![](https://assets.isu.pub/document-structure/211120130940-f6d7c96fd0e417636a0c54a5e66d03ba/v1/06ab47a1ecca08e149aedc5adbaaf41c.jpeg?width=720&quality=85%2C50)
4 minute read
Hình 1.1. Công thức cấu tạo của MET và MDMA
from XÂY DỰNG VÀ THẨM ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH DƯ LƯỢNG CÁC CHẤT VÔ CƠ TRONG NƯỚC THẢI BẰNG ICP - MS
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL 3 1.1. Tổng quan về MET và MDMA Amphetamine là một trong những mối đe dọa đáng lo ngại nhất của việc sử dụng ma túy ở Đông Á và Đông Nam Á. Năm 2016, ước tính có khoảng 34,2 triệu người trên thế giới đã sử dụng Amphetamine. Hàng năm, những khu vực dân cư sử dụng Amphetamine cao nhất được ghi nhận là Bắc Mỹ (2,0 %), tiếp theo là Châu Đại Dương (1,3 %) [23]. Trong xu hướng hội nhập kinh tế và văn hóa, Việt Nam cũng không tránh khỏi làn sóng sản xuất, buôn bán, sử dụng ma túy nhóm ATS, đặc biệt là MET và MDMA. 1.1.1. Tính chất, dạng tồn tại, đường dùng của MET và MDMA MET và MDMA nằm trong nhóm các loại ma túy tổng hợp dạng Amphetamine. Cả hai đều là base yếu, dạng muối hydroclorid dễ tan trong nước và methanol. MET: C10H15N (M = 149,23) MDMA: C11H15NO2 (M = 193,24) Hình 1.1. Công thức cấu tạo của MET và MDMA Các chất ATS nói chung thường tồn tại dưới dạng bột kết tinh hoặc tinh thể nguyên chất, không màu hoặc màu trắng. MET thường ở dạng muối hydroclorid được dùng pha chế để tiêm, hút hoặc uống dưới dạng viên nén, viên nhộng [14]. Tại nước ta, MET chủ yếu lưu hành dưới dạng viên nén màu đỏ gạch có ký hiệu “WY”, “Wy”, và thường được gọi là “Hồng phiến”. Dưới dạng bột, chúng thường được dùng kèm với natri bicarbonat hoặc các chất kiềm khác để tăng tác dụng. MET cũng có trong dược phẩm dùng để kê đơn điều trị một số chứng bệnh. Tuy nhiên do khả năng gây nghiện cao nên Bộ Y tế nước ta đã có quyết định cấm nhập khẩu. Còn MDMA có tên gọi là “ecstasy”, nghĩa là ngây ngất, sung sướng cực độ, được sử dụng dưới dạng viên. Các tên gọi như viên “lắc”, viên “điên” hoặc “Nữ hoàng” để ám chỉ công hiệu, mức độ ưa chuộng của giới nghiện đối với loại ma túy này. Hiện nay xuất hiện các viên nén hoặc viên nhộng với rất nhiều hình dạng, màu sắc, kích thước và ký hiệu khác nhau có chứa một hoặc nhiều chất ATS dưới nhiều tên để lưu hành và sử dụng bất hợp pháp [5].
Advertisement
![](https://assets.isu.pub/document-structure/211120130940-f6d7c96fd0e417636a0c54a5e66d03ba/v1/046f10a93983b891f1740ef7c52a9469.jpeg?width=720&quality=85%2C50)
1.1.2. Tác dụng dược lý, độc tính của MET và MDMA
DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL 4 Nhóm ATS kích thích hệ thần kinh trung ương, hoạt động trên vỏ não để tăng cường các hoạt động tâm thần, dẫn đến loại bỏ sự mệt mỏi và buồn ngủ, do đó cải thiện nhanh chóng hiệu quả làm việc. Tuy nhiên, việc lạm dụng chúng gây ra sự lệ thuộc, ảo giác, ảo tưởng và thay đổi nhân cách của người dùng [19]. MET tác dụng rất nhanh, thậm chí ngay trong khi tiêm. Hiệu quả tác dụng có thể kéo dài tới 4 - 8 giờ ở người chưa nghiện và 2 - 3 giờ ở người nghiện. Thời gian tác dụng và liều dùng của MDMA thường từ 4 - 6 giờ với liều từ 80 - 200 mg. Sự khác biệt về hiệu quả giữa nam và nữ, giữa lứa tuổi là không đáng kể. Tác dụng kích thích thần kinh tăng khi kết hợp với các thuốc khác như ephedrin, cocain, các thuốc giảm đau gây ngủ nhóm opiat, các thuốc ngủ. Các ATS nói chung và MET, MDMA nói riêng có thể dễ dàng hấp thu từ đường tiêu hóa và niêm mạc mũi, tự do xâm nhập qua hàng rào máu não. ATS kích thích gián tiếp hệ giao cảm, chủ yếu làm tăng hoạt động của noradrenaline, dopamine và serotonin tại hệ thần kinh trung ương và hoạt động của noradrenaline trong hệ thần kinh giao cảm ngoại biên, giúp ngăn chặn tái hấp thu và tăng giải phóng dopamine, ngăn chặn tái hấp thu noradrenaline, tăng giải phóng noradrenaline, nhưng nói chung có tác động ít hơn đối với serotonin. Những thay đổi về tinh thần khi sử dụng ATS có thể do tác động vào tế bào thần kinh dopamine ở vùng mesolimbic. Biểu hiện kích thần trên lâm sàng có thể do sử dụng methamphetamine ở tế bào thần kinh, tăng noradrenaline trong hệ thống kích hoạt phức tạp, và tác dụng của catecholamine tại vùng xynap chi phối về hành vi. Ngay sau khi dùng MET, người dùng sẽ có cảm giác hưng phấn, giảm lo lắng và tăng cường năng lượng. Lạm dụng MET cũng liên quan đến một số hậu quả tiêu cực ở con người bao gồm nhiễm độc cấp tính, thay đổi chức năng hành vi và nhận thức, và tổn thương thần kinh. Người dùng MET có thể bị kích động, hung hăng, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, tăng thân nhiệt, suy giảm khả năng phán đoán, ức chế hưng phấn và kích động tâm lý. Dùng với liều lượng lớn thuốc có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn bao gồm tăng thân nhiệt đe dọa tính mạng (trên 41°C), suy thận và gan, rối loạn nhịp tim, đau tim, xuất huyết mạch máu não, đột quỵ và co giật. Lạm dụng mãn tính MET gây ra lo âu, trầm cảm, hung hăng, cô lập xã hội, rối loạn tâm thần, rối loạn tâm trạng và rối loạn chức năng vận động tâm thần [13].