5 minute read

1.4.2. Phương tiện học tập trong mô hình lớp học đảo ngược

học ở nhà. DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL Mô hình lớp học đảo ngược cũng tồn tại những hạn chế sau: - Không phải mọi HS đều có đủ điều kiện về máy vi tính và kết nối Internet để tự học trực tuyến. - Việc tiếp cận với nguồn học liệu có thể khó khăn với một số em chưa có kĩ năng về CNTT và mạng Internet. Tốc độ mạng không phải lúc nào cũng ổn định để thuận lợi khi học tập. - Rất khó để thiết kế Video bài học đúng với ý tưởng sư phạm, thực hiện được đúng PPDH, có tính toán hỗ trợ người học phù hợp để HS tự học và học cách tự học. Thông thường GV sẽ sử dụng các video được thiết kế sẵn, được chia sẻ nhưng sẽ không hoàn toàn phù hợp với GV đó, hoặc nếu tự làm thì rất nhiều thời gian hoặc chất lượng video không đạt đủ yêu cầu hỗ trợ tự học. - HS không thể nêu các thắc mắc, đặt câu hỏi những vấn đề chưa hiểu. - Động lực của HS là yếu tố then chốt khi tự học. - Để kích thích và tạo động lực cho HS thì GV phải có kiến thức về CNTT ở một mức độ nhất định, phải đầu tư thời gian và công nghệ lớn. Những phân tích trên có thể cho thấy FCM chỉ phù hợp với một số bài học chứ không thể áp dụng đại trà, chỉ thành công khi có các phương tiện học tập phù hợp. Ngoài ra, vai trò của GV trong việc thiết kế, điều hướng, hỗ trợ HS trong các hoạt động nhóm trên lớp cũng rất quan trọng, quyết định sự thành công của mô hình. 1.4.2. Phương tiện học tập trong mô hình lớp học đảo ngược Hiện nay, FCM đã được nhiều nước trên thế giới nghiên cứu, ứng dụng trong nhiều lĩnh vực DH khác nhau như điều dưỡng, kỹ thuật, toán học, vật lí, sinh học, hóa học,... và thu được nhiều kết quả khả quan [38]. Hầu như các quan điểm về FCM của các nhà nghiên cứu giáo dục đều thống nhất ở đặc điểm: đưa các bài giảng, hướng dẫn trực tiếp lên Internet ra bên ngoài lớp học; sử dụng các PPDH tích cực kết hợp với các công nghệ dạy học tiên tiến. Tuy nhiên cho đến nay mô hình vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất và được ứng dụng theo nhiều cách khác nhau Trong lớp học đảo ngược, HS là chủ thể, là trung tâm của quá trình dạy học; HS được tạo cơ hội để trình bày ý tưởng, đặt câu hỏi, và làm rõ những thắc mắc, quan niệm sai lầm (Bergmann & Sams, 2012). Năm 1984, Benjamin Bloom đã công bố rằng trong môi trường FCM, các hướng dẫn cá nhân có hiệu quả hơn so với môi trường lớp học

thông thường. DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL Luận văn nghiên cứu sử dụng B - learning hỗ trợ dạy - tự học trong mô hình lớp học đảo ngược nên B - learning (cụ thể là các học liệu số hóa, các video bài giảng…) chính là phương tiện học tập của FCM. Các học liệu, bài giảng có thể dưới nhiều định dạng khác nhau như slide, file âm thanh, bài thuyết trình PowerPoint, video (có thể nhúng các hình ảnh động), hình chụp màn hình hay các tài liệu đa phương tiện khác... phù hợp với sự đa dạng về trình độ học tập và khả năng tiếp thu của HS [39]. Theo Jami Carlacio, những điều kiện cần thiết để sử dụng FCM hiệu quả gồm mọi HS đều có thể truy cập Internet để xem bài giảng; video phải bắt đầu với âm lượng nhỏ và tăng dần lên; mỗi video được bắt đầu bằng một tình huống, một câu hỏi gây chú ý; nội dung video phải chuẩn xác, chất lượng tốt, âm thanh và hình ảnh hợp lý sẽ giúp HS học tập tốt hơn [17]. Nhưng nếu không tự làm được các bài giảng video thiết kế công phu thì có tổ chức FCM được không? Các nhà nghiên cứu cũng đã giả thuyết tình huống này và câu trả lời là “Có thể được”. Học liệu cung cấp cho HS sử dụng ở nhà không luôn bắt buộc phải là video (mặc dù các hiệu ứng hình ảnh đa phương tiện gây hứng thú và tạo động lực hơn). Tài liệu học tập có thể là một tập tin âm thanh. Ví dụ, trong bài học tìm hiểu về công nghệ đúc thì tài liệu có thể là đoạn âm thanh (5-10 phút) giải thích ngắn gọn về công nghệ đúc hoặc bài phỏng vấn với một chuyên gia đúc tượng. Các tệp âm thanh có thể được tải lên iTunes hoặc hệ thống quản lý học tập của trường để HS tải xuống iPod hoặc các thiết bị thông minh khác. Các tập tin âm thanh và video cho HS xem ở nhà không được dài hơn 15 phút và có thể kèm theo một số câu hỏi HS phải chuẩn bị để thảo luận trên lớp. Các học liệu được quản lý bởi LMS (hệ thống quản lý học tập)[36]. Hiện nay, ngày càng có nhiều video dạy học hấp dẫn có sẵn trên Youtube với nội dung bài học được trình bày thành các đoạn video ngắn thay vì các bài giảng dài dòng giúp HS dễ tiếp thu hơn và cung cấp sự linh hoạt để hướng dẫn từng bước cho từng đối tượng HS. HS yếu hơn có thể thoải mái xem lại video nhiều lần cho đến lúc thực sự hiểu bài mà không phải ngại ngùng với các bạn cùng lớp hay GV của mình. Ngược lại, HS giỏi hơn có thể tiếp tục học với các nội dung cao hơn, tránh sự chán nản. Nói tóm lại: “Mọi HS đều có quyền truy cập vào một trải nghiệm cá nhân tương tự như được dạy kèm”[44]. Với những thành tựu của CNTT, GV có thể áp dụng những phương pháp dạy học, phương pháp truyền đạt mới nhằm nâng cao tính tích cực trong dạy học. GV có thể

Advertisement

This article is from: