả.

Theo nhiều người dân sống

ở vùng rừng ngập mặn, quanh

năm thì việc lợi ích kép của của mô hình sản xuất dưới tán rừng

đã giúp cho cuộc sống của người dân không những được cải thiện

rõ nét, mà bà con ngày càng ý

thức hơn trong việc trồng, chăm

sóc và bảo vệ rừng.

Nhận rõ điều này, thời gian qua, tỉnh Cà Mau đã và đang nhân rộng mô hình sản xuất dưới tán rừng, xem đây là định hướng phát triển nghề nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững.

Rừng và cá, tôm, cua phải

nương tựa vào nhau

Theo đánh giá của ngành chức năng, mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng theo hình thức quảng canh có nhiều ưu điểm hơn nuôi thâm canh hoặc bán thâm canh.

Nếu bố trí 50% đất rừng, 50% đất nuôi thủy sản, mỗi năm có thể thu lợi nhuận trên 100 triệu đồng/ha.

Nếu trước kia, hầu hết người dân đều nghĩ rằng phải phá rừng

lấy đất nuôi tôm, thì giờ đây

“nếp nghĩ, nếp làm” cũng đã thay đổi. Ai cũng hiểu rằng, độ che phủ phù hợp của cây rừng sẽ là môi trường tốt nhất để các

loại thủy sản sinh sống và phát triển. Dưới tán rừng không chỉ là nguồn thức ăn tự nhiên rất phong phú, mà còn là nơi cư trú, ẩn náu an toàn cho vật nuôi, nhằm tránh các loại địch hại tấn công. Nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế của địa phương để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm thủy sản, trong nhữ ng năm qua, Cà Mau đã nhận được sự hỗ trợ từ nhiều dự án của các tổ chức quốc tế để khôi phục rừng ngập mặn và giúp người dân phát triển nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng.

Từ năm 2013, Dự án Nuôi tôm sinh thái có chứng nhận quốc

tế, do Tổ chức Phát triển Hà

Lan thực hiện đã hỗ trợ cho hơn 740 hộ dân sản xuất trong rừng phòng hộ Nhưng Miên. Đây được xem là mô hình sản xuất bền vững được các ngành, các cấp ở tỉnh Cà Mau đặc biệt quan tâm. Với hình thức nuôi tôm sinh thái, người sản xuất chỉ đầu tư con giống sạch bệnh để thả nuôi mật độ thấp dư ới tán rừ ng mà không phải bổ sung thêm thức ăn. Mặt khác, bà con chỉ sử dụng các chế phẩm sinh học để quản lý môi trường vuông nuôi nên không gây ô nhiễm môi trường và chi phí thấp hơn so với quy trình nuôi tôm thông thường. Sản phẩm tôm thu hoạch được chứng nhận sạch, an toàn sẽ được các công ty chế biến thủy sản bao tiêu cao hơn giá thị trường 10%. Đây cũng là động lực để bà con yên tâm sản xuất và có trách nhiệm hơn trong công tác bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn. Theo ông Mã Huy, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh Cà Mau, đến nay, toàn tỉnh Cà Mau đã có hơn 30.000 ha nuôi thủy sản dưới tán rừng; trong đó gần 14.000 ha được công nhận nuôi tôm sinh thái. Qua đó, hàng chục ngàn ha đất rừng cũng được khôi phục và trồng mới.

NỮ DOANH NHÂN

NGUYỄN THỊ

HẢI BÌNH

VÀ KHÁT VỌNG CHINH PHỤC BIỂN XANH

Mang trong mình khát vọng chinh

phục biển xanh, nữ doanh nhân

Nguyễn Thị Hải Bình - CEO Tập

đoàn STP (STP Group) đã trở

thành người tiên phong trong phát

triển nghề nuôi biển công nghiệp

hiện đại tại Việt Nam.

Phóng viên: Là nữ doanh nhân hiếm hoi trong ngành thủy sản, bà có thể chia sẻ một chút về con đường sự nghiệp của mình và cơ duyên nào đã đưa bà đến với lĩnh vực nuôi biển?

Bà Nguyễn Thị Hải Bình: Tôi là người con của đất cảng Hải Phòng, có bố mẹ làm cán bộ công nhân viên tại một nhà máy nhựa. Từ những năm 1986, khi nghe bố mẹ nói chuyện hệ thống nuôi biển của Na Uy vào đến Việt Nam, tôi đã có hứng thú với câu chuyện này.

Cho đến năm 2017, khi gặp gỡ các doanh nghiệp quốc tế và nhận thấy nhu cầu đầu tư của họ vào ngành nuôi biển của Việt Nam, tôi đã quyết định phát triển một hướng đi mới, bên cạnh hoạt động chính của Tập đoàn.

Theo đó, thay vì chỉ cung cấp hạ tầng cho ngành nông nghiệp nói chung thì STP Group tập trung sâu hơn vào việc cung cấp cơ sở hạ tầng cho ngành thủy sản. Khi hạ tầng thủy sản trên biển hoạt động được thì chắc chắn trên sông, trên hồ sẽ phát triển được.

Phóng viên: Đứng trước những cơn “sóng to gió lớn” của ngành nuôi biển, nhiều khó khăn bủa vây, liệu có khi nào bà cảm thấy chùn bước và muốn bỏ cuộc không, thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Hải Bình: Điều này thì chắc chắn là có, nhất là khi mình bắt đầu bước những bước đầu tiên trên con đường chinh phục biển xanh. Có người thì động viên, truyền cảm hứng, nhưng cũng có người buông lời lẽ kèm theo hành động không đẹp. Những cảm xúc tiêu cực bủa vây khiến bản thân mình phải đặt câu hỏi: “Nên tiếp tục hay dừng lại?”. Thật may mắn là khi ấy, tôi đã nhận được sự chia sẻ từ các bậc lão thành, đặc biệt là các cô chú, anh chị trong Hội Thủy sản Việt Nam. Điều này đã tiếp thêm sức mạnh, thổi bùng lên ngọn lửa khát khao chinh phục biển trong tôi. Tất cả những điều đó tựu lại đã khiến tôi lớn và trưởng thành nhanh hơn. Khó khăn trong ngành nuôi biển thì vô cùng nhưng tôi tin rằng, STP sẽ vượt qua bằng niềm tin mãnh liệt, ý chí

phi thường.

Phóng viên: Với vai trò là người thuyền

trưởng của STP, điều gì khiến bà cảm thấy tự hào về doanh nghiệp của mình?

Bà Nguyễn Thị Hải Bình: Để nói là tự hào thì chưa, nhưng hạnh phúc thì có. Hạnh

phúc chính là cảm xúc chủ đạo khi nhìn lại những điều mà cá nhân tôi và STP đã làm

được trong suốt thời gian qua. Tôi có 03 điều muốn chia sẻ.

Thứ nhất, STP là doanh nghiệp được định hướng theo ESG (Environment - SocialGovernance), Công ty đã xuất bản cuốn cẩm nang “Tiến trình xanh ngọc” kể về quá trình đi từ “nâu” sang “xanh ngọc - màu của biển cả”.

Chính những con người của STP từ nhà máy

đến văn phòng đã dần nhận thức được giá trị

của sản phẩm mà công ty làm ra, giá trị chữ

S (Social - Xã hội) mà STP đã trao cho xã hội.

Thứ hai, tôi cảm thấy hạnh phúc khi được

đồng hành cùng các bộ, ngành, được lãnh

đạo của Bộ NN&PTNT, lãnh đạo ngành thủy

sản giới thiệu STP tới các đơn vị quốc tế để

chia sẻ, gửi gắm thông điệp của Việt Nam và của STP đến với bạn bè năm châu. Tôi hạnh

phúc vì STP đã nhận được sự tin tưởng, được trao cơ hội để thể hiện năng lực, điều đó tạo

động lực cho cá nhân tôi và STP vững bước trên con đường “chinh phục” biển xanh.

Thứ ba, STP đã tạo ra được những giá trị thiết thực, không chỉ cho bản thân doanh nghiệp mà còn cho toàn xã hội, tạo công ăn việc làm ổn định cho người nông dân, đồng thời đặt nền móng phát triển bền vững cho kinh tế biển Việt Nam. Nuôi biển là một trong 8 trụ cột của kinh tế biển. Nhiều người nghĩ rằng ngành này đứng thứ 8, nhưng nhìn ở các nước lân cận, nuôi biển đã đứng thứ 3, thứ 4,

còn có những nước đi vào chủ lực như Na Uy. STP đang đi những bước đầu tiên trong mục tiêu chinh phục vị trí số 1 cho nuôi biển.

Phóng viên: Là một trong những đơn vị tiên phong, trải qua nhiều thách thức trong ngành nuôi biển, theo bà biến cố nào là cột mốc đáng nhớ trong quá trình hình thành và phát triển của STP?

Bà Nguyễn Thị Hải Bình: Quả thực, STP đã phải trải qua rất nhiều sóng gió, đây là điều mà ban lãnh đạo công ty đã lường trước được khi dấn thân vào ngành nuôi biển với vai trò tiên phong. Cho tới thời điểm hiện tại, mặc dù sóng gió đã vơi bớt, song STP vẫn luôn trăn trở khi phải đối mặt với những lời chất vấn từ các cổ đông - những người luôn tin tưởng và đồng hành cùng công ty từ những ngày đầu. Có lẽ thứ khiến tôi và STP cảm thấy có động lực là đưa sản phẩm STP có mặt trên thị trường để chứng minh và khẳng định: Đây là sản phẩm hạ tầng nuôi biển tiên tiến, được nghiên cứu và điều chỉnh cho phù hợp với vùng biển Việt Nam; là sản phẩm bền vững dành cho các cụm công nghiệp trên biển được đầu tư bài bản, chuyên nghiệp và cho cả người nông dân. Đến nay, Việt Nam dần thay thế các công cụ nuôi trồng thủy sản bằng tre, gỗ, xốp sang dần các sản phẩm bằng nhựa HDPE. Đây chính là nguồn động viên to lớn nhất đối với những doanh nghiệp tiên phong trong ngành nuôi biển như STP.

Có một cột mốc đáng nhớ trong sự nghiệp, đó là khi tôi được tham gia góp ý để xây dựng và điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến chính sách của Trung ương và địa phương. Sau đó, những góp ý ấy đã được cơ quan

quản lý tiếp thu và có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế cũng như xu hướng phát triển của thời đại.

Phóng viên: So với tiềm năng phát triển thì quy mô ngành nuôi biển ở nước ta còn quá khiêm tốn. Vì sao vậy, thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Hải Bình: Trước đó, chúng ta chỉ nói đến khai thác biển, chứ không nhắc đến nuôi biển. Khi tiếp xúc với người nông dân, tôi vẫn nhận được những câu hỏi như: Nuôi cá trên biển nó bơi đi mất thì làm sao? Rồi thức ăn cho cá trôi đi đâu? Điều này cho thấy, hiểu biết của người dân nuôi biển còn rất hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải xác định nuôi biển là một ngành học, có giáo trình cụ thể và đưa vào bài giảng; đẩy mạnh công tác truyền thông để người dân hiểu rõ khái niệm, tầm quan trọng và lợi ích to lớn của nuôi biển. Hầu hết các mô hình nuôi biển ở Việt Nam còn nhỏ lẻ, manh mún, lạc hậu, thiếu sự liên kết. Tôi cũng đã nhiều lần bày tỏ quan điểm về vấn đề này với các lãnh đạo Trung ương và địa phương. Nếu chúng ta muốn đi xa thì phải đi cùng nhau, nghĩa là phải có sự liên kết, đồng hành giữa ba bên cơ quan quản lýdoanh nghiệp - người dân. Ngoài ra, một yếu tố khó khăn khác là vấn đề tài chính. Nguồn lực kinh tế của doanh nghiệp, của địa phương hầu hết bị ảnh hưởng trong bối cảnh kinh tế suy thoái, lạm phát gia tăng. Chi phí của doanh nghiệp đang lên rất cao và vô cùng khó khăn. Hiện chưa có cơ chế, chính sách vay vốn cho các doanh nghiệp nuôi biển, trong khi bản thân các doanh nghiệp đang rất cần những chính sách hỗ trợ tài chính từ Nhà nước.

Phóng viên: Trong suốt cuộc trò chuyện, bà nhắc nhiều đến ESG, vậy liệu ESG có phải là di sản mà bà mong muốn để lại cho thế hệ tương lai của STP không, thưa bà? ESG là mục tiêu cao nhất, là xu hướng tất yếu của thời đại. Nhìn nhận một cách đơn giản hơn thì thứ mà chúng tôi để lại chính là nền tảng; là thông điệp bảo vệ môi trường, phát triển bền vững; là sự thay đổi trong tư duy, nhận thức của mỗi con người; là tình yêu bất diệt với biển đảo quê hương, đất nước Việt Nam.

VietShirmp 2025 trở lại với chủ

“Xanh hóa vùng nuôi”

“Xanh hóa vùng nuôi” sẽ là chủ đề chính, xuyên suốt tại kỳ Hội chợ VietShrimp 2025.

Cụm từ “Xanh hóa” đã quá quen thuộc và trở thành xu hướng tất yếu trong

đời sống, kinh tế của người Việt Nam. Không khó để bắt gặp cụm từ trên thông qua các dự án như: Công nghiệp xanh, đô thị xanh, doanh nghiệp xanh, sản phẩm xanh thậm chí rác thải xanh cũng được quan tâm.

Toàn xã hội đang cấp thiết vào cuộc và đốc thúc chuyển biến nhanh cho cuộc cách mạng “Xanh hóa”. Lộ trình xanh hóa ngành tôm Việt Nam hiện nay đã có những bước tiến đáng khích lệ, song vẫn còn đó những thách thức trên con đường hướng tới sản xuất bền vững. Về mặt tích cực, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự thay đổi rõ rệt trong nhận thức về tầm quan trọng của sản xuất tôm thân thiện với môi trường, từ cả phía người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Điều này thúc đẩy nhu cầu ngày càng cao đối với các sản phẩm tôm

được chứng nhận xanh.

Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến như nuôi

tôm tuần hoàn, sử dụng chế phẩm sinh học, và hệ thống giám sát môi trường đã góp phần

giảm thiểu tác động tiêu cực đến hệ sinh thái. Sự hỗ trợ từ phía Chính phủ thông qua các chính sách khuyến khích, các quỹ tín dụng xanh cùng với việc nhiều trang trại tôm đạt được các chứng nhận quốc tế uy tín, đã tạo đà thuận lợi cho quá trình chuyển đổi xanh.

Tuy nhiên, lộ trình xanh hóa ngành tôm không phải không có những trở ngại. Chi phí

đầu tư đáng kể cho công nghệ và cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đối với các hộ sản xuất nhỏ lẻ, tạo nên áp lực tài chính không hề nhỏ.

Ngoài ra, việc thiếu hụt kiến thức và kỹ thuật trong sản xuất bền vững cũng là một hạn chế cần được khắc phục. Việc tiếp cận người tiêu dùng và đảm bảo giá cả ổn định cho sản phẩm tôm “xanh” còn tồn tại nhiều bất cập. Cuối cùng, vấn đề ô nhiễm môi trường từ các hoạt động nuôi tôm, đặc biệt là tại các vùng nuôi tập trung, vẫn là một thách thức lớn đòi hỏi sự quan tâm và giải pháp quyết liệt. Tóm lại, dù đã đạt được những thành tựu nhất định, song lộ trình xanh hóa ngành tôm

Để biết thêm thông tin chi tiết về Hội chợ

Xin vui lòng liên hệ BTC Điện thoại: (+84.24) 6686 5979

Email: vietshrimp@gmail.com

Website: https://vietshrimp.vn/

Hotline: Mr Dương Nghĩa Mobile: (+84) 944 663 828

Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, từ Chính phủ, doanh nghiệp đến người nuôi tôm, là yếu tố then chốt để thúc đẩy quá trình này, đảm bảo cho sự phát triển bền vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của ngành tôm Việt Nam trên trường quốc tế.

“Xanh hóa vùng nuôi” sẽ là chủ đề chính, xuyên suốt tại kỳ Hội chợ VietShrimp 2025. Hội chợ quy tụ những doanh nghiệp hàng đầu của ngành tôm Việt Nam - mang tới các giải pháp công nghệ tiên tiến, những mô hình nuôi hiện đại nhằm đẩy nhanh quá trình xanh hóa vùng nuôi tôm.

Hãy đến với VietShrimp 2025 tại Cần Thơ với sự quyết tâm và nhiệt huyết cháy bỏng để cùng chung tay, góp tiếng nói, chia sẻ giải pháp, định hướng thiết thực cho mục tiêu “Xanh hóa vùng nuôi”.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Điểm tựa vững chắc cho ngư dân

vươn khơi

Suốt chặng đường 10 năm hoạt động, Nghiệp đoàn Nghề cá

(NĐNC) Việt Nam đã thể hiện vai

trò quan trọng trong việc hỗ trợ

ngư dân bám biển, bảo vệ chủ

quyền biển đảo thiêng liêng của

Tổ quốc.

Ngôi nhà chung của ngư dân

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho ngư dân, người lao động khai thác thủy sản trên biển, Công đoàn NN&PTNT Việt Nam đã xây dựng Đề án thành lập NĐNC Việt Nam nhằm tập hợp, đại diện cho tiếng nói chung của lao động khai thác thủy sản trên biển trong cả nước.

Ngày 02/4/2014, NĐNC Việt Nam chính thức được thành lập, đồng thời, tại các địa phương cũng thí điểm và mở rộng thành lập các NĐNC cơ sở. Hiện nay, NĐNC Việt Nam có 90 NĐNC cơ sở tại 18/28 tỉnh, thành phố có biển cùng 18.272 đoàn viên với trên 5.097 tàu cá. Cán bộ NĐNC cơ sở đều là kiêm nhiệm trên tinh thần tự nguyện, được cơ cấu là chủ tàu, tổ trưởng tổ đánh bắt, đa số là ngư dân đánh bắt xa bờ, có uy tín.

Thời gian qua, NĐNC cơ sở đã tham gia tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và đã hỗ trợ đư ợ c

464 v ụ tàu cá và ngư dân b ị n ạ n trên bi ể n, cứu nạn kịp thời 689 tàu cá/4597 thuyền viên. Đi ể n hình như t ạ i t ỉ nh Qu ả ng Ngãi đã hỗ trợ đư ợ c 107 v ụ /107 t àu c á /1509 ngư dân; Hà Tĩnh hỗ trợ được 65 vụ/101 tàu/466 ngư dân... M ộ t số NĐNC cơ sở đã ch ủ đ ộ ng

ứ ng ra vậ n đ ộ ng c ác ch ủ t àu thành lậ p Qu ỹ

hỗ trợ nhau khi g ặ p n ạ n trên bi ể n và ho ạ t đ ộ ng r ấ t hi ệ u qu ả, đư ợ c nhi ề u đoàn viên, ngư dân hư ở ng ứ ng như t ạ i Hà T ĩ nh, Qu ả ng Nam, Qu ả ng Ngãi. Việc thành lập NĐNC Việt Nam đã tạo niềm tin và sự phấn khởi cho đoàn viên nghiệp đoàn và lao động khai thác thủy sản trên biển; tạo ảnh hưởng và nâng cao vai trò, vị thế của tổ chức công đoàn trong ngư dân và toàn xã hội. Là chỗ dựa của các đoàn viên nghiệp đoàn, ngư dân khi ra khơi, bám biển, khai thác hải sản xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Ảnh: Hoàng Anh Trần

Năm 2012, Phú Yên là 1 trong 4 tỉnh được chọn thí điểm thành lập NĐNC. Đến nay có 5 NĐNC với 586 đoàn viên nghiệp đoàn sinh hoạt tại 24 tổ nghiệp đoàn. Trong 10 năm có 169 đơn vị nghiệp đoàn tham gia cứu hộ, cứu nạn 9 vụ với 9 tàu; có 2.171 ngư dân, đoàn viên NĐNC tham gia các buổi tuyên truyền về pháp luật thủy sản, công đoàn…. và không xảy ra trường hợp tàu cá vi phạm về khai thác thủy sản bất hợp pháp, không theo quy định,…

Công tác chăm lo đời sống cho đoàn viên, ngư dân cũng được các cấp Công đoàn quan tâm, theo dõi, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh khó khăn để thăm hỏi động viên. Điển hình là việc thành lập Quỹ “Tấm lưới nghĩa tình vì ngư dân Hoàng Sa, Trường Sa” với tổng số tiền trên 2,5 tỷ đồng và đã hỗ trợ thành lập 2 NĐNC với tổng số tiền 43 triệu đồng, thăm hỏi đoàn viên, ngư dân có hoàn cảnh khó khăn 60 suất với số tiền 18 triệu đồng.

Trong khi đó, NĐNC Hà Tĩnh đã có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất thủy sản, thành lập các mô hình quản lý trong sản xuất. Hà Tĩnh hiện có 2 NĐNC với 534 đoàn viên, sinh hoạt tại 15 tổ nghiệp đoàn. Quá trình hoạt động, các nghiệp đoàn ngày càng phát triển, tăng số lượng thành viên tham gia, hiện hai nghiệp đoàn có 308 tàu thuyền từ 20CV đến 375CV, giải quyết việc làm cho hàng ngàn đoàn viên và người lao động. Trung bình mỗi năm, tổng sản lượng khai thác đạt từ 1.700 - 1.900 tấn thủy, hải sản các loại/ nghiệp đoàn; thu nhập bình quân từ 5- 6 triệu đồng/người/tháng.

Đối với NĐNC Tiền Giang, công tác tuyên truyền, vận động ngư dân chấp hành pháp luật của Nhà nước, chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (khai thác IUU) luôn được ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt là hoạt động tuyên truyền cho đoàn viên Nghiệp đoàn khai thác xa bờ nhận thức về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát biển Việt Nam cũng như ý thức chấp hành pháp luật, tích cực phối hợp với Cảnh sát biển thực hiện hiệu quả công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Từ năm 2022 đến nay, Tiền Giang không có tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài khai thác hải sản trái phép bị bắt giữ.

Ảnh: Bảo Thắng

Hoàn thiện, mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt động

Phát biểu tại Hội nghị đánh giá kết quả 10 năm hoạt động của NĐNC Việt Nam tổ chức ngày 15/8 vừa qua, ông Đỗ Tiến Dũng - Chủ tịch NĐNC Việt Nam cho biết, thời gian hoạt động của nghiệp đoàn vẫn còn bị hạn chế do ngư dân đi biển dài ngày, việc tổ chức sinh hoạt cũng khó khăn do đoàn viên đi biển theo tàu, theo mùa vụ, chỉ ở nhà khi biển động. Tuy nhiên, các NĐNC cơ sở đã có nhiều cách làm hay để chăm lo cho đoàn viên, ngư dân như trang bị hệ thống máy ICOM tầm xa và thiết bị trạm bờ để điều hành hoạt động, thông tin liên lạc giữa nghiệp đoàn với đoàn viên đang lao động trên biển.

Sau khi nghe báo cáo tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến đánh giá cao những nỗ lực của NĐNC Việt Nam trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị, góp phần sớm gỡ thẻ vàng IUU và tham gia phát triển bền vững ngành thủy sản. Nhân dịp này, Thứ trưởng đề nghị, thời gian tới, Công đoàn ngành và NĐNC cần thực hiện tốt các nội dung như tuyên truyền, vận động đoàn viên Công đoàn, người lao động thực hiện tốt Chương trình phối hợp giữa Bộ NN&PTNT và Tổng Liên đoàn về đẩy mạnh phong trào thi đua phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa NN&PTNT giai đoạn 2020 - 2030 cũng như Chỉ thị số 32 ngày 10/4/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức, hoạt động của NĐNC các cấp; đổi mới phương thức hoạt động theo hướng lấy việc đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động làm mục tiêu; lấy nghiệp đoàn cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu. Tập trung chăm lo cho đoàn viên, người lao động, nhất là người lao động có hoàn cảnh khó khăn, bị tai nạn lao động, đặc biệt vào dịp Tết Nguyên Đán sắp tới.

Tại Hội nghị đã diễn ra lễ ký Chương trình phối hợp giữa NĐNC Việt Nam với Cục Thủy sản, Cục Kiểm ngư; Hội Thủy sản Việt Nam và Liên đoàn Lao động, Công đoàn ngành địa phương có NĐNC cơ sở.

Thông qua kí kết, ông Nguyễn Việt Thắng - Chủ tịch Hội Thủy sản Việt Nam cam kết sẽ cố gắng phát huy vai trò của Hội, thực hiện tốt các hoạt động trên tinh thần luôn lên tiếng và đấu tranh để bảo vệ quyền lợi cho ngư dân. Ông hy vọng trong tương lai, Việt Nam sẽ sớm thành lập NĐNC cấp cơ sở trên 28 tỉnh, thành, qua đó góp phần thực hiện tốt vai trò chính trị và nghề nghiệp xã hội từ cấp trung ương đến địa phương.

Thùy Khánh
Các đại biểu tham gia Hội nghị đánh giá kết quả 10 năm hoạt động của NĐNC Việt Nam

Nuôi tôm đối diện thách thức giống và thức ăn

Chuỗi sản phẩm tôm nước ta về chế biến đã

thuộc hàng tiên tiến của thế giới nhưng khâu

nuôi vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó thách thức

lớn nhất là giống và thức ăn.

Giống chiếm 8 - 10% giá thành nhưng quyết

định thành bại

Theo Cục Thủy sản, trong cơ cấu giá thành nuôi

tôm nước lợ, con giống chỉ chiếm 8 - 10% nhưng mang tính quyết định sự thành công. Tỷ lệ sống của

tôm cao là thành công, còn thấp thì thất bại. Thực

tế, tỷ lệ sống của tôm nuôi nước ta hiện nay còn thấp do chất lượng con giống không ổn định, quy mô nuôi nhỏ lẻ, cơ sở hạ tầng kỹ thuật không đảm

bảo và hay phát sinh dịch bệnh.

Một trong những nguyên nhân tôm giống chất lượng chưa cao và không ổn định là do nguồn tôm bố mẹ phụ thuộc nhập khẩu, chỉ phần nhỏ gia hóa

trong nước. Số liệu của Cục Thú y cho thấy, năm

2023 nước ta nhập khẩu 135.758 con tôm giống bố

mẹ (gồm 236 con tôm sú và 135.522 con tôm thẻ chân trắng); 163.600 ấu trùng tôm để nuôi thương phẩm (gồm 39.600 ấu trùng tôm sú và 124.000 ấu trùng tôm thẻ chân trắng). Trong 2 tháng đầu năm 2024, Việt Nam đã nhập khẩu 10.019 con tôm giống bố mẹ (gồm 322 con tôm sú và 9.697 con tôm thẻ

chân trắng); 22.000 ấu trùng tôm sú để nuôi thương phẩm. Tính ra, tôm thẻ chân trắng bố mẹ phụ thuộc vào nhập khẩu 83,5 %, con số này với tôm sú là 16,5%.

Về sản xuất và ương dưỡng giống tôm nước lợ, năm 2023 cả nước có 2.270 cơ sở, sản xuất được

153 t ỷ con. Trong đó, chỉ có 27 cơ sở sản xuất tôm

giống được công nhận an toàn dịch bệnh với sản

lượng 38 tỷ tôm post/năm. Khoảng 40% cơ sở chưa

được cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản

xuất, ương dưỡng giống thuỷ sản theo quy định của

Luật Thuỷ sản nhưng vẫn được cấp chứng nhận

kiểm dịch. Đây là những cơ sở sản xuất tôm giống

nhỏ lẻ đầu tư thấp, không đảm bảo quy chuẩn, sẵn

sàng bán giá rẻ, khuyến mãi cao để cho lưu thông giống kém chất lượng, dễ gây bùng phát dịch bệnh. Nhiều báo cáo hiện đánh giá, tỷ lệ nuôi tôm thành công của Việt Nam chỉ khoảng 40%. Có nghĩa, 60% còn lại không thành công là do bị lỗ các chi phí giống, xử lý nước, điện, thức ăn, đây là con số không hề nhỏ của ngành nuôi tôm và cả xã hội.

Các kỹ thuật viên kiểm tra sự sinh trưởng của ấu trùng tôm

Ảnh: PTC

Giá tôm cao do thức ăn

Tổng Thư ký VASEP Trương Đình Hòe cho biết: “Giá xuất khẩu tôm Ấn Độ luôn thấp hơn Việt Nam 10 - 15%, còn tôm Ecuador thấp hơn 30 - 35%”. Lâu nay thường so sánh giá tôm nuôi giữa các quốc gia bằng phép tính với các ao nuôi thành công chứ chưa tính bình quân tổng số ao nuôi (gồm cả ao nuôi thành công và ao nuôi thất bại). Nếu tính đầy đủ thì giá thành tôm nuôi của Việt Nam đang cao hơn rất nhiều so với Ecuador.

Giá thành tôm nuôi của Việt Nam cao hơn Ecuador, chủ yếu do Ecuador nuôi ao đất với trang trại lớn, thả giống thưa nên tận dụng được cỡ 25% thức ăn tự nhiên. Nuôi thưa thì tôm ít bị stress, giảm chi phí thuốc và chất bổ sung tăng sức khỏe cho tôm, dịch bệnh cũng ít, chi phí lao động giảm. Còn nuôi tôm ở

nước ta mật độ rất cao, hầu như không tận dụng được

thức ăn tự nhiên, chi phí thức ăn lớn và tôm bị stress phải sử dụng nhiều thuốc cùng chất bổ sung khác.

Bên cạnh đó, hơn 90% nông dân nuôi tôm thiếu vốn nên phải dựa vào đầu tư của đại lý, dẫn đến giá

thức ăn cao. Có chuyên gia tính toán, thức ăn nuôi tôm nếu mua bằng tiền mặt là 30.000 đồng/kg, thì qua đầu tư của đại lý nâng lên 45.000 đồng/kg (cao hơn 50%). Trong giá thành tôm nuôi hiện nay ở nước ta, chi phí thức ăn chiếm khoảng 64%.

Phấn đấu nuôi thành công 65% và giảm giá thành

Mục tiêu được nhiều người có trách nhiệm trong

ngành tôm nước ta đang đặt ra là cố gắng nâng tỷ

lệ nuôi thành công từ 40% hiện nay lên 65%. Trước tiên cần kiểm soát chặt chẽ và nâng cao chất lượng

tôm giống. Lãnh đạo Cục Thủy sản cho biết, sẽ

phối hợp với các địa phương và các cơ quan chức

năng khác tăng cường thanh tra, kiểm tra điều kiện

sản xuất, chất lượng con giống tại các cơ sở và lưu

thông trên thị trường.

Khuyến cáo các cơ sở sản xuất giống có quy mô

nhỏ đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước cấp, nước

thải, đảm bảo an toàn sinh học trong sản xuất; áp

dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để nâng cao chất

lượng và tỷ lệ sống. Yêu cầu cơ sở cung cấp tôm

giống có đội ngũ kỹ thuật tư vấn, có trách nhiệm với

khách hàng để đồng hành với người nuôi và kịp thời

hỗ trợ trong trường hợp cần thiết. Đạt được điều này

sẽ hạn chế nhiều rủi ro về con giống, tạo cơ sở nâng

cao tỷ lệ nuôi thành công.

Chú trọng số hóa dữ liệu về tôm giống để người nuôi và cơ quan quản lý tra cứu, truy xuất thông tin xuất xứ, chất lượng, góp phần ngăn chặn con giống kém chất lượng. Tiếp tục nghiên cứu gia hóa tôm bố mẹ có khả năng chống chịu tốt với dịch bệnh, có năng suất cao.

Giải bài toán về thức ăn cho tôm để giảm giá thành, cần quan tâm tới thực trạng phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất thức ăn. Nhu cầu nguyên liệu sản xuất thức ăn thủy sản của nước ta một năm khoảng 6 triệu tấn, trong nước mới đáp ứng khoảng 35%, còn 65% nhập khẩu.

Hiện nay, một số doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ để tăng giá trị dinh dưỡng, thay thế nguyên liệu đắt tiền trong sản xuất thức ăn thủy sản. Bộ NN&PTNTđã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 985/QĐ-TTg ngày 16/8/2022 phê duyệt Chư ơng trình quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021 - 2030, trong đó có định hướng phát triển thức ăn thủy sản.

Các địa phương khuyến khích hợp tác xây dựng trang trại lớn, có doanh nghiệp đầu tàu dẫn dắt tạo

chuỗi phát triển ổn định.

Thêm một vấn đề được nhiều người trong ngành quan tâm là, Việt Nam đã có khá đầy đủ các chính

sách định hướng phát triển đúng, quy định pháp luật quản lý nghiêm. Tuy nhiên, việc thực thi cần rõ ràng

trách nhiệm để đạt hiệu quả cụ thể.

Sáu Nghệ

Thường xuyên theo dõi quá trình

sinh trưởng của thủy sản tại ao nuôi

Ảnh: Shutterstock

YUCCA STAR

BÍ QUYẾT

GIÚP TĂNG CƯỜNG

SỨC KHỎE VẬT

NUÔI, ĐƯA TÔM NUÔI VỀ SIZE LỚN

Chiết xuất Yucca

Star từ nhà sản xuất

uy tín BAJA AGRO

INTERNATIONAL SA. DE

C.V. là giải pháp tối ưu

để cải thiện chất lượng

nước, tăng cường sức

khỏe tôm và nâng cao

hiệu quả sản xuất.

Yucca Star là gì?

Yucca Star là sản phẩm chiết xuất 100% từ cây Yucca schidigera, một loại cây phát triển mạnh ở các vùng sa mạc khô hạn. Với thành phần chính là sapogenin, Yucca Star có khả năng và xử lý khí độc NH3, cải thiện chất lượng môi trường sống của tôm, từ đó giúp tôm khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh và kháng bệnh tốt hơn.

Cơ chế hấp thụ amoniac của saponin trong Yucca là kết quả

của cấu trúc phân tử đặc biệt và tương tác hóa học phức tạp. Nhờ

khả năng này, chiết xuất Yucca

đã trở thành một giải pháp hiệu quả và thân thiện với môi trường trong NTTS.

Cấu trúc phân tử đặc biệt:

Tính lưỡng cực: Phân tử saponin

có cấu trúc lưỡng cực, một đầu ưa

nước và một đầu kỵ nước. Điều này giúp saponin có khả năng liên kết với cả các phân tử hữu cơ và vô cơ, bao gồm cả amoniac.

Nhóm chức hoạt động: Saponin chứa nhiều nhóm chức hoạt động như hydroxyl, carboxyl, giúp chúng có khả năng tạo liên kết hydro với các phân tử khác, trong đó có amoniac.

Tương tác với amoniac:

Tạo phức: Saponin có khả năng tạo phức với các ion amoni (NH4 +) và các phân tử amoniac tự do, làm giảm nồng độ amoniac tự do trong nước.

Hấp phụ: Các phân tử saponin có thể hấp phụ amoniac trên bề mặt của chúng.

Quá trình trao đổi ion: Saponin có thể tham gia vào quá trình trao đổi ion với các ion khác trong nước, giúp giảm nồng độ amoniac.

Các nghiên cứu điển hình cho thấy lợi ích của Yucca: Wallace et al., 1994 và Hristov et al., 1999: Các nghiên cứu này đã chứng minh hiệu quả của saponin từ cây Yucca

và Quillaja trong việc giảm nồng độ NH3 trong dạ cỏ của động vật nhai lại.

Valle et al. (2006): Kết quả nghiên cứu cho thấy sử dụng Yucca làm tăng đáng kể mức tăng trưởng (23 - 26%). FCR của tôm ăn thức ăn bổ sung Yucca schidigera thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chứng không sử dụng Yucca.

Martínez et al. (2008): Theo nghiên cứu cho thấy bổ sung 0,2% và 0,3% Yucca schidigera vào thức ăn của TTCT giúp giảm hơn 2/3 nồng độ NH3 trong nước thải chỉ trong vòng 12 giờ.

Vì sao nên chọn Yucca Star? Yucca Star được sản xuất bởi

BAJA AGRO INTERNATIONAL SA. DE C.V, một trong những công ty hàng đầu thế giới về sản xuất chiết xuất Yucca. Với hơn 500 ha trồng Yucca, Baja Agrointernational đảm bảo nguồn nguyên liệu sạch, chất lượng cao và ổn định.

Chất lượng vượt trội: Sản phẩm được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, đạt các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng như HACCP, ISO 22000, GMP+.

An toàn: Sản phẩm hoàn toàn tự nhiên, không chứa hóa chất độc hại, an toàn cho người sử dụng và môi trường.

Đa dạng sản phẩm: Yucca Star có cả dạng bột và dạng lỏng, đáp ứng đa dạng nhu cầu của nhiều khách hàng.

Cơ chế hoạt động của

Yucca Star

Khử độc: Hấp thụ nhanh chóng và hiệu quả các chất độc hại như amoniac, nitrit, hydrogen sulfide, cải thiện chất lượng nước.

Cải thiện hệ tiêu hóa: Giúp tôm tiêu hóa thức ăn tốt hơn, hấp thu tối đa các chất dinh dưỡng.

Tăng cường hệ miễn dịch: Tăng cường sức đề kháng của tôm, giúp tôm chống lại các bệnh thường gặp.

Giảm stress: Giúp tôm giảm stress, tăng khả năng thích nghi với môi trường.

Lợi ích khi sử dụng Yucca Star

Tôm khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh: Tôm ăn nhiều, tiêu hóa tốt, tăng trọng nhanh và đồng đều.

Giảm tỷ lệ chết: Tôm ít bệnh tật, giảm tỷ lệ chết, tăng hiệu quả sản xuất.

Cải thiện chất lượng thịt: Thịt tôm chắc, thơm ngon, đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu.

Giảm chi phí sản xuất: Giảm chi phí thuốc thú y, giảm lượng

thức ăn dư thừa.

Bảo vệ môi trường: Giảm ô nhiễm môi trường nước, góp phần xây dựng một ngành NTTS bền vững.

Yucca trong nuôi tôm giúp thúc đẩy quá trình tổng hợp protein, tăng cường hấp thu chất dinh dưỡng và cải thiện sức

khỏe đường ruột của tôm.

Yucca kích thích hệ miễn dịch

đường ruột, giúp chống lại các vi

sinh vật gây bệnh trong đường tiêu hóa (GIT).

Cách sử dụng Yucca Star hiệu quả

Liều lượng: Tùy thuộc vào kích thước ao nuôi, mật độ tôm và chất lượng nước để xác định liều lượng sử dụng phù hợp.

Cách sử dụng: Hòa tan Yucca Star vào nước trộn đều với thức ăn hoặc tạt đều xuống ao nuôi.

Thời gian sử dụng: Nên sử dụng Yucca Star định kỳ để

duy trì chất lượng nước và sức khỏe tôm.

Kết luận

Chiết xuất Yucca Star là một giải pháp toàn diện, hiệu quả và an toàn cho người nuôi tôm. Với những ưu điểm vượt trội, Yucca Star giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng lợi nhuận và xây dựng một mô hình nuôi tôm bền vững.

Nguồn: BQ&Q tổng hợp

Quý khách tham khảo thêm thông tin chi tiết tại website: www. bqq.com.vn

Cung cấp các giải pháp sáng tạo và hiệu quả cho ngành NTTS

Skretting liên tục đóng

góp vào sự phát triển

bền vững của ngành

NTTS thông qua việc

nghiên cứu các sản

phẩm và giải pháp sáng

tạo phục vụ cho ngành.

Chúng tôi tự hào giới

thiệu một số bộ giải

pháp dinh dưỡng chất

lượng cao dành cho

thức ăn nuôi tôm mà

Skretting hiện đang

cung cấp ra thị trường.

Jade - Dinh dưỡng cho khởi

đầu vững chắc

Jade được tạo ra từ các nguyên liệu có giá trị dinh

dưỡng và độ tiêu hóa cao, giúp

ấu trùng tôm dễ hấp thu và tăng

tốc độ phát triển. Hàm lượng

lớn probiotic cũng được bổ sung thêm vào sản phẩm để hỗ

trợ hệ tiêu hóa và tăng cường

sức đề kháng cho tôm giai

đoạn ương vèo. Viên thức ăn

có kích thước phù hợp và đồng nhất, độ bụi thấp, góp phần ổn định môi trường và giảm chi phí thay nước.

Impact - Cho vụ mùa bộ thu

Impact là dòng thức ăn viên hoàn toàn mới dành cho TTCT, đem lại hiệu quả kinh tế vượt trội cho người nuôi, phù hợp với nhiều mô hình và quy mô nuôi khác nhau. Công thức chuẩn

hóa cải tiến và hàm lượng dinh dưỡng cân đối có trong

IMPACT giúp người nuôi đáp ứng nhu cầu phát triển của tôm suốt giai đoạn thương phẩm. Với quy trình chọn lọc và kiểm định chất lượng

Titan - Giải pháp nuôi tôm tiết kiệm chi phí

Titan là dòng thức ăn viên hoàn toàn mới dành cho tôm thẻ chân trắng được thiết kế nhằm tiết kiệm chi phí cho người nuôi tôm, phù hợp với nhiều mô hình và quy mô nuôi khác nhau. Sản phẩm cung cấp lượng protein ở mức tối ưu giúp con tôm khỏe mạnh hơn, ăn nhiều hơn, tiêu hóa tốt hơn và tăng trưởng nhanh hơn để đạt năng suất tốt... Ngoài ra, Titan giúp môi trường nuôi ổn định hơn, ít thay nước hơn và quản lý chất lượng nước dễ dàng hơn giúp giảm chi phí xử lý nước đem lại vụ mùa bội thu với mức chi phí tối ưu.

Xpand - Tôm lớn nhanh hơn, tiêu hóa tốt hơn và ao nuôi

sạch hơn

Skretting là tập đoàn hàng

đầu thế giới về cung cấp giải pháp dinh dưỡng sáng tạo và bền vững cho ngành NTTS, với trụ sở đặt tại Stavanger, Na Uy. Skretting có nhà máy tại 19 quốc gia ở khắp 5 châu lục, sản xuất

và cung cấp thức ăn chất lượng

cao cho hơn 60 loài từ con giống

đến khi thu hoạch.

Tại Việt Nam, Sketting chuyên sản xuất thức ăn thủy sản chất

lượng cao với các nhà máy đặt

tại tỉnh Long An. Bên cạnh đó,

chúng tôi còn cung cấp thức

ăn thủy sản cho toàn bộ khu vực Nam Á. Skretting có những

đóng góp đáng kể vào sự phát

triển bền vững của ngành NTTS

bởi sự hiện diện toàn cầu, năng

lực sáng tạo vượt trội, nền tảng

kỹ thuật chuyên sâu cũng như

khả năng ứng dụng những tiêu

chuẩn cao nhất về chất lượng và an toàn.

Skretting cam kết thức thi

trách nhiệm của mình trong toàn

bộ chuỗi cung ứng, từ khâu nuôi

đến bàn ăn, đảm bảo sản phẩm

thủy sản ngon miệng và an toàn

cho người tiêu dùng trong và ngoài nước.

THÀNH CÔNG TRONG NUÔI TÔM

NHỜ SỰ KIÊN TRÌ ĐẦU TƯ VÀ

TIN TƯỞNG

VÀO NGUỒN GIỐNG UY TÍN, CHẤT LƯỢNG CAO

Trước nhiều thử thách mà ngành tôm đang

phải đối mặt trong thời điểm hiện tại, để

người nuôi duy trì một vụ nuôi thành công và

có lợi nhuận cao không phải là một điều

dễ dàng. Với sự kiên trì, bền bỉ, đầu tư bài

bản từ con giống đến quy trình, nhiều

hộ nuôi tôm tại Bạc Liêu, Bến Tre

đã gặt hái thành công.

Niềm vui của anh

Hùng bên những

lô tôm thu hoạch

thành công

Hộ nuôi tôm của anh Hùng tại Thạnh Phú, Bến Tre là một điển hình. Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề nuôi tôm, anh đã trải qua bao lần thăng trầm trước khi gặt hái những vụ nuôi thành công mang lại hiệu quả, lợi nhuận cao. Với anh Hùng, nuôi tôm là một nghề rất khó và phụ thuộc lớn vào điều kiện môi trường, dịch bệnh, thời tiết, tuy nhiên bằng sự quyết tâm, chăm chút và đầu tư, anh đã thành công nhiều vụ. Trong đó vụ nuôi gần nhất đã mang đến kết quả ngoài sức mong đợi, với tổng diện tích hơn 13.000 m2 và 10 ao nuôi, anh đã thu hoạch hơn 86 tấn tôm, kích cỡ tôm lớn: 20 con/kg mang về doanh thu lên đến 11 tỷ đồng. Điểm chung của nhiều hộ nuôi tôm thành công đó là sự kiên trì chịu khó, đặc biệt là tinh thần liên tục học hỏi và cập nhật các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế tại ao. Với nghề nuôi tôm, 4 yếu tố quan trọng đó là “Nhất giống, nhì môi, tam mồi, tứ kỹ”. Hơn 90% các hộ nuôi nhận định rằng cần có sự đầu tư, chọn lựa kỹ lưỡng con giống uy tín, nguồn gốc rõ ràng, đặc biệt phải có sức chống chịu, đề kháng mạnh và thích nghi tốt với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu vùng miền.

Các doanh nghiệp đầu tàu như Tập đoàn Việt Úc không chỉ nỗ lực nghiên cứu, ứng dụng khoa học,

công nghệ vượt trội từ nhiều quốc gia, nhằm tìm ra giải pháp cho toàn ngành, từ chủ động nguồn tôm bố mẹ để sản xuất con giống chất lượng cho bà con, đến lan tỏa các mô hình nuôi bền vững, hoàn toàn không sử dụng kháng sinh, mà còn đang trên hành trình xây dựng thương hiệu Tôm Quốc gia, nâng cao hình ảnh, giá trị để chinh phục thị trường thế giới với

khát vọng “Nâng Tầm Tôm Việt”. Đây là những nỗ lực rất đáng ghi nhận và đó cũng là lý do mà Việt Úc nhận được sự tin yêu và ủng

hộ của rất nhiều người nuôi tôm.

Ngành tôm đang ngày càng đối diện với nhiều thử thách hơn bao giờ hết, từ những tác động ngoại

cảnh thế giới về chính trị, kinh tế,

đến các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp như giá cả, dịch bệnh, môi trường…Đây là bài toán không của riêng một quốc gia nào. Các hộ nuôi tôm vẫn đang cố gắng và nỗ lực mỗi ngày để vượt khó, do

đó, rất cần sự liên kết, đồng hành

từ các doanh nghiệp cũng như nhà nước. Nhiều thử thách còn ở phía trước nhưng cơ hội vẫn còn

đó, Việt Nam có đầy đủ điều kiện

để vươn lên vị trí số 1 thế giới nếu

tất cả cùng đồng lòng, quyết tâm cho mục tiêu chung như cách mà

điển hình Tập đoàn Việt Úc đang nỗ lực thực hiện.

Nhật Anh

Tại Bến Tre, Đại lý Hoàng Trưởng cũng là một điển hình nuôi thành công khi thu về tới 100 tấn, kích cỡ

15 - 20 con/kg

Đông Hải, Bạc Liêu, một ao nuôi thu hoạch 21,8 tấn, doanh thu 3,1 tỷ đồng, kích cỡ tôm đạt 22 con/kg Bên cạnh cung cấp nguồn giống chất lượng, đội tư vấn kỹ thuật của Tập đoàn Việt Úc nhiệt tình hỗ trợ

nuôi tại ao

Hội nghị khách hàng

Giải pháp đột phá hiệu suất

Trong tháng 7 và tháng 8/2024, C.P. Việt Nam đã tổ chức chuỗi hội nghị khách hàng tại các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng,

Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang nhằm chia sẻ các thông tin hữu ích về tôm giống, thức ăn, giải pháp Biotic bảo vệ - cân bằng

3 tác động và giải pháp kỹ thuật năng suất cao, chi phí thấp.

Ngoài ra, tại hội nghị, C.P. Việt Nam cũng tổ chức trọng thể lễ vinh danh và trao tặng các quà tặng có giá trị đến Quý khách hàng tại các tỉnh đã xuất sắc chinh phục kỷ lục thu hoạch TTCT kích cỡ lớn 15 con/kg trong năm 2024. Các hội nghị diễn ra thành công tốt đẹp với sự tham dự đông đảo Quý đại lý, Quý khách hàng tại khu vực.

Kiên Giang
Bạc Liêu
Sóc Trăng

Trong ngày phát biểu khai mạc tại tỉnh Cà Mau,

ông Boolap Watcharawanichakul, Phó Tổng Giám

Đốc cấp cao của C.P. Việt Nam đã chia sẻ những

định hướng góp phần phát triển nghề tôm hiệu quả

tại Việt Nam.

Tương tự tại Kiên Giang, ông Nguyễn Vĩnh Phú, Phó Tổng Giám Đốc của C.P. Việt Nam, cũng chia sẽ những thành tựu và định hướng bền vững phát huy tối đa lợi thế của nghề tôm tại Việt Nam.

Hội nghị tại các tỉnh diễn ra thành công tốt đẹp với sự hưởng ứng và tham dự nồng nhiệt từ Quý khách hàng. Thông qua hội nghị, C.P. Việt Nam mong muốn mang đến các thông tin, giải pháp hữu

ích giúp Quý khách hàng canh tác đạt hiệu quả tối

đa trong thời gian sắp tới.

hội

C.P. Việt Nam

Quý

Khơi thông thị trường cá biển

Nhiều chuyên gia tại TARS 2024 khẳng định,

ngành nuôi biển cần

được đầu tư xứng đáng

để khai thác tiềm năng

bởi nhiều loại cá biển

mang lại giá trị kinh tế

cao hơn cá nước ngọt.

Tuy nhiên đến nay, quy

mô thị trường cá biển

vẫn chưa rộng mở.

Rô phi và cá tra thoái trào?

Sự kiện Hội nghị bàn tròn NTTS (TARS 2024) lấy nuôi biển làm

chủ đề chính đã lý giải sự phát

triển của ngành này trong tương

lai là điều tất yếu. Ông Francisco

Murillo - CEO của Tropo Farms, hãng sản xuất cá rô phi lớn nhất

Ghana cho biết, cá rô phi - một

trong những mặt hàng thủy sản

chính tại thị trường Mỹ, đang rơi

vào “thoái trào” trước hàng loạt biến động mạnh về nhu cầu tiêu

thụ nhiều năm qua. Năm 2001, cá rô phi lọt top 10 sản phẩm thủy

sản được tiêu thụ nhiều nhất trên

thị trường Mỹ, với tăng trưởng ấn

tượng 144% trong vòng 5 năm.

Tiêu thụ cá rô phi đạt đỉnh vào

năm 2012 nhưng giảm 35% vào

năm 2021.

CEO của Tropo Farms nhận

định, nguyên nhân chính khiến

cá rô phi không còn giữ vị thế độc

tôn bởi thị hiếu của người tiêu

dùng phương tây đã thay đổi, bao

gồm cả nhận thức về môi trường

và xã hội, đặc biệt trong ngành

thủy sản đông lạnh. Nhập khẩu

rô phi nguyên con đông lạnh vào

thị trường Mỹ chững dần và có xu hướng đi xuống từ 60.000 tấn

còn 48.000 - 50.000 tấn trong

những năm gần đây. Riêng nhập

khẩu fillet rô phi đông lạnh giảm

mạnh tới 42% từ Trung Quốc

và 46% từ Indonesia chỉ trong vòng 10 năm trở lại đây. Một số tập đoàn bán lẻ như Walmar đã

chuyển sang cá rô phi tươi sống

từ Mỹ Latinh và dừng hẳn nhập

khẩu rô phi đông lạnh từ châu Á.

Theo ông Murillo, nhập khẩu rô phi trong 5 tháng đầu năm tại Mỹ ước đạt 20.300 tấn, mức thấp nhất trong vòng 12 năm qua.

Tương tự cá rô phi, cá tra cũng gặp khó do nhu cầu tiêu thụ suy yếu trong khi sản lượng cá tra tăng cao, riêng châu Á đạt 3,33

triệu tấn vào năm ngoái, Mai

Chung - Giám đốc hãng dinh dưỡng ADM cho biết. Tại khu vực châu Á Thái Bình Dương, Việt Nam đóng góp 1,71 triệu tấn cá tra, Ấn Độ 756.000 tấn, Trung

Quốc 463.000 tấn, Indonesia 398.000 tấn và Bangladesh 379.000 tấn. Ông Chung cho biết thêm, với tỷ lệ sống 70-80%, chi phí thức ăn chiếm 86% và giá

thức ăn trung bình 0,97 - 1.05

USD/kg, người nuôi cá tra tại Việt Nam gần như không có lời khi

giá cá tại ao chỉ 1,20 - 1,30 USD/ kg. Giám đốc hãng dinh dưỡng

ADM cho rằng, người nuôi cá tra cần tìm cách nâng cao giá trị

sản phẩm, ví dụ nuôi cá tra bằng

thức ăn nguồn gốc thực vật, để tạo ra sản phẩm độc đáo phục vụ thị trường ngách.

1,6 tỷ con cá biển giống

Theo ông Young Chul Kim - Giám đốc R&D tại INVE Aquaculture cơ sở Singapore, sản lượng cá biển giống tại châu Âu, Trung Đông và châu Phi (EMEA) dự kiến tăng trưởng 1,7% so cùng kỳ năm ngoái và đạt 1,424 tỷ con vào năm 2024, cùng với 77 trại giống trải khắp 16 quốc gia. Năm 2022, 70% trong số 1,541 tỷ con cá giống nước mặn được sản xuất tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, trong đó cá chẽm và cá tráp chiếm tỷ lệ 95%. Sản lượng cá biển giống của khu vực EMEA dự kiến xấp xỉ 1,6 tỷ con vào năm 2028, trong đó Thổ Nhĩ Kỹ sản xuất 700

Shutterstock

sản xuất cá giống. Những trại giống này đã và đang áp dụng những tiêu chuẩn rất nghiêm ngặt đối với thức ăn sống, kiểm soát môi trường và thức ăn khô cho cá giống. Nhờ đó, nguồn cá biển giống luôn đảm bảo sức khỏe và tăng trưởng tối ưu.

Chuyển sang khẩu phần thức ăn khô trong suốt giai đoạn ương nuôi con giống đảm bảo cá duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Những khẩu phần khô đã giảm nguy cơ kích cỡ phát triển không

đồng đều, hạn chế tối đa hiện tượng cạnh tranh và ăn thịt đồng loại, từ đó tạo ra những lứa cá biển đồng đều kích cỡ và khỏe mạnh hơn.

Tuy nhiên, những cải tiến mà châu Âu đang áp dụng hiệu quả

lại khó vận dụng ở châu Á. Theo các chuyên gia, nhiều cơ sở nuôi biển ở châu Á vẫn đang phụ thuộc

vào phương pháp truyền thống, ví dụ ao nuôi nước xanh ngoài trời

để sản xuất sinh vật phù du nên

hiệu quả không ổn định.

Làn sóng ở Trung Quốc

Cá chim vây vàng trở thành một

biểu tượng minh chứng sự phát

triển nhanh như vũ bão của ngành

công nghiệp nuôi biển tại Trung

Quốc, Yufan Zhang - Giám đốc kinh doanh tại Alltech Trung Quốc cho biết. Theo chuyên gia này, sản lượng cá chim vây vàng từ

năm 2020 đến 2021 tăng vọt tại

Trung Quốc, vượt qua sản lượng

nhiều loài cá khác như vược biển

từng thống trị thị trường trước đó.

Lợi nhuận của cá chim vây vàng cao hơn các loài cá truyền

thống khác như vược biển bởi thị

trường cá vược gặp nhiều biến

động và giá cả thất thường khiến lợi nhuận ngày càng thu hẹp.

Theo ông Zhang, giá cá vược tại

Trung Quốc là 11 CNY/500gram với chi phí sản xuất khoảng 8 CNY vào năm 2021. Trong khi đó, chi phí sản xuất cá chim vây vàng là 11 CNY nhưng giá bán lên tới 15 CNY/500 gram.

Nhìn chung, ngành nuôi biển

của Trung Quốc tăng trưởng

chóng mặt trong những năm gần đây. Sự tăng trưởng này cũng cho thấy xu hướng nuôi biển đang thịnh hành. Nhiều mô hình nuôi

biển cùng phương pháp cải tiến mới đã ra đời, điển hình là lồng nuôi biển quy mô lớn ở những

vùng nước sâu ngoài khơi; hoặc mô hình tàu nuôi cá thông minh.

Mặc dù vậy, ngành nuôi biển của Trung Quốc đang đối mặt nhiều khó khăn về nghiên cứu di truyền, các phương pháp nuôi chưa hiệu quả về năng suất, và ô nhiễm môi trường. Do đó, tương

lai của ngành nuôi biển Trung

Quốc cần đi theo chiến lược định hướng thị trường, chú trọng xác định nhu cầu của người tiêu dùng, thay vì chú trọng tăng sản lượng. Ngành nuôi biển của Đài Loan cũng đang áp dụng công nghệ bền vững để mở rộng sản xuất, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong đó, sản lượng cá nhụ bốn râu - đối tượng nuôi biển chủ lực của Đài Loan đạt 13.000 tấn vào năm 2022, trị giá 97,8 triệu USD. Để khơi thông thị trường cá biển, Đài Loan đang tìm cách tạo sự khác biệt cho sản phẩm thông qua chứng nhận quốc tế, mô hình bền vững và thức ăn mới.

Ảnh:

10 tỷ USD

Theo VASEP, sau khi về đích năm 2023 ở mức 9,2 tỷ USD, tương đương 92% mục tiêu đề ra từ đầu năm, ngành thủy sản đặt mục tiêu thận trọng cho năm 2024 với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 10 tỷ USD, tăng 3% so với 2023. Bước sang đầu quý III/2024, xuất khẩu thủy sản ghi nhận tín hiệu khả quan khi nhiều đơn hàng được ký kết và đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường khó tính. Với đà này, mục tiêu 10 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu trong năm 2024 của ngành thủy sản được các chuyên gia dự đoán sẽ dễ dàng đạt được.

Vũng Tàu Giá giảm khiến người nuôi cá lồng bè gặp khó

Giá bán của các loại cá nuôi lồng bè đang giảm mạnh, trong khi đó diễn biến thời tiết khắc nghiệt, cùng với chi phí thức ăn tăng cao, khiến nhiều người nuôi gặp khó khăn. Theo các hộ dân nuôi cá lồng bè trên sông Chà Và, xã Long Sơn, TP Vũng Tàu, từ giữa năm đến nay giá cá nuôi liên tục giảm mạnh. Cụ thể, cá mú nuôi trước đó có giá từ 260.000 - 270.000 đồng/kg, thì hiện nay giảm chỉ còn 180.000 đồng/ kg; cá chim các loại có giá 130.000 - 150.000 đồng/kg, giảm từ 50.000 - 60.000 đồng/kg; cá chẽm trước đó có giá 105.000 đồng/kg, nay chỉ còn 75.000 đồng/kg…

ĐBSCL Giá nhiều loại cá tăng mạnh

Tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL, cá trê vàng đang được nông dân bán cho thương lái với giá 68.000 - 72.000 đồng/kg, tăng hơn 10.000 đồng/kg so với tháng trước. Cá thát lát giá 68.000 - 71.000 đồng/kg, tăng 8.000 - 10.000 đồng/kg. Cá sặc rằn cũng từ 52.00055.000 đồng/kg lên 65.000 đồng/kg… Giá bán tại hộ nuôi tăng cao, khiến giá cá bán lẻ ra thị trường cũng tăng theo. Khảo sát tại chợ trên địa bàn TP. HCM như chợ Bà Chiểu (Bình Thạnh), Xóm Mới (Gò Vấp), Tân Định (quận 1), giá nhiều loại cá nuôi tăng 10.000 - 15.000 đồng/ kg so với tháng trước. Cụ thể, cá diêu hồng loại dưới một kg có giá bán lẻ 80.000 đồng, loại trên 1 kg là 90.000 đồng. Tương tự, cá lóc được bán 90.000 - 100.000 đồng/kg, cá hú tăng từ 90.000 đồng lên 110.000 đồng/kg…

Đồng Tháp

Giá thủy sản ổn định

Giá thành sản xuất cá tra thịt trắng trung bình 26.504 đồng/ kg (giảm 548 đồng/kg so cùng kỳ). Đối với cá tra giống, giá tiếp tục giảm do nguồn cung tăng trong khi nhu cầu thả nuôi chưa nhiều. Giá cá tra thương phẩm xuất khẩu và giá một số loài thủy sản thương phẩm khác vẫn ổn định so tháng trước. Cụ thể: Giá cá tra nguyên liệu dao động 26.200 - 26.600 đồng/kg; tôm thương phẩm loại 1 giá dao động từ 160.000 - 180.000 đồng/kg; cá lóc nuôi 37.000 - 40.000 đồng/kg; ếch 34.000 - 38.000 đồng/kg; lươn 95.000 - 105.000 đồng/kg; cá diêu hồng 43.000 - 45.000 đồng/kg; cá rô 34.000 - 37.000 đồng/kg.

Thị trường ngư cụ sôi động

Theo nhiều chủ hàng ở xã An Long và thị trấn Tràm Chim cho biết, giá cả các loại ngư cụ năm nay vẫn giữ ổn định, không tăng, lưới màn loại 5 cm có giá bán dao động ở mức 100.000 đồng/kg; lưới bén giá bán từ 75.000 - 200.000 đồng/tay (từ 80 - 100 m); chài bán giá từ 300.000 đồng - trên 1 triệu đồng/cái tùy loại; dớn giá bán từ 170.000 - 220.000 đồng/cái (khoảng 1,5 m); lú giá bán từ 250.000 - 400.000 đồng/cái (loại 12 - 15 m); lọp giá bán 10.000 đồng/cái; lờ bán giá 5.000 đồng/cái, cọc tràm từ 2,5 – 3 m giá bán từ 15.000 - 20.000 đồng/cây tùy loại…

Bến Tre

Giá muối thương phẩm sụt giảm, diêm dân thất thu

Sau nhiều tháng dự trữ, hiện nay, diêm dân tỉnh Bến Tre bắt đầu bán ra lượng muối thương phẩm. Dù đã hết vụ nhưng giá muối sụt giảm, diêm dân thất thu. Năm ngoái, vào thời điểm này, giá muối dao động từ 90.000 - 100.000 đồng/giạ (45 kg) nhưng hiện nay giảm còn 45.00050.000 đồng/giạ, giảm gần 50%. Đối với các khu vực hẻo lánh, không thuận tiện đường vận chuyển hạt muối giá còn thấp hơn.

Hậu Giang

Người nuôi ếch phấn khởi khi giá bán tăng

Khoảng 2 tháng trở lại đây, giá ếch nuôi bắt đầu tăng, giúp cho người nuôi đạt lợi nhuận khá. Theo thống kê, toàn huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang có hơn 200 vèo nuôi ếch, mỗi vèo trung bình từ 2.000 - 3.000 con. Ếch sau 3 tháng nuôi sẽ đạt trọng lượng từ 4 - 5 con/kg, hiện thương lái thu mua với giá 40.000 - 45.000 đồng/kg, bình quân tăng 5.000 đồng/ kg so với thời điểm cách nay 2 tháng và tăng 15.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Theo nhiều thương lái thu mua ếch, sau một thời gian dài giá ếch ở mức thấp, khiến nhiều nông hộ bỏ nghề thì nay sản lượng ít, trong khi nhu cầu của người tiêu dùng khá cao, nên giá tăng. Với giá bán như hiện nay, trung bình 1 kg ếch thương phẩm sau khi trừ hết chi phí đầu tư, người nuôi lợi nhuận hơn 10.000 đồng.

Cà Mau

Giá cua giảm mạnh

Hơn 1 tháng qua, giá cua tại tỉnh Cà Mau giảm mạnh, ảnh hưởng lớn đến thu nhập của nông dân. Theo thông tin từ Sở NN&PTNT Cà Mau, cua yếm vuông Năm Căn có giá bán tại chợ dao động từ 230.000 - 300.000 đồng/kg; cua y Năm Căn trọng lượng mỗi con trên 0,5 kg có giá từ 230.000 - 300.000 đồng/kg; cua gạch Năm Căn giá bán tại chợ 450.000 - 500.000 đồng/kg. Nếu như trước cua y có giá khoảng 300.000 đồng/kg thì nay thương lái mua với giá 230.000 đồng/kg; cua tứ có giá 130.000 đồng/kg, giảm 60.000 - 80.000 đồng/kg so với tháng trước. Bên cạnh đó, tôm sú thương phẩm (ướp đá), loại 20 con/kg có giá từ 205.000 - 210.000 đồng/kg; tôm sú thương phẩm (ướp đá), loại 30 con/kg có giá từ 150.000 - 155.000 đồng/kg; tôm sú thương phẩm (ướp đá), loại 40 con/kg có giá từ 120.000 - 125.000 đồng/kg.

Mexico

Sản lượng giảm, giá bạch tuộc tăng cao

Tại Mexico City, giá bạch tuộc tươi ở chợ hải sản La Viga dao động 230 - 320 peso/kg, trong khi giá cao nhất cách đây một năm chỉ 250 peso/kg. Tại Campeche, một trong những vựa sản xuất nhuyễn thể của Mexico, các thương lái ghi nhận giá bạch tuộc đã tăng 130 - 225 peso so cùng kỳ năm ngoái và dao động 200-325 peso/kg. Người dân địa phương ở La Viga cho biết, giá bạch tuộc tăng đột biến do điều kiện khí hậu bất lợi, trong khi đó thời gian đóng cửa vụ khai thác kéo dài buộc họ phải trữ đông sản phẩm, kéo theo chi phí điện tăng cao. Theo Fabiola Arango, một thương lái tại chợ La Viga, bạch tuộc đông lạnh thường được tiêu thụ vào thời điểm khan hiếm nguồn cung tươi, tức là từ tháng 1 đến tháng 7 hàng năm. Được biết, sản lượng bạch tuộc của Mexico giảm 62% vào năm 2023. Bộ Nông nghiệp Mexico đặt ra hạn ngạch 21.392 tấn đối với 2 vùng sản xuất bạch tuộc chính của cả nước là Campeche và Yucatan.

Ma Rốc

Giá bạch tuộc tăng gây bất lợi cho các hãng chế biến Làn sóng tăng giá bạch tuộc nguyên liệu gần đây tại Ma Rốc và Mauritania đã gây ra những bất ổn cho các hãng chế biến đang phải chật vật vì chi phí đầu vào tăng cao và nguồn cung nguyên liệu thô ngày càng eo hẹp. Nhu cầu tiêu thụ bạch tuộc trên thị trường và sản lượng khai thác là hai yếu tố chi phối toàn bộ hoạt động của các hãng chế biến, đặc biệt sau COVID-19 và gần đây là lạm phát khiến người dân thắt chặt chi tiêu. Sản lượng khai thác bạch tuộc của Ma Rốc và Mauritania bắt đầu sụt giảm từ vụ khai thác mở cửa ngày 1/7, một phần nguyên nhân do thời tiết bất lợi. Tại Mauritania, giá bạch tuộc tăng vọt sát mức 500 USD/tấn từ đầu vụ, trong khi bạch tuộc đông lạnh T3 giá 14,1 - 14,8 USD/kg; các cỡ còn lại gồm T4, T5, T6, T7, T8 có giá dao động 12,6 - 9,5 USD/kg. Tại Ma Rốc, giá bạch tuộc nguyên liệu cũng tăng cao từ giữa tháng 7 và dao động 8 - 12,95 EUR/kg tùy cỡ.

Mỹ

Giá sò điệp tăng trở lại

Giá sò điệp Atlantic thu mua tại các tàu cập cảng New Bedford, Massachusetts đã tăng trở lại từ tuần trước. Sò điệp cỡ 10 - 20s, mặt hàng phổ biến nhất, có giá trung bình 15,76 USD/pound trong tuần 31 (29/7 - 4/8), tăng 1% so với mức giá 15,56 USD/pound của tuần 30. Giá sò điệp 10 - 20s từng chạm mức cao kỷ lục 17,33 USD/pound tại New Bedford trong tuần đầu tháng 8/2023. Từ tuần 31, người mua hàng phải trả trung bình 28,91 USD/pound sò điệp U-10s, kích cỡ lớn nhất, tăng 6%, tương đương 1,62 USD/pound so với mức giá của tuần trước đó. Giá sò điệp tăng khiến mức chênh lệch giá giữa hai mặt hàng U-10s và 10-20s từ 11,73 USD/pound lên 13,15 USD/pound chỉ trong 1 tuần. Khan hiếm nguồn cung chính là nguyên nhân lớn dẫn đến sự chênh lệch giá giữa hai mặt hàng này. Sò điệp U-10s chỉ chiếm tỷ trọng 3%, U-12s chiếm 7% trong tổng số 431.894 tấn sò điệp cập cảng vào tuần trước ở New Bedford, trong khi sò điệp 10-20s chiếm 50%, sò điệp cỡ nhỏ hơn 20-30s chiếm 39%; và 1% còn lại là sò điệp 30-40s.

Na Uy

Giá cua hoàng đế ổn định trong tuần 31

Trong tuần 31 (29/7 - 4/8), thị trường cua hoàng đế Na Uy mới bắt đầu bình ổn trở lại sau chuỗi ngày giảm giá kéo dài. Do nhu cầu tiêu thụ ổn định nên giá mặt hàng này đã dứt đà giảm. Tuy nhiên, nhiều nguồn cung dự báo giá cua hoàng đế chưa thể đảo chiều tăng vọt và vẫn còn vài đợt giảm trong tháng này. Theo dữ liệu từ chợ đấu giá

Norges Rafisklag, giá trung bình mặt hàng cua hoàng đế tươi sống cỡ 2,2 - 3,2kg trong tuần 31 tăng nhẹ 3 NOK/kg so tuần trước lên mức 407 NOK/kg (37,58 USD/kg) khi lượng cua đổ về chợ tăng 5,5% (13.529 kg). Tuy nhiên, giá cua đực sống cỡ trên 3,2kg giảm nhẹ so tuần trước, còn 499 NOK/kg (45,54 USD/kg) và khối lượng cua về chợ tăng nhẹ lên 8.446 kg. Giá cua cái sống cỡ 800-1,6kg tăng nhẹ lên 93,51 NOK/ kg (8,45 USD/kg); và 102 NOK/kg (9,28 USD/kg) với cỡ lớn 1,6 - 2,2kg.

Trung Quốc

Giá bán buôn cá hồi tăng

Giá bán buôn cá hồi Atlantic tại một số thành phố lớn thuộc Trung

Quốc quay đầu tăng nhẹ trong tuần 32 (5 - 11/8) sau 3 tuần lao dốc. Cụ thể, giá cá hồi bỏ đầu ruột của Na Uy cỡ 6 - 7kg tăng 8 CNY/kg lên 100 CNY/kg (14 USD/kg) tại các chợ ở Quảng Châu và Thượng Hải vào ngày 5/8. Giá cá hồi nhập khẩu Na Uy cỡ 5 - 6kg không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 85 CNY/kg tại Quảng Châu và Thượng Hải. Cá hồi Faroese tiếp tục đứng đầu thị trường Trung Quốc về giá bán lên tới 105 CNY/kg với cỡ 6 - 8kg. Dannis Cai, nhân viên tại Chunner Group - công ty nhập khẩu cá hồi lớn nhất Trung Quốc xác nhận, giá cá hồi tăng trở lại do nhu cầu tiêu thụ tương đối ổn định, nhờ đó người bán lãi 5-7 CNY/ kg. Tuy nhiên, nguồn cung cá hồi cỡ lớn trên 6kg đang ít dần. Tuần 31, các công ty chế biến của châu Âu xuất khẩu cá hồi Na Uy 4 - 5kg sang Trung Quốc với giá 6,65 EUR/kg, giảm nhẹ 0,2 EUR/kg so với tuần 30.

Ấn Độ Giá tôm thẻ tăng trong tuần 33

Bước sang tuần 33 (12/8 - 18/8), giá tôm thẻ Ấn Độ tăng trở lại do nhu cầu nhập khẩu tôm nguyên liệu từ thị trường Mỹ hồi phục. Tại Andhra Pradesh, vùng nuôi tôm lớn nhất Ấn Độ, giá tôm thẻ HOSO đã tăng 5 - 7 INR/kg với hầu hết các kích cỡ, riêng tôm thẻ cỡ 60 và 40 vẫn giữ mức giá lần lượt 300 INRlg (3,37 USD/kg) và 335 INR/kg, theo Aquaconnect. Tương tự, dữ liệu trên AquaExchange cũng cho thấy giá tôm thẻ nguyên liệu của Ấn Độ đồng loạt tăng nhẹ 5 - 7 INR/ kg với tất cả các cỡ trong tuần này. Cụ thể, tôm thẻ cỡ 50, 60, 70 có giá lần lượt 330 INR/kg; 310 INR/kg và 290 INR/kg. Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm tại Ấn Độ kỳ vọng xu hướng tăng giá sẽ kéo dài đến hết năm nếu nhu cầu tiêu thụ tại Mỹ duy trì ổn định. Cũng trong tuần 32, giá tôm thẻ HOSO của Ecuador không thay đổi so tuần trước và dao động 2,50 - 3,50 USD/kg tùy cỡ. Tại khu vực Đông Nam Á, giá tôm thẻ HOSO của Indonesia và Việt Nam tiếp tục giảm, trong khi tôm Thái Lan tăng nhẹ.

Ngành tôm chạy nước rút trong mùa nuôi nghịch

Các doanh nghiệp ngành tôm đang vào cao điểm

chế biến, nên nhu cầu tôm nguyên liệu theo đó

cũng tăng lên. Câu chuyện thiếu tôm nguyên liệu

mùa cao điểm lại tái diễn khi nguồn cung không

đáp ứng đủ nhu cầu của các nhà máy.

Giá tăng nhanh và tăng mạnh Sau khi tăng nhẹ ở một vài kích cỡ trong tuần đầu tháng 8, giá tôm liên tục có sự điều chỉnh theo hướng ngày càng tăng. Đây là lần tăng giá khá mạnh thứ hai sau lần tăng giá vào tháng 5. Tuy nhiên, nếu như ở lần tăng giá đầu tiên vào tháng 5 chỉ duy trì trong thời gian ngắn thì ở lần tăng giá này, theo nhận định của doanh nghiệp, giá tôm không chỉ neo cao trong thời gian dài hơn mà khả năng sẽ còn tiếp tục tăng thêm, nhất là tôm thẻ cỡ 50 con/ kg trở về lớn.

giá tôm

nhưng xem ra các doanh nghiệp vẫn có đôi chút bất ngờ khi giá tôm tăng quá nhanh và khá mạnh. Không nói đâu xa, chỉ mới ngày 13/8 đây thôi, có doanh nghiệp còn dự báo, phải đến đầu tháng 10, giá tôm thẻ cỡ 50 con/kg mới tăng từ 105.000 đồng/kg lên mức 115.000 đồng/kg, nhưng chỉ mới ngày 24/8, giá tôm thẻ loại 50 con/ kg được thương lái mua tại ao đã lên mức 118.000 - 120.000 đồng/ kg, còn tại nhà máy, mức giá thấp nhất cũng đã 123.000 đồng/kg.

Theo ghi nhận của phóng viên

Tạp chí Thủy sản Việt Nam, từ giữa tháng 8 đến nay, giá tôm

tăng đều ở tất cả các kích cỡ, nhưng tăng mạnh nhất đối với cỡ tôm từ 20 - 40 con/kg. Việc giá tôm thẻ cỡ lớn gần đây tăng

mạnh chủ yếu là do nguồn cung khan hiếm khi vụ tôm đã bước sang mùa nghịch, rất khó nuôi. Đánh giá về tình hình giá tôm đột ngột tăng mạnh thời gian gần đây, ông Hồ Quốc Lực - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta cho biết: “Theo tôi, giá tôm thời gian tới sẽ còn tiếp tục tăng thêm, nhất là tôm cỡ 40 con/kg về lớn do ảnh hưởng dịch bệnh, nên tôm thu hoạch ở vụ nghịch này phổ biến trong cỡ 60 con/kg trở về nhỏ”.

Nhận định trên là khá hợp lý khi giá tôm thẻ cỡ 60 – 100 con/ kg gần đây tuy có tăng nhưng không đáng kể so với tôm cỡ lớn. Điều này cũng khiến không

ít hộ có đôi chút băn khoăn trước quyết định có nên thả nuôi tiếp hay không khi ở vụ nuôi này rất khó để nuôi tôm về cỡ lớn.

Cũng theo ông Lực, một trong những nguyên nhân chính đẩy giá tôm tăng mạnh thời gian gần đây là do các doanh nghiệp tăng tốc chế biến để kịp giao hàng cho các hợp đồng đã ký trong năm. Trong khi đó, nguồn cung tôm nguyên liệu thì hạn chế do nhiều hộ ngưng nuôi vì giá tôm thấp kéo dài, nên để có đủ tôm trả nợ hợp đồng, buộc các doanh nghiệp phải đẩy giá mua lên mới hút được nguồn hàng, nhất là những doanh nghiệp không có nguồn tôm dự trữ dồi dào trong thời điểm giá tôm giảm thấp. Riêng về giá tôm xuất khẩu, theo các doanh nghiệp vẫn chưa được cải thiện nhiều so với kỳ vọng, nên dù có đạt mục tiêu kế hoạch giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm thì lợi nhuận của doanh nghiệp cũng rất khó đạt.

Cung khó đáp ứng cầu Để giảm thiểu rủi ro một khi thị trường khan hiếm tôm nguyên liệu, giá tôm tăng cao, thời gian qua, bên cạnh việc thu mua dự trữ tôm nguyên liệu trong những thời điểm giá tôm xuống thấp, một số doanh nghiệp đã đẩy mạnh phát triển vùng nuôi, nhằm chủ động nguồn nguyên liệu tôm và tạo việc làm thường xuyên cho người lao động từ nay đến cuối năm.

Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp, hiện ngoài số hợp đồng

đã ký trước đó, các doanh nghiệp

vẫn tiếp tục ký thêm hợp đồng

mới theo kiểu gối đầu, nên chuyện

cạnh tranh tôm nguyên liệu tới đây

chắc chắn sẽ còn gay gắt, giá tôm

nhiều khả năng sẽ được đẩy lên

mức cao hơn nhiều so với hiện tại.

Giá tôm hiện tại đã đủ để đảm

bảo cho hộ nuôi có mức lợi nhuận

khá nếu nuôi đạt năng suất, đặc

biệt là nếu nuôi được về kích cỡ

lớn. Tuy nhiên, đây lại là vụ nuôi

không hề dễ dàng khi tập trung không ít yếu tố bất lợi cho nghề

nuôi, như: Thời tiết mưa bão

nhiều, môi trường dễ biến động, dịch bệnh dễ phát sinh (nhất là bệnh do EHP), chất lượng tôm giống không đồng đều… làm cho tỷ lệ nuôi thành công thấp. Ông Võ Văn Phục - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam (VinaCleanfood), nhận định: “Nuôi tôm vụ nghịch bao giờ cũng khó khăn hơn nhiều so với vụ thuận. Bên cạnh bất lợi về thời tiết (mưa bão nhiều - PV), thì dịch bệnh, nhất là bệnh do EHP cũng xuất hiện nhiều hơn, tôm nuôi dễ bị thiệt hại hơn, tỷ lệ thành công vì thế cũng thấp hơn. Ngay cả trang trại của VinaCleanfood dù đã giảm mật

độ xuống thấp hơn khá nhiều so với vụ thuận, nhưng cũng hết sức

vất vả mới có tôm để thu hoạch”.

Trong khi đó, từ nay đến cuối

năm, các doanh nghiệp bước

vào cao điểm chế biến, nhu cầu

Các doanh nghiệp đang thiếu hụt tôm nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu dịp cuối năm

tôm nguyên liệu là rất lớn, nên

câu chuyện thiếu tôm nguyên

liệu được dự báo sẽ còn trầm

trọng hơn.

“Ngay thời điểm hiện tại, hầu

hết các nhà máy đều không mua

được đủ lượng tôm nguyên liệu

phục vụ chế biến mỗi ngày. Vì

vậy, chuyện thiếu tôm nguyên

liệu tới đây sẽ còn trầm trọng

hơn nữa, nhất là tháng 9 và tháng 10, giá tôm sẽ còn tăng thêm ít nhất là 10%”, ông Phục dự báo.

Đây là chuyện không mới của

ngành tôm nhưng một lần nữa

cho thấy tính ổn định và bền

vững của các khâu trong chuỗi giá trị ngành tôm vẫn là điều mà các bên cần quan tâm cải thiện nhiều hơn nữa, nếu muốn ngành tôm tiếp tục vươn xa.

Theo báo cáo của Hiệp hội Chế

biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt

Nam, giá trị kim ngạch xuất khẩu

tôm 7 tháng đầu năm nay ước đạt

khoảng 2 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ. Xuất khẩu tôm dự báo sẽ

còn tăng trưởng mạnh hơn kể từ

tháng 8 đến tháng 11 do đây là

thời điểm các doanh nghiệp tập trung hoàn tất giao hàng cho các

hợp đồng đã ký kết trong năm.

Tuy dự báo sức tiêu thụ sẽ tăng

trở lại từ nay đến cuối năm, nhưng

các doanh nghiệp vẫn chưa thể an tâm trước 2 vụ kiện: Chống bán phá giá (AD) và chống trợ cấp tôm (CVD) tại thị trường Mỹ, khi mới đây (ngày 2/8/2024), Bộ

Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã có thông báo chưa công nhận nước ta có nền kinh tế thị trường. Thông báo trên cũng đồng nghĩa với vụ kiện CDV vẫn được tiến hành và theo lịch trình, 19/10/2024, DOC công bố mức thuế CVD cuối cùng và trước 3/12/2024 Ủy ban

Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) sẽ có kết luận là vụ kiện này sẽ kết thúc hay còn diễn tiến. Riêng vụ kiện AD, phía Mỹ vẫn đang xem xét hành chính lần thứ 19 (PR19) với 2 doanh nghiệp là bị đơn bắt buộc và theo dự kiến, mức thuế sơ bộ sẽ được công bố khoảng đầu năm 2025.

Mùa tôm đang vào cao điểm. Giá tôm trong nước đã tăng trở lại và dự báo sẽ còn tiếp tục tăng thêm. Do đó, dù vụ nuôi hiện tại là vụ nghịch, nhiều rủi ro, tỷ lệ thành công thấp nhưng với việc giá tôm nguyên liệu tăng mạnh khiến nhiều hộ nuôi có đủ điều kiện bắt đầu cân nhắc thả nuôi vụ mới, với mật độ thưa hơn, diện tích ít hơn so với vụ thuận để đảm bảo tỷ lệ thành công cao hơn. Khi đó, áp lực nguồn cung tôm nguyên liệu đối với doanh nghiệp cũng sẽ được vơi đi phần nào và người nuôi tôm vẫn có thể yên tâm về một mức giá đủ để đáp ứng kỳ vọng về lợi nhuận cho vụ nuôi vốn rất khó khăn này.

Xuân Trường

Vai trò của axit hữu cơ trong nuôi trồng thủy sản

Bổ sung axit hữu cơ

cho thủy sản là một

trong những biện pháp

hiệu quả để phòng

ngừa dịch bệnh, thúc

đẩy tăng trưởng, giảm

tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR).

Đặc điểm

Axit hữu cơ là một hoặc nhiều

nhóm carboxyl. Đây là nhóm

phân tử phổ biến trong thực vật.

Axit hữu cơ gồm axit carboxyl

đơn chức, mạch thẳng, và các dẫn xuất tương ứng như axit

hydroxylic không bão hòa, axit phenolic và các axit carboxylic đa chức.

Cơ chế tác động

Trong đường ruột của vật nuôi luôn tồn tại nhóm vi khuẩn có ích và nhóm vi khuẩn gây bệnh. Nhóm vi khuẩn có lợi bao gồm những vi khuẩn lên men sinh axit lactic như: Lactobacillus, Bifidobacterium, Streptococcus… Nhóm vi khuẩn gây bệnh thường là E. coli, Salmonella, Clostridium perfringens, Vibrio… Số lượng các nhóm vi khuẩn này thường

được duy trì ở mức cân bằng. Do nguyên nhân nào đó tác động, số vi khuẩn gây bệnh tăng lên, trạng thái cân bằng bị phá vỡ

khiến vật nuôi bị rối loạn tiêu hóa, sức đề kháng giảm dẫn đến

mắc bệnh.

Những vi khuẩn có ích sống

trong môi trường có độ pH thấp hơn so với các vi khuẩn gây bệnh. Như vậy, việc bổ sung axit hữu cơ để giảm pH xuống sẽ ức

chế được các nhóm vi khuẩn gây bệnh, đồng thời tạo điều kiện cho nhóm vi khuẩn có lợi phát triển.

Tác dụng Các axit hữu cơ có khả năng ức chế sự phát triển của các vi sinh vật gây bệnh (nấm mốc, nấm men, vi khuẩn gây bệnh). Đặc biệt là các loài vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh cho tôm, điển hình là bệnh phân trắng do V. alginolyticus, V. parahaemolyticus, V. vulnificus và hoại tử gan tụy cấp do Vibrio harveyi gây ra. Khả năng ức chế chủ yếu là nhóm axit hữu cơ mạch ngắn, bao gồm: acetic axit, butyric axit, formic axit, propionic axit. Axit này đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thay thế kháng sinh đang bị lạm dụng trong nuôi trồng

thủy sản (NTTS) như hiện nay.

Bên cạnh đó, axit hữu cơ

cũng được xem là nguồn cung

cấp năng lượng giúp tăng tỷ lệ

chuyển đổi thức ăn cho thủy

sản, gia tăng hấp thụ giúp thủy

sản phát triển nhanh chóng…

Việc sử dụng axit hữu cơ sẽ

giảm được đáng kể chi phí sản xuất trong NTTS, nhất là các cơ sở và trang trại quy mô vừa và lớn.

Các nghiên cứu

Trước khi có lệnh cấm sử dụng các chất kháng sinh dùng làm chất kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi thì chỉ có một số nghiên cứu đã được công bố về việc sử dụng axit hữu cơ trong thức ăn thủy sản. Kể từ năm 2006, nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để xác định ảnh hưởng của axit hữu cơ và muối của chúng trong chế độ ăn đến hiệu suất tăng trưởng, sử dụng chất dinh dưỡng và khả năng kháng bệnh ở một số loài thủy sản nuôi có tầm quan trọng thương mại như cá hồi vân, cá hồi salmon, cá chép và cá rô phi và ngay cả trên động vật có vỏ. Một nghiên cứu nữa trên cá rô phi lai cho thấy, khi nuôi từ cá giống cho đến gần đạt kích cỡ thương phẩm, cá ăn thức ăn có bổ sung OAB (hỗn hợp các axit hữu cơ) nguyên mẫu ở liều 5 g/kg hoặc 10 g/kg có xu hướng cải thiện tăng trưởng và hiệu quả thức ăn. Còn trên tôm sú, việc bổ sung kết hợp các axit hữu cơ (fumarate, butyrate và succrate) với liều lượng 30 g/kg

dịch, kích thích tăng trưởng và hiệu quả giữ chất dinh dưỡng ở tôm sú.

Các kỹ thuật viên kiểm tra sức khỏe tôm tại ao nuôi

Ảnh: Đặng Hồng Đức

Lưu ý

Vì NTTS là sự kết hợp của nhiều loài nuôi, hoạt động cho ăn, mô hình nuôi khác nhau nên việc sử dụng axit hữu cơ cho từng điều kiện môi trường là khác nhau. Do đó, khi sử dụng axit hữu cơ cần phải đúng liều lượng và phù hợp đối với từng giai đoạn phát triển của thủy sản.

Hiệu quả sử dụng axit hữu cơ cho thủy sản sẽ phụ thuộc vào hiệu năng, nồng độ sử dụng của người. Do đó, việc sử dụng axit hữu cơ cho thủy sản cần có sự chỉ định của chuyên gia về loại axit sử dụng, liều lượng sử dụng trong từng giai đoạn phát triển

của thủy sản. Người nuôi cần

đọc kỹ hướng dẫn sử dụng của

nhà sản xuất, không nên tự ý

phối trộn với các hóa chất khác.

Đặc biệt khi ứng dụng lâu dài

cần có nghiên cứu sâu hơn về

cơ chế kháng khuẩn của các

axit hữu cơ, tránh tình trạng

vi khuẩn gây hại dần dần chịu

được môi trường pH thấp, từ đó

phát sinh chủng gây hại có độc

lực cao hơn.

Bổ sung kết hợp các axit hữu cơ cải thiện tỷ lệ sống, tăng miễn dịch, kích thích tăng trưởng và hiệu quả giữ chất dinh dưỡng ở tôm sú

Ảnh: Globalseafood

Thủy phân tôm tăng cường

sức khỏe cá biển

Dịch thủy phân tôm là nguồn cung peptide hoạt

tính sinh học dồi dào, được xem là giải pháp ưu

tiên để thúc đẩy hiệu suất tăng trưởng và sức

khỏe cho ấu trùng và cá biển non.

Peptide sinh học

Nhiều hệ thống cơ thể được tạo ra bởi các peptide trong chế độ ăn, gồm hệ thống miễn dịch, tiêu hóa, thần kinh, tim mạch và nhiều hoạt động sinh học như kháng khuẩn, chống ôxy hóa, điều hòa miễn dịch. Về mặt lý thuyết, những chất peptide hoạt tính sinh học này có thể được sản xuất từ thực vật trên cạn hoặc biển, nhưng nguyên liệu từ biển có tiềm năng nhất. Trong số nguyên liệu biển, động vật giáp xác khác biệt nhờ thành phần protein độc đáo và peptide đặc hiệu được tạo ra trong quá trình thủy phân protein. Hãng thức ăn thủy sản Symrise sản xuất thủy phân đầu

TTCT được lựa chọn cẩn thận tại các nhà máy chế biến thủy sản. Đầu tôm trải qua quá trình thủy phân tối ưu giúp tối đa hóa sản lượng peptide hoạt tính sinh học và đảm bảo sản phẩm cuối cùng được tiêu chuẩn hóa. Quy trình sản xuất chính xác và nghiêm ngặt này của Symrise đã tạo ra sản phẩm peptide cấu trúc độc đáo, hoạt tính mạnh mẽ, cân bằng axit amin tự do và có trọng lượng phân tử cao hơn. Sản phẩm cuối cùng mang đặc tính 85% peptide dưới 1000Da cùng hàm lượng protein 67% với độ hòa tan trên 90%.

Symrise cũng tài trợ nghiên cứu (Robert, 2014) và đã xác

Ảnh: ST

định hơn 1.000 chuỗi peptide trong quá trình thủy phân đầu tôm, nhiều chuỗi có nguồn gốc từ sự phân cắt protein hemocyanin. Hemocyanin là protein chiếm ưu thế trong động vật giáp xác, cần thiết cho vận chuyển ôxy và tham gia vào quá trình trao đổi chất và miễn dịch. Hemocyanin mã hóa các peptide kháng khuẩn khác nhau

được giải phóng sau quá trình thủy phân như một phần của hệ thống miễn dịch không đặc hiệu trên tôm.

Nguồn dinh dưỡng cho cá biển

Dịch thủy phân đầu tôm cung cấp di-tripeptide và tripeptide

cùng axit amin tự do cho ấu

trùng cá, giúp thúc đẩy sự phát

triển của ấu trùng trong giai

đoạn hệ tiêu hóa còn non nớt và

khả năng thủy phân protein hạn

chế. Theo các nghiên cứu trước

đó, dịch thủy phân đầu tôm

thúc đẩy tốc độ tăng trưởng, giảm dị tật và cải thiện sức khỏe

tổng thể tốt hơn so với các loại

protein thủy phân khác hoặc

protein thông thường (Delcroix et al., 2015; Printzi et al., 2024).

Mức bổ sung thủy phân tôm

khuyến nghị trong chế độ ăn của

ấu trùng là 6 - 12%.

Đối với cá biển non, dịch thủy phân tôm kích thích tăng trưởng, kích thước đồng nhất và giúp cá

Đối với cá biển non, dịch

thủy phân tôm kích thích tăng trưởng, kích thước đồng

nhất và giúp cá khỏe mạnh hơn trước khi chuyển ra môi

trường biển.

khỏe mạnh hơn trước khi chuyển ra môi trường biển. Do đó, chất dinh dưỡng này chính là tiền đề cho sự thích nghi tốt hơn của cá non với mô hình lồng biển sau quá trình vận chuyển căng thẳng từ trại ương đến trại nuôi thương phẩm trên biển. Tỷ lệ bổ sung thủy phân tôm khuyến nghị trong giai đoạn cá non là 2 - 5%.

Khi sử dụng thủy phân tôm, các hãng thức ăn có thể cắt giảm tỷ lệ bột cá mà vẫn đảm bảo tính ngon miệng và giá trị dinh dưỡng của thức ăn. Trong các thử nghiệm thương mại trên nhiều vật nuôi thủy sản ở

Hàn Quốc, Thái Lan, Ecuador, Pháp, Tây Ban Nha, chế độ ăn

cắt giảm bột cá kết hợp thủy phân tôm cải thiện lượng ăn, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ biến đổi thức ăn. Ví dụ, thử nghiệm

trên cá tráp đỏ non ở Hàn Quốc

được nuôi bằng chế độ ăn 5%

thủy phân tôm và cắt giảm

50% bột cá cho hiệu suất nuôi tốt hơn và khả năng chống lại thách thức dịch bệnh hiệu quả

hơn so với chế độ ăn có hàm lượng bột cá cao.

Trong tất cả các thử nghiệm, sức đề kháng của vật nuôi tăng lên đều nhờ đáp ứng miễn dịch được cải thiện khi bổ sung dịch thủy phân tôm. Tác dụng tăng cường miễn dịch có thể được xác định thông qua hàm lượng lysoenzyme và tổng globin miễn dịch trong máu tăng. Ngoài ra, hoạt tính kháng protease, tiêu diệt vi khuẩn, số lượng tế bào và biểu hiện của gen miễn dịch cũng tốt hơn, dẫn đến tỷ lệ sống tăng và thời gian phục hồi nhanh hơn. Cùng đó, khả năng tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng của nhóm cá thử nghiệm đều được cải thiện. Điều này chứng tỏ dịch thủy phân tôm tác động tích cực đến sức khỏe đường ruột.

Dũng Nguyên (Theo Aquafeed)

Pyrrophyta là một trong những nhóm tảo đơn bào, còn được gọi là

Dinophyta hay tảo giáp. Một số loài Pyrrophyta có thể gây ra hiện tượng “tảo nở hoa” độc hại, ảnh hưởng đến thủy sản nuôi.

Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân khiến tảo giáp trong ao nuôi phát triển quá mức như: thức ăn dư thừa dẫn đến chất dinh dưỡng dư thừa trong ao tăng cao, mưa xuống làm tăng hàm lượng chất hữu cơ lơ lửng trong nước…

Phòng ngừa

Giảm lượng phospho trong nước là việc đầu tiên cần làm để phòng ngừa “tảo nở hoa”. Hàm lượng phospho trong nước tăng cao là nguyên nhân chính dẫn

đến tảo giáp bùng nổ, việc cần làm lúc này là sử dụng những hợp chất có khả năng liên kết với phospho tự do trong nước, ngăn không cho phospho tái hòa tan vào lại môi trường. Zeolite là một khoáng vật tự nhiên có cấu trúc vi xốp với các khoang và kênh rỗng bên trong chứa các ion dương như natri (Na+), canxi (Ca² +), hoặc kali (K+), giúp nó có khả năng trao đổi ion và hấp thụ các chất khác nhau, bao gồm cả phospho.

Trong nước ao, các ion phosphat (PO4³-) có thể gắn kết với các ion dương (cations) này trong cấu trúc của ZEOLITE. Quá trình này giúp loại bỏ ion phosphat khỏi nước, gắn kết chúng vào zeolite. Ngoài giảm lượng phospho, ZEOLITE còn giúp làm giảm cả hàm lượng amonium - một nguồn dinh dưỡng khác của tảo giáp. Sử dụng ZEOLITE với lượng 40 kg/1.000 m3 nước ao để giảm lượng phospho cũng như amonium trong ao nuôi.

Cạnh tranh nguồn dinh dưỡng với tảo giáp bằng các vi sinh vật có lợi: Sử dụng GREEN EM 2 lít/1.000 m3 nước, sử dụng 2 lần/ tuần. GREEN EM chứa bộ ba vi sinh vật có lợi Sacchromyces, Bacillus và Lactobacillus giúp phân hủy nhanh các chất hữu cơ dư thừa, hấp thụ các khí độc như H2 S, Nitrite, Nitrate, Amoni… khiến tảo giáp không còn thức ăn để phát triển.

Cạnh tranh ánh sáng với tảo bằng sản phẩm gây màu nước

SUPER BLUE giúp hấp thụ ánh sáng, hạn chế sự quang hợp của tảo giáp giúp giảm lượng tảo.

Xử lý

Khi màu nước ao chuyển màu đỏ (có thể quan sát bằng mắt thường) hay pH về đêm giảm

mạnh (chênh lệch pH đêm và ngày cao), đó có thể là những biểu hiện ban đầu của hiện tượng “tảo nở hoa”, cần phải xử lý ngay để tránh thiệt hại trong quá trình nuôi. - Đồng sulfate (CuSO 4) và các sản phẩm có gốc đồng: Có

khả năng phá vỡ màng tế bào, tiêu diệt tảo giáp. Phương pháp này có ưu điểm là rẻ, hiệu quả tốt; tuy nhiên đồng khá độc với thủy sinh vật, đặc biệt là tôm nên cần sử dụng đúng liều, không nên dư thừa. Người nuôi có thể tham khảo các sản phẩm của công ty: CuSO 4.5H2O, Cắt tảo nước, COP ALGAECIDE

- SODIUM PERCARBONATE

(oxy bột, oxy viên): Khi tiếp xúc với nước, sodium percarbonate

phân hủy và giải phóng hydrogen peroxide, đây là một chất ôxy hóa mạnh, có thể phá vỡ màng tế bào của tảo giáp. Bên cạnh đó nó còn giải phóng ôxy giúp “cấp cứu” vật nuôi khỏi tình trạng thiếu ôxy khi tảo phát triển mạnh về đêm. Ngoài ra sodium percarbonate

do “tảo nở hoa”. Sử dụng hiệu quả nhất khi rạng sáng, đây là khoảng thời gian tảo giáp sinh sản cũng như lượng ôxy và pH tuột thấp, liều sử dụng 2 - 3 kg/1.000 m3 - BKC (Benzalkonium Chloride): BKC hoạt động bằng cách phá hủy màng tế bào của tảo giáp, làm rò rỉ các thành phần tế bào và tiêu diệt chúng. Liều dùng BKC 80%: 1 lít/2.000 m3 nước để tiêu diệt tảo gây hại.

Lưu ý sau khi xử lý: Xác tảo giáp khi chết có khả năng phân hủy tạo thành các khí độc gây hại cho vật nuôi thủy sản. Do đó, người nuôi cần bổ sung lại các vi sinh vật có lợi để hỗ trợ phân hủy xác tảo (do quy trình diệt tảo cũng tiêu diệt phần nào hệ vi sinh vật trong ao nuôi). ACCELOBAC AG với thành phần Bacillus spp đậm đặc kết hợp với các enzyme như Cellulase, Protease, Lipase, Amylase sẽ giúp phân hủy xác tảo một cách nhanh chóng và hiệu quả, giúp ao nuôi trở lại trạng thái bình thường ngay lập tức. Sử dụng ACCELOBAC AG với lượng 100 g/1.000 m3 nước.

Khoa học xanh

Thông tin chi tiết xin vui lòng liên hệ: Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh Địa chỉ: Lô LF26, đường số 2, KCN Xuyên Á, Mỹ Hạnh Bắc, Đức Hòa, Long An Hotline: 091616.8200 - Website: khoahocxanh.com

Bệnh

biện

ruột trên tôm và

pháp xử lý triệt để

Bệnh đường ruột ở tôm

khá phổ biến với các

biểu hiện bệnh như phân

trắng, đứt khúc, trống

ruột, phân loãng... kéo dài

có thể dẫn đến hư gan

tụy của tôm, nếu không

phòng và điều trị kịp thời

sẽ làm giảm năng suất và

chất lượng tôm nuôi.

Nguyên nhân

Nhiễm vi khuẩn Vibrio spp.:

Khi chất lượng nước kém, mật

độ Vibrio tăng cao, xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh cho tôm. Hầu hết các chủng Vibrio đều có khả năng gây bệnh, khi vào đường ruột, vi khuẩn phá hủy thành ruột gây viêm, tôm không ăn được dẫn đến trống ruột, đứt khúc.

Nhiễm ký sinh trùng Gregarine (trùng 2 tế bào): Khi tôm ăn phải ký chủ của loài Gregarine này như nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, giun nhiều tơ, ốc... sẽ bị ấu trùng xâm nhập vào ruột, phát triển thành dạng trưởng thành, sống ký sinh và bám vào thành ruột. Khi mật độ Gregarine dày đặc sẽ làm tắc nghẽn ruột, hình thành những tổn thương ở đường ruột tạo điều kiện cho tác nhân cơ hội tấn công gây bệnh cho tôm nuôi. Thức ăn: - Tôm ăn thức ăn bị ẩm mốc, nhiễm khuẩn gây ngộ độc cho tôm

- Tôm ăn phải tảo độc trong ao như tảo lam: Loài tảo độc này sẽ

tiết độc tố làm tê liệt lớp biểu bì

mô ruột, làm ruột không hấp thu

AQ 6S

Vi sinh xử lý môi trường

Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý tảo, chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao nuôi, ức chế triệt để Vibrio spp. …

AQUAFEED/AQUAMEDICA

Men đường ruột

Ức chế phân trắng, phân loãng, trống ruột, đứt khúc sau 3 ngày

Chế phẩm vi sinh đặc hiệu chuyên ức chế ký sinh trùng

được thức ăn, tôm yếu và bị bệnh

Môi trường:

- Thời tiết thất thường như mưa

nắng kéo dài cũng làm cho tôm yếu, bỏ ăn làm cho ruột trống

- Chất lượng nước kém: nước

đục, nhiều bọt dơ, tảo tàn, tảo

nở hoa, khí độc... làm cho tôm stress, ăn kém hoặc bỏ ăn

Khi đường ruột tôm bị tổn

thương và suy giảm các chức năng

của cơ quan này, tôm không hấp

thụ được thức ăn làm giảm sức

khỏe tôm, cùng với sự tấn công

của các tác nhân cơ hội sẽ làm tôm

bệnh nghiêm trọng hơn và chết.

Tác hại

Mặc dù không gây chết hàng

loạt trong thời gian ngắn, nhưng

sẽ làm tôm bị bệnh mãn tính, khó

điều trị. Tôm bị bệnh, bỏ ăn, không

bắt mồi, còi cọc, không lớn, hoạt

động yếu gây ảnh hưởng đến năng

suất và chất lượng tôm nuôi.

Các biện pháp phòng chống

bệnh đường ruột Kiểm soát tốt chất lượng nước: Diệt khuẩn định kỳ, xử lý chất hữu

cơ dư thừa, bùn đáy ao, tảo độc, thường xuyên kiểm tra nồng độ oxy hòa tan (>4 ppm) tốt nhất là 5 ppm (kích thích tôm ăn khỏe, lớn nhanh, ít bị bệnh tấn công).

Kiểm soát chất lượng thức ăn và lượng cho ăn: Đảm bảo thức ăn sạch, hạn chế lượng thức ăn dư thừa gây ô nhiễm hữu cơ.

Tăng sức đề kháng và diệt mầm bệnh trong đường ruột tôm.

Sử dụng chế phẩm sinh học:

- Chế phẩm vi sinh: Ổn định hệ vi khuẩn đường ruột, tăng mật độ vi khuẩn có lợi trong đường ruột tôm; chủng vi sinh đặc hiệu chuyên ức chế ký sinh trùng; vi sinh xử lý nước và đáy ao nuôi để phân hủy chất hữu cơ, thức ăn dư thừa.

- Chế phẩm Enzyme: Enzyme hỗ trợ tiêu hóa, Enzyme cắt tảo độc, xử lý nước ao ô nhiễm hữu cơ.

Đề xuất giải pháp từ Công ty Thái Nam Việt Bệnh đường ruột ở tôm nuôi tuy không gây chết hàng loạt nhưng lại làm giảm chất lượng tôm và năng suất vụ nuôi, do đó, cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, việc điều trị bệnh có thể nhanh chóng và hiệu quả nhưng sẽ gây ảnh hưởng đến sự phát triển sau đó của tôm nuôi, do đó bệnh này chủ yếu phòng là chính. Sử dụng chế phẩm sinh học sẽ giải quyết được vấn đề mục tiêu và đảm bảo cho sự tăng trưởng và sức khỏe tôm, hạn chế được thiệt hại và nâng cao năng suất.

Thái Nam Việt

Thông tin liên hệ: Công ty TNHH Công nghệ - Kỹ thuật-Sinh hóa Thái Nam Việt Địa chỉ: 126 Lã Xuân Oai, P. Tăng Nhơn Phú A, TP. Thủ Đức, TP.HCM ĐT Đặt hàng: 0888 59 63 66 - 0888 69 36 39 - 0916865938

Email: info@thainamviet.vn - Website: thainamviet.com

BATENDO

Nano Bubbles

Sức

mạnh từ những bọt khí siêu nhỏ

Trong bối cảnh ngành thủy sản toàn cầu đang phải

đối mặt với những thách thức về môi trường và hiệu

quả sản xuất, công nghệ Nano Bubbles đang nổi lên

như một giải pháp đột phá. Với khả năng cải thiện

chất lượng nước và duy trì mức ôxy hòa tan cao, những bọt khí siêu nhỏ này đang giúp các trang trại

thủy sản nâng cao năng suất và phát triển bền vững.

Nano bubbles là những

bong bóng khí có kích

thước siêu nhỏ, 80120 nanomet, không thể nhìn

thấy bằng mắt thường. Điểm đặc biệt của các bong bóng này nằm

ở khả năng duy trì trong nước trong thời gian dài mà không nổi lên và thoát khí. Nhờ điện tích âm mạnh và kích thước cực nhỏ, có

thể phân tán đều trong nước, tạo ra diện tích tiếp xúc lớn và hiệu quả truyền ôxy vượt trội.

Ứng dụng trong ngành thủy sản Một trong những lợi ích lớn nhất của công nghệ Nano Bubbles trong NTTS là khả năng tăng cường ôxy hòa tan (DO) trong nước. Với các phương pháp sục khí truyền thống, việc tăng mức DO gặp nhiều hạn chế. Tuy nhiên, với Nano Bubbles, nồng độ DO có

thể tăng lên gấp 3 lần nhờ vào khả

năng truyền khí hiệu quả và duy trì

ôxy liên tục trong nước. Điều này

giúp giảm stress cho cá, tôm và

các sinh vật nuôi khác, đồng thời cải thiện tốc độ sinh trưởng và sức

khỏe tổng thể của chúng.

Ngoài ra, Nano Bubbles còn có

khả năng tiêu diệt các vi khuẩn

gây hại và kiểm soát chất lượng

nước thông qua việc giải phóng

các gốc hydroxyl (OH), một chất

ôxy hóa mạnh. Nhờ đó, các mầm

bệnh như Vibrio spp. - nguyên

nhân gây ra nhiều bệnh tật trong

thủy sản - giảm một cách hiệu quả

mà không cần sử dụng hóa chất.

Tác động kinh tế và môi trường

Việc ứng dụng công nghệ

Nano Bubbles không chỉ mang

lại lợi ích về mặt sinh học mà còn có giá trị kinh tế to lớn. Các trang

Công ty TNHH B.H.N tiến hành lắp đặt Nano Bubbles tại trang trại cá ở Hàn Quốc

Lắp đặt đường ống cho ao 4.000 m3 sử dụng Nano Bubbles tại trang trại tôm ở Cần Giờ

trại thủy sản có thể tiết kiệm chi phí năng lượng nhờ hiệu suất cao trong việc truyền ôxy và giảm nhu cầu sử dụng hóa chất diệt khuẩn.

Hơn nữa, khả năng duy trì ôxy lâu

dài trong nước giúp giảm tần suất

và chi phí bảo trì hệ thống sục khí.

Tương lai của ngành thủy sản

Với Nano Bubbles

Với tiềm năng to lớn, công

nghệ Nano Bubbles đang dần

Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N

Số điện thoại: 028.668.101.95

Website: bhnenc.com

Email: bhnenc@gmail.com

trở thành một tiêu chuẩn mới trong NTTS. Từ việc tăng cường sức khỏe cho sinh vật nuôi đến giảm thiểu chi phí và bảo vệ môi trường, công nghệ này không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững cho ngành thủy sản.

Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, Đường Nguyễn

Hữu Thọ, Xã Phước Kiển, Huyện Nhà Bè, TP. HCM

B.H.N

Vi sinh Enzyme dùng cho ao nuôi

mật độ cao

Công ty Aquatic BioScinece, LLC (ĐC: 3/321

Thomas Lane (P.O. Box 2468) Fort Bragg, CA 95437 USA) chuyên cung cấp các mặt hàng

vi sinh và Enzyme phục vụ trong NTTS.

Ưu điểm vượt trội của các sản phẩm vi sinh của Mỹ:

- Trong thành phần sản phẩm có thêm các loại enzyme: protease, amylase, lipase, esterase, cellulase, xylanase và urease.

- Tiết kháng sinh ức chế nhiều vi sinh vật có hại.

- Tạo ra Enzyme phân hủy các chất hữu cơ trong ao nuôi giúp xử lý nhớt bạt, nhớt đáy, giữ màu nước sáng đẹp trong ao nuôi, xử lý khí độc NH3, NO2

- Chịu va đập tốt, nhiệt độ thích nghi từ 10 - 50 o C nên rất dễ bảo quản ở các điều kiện thông thường.

- Biên độ pH từ 1 - 10, độ mặn từ 0 - 45‰. Vì vậy có thể sử dụng ở cả môi trường nước ngọt và nước mặn.

Các ưu điểm trên được áp dụng trong các sản phẩm như:

1. Biogen: Men Đường Ruột - Trị phân lỏng, phân đứt khúc - nông to đường ruột

2. ABS: Xử lý nhớt bạt, nhớt đáy

3. Solix- 888: Vi sinh Gây màu nhanh - hết rong đáy

Hiện nay 3 sản phẩm trên được dùng suốt trong quá trình nuôi. Trong nuôi tôm mật độ cao sản phẩm Solix88 8 được dùng trong các ao nuôi bị mất màu và gây màu nhanh kịp thả giống thay cho phương pháp truyền thống ủ men. Đánh xuống nước trước khi thu hoạch giúp cho tôm có màu sắc bóng đẹp. Solix - 888 có 2 màu như: màu tảo khuê, màu xanh dương phù hợp cho tất cả các khu vực nuôi mật độ cao. Ngoài ra, Công ty phân phối các dòng nguyên liệu trên.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Kỹ thuật nuôi cá chim vây vàng trong ao

Cá chim vây vàng là loài cá đặc sản có giá

trị kinh tế cao, thịt thơm ngon, giàu chất dinh dưỡng và là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả cho người nuôi.

Lựa chọn mùa vụ nuôi

Việc nuôi thương phẩm cá chim trắng vây vàng trong ao đầm nước lợ chỉ nên kéo dài từ 8 -10 tháng, như vậy sẽ thuận lợi cho công tác quản lý và chăm sóc. Cần chọn nơi có địa hình thuận tiện, biên độ dao động của thủy triều 2 - 3 m. Chất đất: Loại sét thường hay sét pha cát (giữ được nước ao) để giữ nguồn nước. Yêu cầu chỉ số kỹ thuật một số yếu tố môi trường phù hợp nhất để nuôi cá chim vây vàng: Nhiệt độ 26 - 320 C, độ mặn 10 - 20‰, Ôxy hòa tan 5 - 7 mg/l, NH3 < 0,9 mg/l, pH nước 7,5 - 8,5.

Ao nuôi

Ao nuôi có diện tích từ 2.000 - 5.000 m2  là thích hợp.

Độ sâu của ao 1,2 - 1,5 m. Ao có hệ thống cấp và thoát

nước riêng biệt. Đáy ao bằng phẳng, hơi nghiêng về phía

cống thoát. Trước khi thả nuôi khoảng 2 tuần, cần tháo cạn nước, cày xới lớp đất mặt đáy ao, bón vôi với lượng

1.000 - 1.500 kg/ha, tùy theo độ chua, sau đó phơi ao từ

1 - 2 tuần. Cấp nước vào ao nuôi qua lưới lọc có kích thước mắt lưới 2,5 mm.

Đối với ao nuôi cũ: Cũng giống như các ao nuôi đối tượng khác, ao sử dụng để nuôi cá chim trắng vây vàng sau khi tháo khô tu sửa lại bờ ao, cống và hút hết bùn đáy ra thì tiến hành bón vôi lượng 10 - 15 kg/100 m2 ao.

Đối với ao nuôi mới: Ao sau khi mới xây xong cần thau chua 2 - 3 lần sau đó căn cứ vào nồng độ pH của đất để bón vôi cải tạo với lượng 10 - 20 kg/100 m2 ao.

Lấy nước: Nước lấy vào được lọc kỹ qua lưới dày, sau khi mực nước trong ao đạt 1 - 1,2 m thì tiến hành gây màu nước bằng phân hữu cơ ủ kỹ, liều dùng 10 - 20 kg/100 m2 . Sau 5 - 7 ngày màu nước trong ao có màu xanh vỏ đậu thì tiến hành thả giống.

Chọn giống

Chọn giống khỏe mạnh, không dị hình, không có dấu hiệu mắc bệnh, bơi lội linh hoạt, ngược chiều dòng chảy và có

kích thước đồng đều, cỡ giống khoảng 8 - 10 cm, mật độ thả 1 - 2 con/m2 tùy vào điều kiện đầu tư, chăm sóc. Cỡ cá đưa vào nuôi thương phẩm 10 - 20 g/con để có thể thu hoạch sau khi nuôi từ 8 - 10 tháng. Trước khi thả cá cần phải thuần hóa độ mặn để độ mặn nước trong bao vận chuyển cá và ao nuôi chênh lệch nhau không quá 5‰. Thời gian thả: Nuôi cá chim vây vàng phải biết được thời điểm nào thả cá xuống ao là thích hợp nhất. Theo kinh nghiệm của nhiều chuyên gia nuôi cá cho biết thì thời gian thả giống vào khoảng tháng 3, tháng 4 trong năm là thích hợp nhất. Trước khi thả, tắm cá bằng nước ngọt hoặc fomaline, nồng độ 20 ppm trong 10 - 15 phút. Trong quá trình tắm cần quan sát và cung cấp

đủ ôxy, nếu cá có biểu hiện sốc cần giảm nồng độ thuốc hoặc rút ngắn thời gian tắm. Thả cá vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối, thả vào đầu chiều gió, trước khi thả

đưa túi cá giống xuống ao trong vòng 5 - 10 phút cho cá thích ứng dần với môi trường nước. Tiếp theo đó, mở túi thả cho cá giống ra từ từ.

Cho ăn

Nguồn dinh dưỡng chính của cá chim vây vàng chính là thức ăn viên dạng nổi có hàm lượng đạm 40 - 45%, hàm lượng lipid 12 - 15%, không sử dụng thức ăn kém chất lượng, thức ăn bị ẩm mốc. Cho cá ăn tỷ lệ phụ thuộc vào thời gian nuôi và độ lớn nhỏ của cá. Khi cho cá ăn cũng cần quan sát

khả năng bắt mồi của cá và lượng thức ăn thừa trong sàng ăn để điều chỉnh lượng thức ăn một cách thích hợp nhất. Cho ăn 2 lần/ngày vào thời điểm 8h và 17h, chỉ nên cho ăn lúc cá bơi gần mặt nước.

Quản lý chất lượng nước

Thư ờng xuyên kiểm tra các yếu tố môi trư ờng nuôi (độ sâu, độ mặn, nhiệ t độ, ôxy hòa tan) và tình trạng sứ c khỏe cá. Lưu ý thay nư ớc cho ao nuôi theo chế độ thủ y triều hoặc lấy nư ớc từ ao chứ a. Đảm bảo mực nước ao luôn ở mứ c >1,2 m. Thay nư ớc ít nhất 2 lần/ tuần từ 20 - 50% khối lư ợng nư ớc ao, tùy theo chất lư ợng nư ớc trong ao. Chú ý định kỳ 2 lần/tháng nên sử dụng các loại chế phẩm sinh học để cải tạo môi trường ao nuôi.

Chăm sóc

Trong kỹ thuật nuôi cá chim vây vàng cần phải chú ý tới một

số bệnh do vi khuẩn, ký sinh trùng.... Cá thường có hiện tượng cá bỏ ăn, bụng chướng to, thức ăn trong ống tiêu hóa không tiêu, cá hoạt động kém, bơi chậm chạp, màu sắc của cá từ màu sáng nâu chuyển sang màu xám đen, cá chết rải rác. Biện pháp phòng trị tốt nhất là cải thiện điều kiện môi trường nuôi luôn phải sạch, không ô nhiễm. Trong quá trình

cho cá ăn, nên bổ sung thêm Vitamin C để tăng sức đề kháng cho cá. Khi phát hiện thấy cá bị bệnh, tiến hành thay nước liên tục trong 3 ngày và trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cho cá với liều lượng 3 - 5 g/1 kg thức ăn/ngày. Cho ăn 5 ngày liên tục, mỗi ngày cho ăn một lần vào buổi sáng. Sau khi cho cá ăn thuốc được 5 ngày không còn hiện tượng cá chết rải rác, cá hoạt động bình thường.

Thu hoạch

Sau 10 - 12 tháng nuôi cá đạt kích cỡ thương phẩm có thể tiến hành thu hoạch. Không thu cá vào những lúc trời nắng to hoặc những ngày thời tiết âm u. Lưu ý trước khi thu hoạch 1 ngày, bà con không được cho cá ăn. Có thể dùng lưới kéo được trên 95% tổng số cá trong ao. Sau đó rút nước để ao cạn và thu hoạch số còn lại trong ao. Hoàng Yến

Ảnh: Shutterstock

Bệnh thường gặp

trên cá mú và cách điều trị

Đây là các nguyên nhân chính gây ra bệnh trên cá mú: Nuôi với mật độ dày; chọn con giống không đảm bảo, mang sẵn mầm bệnh trong người; thức ăn bị ôi thiu, không rửa sạch, thức ăn có dinh dưỡng không đảm bảo; không cải tạo ao, xử lý lồng lưới nuôi cá kỹ càng; môi trường, thời Vi khuẩn là vi sinh vật không thể thấy bằng mắt thường, không phải tất cả vi khuẩn đều có hại. Nơi cư trú của vi khuẩn: Có thể tìm gặp vi khuẩn gây bệnh ở lưới bao, cây cỏ, động vật trong môi trường nuôi hoặc trôi nổi tự do trong môi trường nước dạng

Cơ quan cá bị nhiễm: Vây,

Dấu hiệu cá bệnh: Vây bị rữa, xuất huyết dưới da, có khối u, màu sắc đậm,

Vi khuẩn nhiễm bệnh cho cá khi: Mật độ cá quá cao, chất lượng dinh dưỡng và nước kém. Nhiễm ký sinh trùng và chúng tạo vết thương, đó chính là lối vào cho vi khuẩn xâm nhập. Ô nhiễm chất hữu cơ vì thức ăn thừa và nước kém lưu chuyển.

Duy trì mật độ cá và sinh khối thích hợp bên trong hệ thống nuôi. Duy trì sự lưu thông nước cho lồng nuôi bằng cách vệ sinh và thay lồng để giảm thiểu sinh vật bám trên lưới. Thức ăn tươi hoặc nhân tạo cho cá phải được

Tắm cá trong nước ngọt, không kéo dài quá 15 phút. Tắm cá nhanh bằng dung dịch formalin và Iodine (200 cc ). Tắm cá bằng Oxytetracycline 20 - 30 ), tắm trong

nước ngọt, sục khí, 15 - 20 phút. Tắm formol + thuốc tím (20 cc formol + 5 - 10 g thuốc tím/m3 ) thời gian 15 - 20 phút, sục khí.

Bệnh do ký sinh trùng Ký sinh trùng là những sinh vật sống bám trên ký chủ đang sống. Ký sinh trùng được xem là tác nhân gây nhiều bệnh cho cá mú. Những ký sinh trùng chính ở cá mú gồm các loại sau: Trùng lông tơ (Ciliata): Trùng lông tơ là một loại nguyên sinh động vật ký sinh có lông tơ (cilia) được dùng để di chuyển. Những loài lông tơ ký sinh ở cá mú là Cryptocaryon, Trichodina, Brooklynella. Cryptocaryon là loài ký sinh quan trọng nhất trong nghề nuôi cá mú vì chúng có thể giết sạch đàn cá nuôi. Chúng có hình quả lê kích thước 0,5 mm với lớp lông tơ trên bề mặt.

Cơ quan bị nhiễm: Bề mặt thân, mắt cá.

Các dấu hiệu bệnh lý: Các chấm trắng trên da cá, cá cọ mình vào các vật cứng khi bơi, trên thân cá xuất hiện nốt nhày.

Tác hại: Ảnh hưởng hô hấp của cá, gây nhiễm trùng thứ cấp, cá chết nhiều nếu không xử lý. Cryptocaryon xuất hiện trên cá khi mật độ cá nuôi quá cao, nhiệt độ nước giảm, cá bị sốc.

Điều trị bệnh: Tắm 0,5ppm CuSO 4 (0,5 g CuSO 4 trong 1 tấn nước) 5 - 7 ngày, sục khí mạnh, thay nước đã xử lý và hóa chất hàng ngày. Tắm cá bằng nước có 25 ppm formalin (25 ml formalin trong 1 tấn nước) 5 - 7 ngày, sục khí mạnh, thay nước đã xử lý và hóa chất hàng ngày.

Chuyển cá đã xử lý vào bể nước sạch 2 lần trong vòng 3 ngày.

Ký sinh trùng Trichodina: Có thân hình dĩa, kích thước 100mm (đường kính thân), lông tơ mọc bao quanh thân.

Cơ quan bị nhiễm: Mang, bề mặt thân.

Dấu hiệu bệnh lý: Mang có màu lợt, cá cọ mình vào vật cứng, tạo nhiều niêm dịch trên mang và bề mặt thân, cá yếu trong thời kỳ nhiễm trùng.

Tác hại: Ký sinh trùng phá hủy mô của ký chủ, dịch nhày bám trên mang gây khó khăn cho hô hấp của cá. Trichodina nhiễm vào cá khi hàm lượng chất hữu cơ trong nước cao, ít thay nước, chất lượng nước kém.

Điều trị bệnh: Tắm cá với dung dịch formalin 200ppm (200ml formalin trong 1 tấn nước) trong

30 - 60 phút, sục khí mạnh, hoặc tắm cá với dung dịch formalin 25ppm (25ml formalin trong 1 tấn nước), trong 1 - 2 ngày, sục khí mạnh.

Brooklynella: Có hình quả thận, kích thước 60 mm, trên thân có những hàng lông tơ mọc song song.

Cơ quan bị nhiễm: Mang, bề mặt thân.

Dấu hiệu bệnh lý: Cá cọ mình

vào các vật cứng.

Tác hại: Da bị tổn thương, có vấn đề về hô hấp, nhiễm trùng thứ cấp, cá bị chết nhiều.

Phòng bệnh: Tắm cá với dung

dịch formalin 200 ppm (200 ml formalin trong 1 tấn nước) trong 30 - 60 phút, sục khí mạnh, hoặc tắm

cá với dung dịch formalin 30ppm (30 ml formalin trong 1 tấn nước) trong 1 - 2 ngày, sục khí mạnh. Sán lá ở da nhiễm vào cá khi mật độ cá nuôi cao, có sự truyền bệnh qua các thế hệ cá nuôi.

Điều trị bệnh: Tắm cá trong nước ngọt 10 - 30 phút. Tắm cá trong dung dịch oxy già 150 ppm (500ml dung dịch 30% H2 O2 trong 1 tấn nước) trong 10 - 30 phút, sục khí mạnh.

Sán lá ở mang: Sán lá là loài sán ký sinh bên ngoài cơ thể cá, sán dài 0,5 - 1 mm. Các loài sán lá thông thường ký sinh ở mang là Pseudorhabdosynychus, Haliotrema và Diplectanum.

Cơ quan bị nhiễm: Mang cá

Dấu hiệu bệnh lý: Mang cá có màu lợt, tập tính bơi bị nổi trên

mặt nước, thân bị trắng, cá kém ăn

Tác hại: Hô hấp khó khăn, cá chết nhiều. Sán lá ở mang xâm nhập cá khi mật độ cá nuôi cao, vệ sinh lồng kém.

Điều trị bệnh: Tắm cá trong dung dịch ôxy già 200 ppm (667 ml H2 O2 30% trong 1 tấn nước) trong 1 giờ, sục khí mạnh, hoặc tắm cá trong dung dịch formalin

100 - 200 ppm (100 - 200 ml formalin trong 1 tấn nước) 3060 phút, sục khí mạnh.

Virus

Là tác nhân gây bệnh có kích thước nhỏ nhất, thông thường bằng 1/20 kích thước của vi khuẩn. Chúng xâm nhập vào sinh vật sống, sinh sản bên trong ký chủ và gây bệnh bằng cách làm tổn hại các mô của ký chủ. Ở cá mú có 2 loại virus được biết là virus gây hoại tử thần kinh (VNN) và irido virus… Bệnh này chưa có thuốc điều trị, phòng bệnh là chủ yếu. Cần cho cá mú ăn đầy đủ chất dinh dưỡng kết hợp vitamin tăng sức đề kháng, giữ cho môi trường nuôi cá luôn sạch sẽ. Có thể ngăn ngừa bệnh bằng cách: Tiệt trùng các bể và phương tiện khác trước khi sử dụng. Tránh làm sốc cá khi vận chuyển và thả giống. Cung cấp đầy đủ thức ăn, chất dinh dưỡng cho cá.

Bệnh do nấm

Nấm là vi sinh vật có dạng sợi, tăng trưởng không cần ánh sáng, chúng tạo năng lượng bằng cách tiêu thụ chất hữu cơ…

Phòng ngừa: Tránh làm cá bị thương, chuyển ngay cá có dấu hiệu bị nhiễm nấm khỏi hệ thống nuôi. Không cho cá thức ăn bẩn và hư. Bảo quản tốt thức ăn nhân tạo.

Bích Hòa

Ảnh: Nguyễn Kim

GenoMar 1000

Cá rô phi phát triển nhanh và có

khả năng phục hồi tốt được chọn lọc di truyền nhằm đạt năng suất cao trong NTTS. Sau hơn 33 thế

hệ được lai tạo chọn lọc bằng công nghệ tiên tiến, cá rô phi

GenoMar (Oreochromis niloticus)

đã được công nhận là loài cá rô phi cao cấp và được cải tiến di truyền nhất trên toàn thế giới. Bảng 1: Các chỉ số hiệu suất chính từ việc nuôi cá giống từ 22 g cho đến khi đạt trọng lượng cơ thể 1.000 g trong một thử nghiệm thực địa tại Brazil. Lợi nhuận hàng năm tăng so với giống thương phẩm ở địa phương.

GenoMar 1000 là dòng cá rô phi được

chọn lọc di truyền với các đặc điểm về sức khỏe, tỷ lệ sống, sự tăng trưởng và đạt tỷ lệ phi lê tốt nhất.

Hiệu suất cao

Hiệu suất cao và hiệu quả thức ăn tốt của GenoMar 1000, giúp giảm đáng kể chi phí sản xuất và tác động đến môi trường, góp phần nâng cao năng suất, sản lượng tốt hơn.

Tỷ lệ sống cao của dòng GenoMar 1000 dựa trên quá trình chọn lọc tăng

sức khỏe cho cá nói chung và khả năng kháng bệnh cụ thể như các bệnh lây nhiễm do Streptococcus, Flavobacterium và Francisella gây ra. Tỷ lệ sống cao phản ánh

sức khỏe cá được cải thiện và phúc lợi động vật ngày càng tốt hơn.

Những thành tựu có thể dự đoán về mặt sinh học được đảm bảo bằng phương pháp

chọn lọc gen và lai tạo theo dòng GenoMar 1000 được tạo ra bằng cách lai tạo chéo giữa những con cái có bộ gen tốt nhất được chọn lọc từ dòng khỏe mạnh và tỷ lệ sống

tốt với những con đực có bộ gen tốt nhất từ dòng tăng trưởng và năng suất.

Trọng số là 50/50 các đặc điểm của dòng bố mẹ được di truyền sang thế hệ con cái được giao cho người nuôi. Cá giống/cá con được kỳ vọng sẽ vượt trội hơn hiệu suất của dòng cá bố mẹ.

Sản xuất theo quy trình an toàn sinh học

Để cung cấp cá giống và cá bột sạch bệnh cho người nông dân, GenoMar 1000 được sản xuất tại các trung tâm uy tín, duy trì các tiêu

chuẩn cao về an toàn sinh học. Điều này tạo nên một nền sản xuất cá rô phi khỏe mạnh, bền vững hơn và có thể dự đoán trước được tình hình dịch bệnh. Bằng chứng về

thực địa được tiến hành trong điều kiện nuôi

thương phẩm ở Brazil (Hình 1). Sự tăng trưởng

vượt trội này dẫn đến tăng năng suất do số chu kỳ sản xuất mỗi năm tăng lên (Bảng 1).

Giảm rủi ro về môi trường và dịch bệnh

Tốc độ tăng trưởng nhanh kéo theo việc giảm số ngày nuôi và thời gian tiếp xúc với các bệnh lây nhiễm và rủi ro về môi trường.

Tăng tỷ lệ sống trong suốt vòng đời của cá

GenoMar 1000 đã chứng minh tỷ lệ sống trung bình từ khi thả đến khi thu hoạch là 95,2% (22 - 1350 g) nuôi lồng và 93,4% (221.196 g) nuôi trong ao trong một thử nghiệm thực địa ở Brazil (Hình 1).

Phúc lợi động vật

Tỷ lệ sống cao của GenoMar 1000 phản ánh phúc lợi động vật được cải thiện thông qua việc giảm tỷ lệ chết và tập trung tăng cường sức khỏe của cá.

Tính đồng nhất

GenoMar 1000 đã cho thấy tính đồng đều cao kìch cỡ cá khi thu hoạch trong lồng và ao. Ở trọng lượng mục tiêu là 1000 g, 74% cá nuôi trong lồng và 75% cá nuôi trong ao nằm trong nhóm trọng lượng 850 - 1150 g (Hình 1).

Hình 1. Sự tăng trưởng, tỷ lệ sống cuối cùng và tính đồng nhất của GenoMar 1000 so với dòng cá thương phẩm khác ở địa phương trong một thử nghiệm thực địa ở Brazil. Kết quả được thể hiện là bình quân hai lồng với hỗn hợp trộn lẫn 50/50 của hai dòng (common garden design), với cá được gắn thẻ riêng. Thông tin chi tiết hơn về thử nghiệm

Là công ty 100% vốn nước ngoài tại

Việt Nam, thuộc Tập đoàn GenoMar

Genetics As của Na Uy; bằng những

đột phá trong sản xuất giống, GenoMar

Genetics Việt Nam hướng đến mục tiêu cung cấp cho người nuôi cá rô phi

Việt Nam nguồn giống chất lượng cao, cũng như mở rộng cơ hội phát triển trong lĩnh vực giàu tiềm năng này.

có thể tham khảo tại

đây: https://genomar. com/wp-content/uploads/2024/06/Impactof-genetics-in-tilapia-production.pdf

Ưu điểm của GenoMar 1000 khi thu hoạch trong lồng (và ao): Tỷ lệ sống sót cao hơn 7% trong lồng (1% trong ao); Tăng trưởng nhanh hơn 29% trong lồng (33% trong ao); Trọng lượng cơ thể đồng đều hơn 23% trong lồng (23% trong ao).

Công ty TNHH GENOMAR GENETICS

VIỆT NAM

Địa chỉ: Serapork Tower, 56 Nguyễn Đình

Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP Hồ Chí Minh Ông Nguyễn Văn Trung, TGĐ Công ty Email: vincent.nguyen@genomar.com

Công ty TNHH Genomar Gentics Việt Nam - Chi nhánh Tây Ninh

Địa chỉ: Ấp An Lộc, xã An Cơ, huyện

Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam

Điện thoại: 081 5707179

Nuôi cá VietGAP trên sông Hậu,

lão nông thu lãi lớn

Chỉ với 30 bè gỗ nuôi cá nước ngọt trên sông Hậu, một lão nông ở Cần Thơ thu lãi khoảng 5 tỷ đồng/năm.

Ông Lý Văn Bon (phường

Bùi Hữu Nghĩa, quận

Bình Thủy, TP Cần Thơ) đang sở hữu 30 bè gỗ nuôi cá nước ngọt có tổng diện tích 7.000 m 2 nằm giữa dòng sông Hậu với nhiều loại cá đặc sản và quý hiếm như: Thát lát cườm, chạch lấu, cá hô, tra dầu, cá vồ đém, cá éc, cá cầy, cá heo, mè hôi…

Trong số các loại cá nuôi trong lòng bè gỗ, có tới 60 - 70% là cá thát lát và chạch lấu thương phẩm đã đạt tiêu chuẩn VietGAP

phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu.

Theo ông Bon, thát lát cườm vốn là loài thủy sản được người dân ở ĐBSCL nuôi trong ao đầm nên số lượng không nhiều, ông

đã thử sức đưa cá thát lát xuống nuôi trên dòng nước chảy. Cá

được sống trong môi trường gần như tự nhiên, độ sâu, dòng nước

chảy chuẩn, độ pH từ 7-8%, độ

kiềm từ 120 - 150 ppm, nước ít

bị ô nhiễm nên giúp cá mau lớn mà thịt rất ngon.

Với ưu điểm cá thát lát là loại thịt dai, giòn, ngọt và thơm đặc

trưng nên loại cá này rất thích

hợp để làm chả, món đặc sản

“hạng sang” của người miền Tây

từ trước tới nay.

Khi thu hoạch lượng cá tươi

này chủ yếu cung cấp cho các

đại lý, thương lái ở TP. HCM, Hà

Nội và các tỉnh thành lân cận.

Số lượng còn lại được chế biến

thành chả cá thát lát cung ứng cho hệ thống các siêu thị, cửa

hàng tiện ích trong nước và xuất

khẩu sang thị trường Nhật, Úc...

Hiện nay ông Bon còn đầu tư cơ sở sản xuất, chế biến các

sản phẩm từ cá thát lát như: Ướp

muối sả, rút xương, chả cá. Sản

phẩm được đóng gói, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu HACCP, cung cấp khắp các tỉnh, thành trong và ngoài nước.

Bên cạnh nuôi cá thát lát, ông

Bảy Bon còn thả nuôi 40.000 con

chạch lấu theo hướng VietGAP, đàn cá dự kiến cuối năm sẽ thu hoạch. Hiện giá cá chạch lấu trên thị trường khoảng 220.000 - 250.000 đồng/kg.

Chạch lấu (tên khoa học Mastacembelus favus) là loài cá nước ngọt có thân màu xanh đậm hoặc đen xám, trên thân có nhiều đốm vàng hình tròn hoặc

bầu dục, vây lưng, vây hậu môn và vây ngực có đốm đen nhỏ, không có vây bụng.

Khi còn nhỏ, thức ăn chủ yếu

của cá chạch lấu là giun, ấu trùng côn trùng, giáp xác nhỏ.

Khi lớn, chúng ăn côn trùng trưởng thành, tôm tép, cá nhỏ và

mùn bã hữu cơ.

Cá chạch lấu nuôi trong bè gỗ sau 1 năm tuổi có thể đạt trọng lượng từ 150 - 250 gram/con, dài

18 - 25 cm. Còn sau 2 năm nuôi cá đạt trọng lượng từ 450 - 500 gram/con và dài 35 - 40 cm. Cá chạch lấu thành thục và sinh sản sau 2 - 3 năm nuôi, con đực thường lớn hơn con cái. Con cái có sức sinh sản 4.500 - 7.500 trứng/lần, trứng có kích thước nhỏ, màu vàng.

Nuôi loại cá này trên sông có ưu thế là có dòng nước chảy, nước sạch, không ô nhiễm nên đàn cá phát triển tốt, lượng hao hụt gần như không đáng kể. Bình quân mỗi năm nuôi cá thát lát xuất bán khoảng 600 tấn, còn cá chạch lấu khoảng 15 - 17 tấn/ năm. Sau khi trừ hết chi phí, gia đình ông Bon lãi khoảng 5 tỷ đồng/năm.

pháp đặc biệt

Hasamini Thilakarathne là một trong những nữ

chuyên gia nuôi trồng thủy sản (NTTS) đầu tiên tại

Sri Lanka. Cô đang quản lý trại giống của Oceanpick - công ty nuôi cá biển xa bờ duy nhất tại nước này.

Bất chấp rào cản về giới tính

Hasamini Thilakarathne có niềm đam mê với đại dương và khoa học từ nhỏ, lớn lên cô quyết định theo đuổi ngành NTTS để kết hợp sở thích với sự nghiệp.

Trong một ngành công nghiệp chủ yếu do nam giới thống trị, Thilakarathne phải đối mặt với nhiều thiên kiến và rào cản về giới tính. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực và chuyên môn của mình, cô đã vượt qua mọi thách thức, không chỉ chứng minh được khả năng cá nhân mà còn mở ra cơ hội cho thế hệ phụ nữ trẻ khác trong ngành.

Tốt nghiệp Đại học Đại dương Sri Lanka với bằng cử nhân khoa học về ngư nghiệp và khoa học biển, cô được nhận vị trí trợ lý quản lý chất lượng hải sản tại một công ty chế biến cá biển. Nhờ dự án Nor-Lanka hợp tác giữa Na Uy và Sri Lanka, Thilakarathne được tài trợ để theo đuổi bằng thạc sĩ về độc học cá tại Đại học Bắc

Cực Na Uy, với luận án về chế biến cá ngừ ở Sri Lanka.

Sau khi học xong, Hasamini tập trung vào NTTS biển và

được nhận vào vị trí chuyên gia tại Oceanpick, trang trại cá biển xa bờ đầu tiên ở Sri Lanka. Hiện Thilakarathne chịu trách nhiệm

quản lý hoạt động trại giống và ương cá chẽm.

Thành tựu 1 triệu con cá bột

Nhiệm vụ hàng ngày của Hasamini bao gồm quản lý cá

bố mẹ, nuôi ấu trùng, sản xuất thức ăn, quản lý trại giống và chuyển cá bột. Cô chịu trách nhiệm duy trì chất lượng nước

tối ưu để đảm bảo sức khỏe và tăng trưởng của cá, lập kế hoạch cho ăn và phân loại, kiểm tra tình trạng sức khỏe của cá.

“Sản xuất cá bột chất lượng cao là một thách thức, mọi thứ phải được thực hiện chính xác, bắt đầu từ việc thu thập trứng đúng thời điểm, đúng quy trình.

Chúng tôi phải xử lý, quản lý dòng nước, và cung cấp thức ăn sống chất lượng cao để đạt được tỷ lệ sống sót cao”, Hasamini cho biết.

Tính đến thời điểm này, thành tựu đáng tự hào nhất của Thilakarathne là sản xuất

được hơn một triệu con cá bột

trong một cơ sở chỉ có sức

chứa 300.000 con, nhờ sử dụng

phương pháp trao đổi nước tỷ lệ thấp. Hơn nữa, cô và đồng nghiệp đã phát triển các kỹ thuật thông minh sử dụng công cụ sinh học để tạo miễn dịch cho cá bột

chống lại các mầm bệnh. Những

phương pháp này đã giúp tăng đáng kể tỷ lệ sống sót. “Chúng tôi cũng cho cá bố mẹ và cá bột ăn hoa xương rồng để giảm căng thẳng và thúc đẩy quá trình đẻ trứng”, Thilakarathne cho biết. Lê Nguyên (Theo Thefishsite)

Thilakarathne và cá chẽm tại ao nuôi của Oceanpick

Phú Thọ

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Thời gian qua, trên địa

bàn tỉnh Phú Thọ đã có

nhiều mô hình khuyến

ngư hiệu quả, góp phần

tăng giá trị sản xuất

thủy sản, nâng cao thu

nhập cho người dân, đẩy nhanh tiến trình xây

dựng nông thôn mới ở

các địa phương.

Tiềm năng lớn

Phú Thọ là địa phương có nhiều

tiềm năng, lợi thế phát triển thủy sản. Hệ thống sông, ngòi, ao, hồ

đa dạng, thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản với diện tích trên 10.800 ha, trong đó diện tích chuyên nuôi 5.600 ha, diện tích nuôi hồ

chứa, ruộng 1 vụ 5.200 ha, tổng số lồng nuôi thâm canh 1.337

lồng. Những năm qua, nghề nuôi

trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh

không ngừng phát triển cả về số

lượng và chất lượng. Nhiều địa

phương không chỉ giảm nghèo

mà còn vươn lên trở thành điểm

sáng phát triển kinh tế về nuôi

trồng thủy sản, điển hình như xã

Minh Côi, huyện Hạ Hòa; xã Văn

Khúc, huyện Cẩm Khê; xã Sơn

Thủy, huyện Thanh Thủy...

Điển hình như huyện Cẩm Khê

- một trong những địa phương

sớm xác định lợi thế trong nuôi

trồng thủy sản do có diện tích ao, hồ tự nhiên khá lớn. Năm 2023,

toàn huyện có diện tích 1.864 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản, sản lượng đạt gần 8.300 tấn,

Thả giống tại mô hình nuôi cá tầm, xã Mỹ Lương (huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ)

Ảnh: TTKNQG

tăng 108% so cùng kỳ. Ngoài các giống thủy sản truyền thống, các loại thủy sản giá trị cao như: Cá chép giòn, tôm càng xanh, ốc nhồi, cá trê, cá chình được người dân đưa vào nuôi, đem lại hiệu quả cao gấp 4 - 5 lần so với nuôi cá truyền thống.

Năm 2023, tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng của tỉnh

Phú Thọ đạt trên 42.000 tấn, tăng 3,87%, trong đó cá các loại đạt 41.854 tấn, tăng 3,74%;

sản lượng tôm đạt 91,05 tấn, tăng 7,24%. Sản lượng thủy

sản khác đạt 172,67% tấn, tăng 44,82% so với cùng kỳ. Sản

xuất và ương nuôi cá giống ước

đạt 1.600 triệu con... Sản lượng

thủy sản 6 tháng đầu năm nay

ước đạt 20.700 tấn, tăng 3,3%

so với cùng kỳ năm 2023.

Lan tỏa hiệu quả

Điển hình là mô hình nuôi ốc

nhồi tại Cẩm Khê của anh Cù

Xuân Thu ở khu Gò Tràm, xã Tam

Sơn, huyện Cẩm Khê. Theo anh Thu, ốc nhồi là loại vật nuôi có giá

trị cao, vốn đầu tư ban đầu thấp, không cần diện tích lớn, chi phí

thức ăn đơn giản và dễ tiêu thụ.

Được Trạm Khuyến nông huyện

Cẩm Khê hỗ trợ con giống và kỹ thuật, từ 01 ao nuôi ban đầu, đến nay gia đình anh đã xây dựng 13 ao nuôi ốc thịt và ốc giống. Trung bình mỗi năm gia đình anh xuất bán khoảng 1,5 tấn ốc thịt, trên 1 triệu con ốc nhồi giống, mang lại thu nhập hơn 200 triệu đồng. Từ mô hình của anh Thu, nhiều hộ trong xã, trong huyện đã tìm đến học tập để triển khai mô hình. Anh Thu vui vẻ chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật và cung cấp con giống bảo đảm chất lượng cho các hộ có nhu cầu. Đến nay, mô hình nuôi ốc nhồi thương phẩm đã có trên 40 hộ ở Cẩm Khê thực hiện, góp phần không nhỏ trong giảm nghèo bền vững trên địa bàn. Trong các mô hình chăn nuôi thủy sản mang lại hiệu quả cao phải kể đến mô hình nuôi cá thịt tại xã Thạch Sơn, huyện Lâm Thao. Mô hình được Trạm Khuyến nông Lâm Thao chủ động phối hợp với Trung tâm Khuyến nông, Chi cục Thủy sản tỉnh và các doanh nghiệp cung ứng vật tư nông nghiệp triển khai thực hiện trên diện tích 5 ha của năm hộ dân tham gia như hộ anh Trần Xuân Long, Lê Văn Mạnh, Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Duy Phú, Trần Trọng Cảnh. Anh Trần Xuân Long ở khu 9 chia sẻ: “Điều quan trọng nhất trong nuôi cá thịt là việc phòng

Ảnh: ST

Tỉnh Phú Thọ chủ trương mở rộng diện tích nuôi các đối tượng thủy sản đặc sản, bản địa có giá trị kinh tế cao như: Cá lăng, chiên, nheo, ngạnh, trắm cỏ, trắm đen, chép lai, rô phi, diêu hồng, tôm càng xanh, lươn, ếch... nâng tỷ lệ giống có giá trị

kinh tế cao từ 60% lên 70%, góp phần nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu thị trường, tăng hiệu quả kinh tế. Phấn đấu tổng sản lượng thủy sản năm 2024 đạt trên 46.000 tấn, tăng

4% so với 2023 và tới năm 2025 đạt hơn 48.000 tấn.

chống dịch bệnh cho đàn cá phải

đặc biệt tuân thủ theo quy trình xử lý đáy và diệt khuẩn cho đàn

vật nuôi, có như vậy đàn cá mới sinh trưởng và phát triển tốt. Với diện tích 26 sào nuôi cá thịt, mỗi năm gia đình tôi thả làm hai đợt (tháng 2 và tháng 7), nếu thời tiết thuận lợi, cá không bị bệnh, mỗi năm cho thu hoạch bình quân 11 tấn cá thịt, trừ chi phí thu trên 200 triệu đồng”.

Hộ anh Anh Lê Văn Mạnh, với diện tích hơn 1 ha ao nuôi cá thịt gồm trắm, chép, rô, mè, một năm thu hoạch hai vụ, trừ chi phí thu khoảng hơn 100 triệu đồng/năm...

Hay như mô hình nuôi cá tầm ở thôn Xe Ngà, xã Mỹ Lương (huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ). Điển hình là HTX Nông nghiệp suối ngà Đồng Mây. Hiện HTX có quy mô nuôi 04 bể xây, 04 bể bạt, cung cấp ra thị trường khoảng 40 tấn cá tầm thương phẩm trong năm 2023, với giá bán hiện tại

giao động từ 220.000 - 250.000

đồng/kg mang lại doanh thu gần

10 tỷ đồng/năm.

Trên đây chỉ là một vài trong số

rất nhiều mô hình thủy sản hiệu

quả đang được khuyến khích nhân

rộng trên địa bàn tỉnh. Theo ông

Đặng Ngọc Nga - Phó Giám đốc

Trung tâm Khuyến nông Phú Thọ, thời gian tới Trung tâm sẽ tiếp tục

hỗ trợ bà con triển khai, nhân rộng

một số mô hình thủy sản đã khẳng

định hiệu quả cao như: Nuôi ốc nhồi, lươn, cá tầm thương phẩm...

Cùng với đó, nghiên cứu áp dụng mô hình khuyến nông hàng hóa, theo chuỗi giá trị. Đẩy mạnh tư vấn, dịch vụ khuyến nông trong cung cấp vật tư, thiết bị đầu vào và

giải quyết đầu ra cho sản phẩm; gắn kết các hoạt động khuyến nông với phong trào xây dựng nông thôn mới, đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Ngọc Diệp

“Các loài cá

trên thế giới”

Tác giả: Joseph S. Nelson, Terry C. Grande, và Mark V. H. Wilson

| Thể loại: Khoa học khám phá | Tiếng Anh | 752 trang| Năm xuất bản: 2016| Nhà xuất bản: Wiley

“ Fishes of the World” (tạm dịch: Các loài cá trên thế giới) là cuốn sách hiện đại duy nhất phân loại các loài cá trên thế giới dựa trên hệ thống phát sinh chủng loại, cung cấp các sơ đồ phát sinh chủng loại mới, giúp làm rõ mối quan hệ giữa các nhóm cá. Với nguồn tài liệu này, độc giả có thể phân loại các bộ, họ và chi của cá, hiểu được mối liên hệ giữa các nhóm cá, tổ chức giống loài trong bối cảnh tiến hóa của chúng.

Với thông tin của hơn 30.000 loài cá, bao gồm cả lớp cá vây thùy và cá vây tia, bạn sẽ khám phá được các đặc điểm về giải phẫu, sự phân bố, tên thường gọi và tên khoa học, cũng như các mối quan hệ phát sinh chủng loại của chúng. Đây là một tài nguyên vô giá dành cho các nhà ngư học chuyên nghiệp, các nhà sinh thái học thủy sinh, các nhà sinh vật học biển, người nuôi cá, nhà nuôi trồng thủy sản và những người làm công tác bảo tồn.

Phương Nhi

“Kỹ thuật nuôi trồng rong biển”

Giáo trình Kỹ thuật nuôi trồng rong biển

được biên soạn dựa trên Chương trình môn

học Kỹ thuật nuôi trồng rong biển đã được

giảng dạy trong nhiều năm tại Trường Đại

học Thủy Sản. Quyển sách này cung cấp

một cái nhìn toàn diện về ngành nuôi trồng

rong biển, bao gồm từ việc giới thiệu về các

loại rong biển phổ biến và tầm quan trọng

của chúng trong hệ sinh thái và kinh tế, cho

đến các đặc điểm sinh học và phân loại

rong biển.

Sách do Nhà xuất bản Nông Nghiệp chịu trách nhiệm phát hành. Ngọc Minh

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.