54
KÈ
M
QU Y
NH ƠN
OF F
IC
IA L
hiện đại, ở đó hệ thống kiến thức có sự tích hợp, tinh giản, logic thành các chủ đề hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho HS. 96% GV được hỏi cho rằng dạy học theo chủ đề trong môn lịch sử nói chung và dạy học theo chủ đề cho học sinh chuyên Sử nói riêng góp phần thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng bộ môn. Không có thầy cô nào đồng ý cho rằng dạy học theo chủ đề vẫn là mô hình dạy học truyền thống, trong đó người Thầy đóng vai trò trung tâm. Như vậy, chúng ta thấy các thầy cô đã có nhận thức tương đối đúng đắn về dạy học theo chủ đề. Trả lời câu hỏi : Mức độ hài lòng của thầy (cô) đối với những chủ đề phần Lịch sử Việt Namtừ năm 1919 đến nay do thầy (cô) chuẩn bị? Có 11% GV trả lời rất hài lòng; 25% GV trả lời hài lòng; 64% GV trả lời chưa hài lòng, cần cập nhật, bổ sung thêm các chủ đề. Về mức độ cần thiết của việc bổ sung các chủ đề phần lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay phục vụ cho quá trình giảng dạy của giáo viên, học tập của HS chuyên, quan sát biểu đồ Hình 2.3 ta thấy: có tới 61% GV cho rằng việc bổ sung các chủ đề phần lịch sử Việt Namtừ năm 1919 đến nay phục vụ cho quá trình học tập, ôn luyện của HS chuyên là rất cần thiết, 32% GV cho là cần thiết và 7% GV cho rằng không cần thiết. Điều đó chứng tỏ rằng hầu hết giáo viên đều nhận thức được sự cần thiết t rong việc bổ sung thêm các chủ đề lịch sử nói chung, đặc biệt các chủ đề phần lịch sử Việt Namtừ năm 1919 đến nay nói riêng.
DẠ
Y
Hình 2.2. Mức độ cần thiết của việc bổ sung các chủ đề lịch sử Trả lời câu hỏi : Thầy cô thường vận dụng những phương pháp nào tr ong dạy học chủ đề? Quan sát đồ thị hình 2.4 chúng ta thấy: có 38% GV lựa chọn phương pháp nêu vấn đề, định hướng nội dung trọng tâm của chủ đề để học sinh được học tập; 20% GV lựa chọn phương pháp dạy học dự án; 25% GV lựa chọn phương pháp tổ chức cho HS tranh luận, phản biện, phân tích, đánh giá nội dung của các chủ đề lịch sử; 17% GV lựa chọn phương pháp kiểm tra, đánh giá việc tự học tập của học sinh. Từ kết quả phân tích qua đồ thị, chúng ta thấy không có sự chênh lệch quá lớn về tỉ lệ lựa chọn giữa cá c