118
phù hợp với văn hóa, với thói quen tiếp nhận nghệ thuật sân khấu của người Việt. Tuồng và Chèo là kịch hát, nhưng trong bản thân các loại kịch chủng này, nhân vật không phải lúc nào cũng đối thoại bằng cách hát. Kịch hát truyền thống của chúng ta ghi nhận những màn đối thoại bằng lời nói rất hay và độc đáo như: màn đối thoại Đổng Kim Lân, Khương Linh Tá thử Lê Tử Trình trong vở Tuồng Sơn hậu; màn việc làng, màn xã Trưởng mẹ Đốp trong vở Chèo Quan Âm Thị Kính và nhiều màn hề đối thoại với cậu trong các vở Chèo cổ… Các màn đối thoại này được bác thơ xây dựng rất đặc sắc, nó thể hiện rõ tính cách nhân vật cũng như tư tưởng của người kể chuyện. Màn đối thoại giữa Cử Lân và Khiếu ở Sen 1, hồi thứ hai trong Ông Tây An Nam của Nam Xương có nét hao hao giống với các màn hề - cậu trong các vở Chèo cổ. Màn đối thoại không dừng ở việc hai nhân vật giao đãi, mà chủ yếu là để thể hiện tính cách nhân vật, người ở bóc mẽ chủ: bóc mẽ thói sính ngoại, miệt thị dân tộc, coi khinh cội nguồn của ông Tây giả cày. Một trong những biện pháp gây cười thường thấy trong Chèo đó là sử dụng từ đồng âm, dị nghĩa để gây cười. Điều này chúng ta cũng được thấy trong Ông Tây An Nam của Nam Xương. Người tiếp nhận không chỉ cười cái sự lố lăng của Cử Lân, Khiếu khi nói tiếng Tây giả cầy mà còn phải bấm bụng trước màn đối thoại giữa Cử Lân và Bộc. Kẻ nói tiếng Tây, người hiểu sang tiếng Việt. “Cử Lân: Il y a oui, ou non! Không biết, mais con lơn toi? Oui ou non?”. [53. Tr.211] Bộc lại hiểu sang nghĩa khác và trả lời: “Bẩm quan lớn, lợn chưa mua, chưa làm lông”. [53. Tr.211] Cách chơi chữ kiểu đồng âm khác nghĩa đã được Nam Xương vận dụng linh hoạt và tài tình, biến cuộc đối thoại của hai thày trò thành một màn hài châm biếm.