4 minute read

qua môn GDCD

DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL Với chỉ báo ở Bảng 2.13, có thể thấy, GV rất thường xuyên tổ chức các HĐTN trong lớp học. Thỉnh thoảng, HS mới được tham gia các hoạt động trong khuôn viên nhà trường. Còn đối với các hoạt động ngoài nhà trường, GV chưa bao giờ thực hiện. Quan điểm của các thầy, cô cho rằng: Với thời gian phân bố của chương trình môn GDCD hiện nay, thời lượng 1 tiết học chỉ nên tổ chức trong lớp học, việc tổ chức bên ngoài lớp học gặp nhiều khó khăn. Điều này thực sự gây nên nhiều hạn chế cho việc đảm bảo chất lượng của các HĐTN trong dạy học môn GDCD. Trong khi đó việc lựa chọn môi trường học tập của HS qua trao đổi với các em thì đều có mong muốn được trải nghiệm với nhiều môi trường khác nhau. Đặc biệt là ở những địa điểm bên ngoài trường học. 2.2.3. Thực trạng kiểm tra đánh giá kết quả tham gia hoạt động trải nghiệm của học sinh trung học cơ sở qua môn Giáo dục Công dân Biểu đồ 2.6. Thực trạng về căn cứ đánh giá kết quả trải nghiệm của HS THCS qua môn GDCD Căn cứ vào chỉ báo từ bảng thống kê, chúng ta thấy rõ: Cơ sở chủ yếu của GV để đánh giá kết quả HĐTN của HS qua dạy học môn GDCD ở trường THCS là: đánh giá sản phẩm HS thu được sau hoạt động (bài luận, bài kiểm tra trắc nghiệm, bài thu hoạch, sản phẩm hiện vật cụ thể...) (3,95). Đây là dạng đánh giá tổng kết, dựa vào kết quả cuối cùng của hoạt động mà HS thu hoạch được. Trả lời cho điều này, theo thầy giáo Lê Đức T., trường THCS Hải Lăng (Quảng Trị): “Đánh giá sản phẩm là khâu 72

DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL quan trọng nhất, không thể bỏ qua. Sản phẩm phản ánh chính xác tính hiệu quả của hoạt động, thể hiện rõ nhất khả năng của HS và giúp GV dễ dàng so sánh giữa các cá nhân, các nhóm” . Đây cũng là ý kiến được khá nhiều GV đồng tình bởi nó phù hợp với cách đánh giá truyền thống, hiện hành và quen thuộc với GV. Cùng với đánh giá sản phẩm, cơ sở đánh giá có chỉ số cao thứ hai là: đánh giá quá trình HS tham gia hoạt động (3,85) ở mức thường xuyên. Cô giáo Trương Thị Mĩ L., trường THCS Hải Tân (Quảng Trị) cho biết: “Việc đánh giá quá trình là cần thiết, bởi đặc trưng của HĐTN chính là các dạng hoạt động nhóm thực hiện nhiệm vụ chung. Nếu thiếu khâu đánh giá quá trình thì khó đảm bảo được tính khách quan khi đánh giá sản phẩm, dễ dẫn đến tình trạng đánh đồng trong đánh giá, phản ánh không đúng năng lực của từng cá nhân” . Đây là ý kiến phản ánh những lo ngại của GV vì việc các HĐTN theo quy mô các nhóm dễ dẫn tới tình trạng sự tham gia hoạt động của các thành viên không tương xứng, hoạt động nhóm nhưng chủ yếu là hoạt động của một số cá nhân nổi trội, dẫn đến tình trạng ỷ lại của một số thành viên. Các cơ sở đánh giá khác: đánh giá dựa vào ý kiến của các GV phối hợp (3,00) rơi vào mức độ thỉnh thoảng và đánh giá của gia đình và cộng đồng (2,18) ít khi được sử dụng. Giải thích cho điều này, nhiều GV đều cho rằng: “Việc đánh giá dựa vào các GV phối hợp hay các lực lượng khác chủ yếu nằm ở một số các hình thức đòi hỏi nhiều lực lượng tham gia như: dạy học dự án, dạy học thực địa; còn các hoạt động khác chủ yếu dưới sự hướng dẫn của GV môn học cho nên kênh đánh giá này không được sử dụng thường xuyên. Ngoài ra, GV cũng còn khá hạn chế với việc thu thập các ý kiến đánh giá từ các lực lượng bên ngoài, quen với việc tự đánh giá của bản thân mình” . Tự đánh giá (3,4) và đánh giá đồng đẳng của HS (3,35) không được GV sử dụng nhiều. Giải thích cho điều này. GV Lê Nữ Nguyệt L., trường THCS Hải Tân (Quảng Trị) cho rằng: Đây là những cách đánh giá mới đối với GV. Lâu nay GV chỉ quen với cách thức đánh giá qua sản phẩm là các bài kiểm tra. Việc để HS tự đánh giá hay đánh giá lẫn nhau chưa thực sự phổ biến. Cùng với đó, việc đánh giá nhiều khâu như thế rất phức tạp dẫn đến việc không có điều kiện để tổ chức với lượng thời gian hạn chế. Thỉnh thoảng, chúng tôi có tiến hành đánh giá theo những cách này, tuy nhiên, thú thực tôi cảm thấy việc đánh giá theo các kênh này có độ tin cậy không cao, trong đó có nhiều yếu tố ảnh hưởng như tâm lí cá nhân HS, khả năng nhận thức của HS... Chúng tôi chỉ xem đó là kênh để tham khảo chứ không phải là dạng đánh giá chính thức. Qua nhận định của GV, có thể 73

Advertisement

This article is from: