78
1941, với sự xuất hiện của Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, Kịch nói Việt Nam mới có được một vở Bi kịch đích thực. Vở kịch mà nhà nghiên cứu Phạm Cư Vĩnh cho rằng: “Nó đáp ứng đầy đủ và hoàn hảo mọi yêu cầu, mọi tiêu chí của một thể loại văn học mà mỹ học châu Âu xưa nay có lí do coi là thể loại cao quý nhất và khó nhất” [64. Tr.198], còn PGS. Tất Thắng lại khẳng định là vở kịch đã “góp phần đáng kể vào sự hình thành của nền Kịch nói Việt Nam hiện đại, đem đến cho nó các phẩm chất văn học và tầm vóc chuyên nghiệp” [64. Tr.245]. Sự thành công của Nguyễn Huy Tưởng trong việc vận dụng và sáng tạo từ các biện pháp mỹ học của Bi kịch đã góp phần đánh dấu một bước phát triển lớn về thi pháp Kịch nói Việt Nam. Kể từ đây, Kịch nói của chúng ta đã có Bi kịch. Trải qua quá trình hai mươi năm hình thành và phát triển, Kịch nói Việt Nam đã phát triển khá phong phú về khuynh hướng sáng tác, thể tài. Điều đó chứng tỏ đội ngũ sáng tác của chúng ta đã nhập cuộc khá nhanh với luồng gió mới, mang đến cho kịch không khí của thời đại, hòa chung vào dòng chảy của văn học nghệ thuật đương thời. Sản phẩm của quá trình tiếp biến văn hóa – Kịch nói, đã dần bén rễ, sinh trưởng, đơm hoa kết trái và trở thành món ăn tinh thần, trở thành sản phẩm của người Việt. Nhìn lại diễn trình phát triển của thể tài trong thi pháp Kịch nói Việt Nam chúng ta thấy rõ sự khác biệt so với nhiều quốc gia phương Tây khác. Nếu sơ đồ phát triển thi pháp kịch của nhiều quốc gia là Bi kịch đứng hàng đầu, thì ở Việt Nam thi pháp kịch nửa đầu thế kỷ 20 đi từ sự pha trộn những yếu tố thể loại tiến đến sự phân biệt thể loại và đạt đỉnh cao bằng một vở Bi kịch. 2.2.2. Cấu trúc Kịch nói là sản phẩm của văn hóa phương Tây. Khi du nhập vào Việt Nam, trên cơ sở văn hóa truyền thống, các nghệ sĩ Việt ngay từ khi tiếp thu đã biến đổi sản phẩm ngoại lai thành sản phẩm mang tính riêng.