BẢNG SO SÁNH QUY CHẾ CỔN MIỆN 12 LƯU 12 286
CHƯƠNG CỦA HOÀNG ĐẾ NHÀ NGUYỄN VIỆT NAM VỚI NHÀ TỐNG
b. Xuân Thu 春秋冠 Tế Tông miếu cũng là một trong những
VÀ NHÀ MINH TRUNG QUỐC
lễ tiết quan trọng trong văn hóa cung đình.
(theo Đại Nam hội điển sự lệ, Tống sử và Minh hội điển)
Vào dịp tế lễ này, vua nhà Trần sử dụng Lễ
287
phục Quyển Vân, vua nhà Lê sử dụng Lễ Quy chế của nhà Nguyễn
Quy chế của nhà Tống
Quy chế của nhà Minh
-Mũ Miện 12 lưu, sung nhĩ được thay bằng 2 dải lưu, dây hoằng được thay bằng dây thùy anh làm bằng tơ vàng
-Mũ Miện 12 lưu, thân mũ Thông Thiên gia miện bản, dây hoằng màu đỏ son
-Mũ Miện 12 lưu, thân mũ dạng ống gia miện bản, dây hoằng màu đỏ son
-Áo Cổn màu xanh, thêu 6 chương Nhật, Nguyệt, Tinh, Sơn, Long, Hoa trùng
-Áo Cổn màu xanh, thêu 7 chương Nhật, Nguyệt, Tinh, Sơn, Long, Trĩ (Hoa trùng), Hổ dữu (Tông di)
-Áo Cổn màu huyền, thêu 6 chương Nhật, Nguyệt, Tinh, Sơn, Long, Hoa trùng
-Thường màu vàng, thêu 6 chương Tảo, Hỏa, Phấn mễ, Tông di, Phủ, Phất và các hình cổ đồ, bát bảo...
-Thường màu đỏ, thêu 5 chương Tảo, Hỏa, Phấn mễ, Phủ, Phất
-Thường màu vàng, thêu 6 chương Tảo, Hỏa, Tông di, Phấn mễ, Phủ, Phất
-Áo Trung đơn may bằng lụa trắng, thêu 12 chương Phất
-Áo Trung đơn may bằng là trắng
-Áo Trung đơn may bằng sa trắng, cổ áo thêu 13 chương Phất
-Tế tất màu vàng viền lam, thêu Sơn, Long, 1 rồng bay lên, 1 rồng bay xuống, hình mây và các hình hỏa lựu
-Tế tất màu đỏ, thêu 1 con rồng bay lên, 1 con rồng bay xuống, giữa là mây, sức ngọc quý
-Tế tất màu đỏ, thêu 4 chương Tảo, Phấn mễ, Phủ, Phất
-Đại thụ thêu hình rồng mây sóng nước, xâu các loại ngọc
-Đại thụ 6 màu đính 3 tiểu thụ kết 3 ngọc hoàn
Đại thụ 6 màu đính 3 tiểu thụ kết 3 ngọc hoàn
-Ngọc bội 2 dải, gồm các loại ngọc hành, cư, xung nha, hoàng…
-Ngọc bội 2 dải, làm bằng ngọc trắng trổ rỗng
-Ngọc bội 2 dải, gồm các loại ngọc hành, cư, vũ, xung nha, hoàng…
-Cách đới đính ngọc trắng, bọc vàng
-Cách đới trổ rồng phượng bằng vàng
-Cách đới đính ngọc
-Tất phía trên gắn hộ tất, thân màu lam, phía dưới màu trắng, dát vàng, hia màu thâm thêu rồng mây
-Tất đỏ, giày Tích đỏ
-Tất đỏ, giày Tích đỏ
phục Bình Đính, các vua nhà Nguyễn muộn nhất vào thời vua Gia Long đã có Lễ phục Xuân Thu. Đại Nam thực lục cho biết: “Buổi hôm trước ngày hết tang một năm, vua vua Gia Long) bỏ
(chỉ
áo tang, nội giám đem cất đi.
Đến ngày đó, bàn thờ bày đặt như nghi thức tế điện lớn. Vua mặc đồ trắng, đội mũ Xuân Thu bằng sa trắng, áo giao lĩnh bằng sa trắng, thường bằng lụa trắng, giày và bít tất trắng, đến trước bàn thờ làm lễ […] Tế điện lớn, tế cửu ngu, tế tốt khốc đồ mặc cũng theo như thế […] Còn tế Luyện, tế Tường và tế Đàm thì sau ngày tốt khốc mới cử hành. Tế Luyện vua mặc Lễ phục, đội mũ Xuân Thu bằng sa thâm, áo giao lĩnh bằng sa thâm, thường bằng lụa màu biếc lót lụa trắng, giày và bít tất đen. Tế Tường và tế Đàm vua mặc đồ màu, mũ Xuân Thu bằng nhiễu thâm, áo giao lĩnh bằng sa đoạn màu bảo lam, thường bằng sa biếc lót trắng, bít tất lam, giày đen.”(1). Vào thời Gia Long, quy chế Lễ phục Xuân Thu có sự phân biệt tùy theo quy mô của buổi tế. Ít nhất có ba dạng Lễ phục
Mũ Xuân Thu của quan võ Tứ phẩm (BAVH); Vua Gia Long đội mũ Xuân Thu dưới nét vẽ của người Pháp. (Ảnh phục chế).
Xuân Thu áp dụng cho thiên tử trong các dịp tế Đại Điện, tế Cửu Ngu, tế tốt khốc, tế Luyện, tế Tường, tế Đàm. Vào thời vua Minh Mạng, quy chế Lễ phục Xuân Thu được giản hóa, thống nhất là mũ Xuân Thu màu đen kết hợp với áo giao lĩnh màu thiên thanh (màu huyền). Năm 1821, vua Minh Mạng nói với Thượng thư Bộ Lễ Phạm Đăng Hưng: “Trong ngày kỵ liệt thánh, hoàng khảo ta đội mũ Xuân Thu, mặc 1. (Việt) Đại Nam thực lục - Chính biên - Đệ nhất kỷ. Tập 1. Tr.896.