Lê triều hội điển còn
QUY CHẾ NÓN SƠN ÁP DỤNG CHO BAN VÕ TRIỀU LÊ TRUNG HƯNG
236
Năm 1661 (theo Cương mục) Loại nón
Đối tượng và trang phục đi kèm
Nón sơn bạc đính hồng mao Hoàng tử, vương tử phong đô hiệu điểm, đề đốc, tham đốc, đề lĩnh gia phong quận công
Trang phục: Áo đỏ - Bổ tử Sư tử - Thao kép xâu ngọc - Cầm kiếm Nhị phẩm gia phong tước hầu Trang phục: Áo đỏ - Bổ tử Voi - Dây thao đơn - Cầm kiếm
Nón sơn son đính hồng mao Tam phẩm, tứ phẩm gia phong tước hầu
Trang phục: Áo đỏ - Bổ tử Voi - Thao đơn - Cầm kiếm Ngũ, lục, thất phẩm
Trang phục: Áo đỏ không đính Bổ tử Dây thao đơn - Cầm kiếm
Năm 1721 (theo Loại chí) Nón sơn bạc đính hồng mao
Nón sơn son đính hồng mao
Hoàng tử, vương tử chức đô hiệu kiểm, đề đốc, đề lĩnh, tham đốc, đô vệ sự mà có tước quận công
Đô chỉ huy sứ, đô chỉ huy đồng tri, đô chỉ huy thiêm sự, chỉ huy sứ, chỉ huy đồng tri, chỉ huy thiêm sự, tổng tri, đồng tổng tri, thiêm tổng tri tước hầu
Trang phục: Áo đỏ - Bổ tử Sư tử - Thao kép xâu ngọc Cầm kiếm
Trang phục: Áo giao lĩnh đỏ - Bổ tử Voi - Thao đơn
Đô hiệu kiểm, đề đốc, đề lĩnh, tham đốc, đô vệ sự tước quận công
Đô lễ, trấn điện quân tướng quân, lực sĩ hiệu úy, thiên hộ, quản lãnh, đô úy, trung úy, lang tướng, bách hộ, đề hạt, tả hữu tiền hậu lang tướng, võ úy, vệ úy (chánh - phó không phân biệt)
Trang phục: Áo đỏ - Bổ tử Hổ báo - Thao kép - Cầm kiếm Đô hiệu điểm, đề đốc, tham đốc, phó đô đốc, lãnh thự vệ, tả hữu hiệu điểm tước hầu Trang phục: Áo đỏ - Bổ tử Voi - Thao đơn - Cầm kiếm
Trang phục: Áo giao lĩnh đỏ không có Bổ tử - Thao đơn. Chức trấn điện cầm kiếm và dùi đồng, còn lại cầm kiếm
ghi nhận loại nón son
237
dành cho tạo sĩ, võ cử nhân là “nón sơn son, hai diềm che tai viền thau. Mỗi chiếc chuẩn cho 8 mạch, 3 lạng hồng mao”(1) tương tự quy chế mũ Phốc Đầu của tiến sĩ ban văn. 3. Các dạng trang
phục khác
Sử sách chính thống thường chỉ tập trung mô tả quy chế áo mão của bá quan văn võ cấp cao, hiếm khi nhắc tới quân trang của một số hạng lính “tiểu tốt”. Loại chí, Lê triều hội điển, Lê triều chiếu lệnh thiện chính là những cuốn sách ghi chép tỉ mỉ nhất về quy chế trang phục của bá quan
Nón thủy thủ (Người trên tàu buôn đội nón này, hoặc khi trời nắng mưa dùng để che đầu), nón mục đồng (Nón này làm bằng lá bồng. Lá này mọc nhiều trong Thanh) như chiếc sọt (Kỹ thuật của người An Nam); Quan võ (Tranh cổ Việt Nam); Quan võ Tonkin (Jean-Baptiste Tavernier); Lính cầm cờ (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam).
triều Lê Trung Hưng, song cũng không nhắc tới những loại nón phổ biến vào thời Lê sơ như nón Thủy Ma, nón da, nón ngà trắng v.v. Tương tự, Hội điển của triều Nguyễn cũng không đề cập tới quy chế cụ thể của những dạng nón được áp dụng làm quân trang đương thời. Trong khi đó, khó có thể phủ nhận rằng việc sử dụng nón làm quân trang đã được kế thừa muộn nhất là từ thời Lê sơ tới thời Nguyễn. Riêng loại nón áp dụng cho binh lính thời Lê Trung Hưng, chúng ta chỉ tìm thấy vài dòng ghi chép ít ỏi của Phạm Đình Hổ qua Vũ trung tùy bút. Ông cho biết: “Quân lính đội Trạo lạp, tục gọi là nón chèo vành […] Đến như hai vùng Thanh Nghệ thì người ta đều đội Viên Cơ lạp (viên cơ: cái sọt tròn), tục gọi là nón Nghệ […] Đến khoảng năm Nhâm Dần, Quý
1. (Việt) Lê triều hội điển (A.52). Nguyên văn: 硃漆笠,兩耳繞鍮