CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
AL
1.1. Tổng quan về MET và MDMA Amphetamine là một trong những mối đe dọa đáng lo ngại nhất của việc sử dụng
ma túy ở Đông Á và Đông Nam Á. Năm 2016, ước tính có khoảng 34,2 triệu người trên
CI
thế giới đã sử dụng Amphetamine. Hàng năm, những khu vực dân cư sử dụng
Amphetamine cao nhất được ghi nhận là Bắc Mỹ (2,0 %), tiếp theo là Châu Đại Dương
OF FI
(1,3 %) [23]. Trong xu hướng hội nhập kinh tế và văn hóa, Việt Nam cũng không tránh khỏi làn sóng sản xuất, buôn bán, sử dụng ma túy nhóm ATS, đặc biệt là MET và MDMA.
1.1.1. Tính chất, dạng tồn tại, đường dùng của MET và MDMA
MET và MDMA nằm trong nhóm các loại ma túy tổng hợp dạng Amphetamine.
NH ƠN
Cả hai đều là base yếu, dạng muối hydroclorid dễ tan trong nước và methanol.
MET: C10H15N (M = 149,23)
MDMA: C11H15NO2 (M = 193,24)
Hình 1.1. Công thức cấu tạo của MET và MDMA
Y
Các chất ATS nói chung thường tồn tại dưới dạng bột kết tinh hoặc tinh thể nguyên
QU
chất, không màu hoặc màu trắng. MET thường ở dạng muối hydroclorid được dùng pha chế để tiêm, hút hoặc uống dưới dạng viên nén, viên nhộng [14]. Tại nước ta, MET chủ yếu lưu hành dưới dạng viên nén màu đỏ gạch có ký hiệu “WY”, “Wy”, và thường được gọi là “Hồng phiến”. Dưới dạng bột, chúng thường được dùng kèm với natri bicarbonat
KÈ M
hoặc các chất kiềm khác để tăng tác dụng. MET cũng có trong dược phẩm dùng để kê đơn điều trị một số chứng bệnh. Tuy nhiên do khả năng gây nghiện cao nên Bộ Y tế nước ta đã có quyết định cấm nhập khẩu. Còn MDMA có tên gọi là “ecstasy”, nghĩa là ngây ngất, sung sướng cực độ, được sử dụng dưới dạng viên. Các tên gọi như viên “lắc”, viên “điên” hoặc “Nữ hoàng” để ám chỉ công hiệu, mức độ ưa chuộng của giới nghiện
DẠ Y
đối với loại ma túy này. Hiện nay xuất hiện các viên nén hoặc viên nhộng với rất nhiều hình dạng, màu sắc, kích thước và ký hiệu khác nhau có chứa một hoặc nhiều chất ATS dưới nhiều tên để lưu hành và sử dụng bất hợp pháp [5]. 3