1
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Năm 1921 sự xuất hiện của vở Chén thuốc độc – Vũ Đình Long, đã đánh dấu sự ra đời của Kịch nói Việt Nam. Ngay từ khi hình thành, Kịch nói đã tỏ ra có ưu thế đặc biệt, thích ứng kịp với cuộc sống, với xã hội Việt Nam. Kịch nói từ thú chơi tài tử của những trí thức tân học, dần trở thành một bộ môn nghệ thuật thu hút nhiều văn nghệ sĩ có tên tuổi như: Trần Tuấn Khải, Nam Xương, Đoàn Phú Tứ, Vũ Trọng Phụng, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Huy Tưởng, Thế Lữ, Nguyễn Tuân… Sự ra đời của Kịch nói đã làm thay đổi tập quán thưởng thức, mang đến cho đời sống đô thị một sinh hoạt văn hóa nghệ thuật mới. Từ ấy, Kịch nói đã cùng với Thơ mới, Tiểu thuyết… làm nên diện mạo đa dạng cho nền văn học hiện đại. Kịch nói cũng đã sánh vai cùng các kịch chủng của kịch hát dân tộc làm phong phú cho sân khấu Việt Nam. Một thế kỷ hình thành và phát triển, với các biện pháp mỹ học, Kịch nói đã phản ánh thực tiễn xã hội đa dạng, nhiều chiều, miêu tả được những mâu thuẫn của đời sống xã hội cùng với tình cảm và nhận thức của con người hiện đại trong từng giai đoạn phát triển của hiện thực đời sống. Để làm được điều đó, các nhà viết kịch, các nghệ sĩ… đã không ngừng nỗ lực vận dụng tri thức, vốn sống của bản thân, học hỏi và tiếp thu tinh hoa kịch nhân loại cũng như vốn văn hóa dân tộc để làm nên một nền Kịch nói Việt Nam. Trong tiến trình phát triển của mình, Kịch nói Việt Nam cũng có những lúc thăng, lúc trầm, lúc được đông đảo khán giả háo hức, chờ mong sự ra đời của từng vở kịch, khi lại phải đối mặt với sự cạnh tranh của nhiều loại hình giải trí khác. Để kịp thích ứng với thời đại, một yêu cầu đặt ra đối với Kịch nói là cần có những biến chuyển phù hợp. Trên thực tế, Kịch nói Việt Nam đã ít nhiều làm được điều đó.