10 minute read

Bàn vềtriển lãm bom tấn

này chúng có thểtrái ý bốmẹmà nuôi dạy con cái theo ý bản thân mình.

Tháng Tám 2014

Advertisement

BÀN VỀ TRIỂN LÃM BOM TẤN: MONA LISA ĐẸP HAY VÁY CHỊ ĐẸP?

Sách hướng dẫn du lịch Paris của tôi gọi bảo tàng Louvre là bữa tiệc chín mươi chín món, trông thì ngon nhưng khó tiêu, mà bất cứ du khách nào tới Paris sớm hay muộn cũng phải nuốt. Thật vậy, sau mấy lần có dịp qua Paris mà đều ngán ngẩm dòng người rồng rắn vô tận xếp hàng ở cổng, mùa hè năm nay tôi quyết định phải thâm nhập được vào ruột gan con vật khổng lồnày bằng mọi giá. Khổng lồ, vì nó trưng bày 35.000 hiện vật mà nước Pháp được tặng, mua, “sưu tầm” hay nói giản dị hơn là cướp về từ các quốc gia khác nhau qua các cuộc chinh chiến của mình.

Mỗi ngày bảo tàng có hơn 15.000 khách tham quan, bằng một phần ba sức chứa của sân vận động Mỹ Đình, mà lại không được thiết kế như một sân vận động. Đêm hôm trước, tôi lên mạng. Trên cơ man các diễn đàn, người ta tranh cãi nhau về cách tốt nhất để lọt vào bên trong Louvre. Bảo tàng có một cổng chính (kim tựtháp kính của Pei) và ba lối phụ. Người thì nói cổng phụở phốRue du Rivoli rất vắng, chưa bao giờphải đợi quá 20 phút (bí mật đấy, đừng có nói rộng ra nhé!); người thì bảo lối này chỉ dành

cho khách khuyết tật đi xe lăn và các tour đã mua vé trước qua mạng. Người thì bảo là hãy đi xuyên qua khu thương mại Arc du Carrousel (khu này được nối với lòng kim tự tháp bằng một hệ thống đường hầm), người khác thì bảo đã có lần bị lạc trong khu này nửa ngày mới tìm được lối ra. Cuối cùng tôi chọn cách có mặt một tiếng trước giờmởcửa.

Người ta vào Louvre đểxem gì? Hóa ra là chín mươi phần trăm du khách không tới đây đểchiêm ngưỡng phù điêu Ai Cập, tượng đá Hy Lạp, đồ đồng của văn minh Inka, nghệ thuật thảm Ba Tư, gốm châu Phi, đồ sứ Trung Hoa hay tranh tôn giáo Trung cổ. Họ tới đểxem duy nhất một cái: Mona Lisa. Do vậy, trong khi người ta có thể thong thả tản bộ trong các phòng trưng bày những gì tinh túy nhất của tranh Babylon hay tượng La Mã, và thậm chí còn có cảm giác như mình đang ở trong một bảo tàng thực thụ, thì ở ngoài kia, dọc những hành lang dài vô tận và những cầu thang đá khổng lồ dẫn tới Mona Lisa là một cảnh tượng chen lấn xô đẩy kinh hoàng như ởmột nhà ga thời chạy loạn. Khách của các đoàn du lịch bấu vào nhau đểbiến thành một khối đặc lừlừdi chuyển, đánh tan những đoàn ngược chiều nhỏ hơn hay tổ chức lỏng lẻo hơn, và gí khách lẻ vào sát tường. Khắp nơi người ta cho dán lên tường những photocopy đen trắng của Mona Lisa với mũi tên chỉ hướng, trông như nhữnglệnh truy nã của cảnh sát. Thỉnh thoảng, các đoàn khách cũng dừng lại trước một bức tranh hay tượng nào đó nếu nó tiện nằm ngay trên đường đi. Thời gian dừng mỗi lần trung bình là mười giây. Thời gian dừng trung bình của các đoàn Trung Quốc là năm giây. Rất may là công nghệhiện đại cho phép hướng dẫn viên không phải gào lên khi thuyết trình nữa - họ nói vào một micro gắn ở mép áo, như đang nói chuyện một mình, và

mọi người trong đoàn nghe qua tai nghe không dây, trong khi vẫn ngoắc chặt tay vào nhau đểkhỏi bịđốn ngã.

Mona Lisa một mình ngự trên cả một bức tường trong một căn phòng kích thước khoảng 20x30 mét. Các bức tường khác có Titian, Tintoretto, Raphael và Veronese, nhưng không ai để ý cả. Các paparazzi chen chúc nhau để tiến lại gần nhất, đèn máy ảnh chớp liên tục. Tôi cần hơn một tiếng đồng hồđểlọt được vào hàng trong cùng, xung quanh tôi mọi người giơ máy ảnh và điện thoại lên quá đầu, có người hai tay hai cái, đểchụp hộnhững thành viên già yếu trong đoàn không chen được vào. Khi tới vòng trong cùng, họchụp bản thân đứng trước bức tranh, hai ngón tay giơ hình chữ V chiến thắng. Không còn nghi ngờgì nữa, Mona Lisa là cụtổcủa Lady Gaga, năm trăm năm trước Lady Gaga.

Vì sao những người này, những người mà chắc chẳng bao giờ bước chân vào một phòng tranh hay bảo tàng ởquê hương mình, hay bước chân vào một bảo tàng khác ở Paris, lại dành ra nửa ngày quý báu trong chuyến du lịch ngắn ngủi của mình đểcốgắng tiếp cận một bức tranh mà họ phải đứng cách xa bốn mét, bị xô đẩy, và ngắm nó qua một lớp kính chống đạn dày, để tóm lại là không nhìn thấy gì cả? Xét cho cùng thì đây không phải là một cái váy của Marilyn Monroe hay cái áo số10 của Diego Maradona để người ta phải phát sốt lên đến như thế.

Tôi tìm thấy câu trảlời ởkhái niệm triển lãm bom tấn.

Chữtriển lãm bom tấn được dùng đểchỉcác triển lãm mà những người vốn không bao giờ tới bảo tàng cũng sẵn sàng xếp hàng hàng giờ liền để vào cửa. Đây là một hiện tượng tương đối mới. Một trong những bom tấn sớm nhất là triển lãm Những kho báu Ai Cập do Bảo tàng Anh tổ chức năm 1972, thu hút 1.7 triệu người

xem trong vòng 9 tháng. Nó thuộc vào thểloại bom tấn vềnhững nền văn minh xa lạ, đánh vào sự tò mò của người xem về châu báu, quyền lực, sựphiêu lưu, bí hiểm. Vềsau, thểloại này bịlu mờ, và cáchọa sĩ nổi tiếng lên ngôi: Picasso, Van Gogh, Cézannes, v.v... Các bậc thầy cổđiển, các họa sĩ kinh điển của thời kỳhiện đại, cụ thể là từ Ấn tượng tới Siêu thực, và một số cái tên đương đại, là những bảo đảm chắc ăn nhất đểcâu khách. Triển lãm Matisse (Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại New York, 1992-93) và Monet (Viện Nghệthuật Chicago, 1995), đều thu hút được gần một triệu người xem. Và Mona Lisa rõ ràng là một tác phẩm bom tấn cỡ khủng nhất, một mình cũng có thể thu hút được hàng triệu người xem mỗi năm.

Thoạt đầu, người ta ca ngợi những triển lãm bom tấn. Chẳng tốt hay sao khi đám đông được kích thích đểtìm đến với nghệthuật. Người ta cho rằng bom tấn giúp “dân chủ hóa” nghệ thuật, làm người dân bớt e dè trong việc tiếp xúc với thứ vốn được coi là “thượng lưu”. (Hãy hình dung ra cảnh một người thợđiện ởngoại ô London, sau bữa tối, cùng người vợlàm thu ngân ởsiêu thịhồi tưởng vềbức Những cô gái vùng Avignon treo trong triển lãm của Picasso mà họquyết định đi xem vào tuần trước, sau khi nghe ti vi đưa tin là đã có hơn một phần tư cư dân thành phốkiên nhẫn xếp hàng ba tiếng đồng hồđểvào cửa.) Các bảo tàng thì hoan hỉvì vừa nổi tiếng hơn trên báo chí, qua đó thu hút được nhiều tài trợhơn, vừa hoàn thành nhiệm vụ “giáo dục công chúng” của mình, vừa tăng thu nhập đáng kể thông qua bán vé vào cửa và các đồ lưu niệm (poster in tranh Picasso, đồng hồ treo tường in tranh Picasso, áo phông, cốc, miếng lót nồi in tranh Picasso...)

Tuy nhiên, như Emma Barker phân tích trong cuốn Trưng bày văn hóa đương đại (Contemporary cultures on display) của bà, bom tấn có một loạt các vấn đề.

Nhiều người tới các bom tấn vì hiếu kỳ, và vì áp lực xã hội, do họ không muốn bịcoi là lạc hậu vềvăn hóa. Nhưng sựđông đúc “như ởsởthú” của các triển lãm kiểu này, cùng với các khuếch trương hời hợt trên báo chí dạng “đây là một cơ hội không được phép bỏ qua”, không giúp người xem thực sựđối thoại, tìm hiểu và thưởng thức các tác phẩm. Và sau đó, phần lớn lại không bao giờ bước chân vào bảo tàng nữa. Mặt khác, trong cuộc chạyđua của các bảo tàng để thu hút khách và tài trợ từ các công ty, các nghệ sĩ ít nổi tiếng hơn bịgạt ra ngoài -chủđềcủa các bom tấn trởnên bó hẹp trong vài cái tên hay lĩnh vực vốn được coi là ít rủi ro. Và ngay cả với những ngôi sao tên tuổi, các bom tấn cũng thường chỉ nhấn mạnh những khía cạnh dễ “tiêu hóa” với công chúng, chứ không giới thiệu những phát hiện và nghiên cứu mới nhất về họ. Một ví dụcủa cách tiếp cận giật gân này là khi các bức chân dung những người đàn bà của Picasso không được đề cập tới như những tác phẩm nghệ thuật phức tạp, mà chỉ như những chi tiết mang tính tiểu sử để minh họa Picasso là người “sát gái”, một câu chuyện hấp dẫn hơn là những phân tích nghệthuật khô khan.

Theo Emma Barker, “các triển lãm bom tấn có thể được coi là một hiện tượng thương mại hóa nghệ thuật, biến nghệ thuật thành những show hoành tráng, biến người xem thành những kẻ mù quáng thờ phụng trước bàn thờ của nghệ thuật.” Không có những khái niệm và kiến thức cơ bản về nghệ thuật, người xem sẽ chỉ nhìn mà không hiểu, mà hiểu biết là một yêu cầu cơ bản đểcó thể thưởng thức nghệ thuật. Các bom tấn nghệ thuật không có tác

động trong việc nâng cao hiểu biết của công chúng, do đó chức năng “dân chủhóa” của chúng là hạn chế. Thật vậy, bộmáy quảng cáo đã biến Mona Lisa thành tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới, nhưng có bao nhiêu người trong số những người chen nhau chụp ảnh trên kia bỏmột chút thời gian đểđi sâu hơn vềnó, vềtác giả, vềthời kỳPhục hưng?

Ở Việt Nam chưa có những ví dụcủa triển lãm hay sựkiện văn hóa bom tấn. Không rõ nếu có tổchức nào đó mượn được một số phác thảo của Michelangelo, thì liệu sinh viên trường Yết Kiêu có xếp hàng vào xem hay không. Nhưng nếu danh ca opera Pavarotti tới biểu diễn thì có lẽsân vận động MỹĐình cũng sẽkín đấy, càng kín nếu như giá vé càng cao, và người ta sẽbay từThành phốHồ Chí Minh ra để“thưởng thức”. Có lẽsựkiện có thểđược coi là bom tấn mini gần đây nhất là đợt lưu diễn của Dàn nhạc giao hưởng New York năm 2009 tại Hà Nội, khi hơn 1000 chiếc vé được bán hết sạch, mặc dù với giá tới 200 đô la một vé. Trong số khán giả hôm đó, chắc chắn có nhiều người hầu như không bao giờ nghe nhạc cổđiển, và vềmặt chất lượng mà nói thì với họdàn nhạc giao hưởng New York hay Bangkok hay Manila chắc cũng không khác gì nhau.

Cúng bái trước Mona Lisa hay trước ban thờ Bà Chúa Kho thì đều có một tác dụng: làm người ta hài lòng với bản thân hơn, yên tâm hơn về giá trị của mình. Tôi hình dung ra khách du lịch bốn phương trởvềnhà sau chuyến du lịch Paris, và khoebức ảnh chụp họ đứng trước Mona Lisa với bạn bè. Liệu họsẽchờ đợi một câu bình luận gì? Câu gì cho khoảnh khắc mình tiếp cận được với đỉnh cao của nghệthuật?

Chắc là câu này:

This article is from: