mục lục
Tác giả
Trang
Vi Phát Hoàng Phong Linh
Tiên Rồng "Bản đồ Việt Nam hình chữ S" Cuối Đường Mẹ Đi (Thơ)
1 3
Phạm Quang Ngọc
Cuối Đường Mẹ Đi (Nhạc)
4
Nguyễn T D Quang
Bài thơ Chant d’Automne (Thu Ngâm) của Charles Baudelaire
6
Nguyễn T D Quang
Nàng kiều nữ trả lời chàng chăn chiên (Khảo Luận)
11
Võ Đại Tôn
Quê Nghèo Xuân Chưa Đến Xứ Lạ Xuân Không Về...(Thơ)
13
Phạm Quang Ngọc
Nỗi Buồn K-3 (Nhạc)
15
Gia Hiếu
Vượt Biển (Thơ)
16
Ngọc Hân
Mỹ Tho ơi…(Thơ)
17
Đỗ Trọng Nhơn
Giọt Nước Cuối Cùng - The Last Drop (Painting)
19
Ngọc Hân
Đường Xuân Hoa Nở Tím (Thơ)
20
Lưu Tường Quang
Nụ Cười Trang Điểm Môi Xuân (Thơ)
22
Ngọc Hân
Mười Năm (Thơ)
24
Đỗ Trọng Nhơn
Chiến sĩ Úc, Việt (Sculpture - Điêu khắc)
26
Đỗ Trọng Nhơn
Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng (Điêu Khắc)
27
Hoàng Ngọc Tuấn
Đối Thoại Với VP: Về Tác Phẩm Nhiếp Ảnh “BỜ BÊN KIA”
28
Đỗ Trọng Nhơn
Homeless (Hội họa - Painting)
31
Lê Văn Tài
A cow wear the hat, it was me; Homeland (Poetry)
32
Ngọc Hân
Dạ Khúc (Thơ)
35
Vũ Hùng
Lời Yêu Cho Em (Nhạc)
37
Phan Đông Bích
Nhớ nhau xin nhớ tình dân tộc… (Khảo Luận)
39
Vi Phát
Giọt nước mắt cho Quê Hương (Nhiếp Ảnh)
44
Vũ Hùng
Có Em Mùa Xuân (Nhạc)
45
Vi Phát
Làm Ngơ Sao Đành (Hội Họa)
47
Nguyễn Cao Đàm
Xem ảnh “BỜ BÊN KIA” của Vi Phát
48
Bùi Xuân Vũ
Đi Trong Nước Mắt (Truyện Ngắn)
53
Phạm Quang Ngọc
Tình Sau (Nhạc)
62
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt định cư tại Úc
xxvii
Trần Thanh Tâm
Thầy Thuốc Kể Chuyện
63
Thúy Ái
Về Nguồn (Thơ)
70
Vi Phát
Vi Phát's Selected Art Collection (Hội Họa - Painting)
72
Trung Thanh
Úc, Quê hương mới của tôi (Thơ)
81
Phan Đông Bích
Nguyễn Du và Kinh Kim Cương
82
Vi Phát
Vi Phát's Sculpture Collection (Điêu Khắc)
92
Mây Hạ
Jacaranda (Mùa Hoa Phượng Tím - Thơ)
95
Phùng Nhân
Phở (Tiểu Luận)
97
Bảo Giang
Phú Quốc Nạn, Hịch Cứu Nước (Thơ)
102
Hư Vô
Đường Vào Bể Dâu (Truyện Ngắn)
106
Nguyễn Tư
Thăm Mẹ Lần Cuối (Truyện Ngắn)
110
Cung Nhật
Sợi Vàng Sợi Đỏ (Nhạc)
120
Trần Thiện Hiếu
Mộng hờn vong quốc (Thơ)
122
Trần Thiện Hiếu
Gió Lộng Đầu Xuân (Thơ)
123
Trần Thiện Hiếu
Xuân Tân Dậu (Thơ)
124
Phạm Quang Ngọc
Bài Ca Việt Quốc (Nhạc)
125
Vi Phát
Bờ Bên Kia; Vô Đề; Kéo Đèn Vẽ Em (Photography)
127
Phạm Quang Ngọc
Quê Hương (Nhạc)
130
Phạm Quang Ngọc
Sống Thật (Thơ)
131
Nguyễn Canh Tân
Như khói mây bay (Nhạc)
132
Tiêu Kiến Trung
Trăm Năm (Thơ Họa)
133
La Tuấn Dzũng
Cần Thơ Yêu Dấu (Nhạc)
134
Lệ Hoàng
Xóa sạch bọn gian tà (Thơ)
136
Lệ Hoàng
Gương Tranh Đấu (Thơ)
138
Nguyễn Canh Tân
Anh Hùng Ngụy Văn Thà (Nhạc - thơ Hạnh Nguyên)
139
Gia Hiếu
Chốn Thiền Lâm (Thơ)
140
Gia Hiếu
Giai Thoại Một Tình Yêu (Thơ)
141
Hương Chiều
Tháng Tư…Cúi Xuống Ngậm Ngùi (Thơ)
145
Trần Thiện Tích
Màu Định Cư (Thơ)
146
Đinh Huyền Dương
Ám Ảnh Một Mùa Xuân (Thơ)
148
Ngô Thị Hồng Thu
Ngo Thi Hong Thu's Selected Art Collection (Painting)
149
xxviii
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt định cư tại Úc
La Tuấn Dzũng
Hãy giúp trẻ mồ côi (Nhạc)
153
Nguyễn Tư
Bài Hành Cuối Năm (Thơ)
154
Nguyễn Tư
Tù về, Lén thăm trường cũ…(Thơ)
155
TC Nguyễn
Bật Mở (Thơ )
156
jacquelyn ngo
Art Collection (Hội Họa - Painting)
157
Thúy Ái
Lời dặn dò (Thơ)
159
Nguyễn Canh Tân
Tiếng kêu Quốc Hồn (Nhạc)
160
Chim Hải
Tháng Tư (Thơ)
161
TC Nguyễn
Bộ Tam Thơ (Khảo Luận)
162
Christine Cung
Reflection of a teenage volunteer (Hồi Ký)
167
Chim Hải
Phố Mắm (Thơ)
171
Cung Nhật
Lệ Tình Buồn (Nhạc)
172
Nguyễn Đình Mạnh
174
Ann Thanh Huỳnh
Together for ultimate Victory (Photography) Tiếp Lửa Đấu Tranh (Photography -TN Photographic Society) Memories about my Vietnamese Cultural School
Chim Hải
Tình Sau (Thơ)
178
Hư Vô
Bốn Mươi Năm Gặp Lại Chiếc Lá Me Sàigòn (Thơ)
179
Hư Vô
Chút Đời Còn Dư (Thơ)
180
Hương Chiều
Chúng Tôi Chết (Thơ)
181
CieCie Tuyet Nguyen
The Fall of Saigon
182
CieCie Tuyet Nguyen
Reeducation Camps and Tuan, the Lieutenant
188
Hương Chiều
Lão Đầu Trắng (Thơ)
198
Phùng Nhân
Chát- Chát Cho Đời Lên Hương (Truyện Ngắn)
200
Phùng Nhân
Nhớ Quê Hương Nên Con Về Lại (Thơ)
206
Đạt Dương
Tưởng Niệm Long Tân (Photography)
208
Đinh Huyền Dương
Tan Tác (Thơ)
210
Lâm Hảo Khôi
Về Bến Tự Do 10 (Thơ)
211
Đ. T. Trần
Vietnam Veterans Day 2015 (TN Photographic Society)
218
Trương Thị Minh
Nỗi nhớ khôn nguôi (Hồi Tưởng)
222
Chu Thập
Một Chút Quà cho Quê Hương (Tùy Bút)
224
Đ. T. Trần
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt định cư tại Úc
175 176
xxix
Văn Chi
Con có một Tổ Quốc Việt Nam (Nhạc)
229
Võ Đại Tôn
Nguyện đồng hành cùng Anh - Em! (Thơ)
231
Phạm Văn Song
Vivid Sydney (Photography)
233
Hoàng Ngọc Tuấn
Hợp Khúc 40 Năm Viễn Xứ - Tưởng Niệm Thuyền Nhân (Nhạc)
235
Hoàng Ngọc Tuấn
Hợp Khúc 40 Năm Viễn Xứ - Bài Ca Trên Miền Đất Mới (Nhạc)
238
Xuân Tiên
Tình Đi Về Đâu (Nhạc)
242
Xuân Tiên
Ngập Ngừng (Nhạc)
244
xxx
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt định cư tại Úc
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt định cư tại Úc
xxxi
xxxii
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt định cư tại Úc
Tiên Rồng "Bản đồ Việt Nam hình chữ S" Khai bút đầu năm Nhâm Thìn Tranh Thiền (Zen Painting), Mực tàu trên vải bố, Khổ 800mm x 1200mm Vi Phát ©, Sydney, Tết Nguyên Đán, 01- 01-2012
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt tỵ nạn và định cư tại Úc
1
Chú thích của tác giả về bức tranh Tiên Rồng
"Dân Tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã gắn liền với Truyền Thuyết Tiên Rồng. Bản đồ Việt Nam Hình chữ S: Ðầu Rồng trừng mắt nhìn ra Biển Ðông hai chân phải chỉ về hướng Ðông vươn móng (động): bảo vệ biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa... hai chân trái hướng Tây co cụm (tĩnh): yêu chuộng hòa bình... Đầu Rồng hướng về Miền Bắc: văn hóa, cội nguồn Cổ Rồng ở Miền Trung: vững chắc, bền bĩ, linh hoạt... Thân và bụng Rồng hướng Nam: căng tròn, vạm vỡ. Rồng vẫy đuôi Tiên (Cá) sinh động." Tiên Rồng © Vi Phát 2012
2
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt tỵ nạn và định cư tại Úc
Hoàng Phong Linh
Mẹ già đi từ Cam Lộ Nước mắt chảy mềm Gio Linh. Gia tài không đầy đôi rổ Mẹ nhìn máu lửa Thần Kinh.
Thây ai quàng manh chiếu rách, Bàn tay nào vói trời cao ? Ngập vùng tang thương Darlac, Chân đi, Mẹ khóc nghẹn ngào.
Đá đổ mồ hôi Thạch Hãn Chạy dài lên đỉnh Hải Vân. Leo đèo, Mẹ như mê sảng, Chân voi - sưng đôi bàn chân.
Máu chảy lan dần mạch đất Nha Trang chết vạn đàn con. Vào Nam, sức già lây lất Về đâu ? - Nẻo sống không còn !
Mẹ đi giữa trời thiêu đốt Thây con lớp lớp trải dài Dọc theo con đường số Một Nằm bên dăm củ sắn khoai.
Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá, Mẹ lần đến mũi Quê Hương Cà Mau nhìn ra biển cả Tàn hơi, Mẹ chết bên đường !
Tam Kỳ chạy vô Quảng Ngãi Bầy con đói khát bên đàng. Biển người xô nhau, quằn quại, Ngã dần ... trong tiếng khóc than.
Mẹ già đi từ Cam Lộ Cuối đường, chết mũi Cà Mau. Trọn đời sống trong đau khổ Chết còn trông thấy khổ đau ! ...
Mẹ vào Qui Nhơn, Phú Bổn, Nhìn trời khói lửa Pleiku. Đoạn đường mang tên Mười Bốn Thành mồ hoang lạnh, thâm u. Hoàng Phong Linh (quê hương, những ngày di tản đầy máu và nước mắt, trong tháng Tư dương lịch, 1975)
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt tỵ nạn và định cư tại Úc
3
Thơ Hoàng Phong Linh Nhạc Phạm Quang Ngọc
4
● Cuối Đường Mẹ Đi - Phạm Quang Ngọc
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt tỵ nạn và định cư tại Úc
5
Khảo luận:
Bài thơ Chant d’Automne (Thu ngâm) của Charles Baudelaire Nguyễn Trần Dương Quang Charles Baudelaire sinh năm 1821, mất năm 1867. Ông vốn là con thứ nhì trong một gia đình qúy tộc Pháp.
Bích Khê, tác giả của ‘Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông’, đã viết:
Thuở học trung học, ông tỏ ra xuất sắc về văn chương và đoạt nhiều giải thưởng. Và cũng vào thời kỳ này, ông bắt đầu làm thơ. Trong số tác phẩm của ông, tập thơ nổi tiếng nhất là ‘Les Fleurs du Mal’ (The Flowers of Evil, Chùm hoa tội lỗi) xuất bản năm 1857, từng gây xôn xao dư luận và chính quyền cấm lưu hành trong một thời gian, viện cớ là thiếu thanh nhã.
Cũng như nhiều thi sĩ khác – như Lamartine viết nên xuất phẩm ‘Le Lac’ do sự gợi hứng của Julie Charles, hoặc ở Việt nam, Tản Đà viết nhiều bài thơ lãng mạn do sự cảm xúc về mối tình với nàng Đỗ thịtình cảm Baudelaire cũng chịu ảnh hưởng của ba giai nhân lần lượt như sau:
Baudelaire, người là vua thi sĩ …
Người đầu tiên, Jeanne Duval, đã mang đến cho thi nhân nhiều nỗi đau thương vào những năm 1843-1844. Thi sĩ gặp nàng vào đầu mùa thu 1843 khi nàng chỉ là diễn viên tầm thường của La Theâtre du Panthéon. Có lẽ nàng là người chi phối đời sống tình cảm của thi nhân nhiều nhất, sâu đậm hơn cả người mẹ mả ông rất thương yêu. Nhưng nàng không hiểu được tâm hồn thi nhân, một người nhạy cảm, yêu mến thiên nhiên, mơ mộng và lý tưởng. Và nhà thơ dù cố gắng tránh đổ vỡ, cuối cùng vẫn phải ‘tỉnh mộng’ như lời thơ của Sir Walter Ralegh: A honey tongue, a heart of gall, Is fancy’s spring but sorrow’s fall. Lời đường mật, đắng cay lòng, Là nguồn xuân mộng, là giòng đau thương. (NTDQ)
Ông là một thi hào nổi danh vào bậc nhất nước Pháp trong thế kỷ 19, một thế kỷ xuất hiện nhiều thi nhân lỗi lạc: Alphonse de Lamartine, Victor Hugo, Paul Verlaine, Arthur Rimbaud v.v… Tứ thơ mênh mông, lời thơ luôn phảng phất nỗi buồn, khi nhẹ nhàng, khi sâu xa thầm kín. Ảnh hưởng của ông không phải chỉ trong nước Pháp mà lan rộng tới các nước Anh và Mỹ. Ở Việt nam,
6
Lời đường mật, tấm lòng cay đắng, Là mộng xuân, suối lắng sầu thương. (NTDQ) Trong khoảng thời gian này, thi sĩ viết được một số bài thơ, đáng chú ý là Le sed non Satiata, Le Vampire … Ảnh hưởng của mối tình đầu tiên vẫn còn phảng phất trong thơ của ông sau này,
● Bài thơ Chant d’Automne (Thu ngâm) của Charles Baudelaire - Nguyễn Trần Dương Quang
ta có thể hiểu dễ dàng vì như Thế Lữ đã viết: Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, Ngàn năm chưa dễ đã ai quên. (Lời than thở của nàng Mỹ Thuật)
Người thứ ba, Marie Daubrun cũng là một nữ diễn viên. Do sự gợi hứng của mối tình này, thi sĩ viết được 9 bài thơ tuyệt tác, trong số đó ta có thể kể: L’Invitation au Voyage, Chant d’Automne … Khi khảo sát về thơ Baudelaire, ta nhận thấy qua những bài thơ gửi cho Marie Daubrun, thi sĩ chứng tỏ một sự đam mê cuồng nhiệt với nàng hơn là đối với Madame Sabatier, nhưng không cay đắng bằng những bài thi sĩ viết cho Jeanne Duval. Marie Daubrun và Jeanne Duval là hai người gây cảm xúc nhiều nhất cho thi sĩ. Riêng với Marie Daubrun, khi nàng rời Baudalaire, nhà thơ hầu như không thể trở lại đời sống tình cảm bình thường. Nhiều nhà phê bình đã kết luận là do sự phụ bạc của Marie Daubrun, thi sĩ trở nên cay đắng và yếm thế trong quãng đời còn lại của ông.
Jeanne Duval (c.1820 – 1862) Người thứ nhì là Madame Sabatier người đã ảnh hưởng nhà thơ trong khoảng 1852-54. Và thi sĩ đã viết dược 9 bài thơ nổi tiếng như Harmonie du Soir, Le Flacon…
Marie Daubrun Bài thơ Chant d’Automne đưọc viết trong khoảng mùa thu năm 1859, có lẽ trước khi nhà thơ bị phụ tình, vì lời lẽ tuy đượm buồn nhưng vẫn nhẹ nhàng chứ không đau đớn cùng cực như Lord Byron trong ‘Fare thee well’:
Apollonie Sabatier (1822-1890)
Still thy own, its life retained Still must mine, though bleeding, beat. And the undying thought which pained, Is that we no more may meet?
● Tuyển Tập Văn Học Nghệ Thuật đánh dấu 40 năm người Việt tỵ nạn và định cư tại Úc
7