30
1.1. Một số khái niệm thao tác 1.1.1. Khái niệm “Kịch” và các loại kịch ở Việt Nam Từ thời kỳ Cổ đại, nghệ thuật thi ca là nghệ thuật ngôn từ, tức là văn học, với nghĩa là sáng tác ngày nay. Aristote coi Kịch là một thể loại thi ca cùng với Tự sự và Trữ tình. Kịch là khái niệm được nhiều công trình nghiên cứu quan tâm như trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời (1900-1930) của Giáo sư Trần Đình Hượu và Lê Trí Dũng… Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã bắt đầu nhìn nhận kịch “là một loại văn mới nhất của ta” và “cái hiệu lực của nó lại ở trên sân khấu”. Ông cũng giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình là “chỉ xét về văn chương, về ý nghĩa, về cách kết cấu, nghĩa là muốn đọc giúp cho độc giả chứ không phải xem diễn và nghe giúp cho khán giả cùng thính giả” [58.tr.220-221]. Với nhận thức này, Vũ Ngọc Phan đã ý thức được đời sống hai mặt của kịch là: đời sống văn học và đời sống sân khấu. Trong công trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời (1900-1930) của Trần Đình Hượu và Lê Trí Dũng, Kịch nói được xem như một thể loại văn học mới nảy sinh vào giai đoạn giao thời dưới những áp lực lịch sử, chính trị, xã hội và trong điều kiện văn hóa – thẩm mỹ mới. Ở đây, kịch được khảo sát trong quan hệ với Tuồng, Chèo và văn chương cổ, cũng như trong quan hệ với các thể loại văn học nghệ thuật khác như: Tiểu thuyết, Thơ mới, Cải lương và Tuồng, Chèo cách tân. Tuy cách tiếp cận có khác nhau, nhưng phần lớn các tác giả đều gặp nhau ở quan niệm giống như quan niệm của Từ điển Bách khoa Việt Nam và Từ điển Văn học, đó là coi kịch là một loại hình văn học (bên cạnh tự sự và trữ tình).